Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIEU LUAN TRIET HOC HAN PHI VA VAN DUNG TRONG THOI KY CONG NGHIEP HOA HIEN DAI HOA DAT NUOC GIAI DOAN HIEN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.7 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Phương Đông được coi là một trong những cái nơi về văn hóa và triết học
trên thế giới, trong đó Ấn Độ và Trung Hoa là hai trung tâm của cái nôi ấy và đã
để lại cho đời sau rất nhiều những giá trị tư tưởng, văn hóa quý giá.
Tư tưởng Triết học có hệ thống của Trung hoa ra đời trong bối cảnh khi
mà mẫu thuẫn về quyền lợi kinh tế- xã hội mà chủ yếu là quyền sở hữu về đất
đai, sự phân hóa giàu nghèo…giữa giai cấp địa chủ và giai cấp nô lệ trong thời
Đông Chu (770- 221 tr.CN) lên đến đỉnh điểm. Yêu cầu cấp bách của lịch sử là
phải xóa bỏ chế độ đó để chuyển sang một chế độ phong kiến phù hợp hơn,
nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển. Trong bối
cảnh đó, xã hội đã sản sinh ra nhiều nhà tư tưởng lớn và các trường phái triết
học hồn chỉnh. Đã có 103 học phái và 06 phái (Nho, Mặc, Đạo, Danh, Pháp và
Âm Dương) ra đời, trong đó có ảnh hưởng lớn nhất là 03 phái: Nho, Mặc và
Đạo.
Trải qua các triều đại, từ thời Tần Hán, với xu hướng hoặc tôn Nho, hoặc
sùng Đạo hoặc sùng Phật, với sự xuất hiện Kinh học do Nho làm chủ, Huyền
học do Đạo làm chủ và Phật học do Phật làm chủ để tập hợp các học phái. Cho
đến, từ thời Tống trở về sau, xã hội phong kiến Trung Quốc bước vào hậu kỳ, tư
tưởng Triết học Trung Quốc đã trải qua nhiều thăng trầm, thay đổi…Nho học lại
được đề cao và phát triển lên cực đỉnh trong thời Tống, mà biểu hiện của nó là
sự dung hợp của đạo Phật vào Nho…
Trong đó không thể không nhắc đến tư tưởng triết học Hàn Phi Tử là một
tác phẩm độc đáo, và là công trình quan trọng nhất của chính trị học Trung Hoa,
là một trong những tác phẩm đầu tiên của chính trị học thế giới. Về tư tưởng nó
xác lập trường phái pháp gia, một trong bốn trường phái lớn nhất của Trung
Quốc (Nho, Pháp, Mặc, Đạo). Nó là một trong những cơng trình cực kỳ hấp
dẫn, viết cách đây 2.300 năm nhưng ai cũng giật mình về tính thời sự của nó, ta
có cảm tưởng tác giả là người hiện nay, nói bằng ngơn ngữ và cách lý luận hơm
nay về cách quan hệ giữa người với người, không chỉ ở Trung Hoa mà cả thế
giới, trong đó có Việt Nam. Đó là một con người có đầu óc lỗi lạc của Trung
Hoa và của xã hội loài người. Ngày nay chúng ta nghiên cứu tư tưởng Hàn Phi


vẫn thấy những tác nhân hợp lý của nó, vẫn đầy tính thực tiễn trong đời sống xã
hội, trong ứng xử giữa người với người, trong quản lý và thuật trị mới. Tư tưởng
của ơng tồn tại lâu như vậy đó là vì nó có tính giáo dục sâu sắc, dạy đời, dạy
người sống tốt đời đẹp đạo, có lý có tình, trên cơ sở vận dụng một cách linh
hoạt vào thực tiễn cuộc sống.
1


