Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Giáo trình: Tư vấn tâm lý ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (773.26 KB, 76 trang )

1










Giáo trình
Tư vấn tâm lý











2




Lời Nói Đầu
Nhu cầu tham khảo ý kiến người khác để giải quyết những vấn nạn cá nhân là một nhu cầu


đã có từ thượng cổ, có lẽ từ khi con người có được ngôn ngữ. Bạn bè tâm sự cùng nhau; anh
chị em chia xẻ vui buồn; vợ chồng, ông bà, cha mẹ cùng nhau bàn bạc để tìm cách giải quyết
một vấn đề của gia đình; tham khảo ý kiến chỉ bảo của các nhà tu… là những hình thức tư
vấn truyền thống. Những hình thức tư vấn này có giá trị lớn trong việc cung cấp sự hỗ trợ
tinh thần và vì vậy đã có phần đóng góp quan trọng vào cuộc sống yên vui của con người
cũng như an sinh của xã hội.
Bên cạnh các hình thức tư vấn truyền thống kể trên, khi xã hội phát triển lên theo các mô
hình sản xuất kinh tế công nghiệp ngày càng phức tạp, đòi hỏi trình độ phối hợp của nhiều
ngành khác nhau, tất cả đều ngày càng chuyên môn hóa, nhu cầu của con người cũng trở nên
phong phú và phức tạp hơn. Người ta bắt đầu gặp những vấn nạn vượt ngoài tầm giúp đỡ
của các tài nguyên truyền thống. Những uẩn khúc tâm lý, những khúc mắc tình cảm không
thể dễ dàng cho cha mẹ, anh chị em hay bè bạn hiểu được, hoặc không thể giải quyết bằng
những lý thuyết đạo đức cao siêu của các nhà tu. Trong điều kiện này và song song với sự
phát triển nhanh chóng của các khoa tâm lý học, xã hội học, y học, gia đình học và công tác
xã hội, từ đầu thế kỷ 20 đã bắt đầu manh nha xuất hiện vai trò mới mẻ của phương pháp trị
liệu bằng ngôn ngữ/talk therapy.
Từ một thế kỷ qua, khởi đầu bằng phương pháp phân tâm làm mê hoặc cả thế giới, khoa tâm
lý trị liệu đã tiến rất xa, đã phát triển thành một ngành nghề vững chắc với những lý thuyết,
những trường phái vô cùng đa dạng. Mặc dù xây dựng ngành tâm lý trị liệu sau Âu Mỹ hàng
trăm năm, Việt Nam ngày nay có rất nhiều thuận lợi: chúng ta không phải thụ động chờ đợi
sự ra đời của những thiên tài như Freud, Jung, Adler, Ellis, Rogers, Satir, Erickson, hay
Minuchin… Tất cả những phát kiến kỳ diệu của những nhân vật này và hàng ngàn lý thuyết
gia kim cổ khác đều ở sẵn trong nhà chúng ta, luôn luôn chờ đợi một vài cái click ngắn gọn
trước máy điện toán là xuất hiện để sẵn sàng chia xẻ kiến thức với chúng ta. Một thí dụ điển
hình là thư viện điện tử lớn nhất thế giới Questia.com, chỉ cần đóng một lệ phí nhỏ hàng
tháng, người ta có thể có trong tay bất cứ lúc nào hơn 67 ngàn cuốn sách và một triệu rưỡi
bài viết về hầu hết các đề tài chuyên môn nào chúng ta có thể nghĩ ra.
Trong các trường phái lớn của khoa tư vấn tâm lý, còn gọi là là tâm lý trị liệu, trường phái có
ảnh hưởng nhất hiện nay là phái nhân bản/humanistic mà người đứng đầu là Carl Rogers. Có
thể nói phái nhân bản là một cuộc cách mạng trong tư vấn tâm lý vì nó gần như ngược hoàn

toàn với những lý thuyết và cách tiếp cận của các trường phái xuất hiện trước đó. Thí dụ:
quan hệ giữa khách hàng và người làm công tác tư vấn là quan hệ hợp tác bình đẳng; khách
hàng chứ không phải người làm công tác tư vấn, là chuyên gia về cuộc đời của họ; giải pháp
thật sự cho vấn nạn là giải pháp cho khách hàng nghĩ ra hoặc tham gia vào việc tìm ra chứ
không phải do người làm công tác tư vấn áp đặt…
Ngoài ra, do tính cách phức tạp của vấn nạn xuất phát từ cuộc sống ngày càng đa dạng của
con người, mỗi trường phái, mỗi lý thuyết đều có ưu và khuyết điểm riêng. Chính vì vậy
phương pháp tổng hợp các trường phái/the eclectic approach là phương pháp phổ biến nhất.
Điều này hợp lý vì nó giúp người làm công tác tư vấn tận dụng được trí khôn của nhân loại,
3

không phân biệt nguồn gốc, miễn giúp được khách hàng vượt qua vấn nạn. Tài liệu này
được biên soạn theo tinh thần phương pháp tổng hợp với trụ cột là cách tiếp cận lấy con
người làm trung tâm của trường phái nhân bản.
Tác giả hy vọng tài liệu này sẽ phần nào hữu ích cho độc giả và sẽ góp phần tạo hứng thú
cho các bạn trẻ để tham gia nghiên cứu, học tập làm cho khoa tư vấn tâm lý Việt Nam ngày
càng mau chóng lớn mạnh. Sau cùng, do khả năng hạn hẹp, soạn giả xin phép được để
nguyên một số chữ tiếng Anh bên cạnh tiếng Việt để rõ nghĩa và để tiện cho việc góp ý của
quý vị độc giả để việc chuyển dịch từ ngữ trong tương lai thêm chính xác.
Trần Đình Tuấn
San Jose, California, tháng Bảy 2009
Phần Một : NHỮNG TRƯỜNG PHÁI CHÍNH
Chương 1 : PHÁI TƯƠNG TÁC TÂM LÝ/PSYCHODYNAMIC
SIGMUND FREUD (1856-1939) VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN
TÂM/PSYCHOANALYSIS
Được xem là một trong bốn nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất đến lịch sử nhân loại trong thế
kỷ 20 (cùng với Charles Darwin, Albert Einstein, và Karl Max), Freud là người Áo gốc Do
Thái, sinh ra và sống gần hết đời ở Vienne. Sau khi Đức quốc xã sát nhập Áo vào lãnh thổ
Đức năm 1937, Freud trốn sang Anh và mất tại London năm 1939. Tư tưởng vô cùng phong
phú, táo bạo, và phức tạp của Freud có thể được tóm tắt qua những điểm chính sau đây:

1. Các giai đoạn hình thành tâm lý con người:
Theo Freud, cái tôi của con người là một thực thể tâm lý phức tạp hình thành do tác động
của ba đòi hỏi khác nhau của thú tính bẩm sinh/id, lương tâm/superego, và hoàn cảnh sống
thực tế/reality tức là môi trường sống thực của cái Tôi/ego. Con người là một sinh vật y như
mọi sinh vật khác, và vì vậy từ khi chào đời đã có thú tính bẩm sinh muốn được thỏa mãn
những nhu cầu vật chất và sinh lý và muốn tránh khổ đau. Trong quá trình trưởng thành, ảnh
hưởng của gia đình, văn hóa, tôn giáo, xã hội… tạo ra lương tâm, tức là cái phần lý tưởng
mà người ta muốn hướng tới. Hoàn cảnh sống thực tế là nơi diễn ra sự tranh chấp giữa thú
tính bẩm sinh và lương tâm. Kết quả của cuộc tranh chấp này là cái Tôi/ego, tức là mỗi cá
nhân với cách ứng xử an toàn nhất, phù hợp nhất, thực tế nhất mà con người lựa chọn cho
mình trong mọi hoàn cảnh.
Có nhiều động lực của cuộc sống/libido thúc đẩy thú tính bẩm sinh: ăn, mặc, ngủ, nghỉ ngơi,
an toàn, bạo lực… nhưng chủ yếu nhất, mạnh mẽ nhất là động lực về tình dục. Freud cho
rằng từ khi mới chào đời con người đã có nhu cầu và đã có hành vi tình dục: sờ mó, bú mớm,
thích ôm ấp và được ôm ấp. Đây là một trong những ý kiến táo bạo nhất của Freud vì trước
4

đó người ta tin con người chỉ bắt đầu phát triển nhu cầu tình dục ở tuổi dậy thì. Động cơ tình
dục bẩm sinh thúc đẩy sự trưởng thành của con người qua năm giai đoạn: miệng/oral stage,
hậu môn/anal stage, dương vật/phallic stage, trước dậy thì/latency period, và sinh dục/genital
stage. Ở mỗi giai đoạn phát triển này môi trường sống, trong đó có ảnh hưởng của bố mẹ, là
quan trọng nhất, có thể làm cho nhu cầu tình dục của đứa trẻ được thỏa mãn một cách khác
nhau. Nếu được thỏa mãn vừa phải, đứa trẻ sẽ phát triển bình thường lên giai đoạn kế tiếp.
Nếu bị cấm cản không cho thỏa mãn hoặc bị buông thả cho thỏa mãn quá trớn nhu cầu tình
dục sơ sinh của nó, đứa trẻ sẽ phải chịu đựng những ám ảnh/fixation vào giai đoạn phát triển
liên hệ và không thể tiến lên giai đoạn cao hơn. Kết quả là nó sẽ lớn lên với những triệu
chứng bất bình thường về tâm lý.
Qua năm giai đoạn của quá trình trưởng thành này, đối tượng tình dục của đứa trẻ sơ sinh
dần dần thay đổi từ bản thân (bú ngón tay, tự sờ mó bộ phận sinh dục) và Mẹ (bú mớm, sờ
mó, ôm ấp…) sang người khác phái:

Giai đoạn miệng/Oral stage, (từ 0 đến 1 tuổi):
Ở giai đoạn này đứa bé sơ sinh dùng miệng không phải chỉ để ăn (bú sữa) mà còn để sờ mó,
thám hiểm thế giới xa lạ chung quanh, và để có cảm giác sung sướng (bú ngón tay, ngậm vú
mẹ, ngậm núm vú). Freud chia giai đoạn này làm hai phân đoạn: phân đoạn thụ
động/receptive và phân đoạn chủ động/aggressive. Phân đoạn thụ động diễn ra trong vài tháng
đầu đời, đứa bé hoàn toàn phụ thuộc mẹ và chỉ biết bú, nuốt… Phân đoạn chủ động diễn ra
khi lợi trở nên cứng và răng bắt đầu nhú ra, đứa bé bắt đầu biết diễn tả cảm xúc của nó bằng
động tác nhay, cắn (ngón tay, vú mẹ…), tức là ngay từ giai đoạn sơ sinh này con người đã có
kinh nghiệm và diễn tả được kinh nghiệm vừa thương vừa ghét/ambivalence cùng một đối
tượng (mẹ, vừa bú vừa nhay vú mẹ, làm cho mẹ đau).
Giai đoạn hậu môn/Anal stage, (từ 1 đến 3 tuổi):
Khu vực nhạy cảm và tạo cảm giác sướng khoái nhiều nhất trong giai đoạn này là vùng hậu
môn, gồm cả hậu môn lẫn bộ phận tiểu tiện. Khoái cảm này cũng đã được xếp vào hàng “tứ
khoái” ở phương đông bất kể giai đoạn tuổi tác nào (ăn, ngủ, tình dục, đại tiểu tiện). Freud
cũng chia giai đoạn này làm hai phân đoạn: phân đoạn buông/expulsion và phân đoạn
giữ/retention. Ở phân đoạn buông đứa bé lần đầu tiên trải qua mâu thuẫn giữa nhu cầu tiêu
tiểu tự nhiên của nó và nhu cầu huấn luyện tiêu tiểu đúng chỗ, đúng lúc, của cha mẹ nó.
Phân đoạn này cũng là thời gian cực kỳ quan trọng để đứa bé học cách làm thế nào để được
khen, được thương; tình thương của cha mẹ không còn vô điều kiện như trước nữa mà tùy
theo ứng xử của đứa bé. Cách dạy con của cha mẹ trong phân đoạn này cũng góp phần
chính trong việc tạo nên một phần hết sức quan trọng trong cá tính của đứa bé, đó là cách nó
suy nghĩ và ứng xử đối với những người có quyền lực trong cuộc đời của nó. Nếu nó có cái
nhìn tích cực đối với quyền lực: quyền lực đứng về phía nó, hỗ trợ nó, khả năng hòa nhập
trên đời của nó sẽ khác hẳn so với cái nhìn bi quan, tiêu cực: quyền lực áp bức nó, thù
5

nghịch với nó. Ở phân đoạn giữ, đứa bé học được cách nín tiêu, tiểu, và chủ động được lúc
nào, ở đâu sẽ có cảm giác sướng khoái do tiêu tiểu mang lại.
Giai đoạn dương vật/Phallic stage, (từ 3 đến 5 hoặc 6 tuổi):
Freud đã chọn từ “phallic”, bắt nguồn từ chữ Hy lạp “phallus” nghĩa là dương vật, để đặt tên

cho giai đoạn này vì Freud cho của quý của đứa trẻ trai và hạt ngọc/clitoris của đứa trẻ gái
giống nhau, điều khác biệt là chỉ khi đến tuổi dậy thì đứa trẻ gái mới hình thành khoái cảm
từ bộ phận sinh dục. Khi đứa trẻ gái so sánh cái “dương vật” khiêm tốn của nó với con trai,
nó cảm thấy thua kém và trở nên ganh tị/penis envy.
Mặc cảm Oedipus: trong bi kịch của Sophocles, Oedipus, vua xứ Thebes, đã vô tình giết cha
và lấy mẹ mình làm vợ. Sau khi phát giác ra sự thật, mẹ Oedipus đã tự tử và Oedipus đã tự
móc mắt mình.
Theo Freud, tình thương đối với mẹ của đứa trẻ trai trở nên mãnh liệt vào đầu giai đoạn
dương vật. Nó muốn độc chiếm mẹ và vì vậy ngày càng trở nên ganh tị và mâu thuẫn với
bố, muốn cho bố “biến mất”. Vì bố to lớn hơn nó, khỏe hơn nó, đứa bé trở nên sợ bố và cái
nó sợ nhất là bị bố cắt mất của quý/castration anxiety là cái nó hay tự mầy mò để có cảm giác
sung sướng. Để thoát khỏi mối lo sợ này, đứa trẻ trai dồn nén tình yêu mẹ của nó vào tiềm
thức và tìm cách đứng về phía bố, nó bắt chước cách bố cư xử, suy nghĩ, hành động. Nhờ
vậy nó có được cảm giác an toàn không còn sợ bị thiến và vẫn có thể thầm lén yêu mẹ trong
trí tưởng tượng.
Mặc cảm Electra: Electra là chữ do Carl Jung chọn và dùng lần đầu tiên vào năm 1913 để
mô tả mặc cảm Oedipus ở phái nữ của Freud. Cũng trong bi kịch của Sophocles, Electra đã
giúp anh trai của mình giết mẹ và tình nhân để trả thù cho bố (đã bị tình nhân của mẹ giết).
Theo Freud, đứa trẻ gái, cũng như trẻ trai, lúc đầu gắn bó với mẹ, nhưng đến giai đoạn
dương vật, khi phát giác nó không có cơ quan sinh dục giống như con trai, nó trở nên ghen tỵ
và để thoát khỏi cảm xúc ghen tỵ khó chịu đó, nó muốn đứng về phía bố. Nó bắt đầu thù
ghét mẹ (đổ lỗi tại mẹ làm cho nó không có dương vật) và khi nhận ra nó không thể nào có
được dương vật như con trai, nó thay thế ao ước đó bằng ý muốn được bố làm cho có em bé
như mẹ. Ý muốn này làm cho đứa trẻ gái trở thành một “người đàn bà tí hon”. Những tác
động kể trên diễn ra trong khi đứa bé vẫn không ngừng cần được mẹ yêu thương chăm sóc,
và nó vừa muốn mẹ “biến mất đi” vừa sợ mất mẹ.
Giai đoạn trước dậy thì/Latency period, (từ 5, 6 tuổi đến dậy thì):
Trái với các giai đoạn trước, ở giai đoạn này động lực sống/libido, chủ yếu là bản năng tình
dục của đứa bé chỉ thay đổi về lượng chứ không thay đổi về chất. Đứa bé dồn nén được
những quan tâm về tình dục của những năm trước và tập trung năng lực vào việc phát triển

kiến thức cũng như năng khiếu mới. Ở giai đoạn này đứa bé thích chơi với bạn cùng giới.
6

Có thể nói những năm trước dậy thì là thời gian sự thăng bằng giữa thú tính bẩm sinh, lương
tâm, và cái Tôi đạt mức cao nhất trong đời người. Đây là thời gian biển lặng trước cơn bão
táp của tuổi dậy thì.
Giai đoạn sinh dục/Genital stage:
Thăng bằng giữa ba thành phần của bản ngã chấm dứt, thú tính bẩm sinh/ id vượt lên trên,
tạo ra những đòi hỏi mãnh liệt về tình dục với người khác phái. Nếu ở những giai đoạn
trưởng thành trước, đứa bé được thỏa mãn vừa phải, nó sẽ dồn được tất cả năng lực vào việc
phát triển mối quan hệ bình thường, hạnh phúc với người khác phái. Trái lại nếu nó không
được thỏa mãn vừa đủ hoặc được thỏa mãn quá độ, nó sẽ có triệu chứng của tình trạng ám
ảnh/fixation bởi giai đoạn cũ, giống như đứa trẻ học kém phải ở lại lớp, hoặc là ở lớp cũ nó
được các thày cô chiều chuộng quá mức khiến cho nó cứ muốn ở lại lớp đó hoài, không
muốn lên lớp trên. Vì thời gian cứ trôi qua, đứa bé bị bắt buộc phải lên lớp, nó sẽ phải tiêu
phí nhiều năng lực vào phản ứng dồn nén hoặc tự vệ liên quan đến những mâu thuẫn chưa
giải quyết được ở lớp cũ. Kết quả là nó sẽ khổ đau, sẽ không thể xây dựng được mối quan
hệ tốt đẹp, lành mạnh, hạnh phúc bình thường với người khác phái.
2. Thức/conscious, và vô thức/unconscious:
Thức là trạng thái tỉnh táo khi con người nhận biết được và có được phản ứng đối với những
kích thích của môi trường. Bên cạnh thức, Freud còn chỉ ra vai trò quan trọng của vô thức.
Mặc dù trước Freud đã có nhiều người nhắc đến từ “vô thức”, Freud là người phân tích tỉ mỉ
và chính xác nhất phần vô thức của tâm lý con người. Theo Freud trong vô thức có hai phần:
phần tiền thức/preconscious và phần vô thức. Tiền thức là những cảm xúc, những kinh
nghiệm, những ý nghĩ, những ghi nhận… mà con người có thể dễ dàng nhớ lại khi cần; vô
thức là chỗ chứa những cảm xúc, những kinh nghiệm, những khao khát mạnh mẽ bị dồn nén
ra khỏi thức. Mặc dù con người không nhận biết những cảm xúc này và không thể nhớ lại
được chúng theo ý muốn nhưng chúng vẫn hiện diện trong vô thức và ảnh hưởng mạnh mẽ
đến cảm xúc cũng như ứng xử của con người qua cơ chế tự vệ/defense mechanism.
Trong cấu trúc tâm lý con người của Freud, phần Tôi/ego và phần Thiện/superego hoạt động

trong cả ba tầng của thức. Phần Ác/Id trái lại chỉ hoạt động trong tầng vô thức. 3. Ý
nghĩa của các giấc mộng:
Theo Freud mộng là “sự thực hiện thầm lén những ước vọng bị dồn nén” và là “con đường
lớn dẫn vào vô thức”. Phần Ác, tức thú tính bẩm sinh của con người luôn có những khát
vọng không thể thực hiện một cách an toàn trong đời sống thực, vì vậy chúng bị phần Thiện
và cái Tôi dồn vào vô thức. Mặc dù bị dồn nén, những khát vọng đó không hoàn toàn biến
mất và chúng hiện ra dưới hình thức các giấc mộng khi con người ngủ vì khi người ta ngủ,
phần Thiện và cái Tôi không hoạt động hữu hiệu như khi thức.
7

Freud chia nội dung mộng làm hai phần, phần nổi/manifest content và phần tiềm ẩn/latent
content. Phần nổi là phần chúng ta nhớ được khi thức dậy, trong phần này có tản mạn những
mảnh vụn của những gì xảy ra khi thức và những khát vọng bị dồn nén, tất cả được thể hiện
dưới hình thức ảo giác/hallucination (2) thường là ảo giác nhìn/visual hallucination. Phần tiềm
ẩn là những nội dung trôi nổi ra khỏi vô thức, những nội dung này có thể liền lạc, có ý nghĩa
hay rời rạc, quái dị, không rõ nghĩa. Trong tâm lý trị liệu của Freud, phương pháp nói
hết/free association giúp nhà trị liệu thu góp những thành phần rời rạc của các giấc mộng và từ
những thành phần rời rạc này hiểu được phần tiềm ẩn của mộng. Đây chính là mục đích của
giải mộng: nối kết phần nổi với phần tiềm ẩn và tìm ra ý nghĩa của giấc mộng (3).
4. Cơ chế tự vệ/defense mechanism:
Đây là một trong những khám phá quan trọng của Freud. Cơ chế tự vệ là những phản ứng
do vô thức điều động để giúp con người chống lại trạng thái bồn chồn lo lắng khi phải đối
phó với những mối đe doạ không có lối thoát rõ rệt. Dưới đây là một số cơ chế tự vệ thông
thường:
Biện luận/Intellectualization: dùng lý luận hay từ ngữ để ngăn không cho một mối đe dọa gây
ra cảm xúc tiêu cực cho bản thân. Thí dụ trong một gia đình sư tử Hà Đông, bà vợ nắm hết
quyền lực, quyết định mọi chuyện lớn nhỏ, lại hay nổi nóng quát nạt chồng con, ông chồng
chỉ được duy nhất một quyền tự do là quyền tuyệt đối lúc nào cũng đồng ý với vợ. Ông nói
với tất cả mọi người “Bà nhà tôi hồi nào tới giờ vẫn phải tập tính kiên nhẫn, đôi khi nói năng
không được dịu dàng nhưng bà ấy rất là quán xuyến, tôi chả phải lo gì hết cả”.

Đền bù/Compensation: khiếm khuyết ở một lĩnh vực được bù đắp bằng cố gắng và thành công
ở một lĩnh vực khác. Thí dụ người có một khuyết tật cố gắng học và làm việc thật giỏi để
tránh được cảm giác khó chịu vì bị mọi người coi thường.
Đổ tội/Blaming: đổ những khiếm khuyết, sai lầm, lỗi… của mình cho người khác. Thí dụ:
“Cây quất trồng ở Hoài Nam là quất ngọt, đem sang trồng ở Hoài Bắc thì hóa quất chua. Tôi
bê bối, tôi dối trá, tôi ích kỷ như thế này là do ai? Là do chính cô đấy cô có biết không? Hồi
xưa chưa lấy cô tôi ở với bố mẹ tôi có như thế này đâu?”
Mộng tưởng/Fantasy: tưởng tượng được trải qua một mơ ước thầm kín nào đó không thể có
trong thực tế. Một thí dụ sáng thứ bảy đang phải ngồi ở nhà ăn phở với “cơm” nhưng lại
tưởng tượng đang được ở tiệm ăn cơm với “phở”!
Chối bỏ/Denial: từ chối chấp nhận một thực trạng vì nó tai hại cho sự an toàn của cái Tôi. Thí
dụ: ai cũng biết cậu quý tử gửi sang Pháp du học chỉ phung phí tiền ăn chơi trác táng, cha mẹ
cậu vẫn chối bỏ mọi thông tin chính xác và thành thật khoe với mọi người là cậu đang học
quản trị kinh doanh ở một đại học nổi tiếng của Paris.
8

Giận cá chém thớt/Displacement: chuyển cảm xúc, năng lực, từ đối tượng này sang đối tượng
khác để được bình an. Thí dụ: đi làm có chuyện bực mình với xếp về nhà kiếm chuyện mắng
vợ chửi con vì mắng chửi vợ con an toàn hơn mắng chửi xếp. Thí dụ khác: người yêu đi lấy
chồng, chàng bèn đi tu và trở thành một nhà tu chân chính, đạo hạnh.
Chuộc tội/Undoing: đền bù một hành vi hoặc ham muốn xấu bằng một hành động tốt. Thí dụ
một số ông chồng sau khi đi ăn vụng thì về nhà dịu dàng tử tế với vợ và phụ vợ chăm sóc
con cái đàng hoàng.
Giả bệnh/Somatization: biến đổi những khó chịu hay mối đe doạ thành bệnh tật. Thí dụ: mỗi
lần bà mẹ chồng ở quê ra thăm thì cô con dâu đều nhức đầu, đau bụng, khó ở, ăn không
ngon, ngủ không yên, không bác sĩ hay thầy lang nào chữa được, nhưng lần nào bà mẹ
chồng trở về quê thì bao nhiêu bệnh tật cũng đều tiêu tan.
Hoán chuyển/Sublimation: chuyển một ham muốn tự nhiên mạnh mẽ không được xã hội tán
đồng thành hành vi phù hợp với giá trị do xã hội đặt ra. Thí dụ: một người hung hăng thích
bạo động chọn nghề võ sĩ hay nghề cảnh sát hình sự. Thí dụ khác: người mắc bệnh thiếu nhi

dục/pedophilia đi tu để trở thành nhà tu hành.
Nhập nội/Introjection: Chấp nhận điều tiêu cực người khác gán cho mình mặc dù mình không
có điều tiêu cực đó để tránh va chạm. Thí dụ: ông bố luôn luôn mắng chửi đứa con là “đồ
ngu”, đứa con chấp nhận điều đó (vì không thể cãi lại bố) và càng ngày càng học kém vì mất
tự tin và ý chí học hỏi.
Nhập ngoại/Projection: Đem những điều tiêu cực của mình (mà cái tôi của mình cố ý bỏ qua
không biết đến) gán cho người khác. Thí dụ: ông A là người kiêu căng phách lối xem
thường tất cả mọi người, nhưng ông lại rất thường phê bình người khác là kiêu căng.
Nói vậy nhưng không phải vậy/Reaction formation: hành động hay diễn tả ngược lại với ý định
hay cảm xúc của mình. Thí dụ nói ghét là yêu, nói yêu là ghét. Thí dụ khác: “Sao? Công
việc mới của anh thế nào? Tuyệt, ở đây lương thì cao, xếp và đồng nghiệp lại đối xử với
mình rất tốt”. Thực ra công việc mới rất căng thẳng, xếp mới thì như đứa dở khùng dở điên,
đồng nghiệp mới toàn một lũ ganh tỵ, và bản thân đang hối hận đã chót dại bỏ chỗ làm cũ
xin vào đây.
Dồn nén/Repression: đẩy những thực tế đã gây ra cảm xúc tiêu cực vào vô thức để khỏi phải
chịu đựng những cảm xúc đó. Những thực tế này có thể trỗi dậy trong các giấc mơ hoặc
trong những câu nói buột miệng và là đối tượng phân tích của khoa phân tâm. Thí dụ một
người quên đi một lỗi lầm, một hành vi sai quấy hay một điều xấu hổ trong quá khứ để khỏi
phải chịu đựng những dằn vặt, hối hận, khổ đau liên quan đến kinh nghiệm đó.
9

Lùi về quá khứ/Regression: dùng lại ứng xử của giai đoạn phát triển tâm lý đã qua. Thí dụ
khi hồi hộp xúc động thì tiểu dầm mặc dù đã qua tuổi đó, hoặc van xin khóc lóc năn nỉ như
trẻ con khi phải đối phó với những mâu thuẫn trong cuộc sống lứa đôi.
5.Cách tiếp cận và mục tiêu của phương pháp phân tâm:
Theo Freud, triệu chứng thần kinh tâm trí diễn ra khi người ta dùng cơ chế tự vệ một cách
không thích đáng để đối phó với một số mâu thuẫn phần đông mang tích cách dục tình hay
bạo động xuất phát từ tuổi ấu thơ. Cách đối phó này không thực sự giải quyết tận gốc mâu
thuẫn mà chỉ giống như một viên thuốc giảm đau để tạm thời quên đi những cảm xúc tiêu
cực khó chịu. Mâu thuẫn không được giải quyết vẫn còn đó và gây ra những triệu chứng.

Vì vậy, mục tiêu của phương pháp phân tâm là đem cái kinh nghiệm, cái khao khát, cái sợ
hãi đã bị vùi sâu trong vô thức phơi bày ra thức, tạo cho khách hàng cơ hội sống lại nó và
giải quyết nó một cách đúng đắn và rốt ráo để đạt được một kết luận tích cực cho mối mâu
thuẫn đó. Khi các mối mâu thuẫn của quá khứ được giải quyết thỏa đáng, những triệu chứng
thần kinh tâm trí liên quan đến nó sẽ tiêu tan.
Phương pháp phân tâm cổ điển đòi hỏi người bệnh gặp nhà phân tâm trung bình năm lần
một tuần, mỗi lần 50 phút liên tiếp trong nhiều năm. Trong thời gian gặp gỡ, người bệnh
nằm dài thoải mái trên một trường kỷ, nhà phân tâm ngồi phiá sau đầu bệnh nhân. Nhà phân
tâm giữ vai trò trung lập, khách quan bằng cách không nói gì về bản thân, không phê phán,
mà chỉ giúp bệnh nhân đi ngược lại lịch sử của mình và nói ra tất cả những gì đã xảy ra trong
quá khứ, nhất là những kỷ niệm tiêu cực, những dục vọng xấu xa. Phương pháp này Freud
gọi là lột trần ẩn ức/free association. Trong quá trình điều trị lâu dài này, nhà phân tâm diễn
dịch những mâu thuẫn không được giải quyết thỏa đáng và bị dồn vào vô thức, những cơ chế
tự vệ, những né tránh… và dần dần giúp bệnh nhận hiểu được những uẩn khúc tâm lý bản
thân một cách sâu sắc. Qua quá trình làm việc lâu dài và hết sức gần gũi này, bệnh nhân tin
tưởng tuyệt đối và thố lộ tất cả cuộc đời của mình cho nhà phân tâm, dần dần coi nhà phân
tâm như đối tượng của những tình cảm thương cũng như ghét bị dồn nén trong quá khứ.
Quá trình này được Freud đặt tên là phóng chiếu/transference. Freud phân biệt hai loại phóng
chiếu: phóng chiếu tích cực/positive transference là những tình cảm thương yêu, ái mộ đối với
nhà phân tâm; phóng chiếu tiêu cực/negative transference là những ác cảm đối với nhà phân
tâm. Phóng chiếu, cả tích cực lẫn tiêu cực, đều là mục tiêu của phân tâm vì nó tạo cơ hội
cho bệnh nhân được “làm lại cuộc đời” tức là được sống lại mâu thuẫn cũ và được đối tượng
của mâu thuẫn (tức là nhà phân tâm qua phóng chiếu ) dẫn dắt đến một giải pháp phù hợp
nhất có thể được cho mâu thuẫn đó, triệu chứng tâm lý vì vậy tiêu tan. Quá trình làm việc lâu
dài và hết sức gần gũi của phương pháp phân tâm cũng có thể làm cho nhà phân tâm trở lại
những ẩn ức bị dồn nén của chính bản thân, phát sinh tình cảm thương ghét đối với bệnh
nhân và dùng mối liên hệ nghề nghiệp với bệnh nhân để giải quyết những ẩn ức (phần đông
liên quan đến dục tình) bị dồn nén trong quá khứ của chính mình. Freud gọi hiện tượng này
là phản phóng chiếu/counter transference, và đề nghị nhà phân tâm cảnh giác, nếu thấy dấu
10


hiệu của phản phóng chiếu phải ngừng công việc ngay, giới thiệu bệnh nhân đi chỗ khác và
bản thân mình đi tham vấn để điều trị những ẩn ức cũ một cách thỏa đáng.
Ngoài lột trần ẩn ức, Freud còn dùng phương pháp giải mộng để khám phá vô thức của bệnh
nhân. Phương pháp giải mộng đòi hỏi bệnh nhân kể lại tất cả những gì nhớ được trong giấc
mộng để nhà phân tâm diễn dịch, tìm ra những ẩn ức bị dồn nén vào vô thức và giúp bệnh
nhân giải quyết những ẩn ức đó một cách thỏa đáng và nhờ vậy hết bệnh.
CARL GUSTAV JUNG (1875-1961)
VÀ TÂM LÝ HỌC LÝ GIẢI/PSYCHOANALITICAL THERAPY
Bác sĩ thần kinh tâm trí Thụy Sĩ. Jung trở thành bạn thân của Freud vào năm 1904 (thời gian
đó Jung 29 tuổi ở Zurich và Freud đã 50 tuổi ở Vienne). Tình bạn sâu đậm này kéo dài sáu
năm trong đó Jung chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những lý thuyết mới mẻ về phân tâm của
Freud. Mâu thuẫn giữa Jung và Freud bắt đầu từ những bất đồng của Jung về quan điểm tôn
giáo và năng lực sống/libido của Freud. Freud là người theo chủ nghĩa vô thần, và năng lực
sống theo Freud là những khát vọng phần đông mang tính chất dục tình và bạo động xấu xa
bị dồn vào vô thức của con người. Jung tin vào ý nghĩa tâm linh và năng lực sống bao gồm
những năng lực xấu cũng như tốt chứ không phải chỉ nặng về loạn luân, dục tình, và bạo
lực.
Lý thuyết về các giai đoạn phát triển của con người:
Khác với lý thuyết của Freud, Jung không chủ trương dục vọng giữ một vai trò chủ yếu
trong quá trình trưởng thành của con người. Jung chỉ ra bốn giai đoạn phát triển: ấu thơ,
thanh thiếu niên (quan trọng nhất), trung niên, và lão niên.
Giai đoạn ấu thơ (từ sơ sinh đến trước dậy thì): trong giai đoạn này con người chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của vô thức cá nhân và vô thức tập thể, hình thành những khát vọng không
thể đạt được/fantasies bắt nguồn từ cá tính bẩm sinh, những khát vọng, những archetypes tức
là những bộ đối xứng gồm hai tính cách trái ngược nhau có sẵn trong vô thức tập thể mà con
người thừa hưởng của tổ tiên từ khi mới sinh ra. Trong giai đoạn này, mặc dù đứa trẻ hoàn
toàn lệ thuộc vào người lớn, cái Tôi của nó đã bắt đầu hình thành và ngày càng giúp nó trở
nên độc lập hơn với thế giới chung quanh.
Jung chia giai đoạn ấu thơ ra làm ba thời kỳ: thời kỳ loạn/anarchic phase, đứa trẻ bị vây kín

bởi những hình ảnh sơ khai và hỗn loạn, không có liên hệ rõ rệt với nhau. Thời kỳ
trị/monarchic phase, cái Tôi sơ khai bắt đầu xuất hiện, đứa trẻ bắt đầu có được những khái
niệm về bản thân. Vì lý do cái Tôi trong thời kỳ này được đứa trẻ hiểu như một vật thể, đứa
trẻ thường tự nhắc đến nó bằng ngôi thứ ba. Trong thời kỳ song đôi/dualistic phase, những ốc
11

đảo rời rạc của vô thức được dần dà nối liền với nhau, đứa trẻ bắt đầu ý thức được cả hai mặt
chủ quan và khách quan của cái Tôi và nó có thể tự nói về nó bằng ngôi thứ nhất.
Giai đoạn thanh thiếu niên (dậy thì đến 35-40 tuổi): đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ
của thức, con người đón nhận những vai trò của tuổi trưởng thành: cơ thể và tính dục phát
triển để xây dựng mối quan hệ lứa đôi, trí tuệ phát triển để đảm trách công việc làm và các
trách nhiệm khác. Nhiệm vụ quan trọng của giai đoạn phát triển này là hướng những năng
lực của cuộc sống/libido ra bên ngoài và sống trọn vẹn cuộc sống của cá nhân. Ích lợi lớn
cho giai đoạn này là khi thanh thiếu niên có được một lý tưởng hay một nhân vật lý tưởng để
noi theo.
Giai đoạn trung niên (35-40 đến tuổi già): con người có khuynh hướng hướng nội để hội
nhập hai phần thức và vô thức của tâm thức/psyche. Trong giai đoạn phát triển trước đó (giai
đoạn thanh thiếu niên), phần vô thức bị lu mờ. Trong giai đoạn trung niên, phần vô thức
được nâng lên và hội nhập vào phần thức, và con người trở nên hướng về nội tâm nhiều hơn
vào ngoại cảnh, chú ý nhu cầu tâm linh. Quá trình hội nhập thức và vô thức trong giai đoạn
này được Jung gọi là quá trình tiến đến trình độ phát triển cao nhất của cá nhân/individuation,
nghĩa là mỗi người trở thành một cá nhân độc đáo với những phẩm chất riêng biệt. Sự hội
nhập những giá trị trái ngược nhau của thức và vô thức và tạo ra những giá trị đối
xứng/dualities, con người trở nên trưởng thành hơn, hữu hiệu hơn trong cuộc sống, và nhờ
vậy xây dựng được cái chân tâm/the self mà Jung đặt vào trung tâm của cá tính mỗi
người/personality.
Giai đoạn lão niên: con người trở về giai đoạn vô thức thống trị của tuổi ấu thơ. Thức lùi ra
phía sau, vô thức tiến ra phía trước. Nhiệm vụ quan trọng của giai đoạn này là đối đầu với
nỗi sợ chết vì nỗi sợ này làm cản trở nhiệm vụ chính của tuổi già, tức là nhiệm vụ chuẩn bị
cho chết và tái sinh. Đây là một khái niệm quan trọng trong tư tưởng Jung: trái với tư tưởng

tôn giáo Tây phương cho chết là chấm dứt, sau chết chỉ có thiên đàng vĩnh cửu hoặc hỏa
ngục đời đời, Jung tin có luân hồi và cái chết chỉ là sự chấm dứt một nhân cách để một nhân
cách mới có thể bắt đầu.
Lý thuyết về tâm thức/psyche:
Jung gói ghém quan điểm lạc quan của ông vào từ tâm thức. Theo Jung, tâm thức là tất cả
các hoạt động trong thức cũng như vô thức của con người, tất cả cảm xúc, ý nghĩ, ứng xử, và
nó là cái làm cho con người thích ứng được vào môi trường sống. Trong tâm thức có cả
phần tâm linh (điều này trái với tư tưởng của Freud) và hiện hữu như một thực thể trọn
vẹn/wholeness ngay từ khi con người mới chào đời chứ không phải hình thành dần dần qua
học tập. Triệu chứng tâm thần sẽ xảy ra khi tâm thức bị tổn thương hay mất đi, và vì vậy
mục tiêu của tâm lý trị liệu là giúp con người phục hồi, duy trì và tăng cường tâm thức để nó
đứng vững trước những thách đố của môi trường. Quan điểm này giống như quan điểm nhân
chi sơ tính bản thiện của Khổng Tử và Mạnh Tử ở Trung quốc.
12

Tâm thức của Jung chia làm ba thành phần tương tác lẫn nhau: thức/consciousness, vô thức cá
nhân/personal unconscious và vô thức tập thể/collective unconscious.
Thức là phần người ta biết được. Thức có bốn khả năng: nghĩ/thinking (để tìm hiểu thế giới
chung quanh); cảm xúc/feeling (là tất cả kinh nghiệm thức có được do ngũ giác tạo ra); suy
luận từ cảm xúc/sensing (để đo lường sự vật trong khuôn khổ vui/buồn, thích/không thích,
chấp nhận được/không chấp nhận được); và trực giác/intuting (tức là trạng thái biết về điều gì
một cách vô thức, không biết là mình biết). Tùy theo vị trí mạnh yếu của bốn khả năng này,
con người có những cá tính khác nhau.
Năng lực của thức, tức là năng lực của cuộc sống/libido có hai khuynh hướng khác nhau:
hướng ngoại/extroversion và hướng nội/introversion : người có năng lực của thức hướng ngoại
là người thích đám đông, thích giao du, làm việc, giải trí với người khác; người có năng lực
của thức hướng nội trái lại không thích đám đông, thích làm việc một mình, giải trí một
mình. Người hướng ngoại thích hợp với nghề bán hàng, dạy học, hoạt động chính trị, quản
lý doanh nghiệp… Người hướng nội là những nghệ sĩ, nhà sáng tác, nghiên cứu… Vì lẽ thức
thường có cả hướng ngoại và hướng nội, hai khuynh hướng này có thể được đánh giá theo

một thang giá trị theo đường thẳng, một đầu là cực hướng ngoại và đầu kia là cực hướng nội,
và tất cả mọi người đều rơi vào khoảng giữa hai cực này. Điều đáng chú ý ở đây là quan
điểm của Jung cho năng lực của thức không phải chỉ là năng lực có tính dục tình và bạo
động như Freud nghĩ mà bao gồm tất cả các năng lực tích cực cũng như tiêu cực của cuộc
sống.
Vô thức cá nhân: tương tự vô thức/unconscious hoặc tiền thức/pre-conscious của Freud, tức là
tất cả những cảm xúc, ý nghĩ, kinh nghiệm đã được cá nhân dồn nén vào trong vô thức.
Theo Jung trong vô thức cá nhân còn có những điều không quan trọng mà chúng ta vất vào
đấy. Thức có thể không lôi ra được theo ý muốn những chất chứa trong vô thức, nhưng
những chất chứa đó vẫn hiện hữu và có thể hiện ra bất cứ lúc nào trong thức. Thí dụ cuộc
sống vô cùng tất bật căng thẳng của hiện tại tưởng đã làm cho quên hết quá khứ, nhưng một
vũng nước bất ngờ trên cánh đồng quanh năm khô ráo ở California có thể mang lại cho một
người Mỹ gốc Việt đầy đủ cảm xúc sống động của cả một quãng đời dài với nhiều kỷ niệm
trong vùng đồng ruộng Việt Nam.
Vô thức tập thể: đây là khác biệt lớn nhất giữa Jung và Freud và cũng là phát kiến quan trọng
nhất của Jung. Cũng như đối với những nét đặc thù về thể chất có thể được truyền lại từ thế
hệ này sang thế hệ khác, những nét đặc thù của thức cũng có tính cách di truyền. Điều này
có nghĩa con người từ khi sinh ra đã có những kinh nghiệm, những phản ứng đối với môi
trường y như tổ tiên. Thí dụ chẳng cần phải học hay trải qua kinh nghiệm gì ai cũng biết sợ
bóng tối hoặc biết vẻ đẹp của các loài hoa. Nội dung của vô thức tập thể được Jung gọi là
archetypes, mỗi archetype là một bộ đối xứng của hai tính cách trái ngược, thí dụ sinh và tái
sinh, chết và quyền lực, thiên thần và ác quỷ… Trong các archetypes Jung chú ý nhiều nhất
đến bốn archetypes chính sau đây:
13

Mặt nạ/mask: tức là vai trò mọi người thấy được từ mỗi người trong chúng ta. Mặt nạ vừa
phô trương vừa che đậy bản chất thật của con người và nó cho phép chúng ta hòa đồng vào
cuộc sống.
Kim Đồng-Ngọc Nữ/Anima-Animus: là mặt trái của phái tính thức của con người. Phái tính
thức là phái tính mỗi người biết được của bản thân mình. Thí dụ phái tính thức của ông A là

phái nam vì ông A biết ông ấy có của quý. Bên cạnh phái tính thức còn có phái tính vô thức:
mọi người đàn ông đều có Ngọc Nữ/Anima là phái tính vô thức, và mọi người đàn bà đều có
Kim Đồng/Animus là phái tính vô thức. Ngọc Nữ biểu hiện cho những gì hời hợt bên ngoài,
yếu đuối, không chủ đích, lệ thuộc; Kim Đồng biểu hiện những tính anh hùng, chủ động, dứt
khoát, mạnh mẽ. Kim Đồng-Ngọc Nữ hiện hữu trong mọi văn hóa, nhưng, theo Jung, trong
văn hóa phương tây, nơi Mặt nạ giữ vai trò khống chế, tình trạng dồn nén Kim Đồng-Ngọc
Nữ diễn ra phổ biến hơn.
Bóng/Shadow: giống như phần Ác/Id của Freud, Bóng là phần thú vật trong bản chất của con
người. Bóng luôn luôn phải được kềm chế để con người có thể sống hòa đồng trong xã hội.
Bóng vừa là lực hủy hoại vừa là sức sáng tạo, là nguồn gốc của những cảm xúc sâu xa và
chân thật nhất của con người, chính vì vậy nếu Bóng bị đè nén quá sức, nó sẽ phục thù. Khi
cái tôi bên ngoài/ego hòa hợp với phần Bóng của nó, con người được lành mạnh cả về vật
chất lẫn tinh thần. Mặt khác khi Bóng lấn lướt cái tôi bên ngoài người ta có thể trở nên điên
loạn, điều này giải thích tình trạng những thiên tài điên dại trong xã hội.
Chân tâm/the Self: là trung tâm của archetype, là biểu tượng trọn vẹn và cao quý nhất của con
người. Giống như trạng thái viên mãn/self actualization của Maslow, mục tiêu tối hậu của tất
cả mọi cá nhân là đạt đến chân tâm. Đây là một quá trình kéo dài suốt đời và ngoại trừ đức
Phật và đức Chúa Jesus, rất ít người đạt được mục tiêu đó.
Mộng:
Cũng như Freud, Jung tin mộng là “con đường lớn dẫn vào vô thức”, từ đó có thể hiểu được
rất nhiều về cá nhân mỗi người. Khác biệt giữa Jung và Freud là trong khi Freud cho mộng
có chức năng chính bù lấp nỗi khao khát đạt được một điều gì đó đã không đạt được trong
thực tế, Jung không tin tất cả các giấc mộng đều có chức năng này mà còn có công dụng
phục hồi trạng thái hài hòa về tâm lý của con người và tái lập cái tâm thức thăng bằng/the
psychic equilibrium vốn rất cần thiết cho cuộc sống bình thường của mọi người. Mộng quan
trọng không những cho kiến thức về quá khứ mà cả về tương lai và cùng với đời sống tâm
linh, mộng có thể giúp con người đạt được trình độ phát triển cao nhất của bản
thân/individuation. Ý nghĩa của các dấu hiệu trong mộng không cố định như Freud tin tưởng,
mà có thể thay đổi, và phân tích chuỗi mộng/dream series của cùng một người trong một
khoảng thời gian là điều quan trọng.

Mặc cảm:
14

Jung cũng bất đồng ý kiến với Freud về khái niệm mặc cảm. Trong khi Freud coi mặc cảm
Oedipus là thách đố chính trong quá trình trưởng thành của tất cả mọi người, Jung giải thích
mặc cảm như những cái nốt nổi lên trong vô thức, có thể gián tiếp nhận ra được qua những
ứng xử khó giải thích của cá nhân. Mặc cảm có thể hiện hữu cả trong thức lẫn vô thức, có
thể mang tính cách tích cực cũng như tiêu cực, và chỉ những mặc cảm tiêu cực ảnh hưởng
xấu đến ứng xử của con người mới cần chú ý để thay đổi.
Ý kiến về tôn giáo:
Trong khi Freud chủ trương vô thần, muốn nghiên cứu tôn giáo phải đứng ngoài tôn giáo, và
chỉ người không có đức tin mới thực sự hiểu được đức tin, Jung tin tưởng vào giá trị của khía
cạnh tâm linh trong đời sống con người. Khi điều trị một bệnh nhân Mỹ, Rowland Hazard
III, mắc bệnh nghiện rượu nặng, không kết quả, Jung đã khuyên bệnh nhân này tìm về biện
pháp tâm linh. Bệnh nhân nghe lời Jung và chừa được bệnh nghiện rượu. Hazard chia xẻ
kinh nghiệm này với những người nghiện rượu khác trong số có Bill Wilson, sau này trở
thành đồng sáng lập viên của hội Những Người Nghiện Rượu Ẩn Danh/Alcoholics Anonymous
(AA). Phương pháp 12 bước nổi tiếng của hội này ngày nay được áp dụng cho nhiều bệnh
nghiện khác kể cả nghiện cờ bạc, ma túy… tại nhiều nước trên thế giới. Điều đáng chú ý là
mặc dù quan điểm tâm linh của Jung đã gián tiếp tạo ra phương pháp 12 bước, giúp được
hàng triệu người trên thế giới thoát được nạn nghiện cờ bạc và ma túy qua đức tin tôn giáo,
Jung và những người lãnh đạo các hội Ẩn Danh đã là tối tượng chỉ trích nặng nề của phái
Thiên Chúa giáo cực hữu vốn không chấp nhận bất cứ đấng cứu rỗi nào ngoài Chúa Trời và
con một của ngài là Chúa Giê Su (Jung khuyến khích mọi hình thức tâm linh, mọi hình thức
Thượng Đế của mọi tôn giáo, bản thân Jung nghiên cứu và áp dụng Kinh Dịch của Trung
quốc trong tâm lý trị liệu). Ngoài ra, tương tự quan điểm luân hồi của Ấn giáo và Phật giáo,
Jung không cho cái chết là chấm dứt của sự sống mà chỉ là sự chuyển đổi sang một kinh
nghiệm mới về hiện hữu và phát triển (4).
Lý thuyết về các triệu chứng bệnh tâm lý/neurosis:
Bệnh tâm lý là từ do bác sĩ Tô Cách Lan William Cullen đặt ra từ năm 1769 để mô tả những

bệnh và triệu chứng tâm lý không thể giải thích bằng cơ thể học/physiology. Sau Cullen,
Freud và Jung là những người xử dụng từ này nhiều nhất và ấn tượng nhất để mô tả tình
trạng những cảm xúc căng thẳng hoặc mâu thuẫn trong vô thức phát ra ngoài dưới hình thức
các triệu chứng tâm lý và vật lý khác nhau, trong đó cảm xúc quan trọng nhất là cảm xúc bồn
chồn khó chịu vô cớ/anxiety.
Trái với bệnh thần kinh/psychosis là những bệnh có triệu chứng ảo giác và ảo tưởng, làm xáo
trộn nhân cách/personality, xáo trộn nhận thức về thế giới chung quanh, tổn thương khả năng
sống bình thường, thí dụ bệnh tâm thần phân liệt/schizophrenia. Bệnh tâm lý là những bệnh
không có triệu chứng ảo giác/hallucination và ảo tưởng/delusion. Triệu chứng bao trùm của
bệnh tâm lý là bồn chồn bứt rứt/anxiety. Những bệnh tâm lý thông thường bao gồm bệnh
15

trầm cảm, bệnh ứng xử ám ảnh/obsessive compulsive disorder (thí dụ bệnh ăn cắp/klepto-mania,
bệnh nhịn ăn/anorexia, bệnh sợ/phobia…) Bệnh nhân bệnh tâm lý có thể vẫn có khả năng sống
và làm việc trong xã hội. Vì tính cách quá tổng quát của nó, danh từ bệnh tâm lý (neorosis)
hiện nay không còn được dùng trong cẩm nang thống kê và chẩn đoán bệnh tâm thần DSM
mà được thay bằng những bệnh có chẩn đoán cụ thể hơn.
Trong phương pháp trị bệnh tâm lý của Jung, trạng thái dồn nén không được chú ý nhiều
như trong phương pháp phân tâm của Freud. Jung lưu tâm đến mâu thuẫn giữa các thành
phần khác nhau của cá tính con người, đến tương lai và hiện tại, hơn là những ẩn ức bị dồn
nén trong quá khứ. Điều trị viên trong phương pháp của Jung giữ vai trò tích cực, chủ động,
chứ không thụ động như phương pháp của Freud. Quan điểm chú ý đến phần tâm linh cũng
được Jung thể hiện trong liệu pháp của mình. Ngoài ra Jung còn dùng nghệ thuật trong trị
liệu: Jung chủ trương nghệ thuật có thể được dùng để làm xoa dịu hoặc chữa lành những
chấn thương tâm lý, những nỗi sợ hoặc nỗi bồn chồn bứt rứt của con người.
ALFRED ADLER (1870-1937) VÀ TÂM LÝ HỌC CÁ NHÂN/INDIVIDUAL
PSYCHOLOGY
Bác sĩ, tâm lý gia Áo. Cũng như Jung, Adler thoạt đầu hợp tác với Freud nhưng đã tách
riêng rất sớm (trước Jung hai năm), lập ra một phương pháp tâm lý trị liệu riêng với lý thuyết
về nhân cách/personality theory và trở thành một trong những tâm lý gia lỗi lạc nhất của thế kỷ

20 (5). Và cũng giống như Jung, Adler bác bỏ trọng tâm tình dục của Freud trong nhân cách
con người và đề cao bản chất xã hội cao quý của nhân loại. Đối với Adler, những yếu tố
ngoại lai như thể chế chính trị, giới tính nam nữ, thứ tự sinh ra trong gia đình, phương pháp
giáo dục con cái của cha mẹ… quan trọng không kém những yếu tố nội tại như năng lực
sống/libido, hoạt động và ảnh hưởng của thức và vô thức… Sau đây là một số ý chính trong
lý thuyết nhân cách của Adler:
Mặc cảm tự ti:
Con người lúc mới sinh ra luôn luôn không tự lập được ngay mà phải lệ thuộc vào sự chăm
sóc của người khác, thường là cha mẹ. Từ đó phát sinh mặc cảm tự ti. Mặc cảm tự ti tạo ra
một động lực trong vô thức thúc đẩy con người tìm cách vươn đến trạng thái thắng thế
(thường là thắng thế hoặc thua thiệt trong ba lĩnh vực lớn nhất của cuộc sống: xã hội, công
việc, và tình dục) để đền bù mặc cảm thua kém. Adler phân tích ba trường hợp có thể xảy
ra:
- Đền bù đúng mức: tạo ra được một thành công có ích lợi cho cá nhân và xã hội, thí dụ xấu
xí như chàng Trương Chi lại phát huy được tiếng sáo tuyệt vời không ai bì kịp.
- Đền bù quá mức: con người trở thành quá khích, thí dụ một số đứa trẻ có tính hung hăng
thích bắt nạt những đứa nhỏ yếu hơn nó để khắc phục bản chất nhút nhát hèn hạ của chính
16

nó. Một thí dụ khác: người nghèo sài sang quá mức để chứng tỏ mình có đủ khả năng coi
nhẹ đồng tiền, không như “bọn nhà giàu keo kiệt”.
- Lảng tránh/escape from combat: ngăn ngừa sự thất bại bằng cách viện lý do để không tham
gia vào công việc dẫn đến thành công hay thất bại. Thí dụ: tại hôm đó tôi bị ốm phải ở nhà
chứ không thì tôi đã đi thi (và đã đậu thủ khoa). Thí dụ khác: người cố ý coi thường, không
chú tâm cố gắng làm một việc gì đó để làm nhẹ thất bại mà người đó tin là sẽ diễn ra.
Mặc cảm tự ti, và phản diện của nó là mặc cảm tự tôn, giữ một vai trò quan trọng trong tâm
lý và ứng xử của con người. Nguyên nhân của nó là bốn yếu tố sau đây:
- Khiếm khuyết về thân thể, thí dụ những dị tật bẩm sinh hoặc khuyết tật do tai nạn hay
chiến tranh gây ra.
- Giới tính: từ tuổi thơ, văn hóa xã hội đã áp đặt những đặc tính khác nhau cho nam và nữ

giới. Nam phải cứng rắn, khỏe mạnh…; nữ phải xinh đẹp, dịu dàng, mềm mỏng… Thực tế
không phải đứa trẻ trai nào cũng cứng rắn, khỏe mạnh; và không phải đứa trẻ gái nào cũng
dịu dàng mềm mỏng, thậm chí còn có nhiều đứa lớn lên trở thành sư tử Hà Đông. Khi đứa
trẻ không thể tự nó thỏa mãn được những giá trị do xã hội áp đặt, nó phát sinh mặc cảm tự ti
và vô thức bắt nó phải đền bù: thí dụ người phụ nữ có mặc cảm yếu kém sẽ có thể cố gắng
tạo ra quyền lực cho mình bằng cách ăn mặc khêu gợi và thái độ lẳng lơ để tạo ra quyền lực
qua sự ham muốn về tình dục của đàn ông.
- Thứ tự sinh ra trong gia đình: cha mẹ thường đặc biệt chú ý chăm sóc đứa con đầu tiên và
đứa bé nhất trong nhà. Khi đứa em ra đời, đứa con đầu lòng đang là thái tử không những bị
mất ngôi cao quyền quý mà còn bị đầy xuống làm anh Hai, tức là làm thằng hầu cho các đứa
em! Đứa con đầu vì vậy dễ bị các triệu chứng bệnh tâm lý như trầm cảm, bồn chồn, các
bệnh về nhân cách/personality disorder (6) như nửa tỉnh nửa điên, nghi ngờ, ứng xử ám ảnh,
thù nghịch xã hội… và dễ sinh nghiện hút hay phạm pháp. Trong khi đó đứa con út dễ bị
nuông chiều có thể sẽ khó hội nhập thành công vào xã hội khi trưởng thành. Những đứa con
giữa vốn không bao giờ được làm thái tử (có phải con đầu lòng đâu mà được làm thái tử?) và
cũng không là nạn nhân của bộ đôi độc ác/the twin evils ngược đãi trẻ em phổ biến nhất (cưng
chiều quá đáng/bỏ bê không chăm sóc), vì vậy dễ thành công trong cuộc đời trưởng thành,
nhưng cũng có thể dễ “nổi loạn” và có những triệu chứng tâm lý phát sinh từ cảm giác không
được gia đình quan tâm đúng mức.
- Cách nuôi dạy con của cha mẹ: Adler là một trong những nhà tiên phong của việc giáo dục
nghệ thuật làm cha mẹ. Theo Adler, những áp lực không chính đáng của cha mẹ để thúc đẩy
đứa con phải thành công, cũng như phản ứng của cha mẹ về thành công hay thất bại của đứa
con, đều tạo ra mối bồn chồn bứt rứt rất lớn và tai hại, tức là những bệnh tâm lý, cho cả cha
mẹ lẫn đứa trẻ. Phát kiến này của Adler, mặc dù đã có gần một thế kỷ, vẫn có thể còn là một
bài học mới mẻ cho các bậc cha mẹ ở Á đông trong đó có Việt Nam, nơi cha mẹ thường tạo
17

áp lực rất nặng nề cho việc đỗ đạt của các con để, không phải chỉ vì tương lai đứa trẻ, mà
còn vì tự ái của bản thân. Trong khi đó, ở Phần Lan, quốc gia có nền giáo dục và an sinh xã
hội xứng đáng làm khuôn mẫu cho cả thế giới, người ta cho trẻ con đi học mẫu giáo đến năm

7 tuổi mới vào lớp một, và toàn bộ chính sách giáo dục nhắm mục tiêu xóa bỏ tinh thần ganh
đua và tạo điều kiện cho tất cả mọi học sinh, bất kể khả năng trí tuệ, đều có cơ hội thành
công theo khả năng cao nhất của bản thân trong một môi trường thoải mái, không căng
thẳng, và vì vậy có thể tập trung tất cả năng lực vào việc học thật sự tức là để mở mang trí
tuệ, chứ không phải để được điểm hay bằng cấp.
Phương cách dạy con đúng đắn theo Adler là tạo cho đứa trẻ một môi trường sống dân
chủ và bình đẳng ngay từ trong gia đình. Adler đặc biệt cảnh giác phụ huynh về tác hại của
việc kỷ luật trẻ con bằng roi vọt, và về bộ đôi độc ác hành hạ áp bức trẻ em như đã trình bày
ở trên.
Bệnh tâm lý và phương pháp trị liệu:
Theo Adler, tất cả các triệu chứng bệnh tâm lý (như bồn chồn bứt rứt, trầm cảm…) đều là cố
gắng của cá nhân để thoát ra khỏi mặc cảm thua kém và đạt được trạng thái ưu việt hơn
người khác. Vì vậy để trị bệnh tâm lý, Adler chủ trương giúp người bệnh hiểu được cơ chế
hoạt động của tâm thức, có được trí tuệ, lòng can đảm, và niềm tự tin để tồn tại và phát triển
một cách lành mạnh bình thường. Điều trị viên theo phương pháp Adler giữ vai trò tích cực,
sẵn sàng cung cấp lời khuyên, giúp bệnh nhân thay đổi lối sống, rũ bỏ những mục tiêu giả
tạo, thiết lập mục tiêu đúng đắn và thực tế, từ đó không còn mặc cảm thua kém và dứt được
triệu chứng bệnh tâm lý. Để dễ dàng thực hiện vai trò tích cực này, Adler là người đầu tiên
bỏ cách sắp xếp cổ điển của phái phân tâm: bệnh nhân nằm dài trên trường kỷ, điều trị viên
ngồi phía sau. Phương pháp Adler cho phép bệnh nhân và điều trị viên trở lại hình thức ngồi
đối diện trên hai ghế.

Chương 2: PHÁI ỨNG XỬ/BEHAVIORAL THERAPY
Trái ngược hẳn với phái tương tác tâm lý, phái ứng xử không quan tâm tìm hiểu những
nguyên nhân sâu xa của các triệu chứng tâm lý, mà chỉ chú ý đến các ứng xử có thể quan sát
và đo lường được của con người. Dựa trên nghiên cứu của Ivan Pavlov (1849-1936), nhà
bác học Nga, và Edward Thorndike (1874-1949), tâm lý gia Mỹ, ứng xử liệu pháp xây dựng
trên ảnh hưởng của hai phát kiến sau đây trên ứng xử của con người: điều kiện hóa cổ
điển/classical conditioning (Pavlov) và luật hậu quả/law of effect nổi tiếng của Thorndike. Điều
kiện hóa cổ điển là điều kiện diễn ra trước ứng xử. Thí dụ sau khi nghe tiếng chuông nhiều

lần ngay trước khi được cho ăn, con chó sẽ chảy nước dãi sau khi nghe tiếng chuông mặc dù
không được cho ăn.
18

Luật hậu quả (1898) là cách mọi sinh vật học những điều mới: Thorndike nhốt mỗi con mèo
đói trong một chuồng có cửa đóng bằng then, bên ngoài cửa là thức ăn. Trung bình lần đầu
tiên các con mèo mất khoảng 5 phút để mở được cửa chuồng, lấy được thức ăn và bị bỏ trở
lại vào chuồng. Thời gian cần để mở cửa chuồng giảm dần, sau từ 10 đến 20 lần các con
mèo chỉ cần trung bình 5 giây đã mở được cửa chuồng. Thorndike kết luận mèo học bằng
cách thử nhiều động tác, dần dần những động tác thừa bị loại, chỉ lập đi lập lại những động
tác cần thiết mang lại hiệu quả mong muốn.
Bốn mươi năm sau khi luật hậu quả ra đời, Burrhus Frederic Skinner (1904-1990) tâm lý gia
lỗi lạc người Mỹ phân biệt điều kiện hóa cổ điển và điều kiện hóa hành động/operant
conditioning. Trái với điều kiện hóa cổ điển (sự kiện xảy ra TRƯỚC ứng xử ảnh hưởng đến
ứng xử), điều kiện hóa hành động là tình trạng hậu quả của ứng xử (xảy ra SAU ứng xử) ảnh
hưởng ngược trở lại ứng xử. Thí dụ nếu mỗi lần chạy vào khu vực sơn màu đen trong
chuồng là sẽ bị điện giật, con chuột sẽ tránh không chạy vào khu vực đó. Skinner kết luận
ứng xử được quyết định và duy trì do hậu quả của nó. Đây là nền tảng của ứng xử liệu pháp:
con người có khuynh hướng duy trì và lập lại những ứng xử mang lại thoải mái, lời khen, sự
ngưỡng mộ hoặc các phần thưởng vật chất. Trái lại, sẽ tránh hoặc bỏ những ứng xử không
mang lại kết quả tốt đẹp cho bản thân.
Skinner phân biệt bốn loại điều kiện hóa hành động:
Tăng cường tích cực/positive reinforcement: tạo ra một tình trạng thoải mái, dễ chịu để khuyến
khích lập lại một ứng xử nào đó. Thí dụ, người huấn luyện chó cho chó ăn mỗi khi tuân lệnh,
con chó sẽ tập được tính kỷ luật. Thí dụ khác: khen thưởng đứa trẻ khi mỗi khi nó đem điểm
tốt về nhà, nó sẽ tiếp tục cố gắng chăm học để mang điểm tốt về cho cha mẹ.
Tăng cường tiêu cực/negative reinforcement: lấy đi một hậu quả khó chịu hoặc đau đớn để
khuyến khích LẬP LẠI một ứng xử nào đó. Thí dụ mỗi lần đi làm về đúng giờ bà vợ không
cằn nhằn quạu cọ dai dẳng làm mất vui cả buổi tối. Thôi chấp nhất với nó làm gì, tan sở ba
chân bốn cẳng chạy vội về nhà cho nó yên chuyện. Tăng cường tiêu cực thường bị nhầm lẫn

với trừng phạt.
Trừng phạt/punishment: tạo ra một tình trạng đau đớn, khó chịu để CHẤM DỨT một ứng xử
nào đó. Có hai cách trừng phạt, trừng phạt tích cực là tạo ra một hậu quả khó chịu. Thí dụ ở
những xã hội văn minh, ánh mắt nhìn của những người chung quanh khiến cho ít ai dám xả
rác bừa bãi (đa số người Việt có thói quen xả rác bừa bãi, nhưng khi đi ra nước ngoài thì tất
cả đều lập tức bỏ ngay được tập quán lạc hậu đó.) Trừng phạt tiêu cực là lấy đi một kết quả
sung sướng dễ chịu để chấm dứt một ứng xử nào đó (khác với tăng cường tiêu cực: tăng
cường tiêu cực là lấy đi một hậu quả khó chịu để khuyến khích lập lại một ứng xử nào đó).
Thí dụ đứa trẻ khóc quấy để đòi phải được ăn kẹo không đúng lúc, nếu cha mẹ nhất định
không nhượng bộ nó sẽ dần dần bỏ được thói xấu đó. Trước đây người ta áp dụng nhiều biện
pháp trừng phạt trong nghệ thuật làm cha mẹ (tục ngữ Việt Nam “thương cho roi cho vọt,
19

ghét cho ngọt cho bùi”; những câu có ý nghĩa “cất cái roi đi làm hư đứa trẻ/spare the rod, soil
the child” trong kinh thánh: sách Cách Ngôn 13-24, 22-15, 23-13, 23-14, 29-15), ngày nay
những biện pháp này từ lâu đã bị coi là lạc hậu vì chúng làm hại đứa trẻ nhiều hơn làm lợi.
Tuyệt chủng/extinction: khi một ứng xử không đạt được hậu quả nào, dù là tích cực hay tiêu
cực, ứng xử đó sẽ dần dần biến mất. Thí dụ sau nhiều lần tuân lệnh mà không được cho ăn,
con chó sẽ mất phản xạ tuân lệnh. Thí dụ khác: đứa trẻ nhõng nhẽo để được cha mẹ chú ý
đến, nếu cha mẹ nhất định lơ đi, chỉ cung cấp sự chú ý khi đứa trẻ hết nhõng nhẽo, nó sẽ bỏ
được tật nhõng nhẽo.
Sau đây là một số phương pháp phổ biến của phái ứng xử:
Làm mòn cảm giác/systematic desensitization: dùng để trị những bệnh sợ/phobia hay ứng xử
ám ảnh/obsessive compulsive behaviour (thí dụ bệnh ăn cắp/kleptomania). Thí nghiệm của Jones
và Watson năm 1924 là một thí dụ cổ điển của phương pháp này: Peter là một em bé 2 tuổi
rất sợ thỏ. Jones đặt một con thỏ nhốt trong một cái lồng trên bàn trong lúc Peter được cho
ăn trưa. Trong 17 ngày, mỗi ngày Jones đẩy lồng thỏ lại gần Peter một chút, cuối cùng con
thỏ được thả ra và ngồi trong lòng Peter và Peter vừa ăn vừa vuốt ve con thỏ.
Người mắc bệnh ăn cắp là người ăn cắp vì khao khát cảm giác hồi hộp, sợ bị bắt khi đi ăn
cắp, chứ không phải vì nghèo túng. Ở Mỹ thống kê cho biết khoảng 5% những người bị bắt

về tội ăn cắp là những người mắc bệnh ăn cắp/kleptomaniac. Nổi tiếng trong số này là những
tài tử giàu có và được nhiều người ngưỡng mộ, thí dụ Winona Ryder (hai lần giải Golden
Globe và hai lần giải Academy Award): cô đã từng treo giải 200.000 Mỹ kim cho ai cứu
được bé gái 12 tuổi Polly Klaas bị bắt cóc ở Petaluma, thị trấn nhà của cô vào năm 1993 (7),
nhưng năm 2001 cô bị bắt quả tang ăn cắp một số quần áo trị giá 5.500 Mỹ kim ở Fifth Saks
Avenue, một tiệm quần áo đắt tiền ở Beverly Hills. Người mắc bệnh ăn cắp khao khát cảm
giác mạnh của hành vi hành ăn cắp đến nỗi nếu không được sống trong tình huống hồi hộp
cao độ của hành vi đó thì bồn chồn bứt rứt không thể chịu được. Bệnh nhân có thể được
điều trị bằng cách dẫn vào nơi hay ăn cắp (cửa hàng bách hóa, chợ…), mới đầu đi bên cạnh
điều trị viên, sau nhiều lần sẽ đi cách điều trị viên vài bước, rồi cách xa dần. Tùy theo tiến
bộ của bệnh nhân, điều trị viên sẽ cùng đi vào cửa hàng với bệnh nhân nhưng mỗi người đi
một ngả. Sau cùng bệnh nhân sẽ vào cửa hàng một mình, điều trị viên chờ ở ngoài… Tùy
theo tình trạng của mỗi bệnh nhân, thời gian điều trị có thể kéo dài hàng năm (mỗi tuần gặp
điều trị viên một lần 55 phút). Phương pháp này cần có sự chuẩn bị thích đáng để đề phòng
trường hợp bệnh nhân không tự kiểm soát được, tái phạm hành vi ăn cắp và điều trị viên có
thể bị kết tội đồng lõa (ngồi chờ ở ngoài bãi đậu xe). Điều đáng chú ý ở đây là phương pháp
phân tâm của Freud coi bệnh ăn cắp là một loại bệnh bệnh tâm lý và điều trị bằng cách giúp
bệnh nhân tìm đến nguyên nhân sâu xa là những ẩn ức bị dồn nén vào vô thức từ quá khứ,
bộc lộ nó ra và giải quyết nó một cách thỏa đáng để hết ẩn ức. Thí dụ đứa trẻ nào cũng có
một thời kỳ khao khát mạnh mẽ được cha mẹ chú ý đến, nhưng bệnh nhân không được thỏa
mãn khát vọng này một cách chính đáng, chỉ được cha mẹ chú ý khi nó có hành vi hư hỏng
20

hay quậy phá (con nó ngoan rồi còn gì phải nói nữa!). Khi lớn lên hoàn cảnh sống thực tế
không cho phép nó quậy phá để được chú ý, cho nên cơ chế tự vệ giúp nó dồn khát vọng này
vào vô thức. Đến một lúc nào đó triệu chứng bệnh sẽ hiện ra vì khát vọng của bệnh nhân đã
không được thỏa mãn một cách xuông xẻ từ đầu.
Khuyến khích/reinforcement: có hai cách khuyến khích. Khuyến khích tích cực và khuyến
khích tiêu cực. Như đã trình bày ở trên, khuyến khích tích cực là tạo ra một hậu quả sung
sướng dễ chịu để khuyến khích lập lại một ứng xử nào đó. Thí dụ khen đứa trẻ mỗi lần nó

nói năng lễ phép, đứa trẻ sẽ tiếp tục lễ phép. Phương pháp này hiệu quả lâu dài hơn phương
pháp mắng chửi hay trừng phạt đứa trẻ khi nó hỗn láo. Khuyến khích tiêu cực là lấy đi một
hậu quả sung sướng dễ chịu để khuyên khích lập lại một ứng xử nào đó. Thí dụ không chú ý
đến đứa bé khi nó đòi được chú ý một cách không đúng đắn (khóc quấy, làm mình làm
mẩy…)
Làm gương/modeling: tập cho đứa trẻ (hay người lớn) một cách ứng xử tốt hơn cách ứng xử
cũ bằng cách diễn ứng xử đó để đối tượng quan sát và bắt chước. Thí dụ: muốn đứa trẻ kính
trọng cha mẹ thì cha mẹ kính trọng ông bà, nói năng lễ phép với ông bà.
Ngập lụt/flooding: giống phương pháp làm mòn cảm giác nhưng được thực hiện với nhịp độ
nhanh chóng. Thí dụ người sợ đám đông được thực sự dẫn đến hay hướng dẫn tưởng tượng
mình đang đi chợ Tết đông nghẹt người. Thí dụ khác: người mắc bệnh sợ nước/aquaphobia
được quăng xuống hồ bơi (nhớ chọn chỗ sâu đến bụng thôi và bố trí người khác đứng sẵn
dưới nước để đề phòng trường hợp bệnh nhân bị panic attack và tê liệt chân tay).
Thư giãn/relaxation: để chống căng thẳng và cảm giác bồn chồn bứt rứt.

Chương 3: PHÁI TRI THỨC
JEAN PIAGET (1896-1980) VÀ THUYẾT PHÁT TRIỂN TRI THỨC/COGNITIVE
DEVELOPMENT THEORY
Piaget, tâm lý gia Thụy Sĩ, là người có đóng góp lớn nhất vào kiến thức của nhân loại về sự
phát triển của trí khôn. Qua nhiều chục năm quan sát ứng xử của trẻ con, kể cả các con của
bản thân ông, trong môi trường sống tự nhiên chứ không chỉ thuần túy trong các môi trường
thí nghiệm, Piaget đề ra lý thuyết tri thức của con người bao gồm những đơn vị căn bản mà
Piaget gọi là schema. Schema là nơi lưu trữ những kiến thức đã thu nhận được và là nền
tảng cho sự học hỏi thêm những kiến thức mới.
CẤU TRÚC CỦA TRI THỨC
21

Trong quá trình lớn lên của đứa trẻ, schema được liên tục bổ sung qua hai quá trình: tiếp
nhận/assimilation và hội nhập/accommodation. Tiếp nhận là quá trình đưa những thông tin mới,
kinh nghiệm mới vào cơ cấu schema có sẵn để làm phong phú thêm schema. Thí dụ schema

của đứa trẻ sơ sinh đã có kinh nghiệm (và kiến thức) về bú sữa mẹ, dần dần nó tình cờ cho
được ngón tay hay ngón chân của nó vào miệng, rồi núm vú plastic… tất cả là kinh nghiệm
mới nhưng nó đều tiếp nhận được vào schema có sẵn của nó về bú. Hội nhập là thay đổi
schema có sẵn để chứa đựng được thông tin và kinh nghiệm mới. Thí dụ khi bắt đầu được
tập uống sữa từ cái ly, đứa bé lúng túng vì nó chỉ có kinh nghiệm và kiến thức về bú sữa chứ
không có kinh nghiệm và kiến thức về uống sữa. Nó loay hoay xoay qua xoay lại cái ly để
tìm núm vú nhưng sao lạ quá tìm hoài không thấy, không có núm vú làm sao cho được sữa
vô bụng đây? Sau một thời gian phấn đấu khó khăn, đổ vãi, và giúp đỡ của cha mẹ… đứa bé
tiếp nhận được kiến thức và kinh nghiệm mới về uống từ cái ly vào trong schema của nó.
Khi gặp một kinh nghiệm mới, tình huống mới chưa biết bao giờ (không có trong schema)
đứa trẻ lúng túng, mất thăng bằng/disequilibrium, bắt buộc phải tiếp nhận hay hội nhập để
trưởng thành lên và lấy lại tình trạng thăng bằng/equilibrium. Cuộc sống liên tiếp tạo ra trạng
thái mất thăng bằng, đòi hỏi tiếp nhận hoặc hội nhập để phục hồi trạng thái thăng bằng, nhờ
vậy tri thức con người được phát triển.
CÁC GIAI ĐOẠN HÌNH THÀNH TRI THỨC
Piaget chia sự hình thành của tri thức con người ra bốn giai đoạn
 Giai đoạn giác quan và cử động/sensorimotor từ 0 đến 2 tuổi.
 Giai đoạn tiền vận hành/pre-operational từ 2 đến 7 tuổi.
 Giai đoạn vận hành đơn giản/concrete operational từ 7 đến 11 tuổi.
 Giai đoạn vận hành hoàn chỉnh/formal operational từ 11 đến 15 tuổi.
Chia ra bốn giai đoạn khác nhau nhưng những giai đoạn này không đứt đoạn một cách rõ rệt
mà diễn ra một cách liên tục và liền lạc. Mặt khác, số tuổi của mỗi giai đoạn chỉ là phỏng
chừng, tùy theo những yếu tố nội tại cũng như yếu tố môi trường, mỗi trẻ có thể trải qua
từng giai đoạn ở tuổi khác nhau. Ngoài ra các giai đoạn có thứ tự cố định và áp dụng chung
cho toàn thể nhân loại, không phân biệt chủng tộc, điều này có nghĩa sự hình thành trí khôn
phải bắt đầu bằng giai đoạn xúc giác và cử động, sau khi phát triển xong giai đoạn một mới
có thể tiến lên giai đoạn hai, rồi mới đến giai đoạn ba, và sau cùng là giai đoạn bốn. Mặc dù
đa số mọi người đều trải qua bốn giai đoạn phát triển kể trên, một thiểu số không hoàn tất
được đầy đủ và sự phát triển trí khôn có thể ngừng lại ở bất cứ giai đoạn nào.
1. Giai đoạn giác quan và cử động (sơ sinh, khoảng 0 đến 2 tuổi):

Trí khôn của đứa trẻ được hình thành qua ngũ giác (nhìn, nghe, nếm, ngửi, sờ) và cử động
(nắm, kéo, đẩy, đạp…). Ở cuối giai đoạn này đứa trẻ dần dần xây dựng được sự hiểu biết về
vật thể thường trực/object permanence. Vật thể thường trực là vật thể đứa trẻ hiểu được, nhận
22

ra được trong trí não mặc dù không thấy vật thể đó trước mắt. Trong khoảng 4-5 tháng đầu,
đứa trẻ chỉ nhận ra một vật thể khi toàn bộ vật thể đó xuất hiện trước mắt: đưa một món đồ
chơi ra trước mắt, đứa bé sẽ nhìn và có thể vươn tay muốn nắm lấy, nhưng lấy món đồ chơi
ra khỏi tầm mắt đứa bé không có một cử chỉ hay dấu hiệu nào chứng tỏ nó còn biết đến vật
thể đó, vật thể hoàn toàn biến mất trong trí khôn của nó. Đến khoảng 6-7 tháng tuổi, đứa trẻ
chỉ cần thấy một phần của vật thể cũng nhận biết được vật thể đó, nhưng nếu cất vật thể đi
thì nó sẽ quên ngay. Đây là dấu hiệu của thiếu vật thể thường trực trong trí khôn của đứa
trẻ. Một thí dụ minh chứng lý thuyết này là quan sát của Piaget đối với con gái của chính
ông, Jacqueline lúc 7 tháng tuổi:
“…Jacqueline cố nắm lấy một con vịt bằng nhựa đặt trên tấm chăn của nó. Nó gần nắm
được con vịt, nhưng nó ngọ ngoạy và con vịt rơi xuống bên cạnh nó. Mặc dù con vịt rơi
xuống rất gần tay Jacqueline nhưng lại khuất sau một nếp gấp của cái chăn. Mắt Jacqueline
nhìn theo con vịt rơi, nó còn đưa tay theo con vịt. Nhưng ngay khi con vịt biến mất,
Jacqueline không làm gì nữa hết! Không tìm con vịt dưới nếp chăn mặc dù việc này rất dễ
(nó vặn cái chăn một cách máy móc nhưng hoàn toàn không có chủ đích tìm kiếm con vịt)…
Tôi thử để cho Jacqueline thấy con vịt vài lần. Mỗi lần nó đều cố nắm lấy nhưng khi nó gần
chạm được vào con vịt tôi lại bỏ nó xuống bên dưới cái chăn trước mắt Jacqueline. Nó lập
tức rút tay lại và bỏ cuộc… Mọi việc diễn ra như thể đứa trẻ tin rằng vật thể được luân phiên
làm ra và không làm ra…” (Piaget, 1963).
Đến khoảng 18 tháng tuổi, khả năng có được vật thể thường trực bắt đầu hình thành: trước
mắt đứa trẻ, bỏ món đồ chơi vào một cái hộp, đặt hộp dưới một cái chăn, rồi lén không cho
đứa trẻ thấy, lấy món đồ chơi ra khỏi hộp, cất hộp trở lại dưới cái chăn. Sau đó lấy hộp ra
đặt trước mặt đứa trẻ, nó lập tức mở hộp và khi không thấy món đồ chơi trong hộp, nó biết
lật tấm chăn lên để tìm mặc dù không thấy món đồ chơi bị lấy ra khỏi hộp.
Song song với vật thể thường trực là sự hình thành của ngôn ngữ. Vật thể thường trực rõ

nét dần và đứa trẻ không còn phải lệ thuộc vào sự hiện diện của vật thể để có những hoạt
động liên quan đến vật thể: nó bắt đầu có thể nghĩ về vật thể, tức là thay thế sự hiện diện
thực của vật thể bằng biểu tượng/symbol của nó trong trí não và diễn tả ra bằng ngôn ngữ tức
là bằng những ký hiệu/sign chấp nhận bởi mọi người chung quanh.
2. Giai đoạn tiền vận hành (ấu thơ, khoảng 2 đến 7 tuổi):
Khả năng suy nghĩ và diễn tả của đứa trẻ tiếp tục phát triển qua biểu tượng và ký hiệu. Tuy
nhiên thế giới của đứa trẻ vẫn xoay quanh cái tôi chủ quan/egocentric dựa vào trực giác, nặng
tính cách cụ thể và tuyệt đối, chưa hiểu được lý luận và cách vận hành của vật thể (chính vì
vậy Piaget đặt tên giai đoạn này là tiền vận hành), chưa phân biệt được ý nghĩ và hiểu biết
của người khác có thể khác với bản thân nó. Thí dụ khi đứa trẻ khóc đòi được bế thì nó
không thể hiểu được tại sao người lớn lại có thể nghĩ khác và không chịu bế nó lên.
23

3. Giai đoạn vận hành đơn giản (trước dậy thì, khoảng 7 đến 11 tuổi):
Lần đầu tiên đứa trẻ hiểu được logic vận hành của sự vật. Ý nghĩ không còn bị chi phối
hoàn toàn bởi trực giác và đứa trẻ có thể dùng trí khôn để giải quyết được những vấn nạn
mà nó có kinh nghiệm (cụ thể). Thí dụ khi được hỏi A cao hơn B, B cao C, vậy A và C ai
cao hơn ai? Đứa trẻ có thể suy nghĩ trong đầu và cho câu trả lời đúng (ở giai đoạn tiền vận
hành nó cần những vật thể cụ thể thí dụ những con búp bê, để so sánh và tìm ra giải đáp cho
câu hỏi này). Cũng trong giai đoạn này, đứa trẻ bắt đầu hiểu được ý nghĩ khác biệt của
người khác và ngôn ngữ của nó càng ngày càng có chức năng xã hội và truyền thông.
4. Giai đoạn vận hành hoàn chỉnh (dậy thì và trưởng thành, từ 11 đến 15 tuổi trở
lên):
Đứa trẻ bắt đầu xây dựng được khả năng lý luận về những sự kiện nó chưa hề có kinh
nghiệm. Thí dụ nếu được hỏi “Nếu người ta có cánh thì sao?” Nó có thể trả lời “Hết kẹt xe”,
hoặc “Tai nạn thì nguy hiểm lắm”, hoặc “Không ai phải nhờ ai chở ”,v.v… Đứa trẻ còn
trong giai đoạn vận hành đơn giản sẽ trả lời “Làm sao người có cánh được?” Hoặc “Cánh
mọc chỗ nào?” vì nó chưa biết lý luận về những kinh nghiệm mà nó không có. Ở đầu giai
đoạn này ý nghĩ của đứa trẻ có khuynh hướng quay trở lại xoay quanh cái tôi chủ
quan/egocentric của giai đoạn tiền vận hành tức là không chú ý đến nhu cầu, ý thích, lập

luận… của bất cứ ai ngoài chính bản thân nó.
ỨNG DỤNG TRONG TƯ VẤN TÂM LÝ
Mặc dù ảnh hưởng chính, và rất lớn, của Piaget nằm trong lĩnh vực giáo dục, nhất là giáo
dục mẫu giáo và tiểu học, những phát kiến của Piaget cũng được dùng hiệu quả trong tư vấn
tâm lý, đặc biệt là tư vấn cho cha mẹ và thày cô giáo trong những trường hợp khó khăn về
dạy dỗ trẻ em. Thí dụ: nhiều cha mẹ và thày cô giáo trừng phạt trẻ em vì thói xấu bướng
bỉnh, cãi, không nghe lời người lớn của một số trẻ… trong khi đó có thể chỉ là ứng xử bình
thường trong thời gian đứa trẻ chịu ảnh hưởng của lối suy nghĩ lấy cái tôi làm trung
tâm/egocentric, nghĩa là nó không có khả năng hiểu được tại sao người khác lại có ý muốn, tư
tưởng, ý thích, lập luận… trái với tư tưởng, ý thích, lập luận duy nhất hiện hữu và đúng đắn
là tư tưởng, ý thích, lập luận… của bản thân nó. Quá trình tư vấn áp dụng tư tưởng Piaget sẽ
giúp cha mẹ và thày cô giáo từ bỏ được những biện pháp trừng phạt vô ích và tập trung vào
việc giúp đứa trẻ vượt qua được giai đoạn egocentric một cách suông sẻ.
Một thí dụ khác: người ta thường quan tâm về “tội” nói dối của trẻ em. Piaget giúp chúng ta
hiểu được ý nghĩa của nói dối trong suy nghĩ của đứa trẻ: ở giai đoạn trước 6-7 tuổi đa số trẻ
hiểu “nói dối” là nói điều gì hay chữ gì xấu, không tốt, người lớn không thích. Đến lứa tuổi
từ 6-7 đến 10 đa số trẻ hiểu “nói dối” là nói điều gì không thật bất kể những hệ lụy khác
khác liên quan đến hành vi “nói dối”. Thí dụ mẹ đi chợ về hỏi “bố đâu?” đứa trẻ nói “bố ở
trong phòng”, nhưng sự thực bố chạy ra tiệm bán đồ phụ tùng xe máy đầu ngõ để mua cái gì
24

đấy, đứa trẻ vẫn nghĩ là nó nói dối (mặc dù thực sự trong trường hợp này nó nói thật chứ
không phải nói dối) vì cái gì không đúng sự thật thì đều là nói dối. Chỉ sau 10-11 tuổi tức là
đến cuối giai đoạn vận hành đơn giản và đầu giai đoạn vận hành hoàn chỉnh trẻ em mới bắt
đầu hiểu được sự liên hệ giữa ý định và nói dối, tức là chỉ có nói dối khi có yếu tố cố ý tức là
có ý định lừa đảo. Ở giai đoạn này đứa trẻ mới bắt đầy xây dựng được ý niệm đạo đức theo
nghĩa luân lý và xã hội (trước đó đạo đức chỉ là đúng sai theo đánh giá của cha mẹ). Người
làm công tác tư vấn áp dụng lý thuyết của Piaget có thể giúp cha mẹ và thày cô giáo tìm
được phương pháp giáo dục, uốn nắn, kỷ luật thích hợp để đứa trẻ phát huy được đạo đức xã
hội và tự nó phát triển được tính thật thà thẳng thắn là một trong những yếu tố rất quan trọng

giúp nó liên hệ được với mọi người chung quanh và thành công trong cuộc sống gia đình
cũng như xã hội. Một cách cụ thể, Piaget phân biệt hai lối phạt: phạt bắt đền/expiatory
punishment là hình phạt mạnh mẽ có mục đích gây ra đau đớn khó chịu khi đứa trẻ vi phạm
những điều cha mẹ ngăn cấm. Hình phạt bắt đền có ý nghĩa áp đặt độc đoán theo ngẫu hứng
của người có quyền lực (cha mẹ) và không có liên quan trực tiếp gì đến nội dung “tội” của
đứa trẻ, chỉ nhằm bắt nó phải trả một giá cho tội của nó để hy vọng nó sẽ nhớ và chừa. Thí
dụ: chơi xong vất đồ chơi lung tung, không chịu cất gọn ghẽ, mẹ nhắc hoài cũng không
nghe. Phạt bắt đền: cuối tuần không cho đi xem phim.
Loại trừng phạt thứ hai là phạt đối xứng/reciprocal punishment. Cách phạt này luôn luôn liên
hệ trực tiếp đến nội dung của “tội” và nhắm củng cố mối quan hệ hợp tác với người khác và
phát huy tinh thần trách nhiệm tự giác. Trong thí dụ đứa trẻ bừa bãi kể trên, phạt đối xứng là
cha mẹ cất đi, không cho đứa trẻ được chơi những đồ chơi mà nó vất bừa bãi.
Nhiều phụ huynh có thói quen nóng nảy đánh đập, chửi bới đứa trẻ khi nó phạm lỗi mà
không dạy cho đứa trẻ cách làm thế nào để đừng lập lại lỗi. Thí dụ đánh chửi đứa trẻ khi nó
đánh em mà không dạy nó làm thế nào để chơi với em cho thuận hòa vui vẻ. Lối trừng phạt
bắt đền này phần đông chỉ có mục đích thỏa cơn tức giận của phụ huynh và tai hại nhiều hơn
là làm lợi cho đứa trẻ.
ALBERT ELLIS (1913-2007) VÀ PHƯƠNG PHÁP TRI THỨC ỨNG
XỬ/COGNITIVE-BEHAVIORAL THERAPY
Tâm lý gia Mỹ gốc Do Thái, người đầu tiên đề ra phương pháp tâm lý trị liệu tri thức ứng
xử, phối hợp các lý thuyết về tri thức và về ứng xử của nhiều tác giả khác nhau, và là chủ
tịch viện Albert Ellis trụ sở tại New York. Năm 1982 Ellis được các tâm lý gia Mỹ và
Canada đánh giá là nhà tâm lý trị liệu có ảnh hưởng lớn thứ nhì trong lịch sử nhân loại (thứ
nhất là Carl Roger và thứ ba là Freud).
Về cơ bản Ellis là một nhà vô thần theo thuyết có thể/probabilistic atheism, nghĩa là mặc dù
thừa nhận ông không thể hoàn toàn tin là không có Thiên Chúa, ông cho rằng xác suất Thiên
Chúa hiện hữu quá nhỏ đến nỗi không đáng cho ông hay bất cứ ai để ý đến, và đức tin cuồng
tín vào tôn giáo là có hại cho con người. Vào thập niên 60, ông là một trong những người đề
25


ra phong trào cách mạng tình dục ở Mỹ, và từ quan điểm cho đồng tính luyến ái là một bệnh
của chính ông vào thập niên này, đến năm 1976 Ellis cho đồng tính luyến ái không tự nó
mang ý nghĩa xấu hay tốt như một số tôn giáo đã khẳng định. Khi về già, quan điểm vô thần
của Ellis trở nên mềm mỏng hơn và ông thừa nhận niềm tin vào một thượng đế nhân từ là
lành mạnh cho sức khỏe tâm lý của con người.
TRỊ LIỆU BẰNG CẢM XÚC VÀ ỨNG XỬ HỢP LÝ/RATIONAL EMOTIVE
BEHAVIORAL THERAPY (REBT):
Ellis gọi phương pháp tri thức ứng xử của ông là trị liệu bằng cảm xúc và ứng xử hợp lý
(CX&ƯXHL). Bắt nguồn từ mối bất mãn về tính chất dài dòng, mất thì giờ, kém hiệu quả
và cực kỳ phức tạp của phương pháp phân tâm mà ông đang áp dụng, và từ nhận thức bệnh
nhân phục hồi nhanh chóng khi họ thay đổi các nhận thức của họ về bản thân, về vấn nạn và
về thế giới. Ellis đưa ra một công thức hết sức giản dị để giải thích và điều trị các triệu
chứng tâm thần: ABC. A/activating event: sự việc xảy ra, B/belief: niềm tin về sự việc xảy ra,
và C/Consequences: những cảm xúc cũng như ứng xử gây ra bởi niềm tin đó. Sau khi một sự
kiện diễn ra, chính những niềm tin chủ quan của cá nhân, thường là sai lạc, bất hợp lý, vô
căn cứ, về sự kiện đó, gây ra những cảm xúc khó chịu và ứng xử sai quấy của cá nhân. Thí
dụ: cô X bất ngờ đi ngoài phố gặp anh bạn trai Y nhưng anh Y vô tình không nhìn thấy cô,
(sự kiện xảy ra A). Cô B nghĩ “hắn lờ mình đi” (niềm tin B). Từ niềm tin này cô có cảm xúc
tức giận và một tuần lễ liền cô tránh mặt anh Y (hậu quả C). Sự kiện cô X tránh mặt không
có lý do (gọi điện thoại cô không trả lời, đến nhà tìm cô không tiếp… có thể là sự kiện xảy ra
A làm cho anh Y nghĩ “chắc là cô ta có bạn trai khác rồi” (niềm tin B), anh đau khổ bỏ ăn bỏ
ngủ mấy ngày và suýt nữa nhảy xuống sông Tô Lịch tự trầm (hậu quả C).
Thí dụ khác: Ban đêm bà M đang ngủ bỗng nghe tiếng chim cú kêu (sự kiện A), bà nghĩ
“thôi chết rồi cú kêu là điềm xấu lắm đây” (niềm tin B). Bà lo lắng trằn trọc suốt đêm, sáng
hôm sau bà lôi ông dậy sớm bắt chở ra chợ mua vàng hương hoa quả sửa soạn đem ra chùa
nhờ sư thày cúng an sao giải hạn (hậu quả C).
Các hình thức suy nghĩ, diễn dịch sai về người và sự việc:
Ellis cho rằng con người nói chung ai cũng có một số khuynh hướng tự ti, bất kể chủng tộc,
văn hóa. Khuynh hướng này có ngay cả khi đứa trẻ được nuôi dưỡng trong gia đình lành
mạnh, tuy nhiên nó thường mạnh hơn khi người ta lớn lên trong hoàn cảnh gia đình không

lành mạnh, bị hành hạ ngược đãi hay xảy ra loạn luân. Bên cạnh yếu tố nội tại và gia đình
này, hoàn cảnh sống trong xã hội cũng có thể đóng góp vào khuynh hướng tự ti của con
người.
Khuynh hướng tự ti mạnh mẽ có thể làm cho con người suy nghĩ theo khuôn mẫu cứng
ngắc hoặc trắng hoặc đen (mình rủ cô ấy đi chơi cô ấy không đi tức là cô ấy không thích
mình); cường điệu: hay dùng những từ như “kinh khủng” “nhất định phải” “không thể khác

×