NỘI DUNG
1. Sơ lượt về tiểu sử của Hàn Phi Tử
Hàn Phi Tử (280 - 232 TCN). Tiểu sử của ông đã được Tư Mã Thiên để
lại trong bộ sử ký. Hàn Phi là công tử nước Hàn nhưng không phải là người
được nối ngơi. Hồn cảnh ấy đủ giúp Phi ngay từ bé đã thấy quan hệ vua tôi và
cách trị nước. Sau đó ơng theo học Tn Tử, nhà học giả lớn nhất thời bấy giờ.
Hàn Phi tiếp thu Nho giáo, do đó rất thơng thạo về lịch sử.
Cùng học có Lý Tư sau này là thừa tướng nước Tần. Hàn Phi học rộng, biết sâu,
yêu nước, muốn nước Hàn vững mạnh bằng chủ trương pháp trị, nhưng khơng
thành. Ơng viết sách bàn về việc trị nước, sách được dâng lên Tần Thủy Hồng.
Vua Tần Thủy Hồng vơ cùng khâm phục nói: "Ta được làm bạn với người này
thì có chết cũng khơng uổng". Hàn Phi được giao làm sứ giả sang nước Tần làm
thuyết khách, để cứu nước Hàn khỏi bị nước Tần tiêu diệt.
Tình hình nước
Hàn lúc này đã tuyệt vọng. Không ai nghe lời Hàn Phi khi ơng dâng các bài
nghị luận của mình. Bấy giờ Tần sắp đem quân đánh Hàn làm thế nào để cứu
được nước Hàn? Phi dâng vua Tần bài Bảo tồn nước Hàn, ra sức thuyết phục
vua Tần đừng đánh nước Hàn. Vì bài ấy Hàn Phi bị Lý Tư cho là kẻ chỉ mưu lợi
cho Hàn mà làm hại nước Tần. Ơng bị giam vào ngục, biết tình thế không thể
nào cứu được nước Hàn. Phi gửi bài lần đầu yết kiến vua Tần. Vua Tần xem
xong rất phục, ra lệnh thả ngay Hàn Phi. Nhưng Lý Tư vốn ghen cái tài của
người bạn mà ông ta thừa hiểu là con người giỏi nhất về chính trị của thời đại,

nên bắt Phi uống thuộc độc chết trong ngục. Phi đón cái chết thế nào cũng đến
với kẻ sĩ biết đề cao pháp luật và thuật trị nước. Ông gửi tất cả tâm hồn và tinh
lực vào tác phẩm Hàn Phi Tử mà ông tin là sẽ sống mãi với đời.
2. Tư tưởng chính trị pháp trị của Hàn Phi và giá trị lịch sử của nó
Vào thời Xuân Thu - Trung Quốc chia ra hàng trăm tiểu quốc, quan hệ
giữa quý tộc và nhân dân lao động là trực tiếp, xã hội chia ra đẳng cấp, tôn ty rõ
ràng, sự cai trị dựa trên thứ bậc. Pháp luật chỉ áp dụng cho dân thường, còn đối
với đại phu trở lên nếu có sai lầm chỉ khiển trách mà khơng trừng phạt. Việc
nắm lấy hình phạt và vận dụng nó là quyền của quý tộc, dân chỉ biết vâng theo.
Cái đó gọi là cai trị theo nhân trị. Nhưng nó tất yếu dẫn đến sự hủ bại của tầng
lớp thống trị, dân ốn và nước mất. Trước tình hình ấy xuất hiện u cầu nước
giàu dân mạnh để thơn tính các nước khác, làm bá vương, muốn nước giàu binh
mạnh phải đề cao pháp luật, đề cao kẻ chiến đấu và sản xuất, hạ thấp địa vị quý
tộc. Trong Thiên Hữu Độ ơng nói: "Khơng có nước nào ln mạnh, cũng không
2


có nước nào ln yếu, hễ những người thi hành pháp luật mạnh thì nước mạnh,
cịn hễ những người thi hành pháp luật yếu thì nước yếu".
Quan trọng là người đầu tiên làm cho nước Tề TCN sáu thế kỷ trở thành
bá khẳng định: Pháp luật là cái quy tắc của thiên hạ, lấy pháp luật mà trị tội thì
dân chịu chết khơng ốn, lấy pháp luật mà định cơng lao thì dân được thưởng
mà khơng cho là ân đức. Cho nên quan lại sai khiến dân mà có pháp luật chống
nhau với quan lại. Người dưới lấy pháp luật phục vụ người trên, bọn dối trá
không thể lừa chủ được, bọn ghen ghét khơng thể có cái hung ác, bọn xu nịnh
khơng thể khoe cái khéo, ngồi ngàn dặm không dám làm điều trái.
Đến đời Chiến Quốc, Thương Ưởng ở nước Tần triều đại Tần Hiếu Công
đề cao pháp luật. Luật pháp có từ trước đó nhưng chỉ có tầng lớp quan lại biết
đến, nhưng đến đời Thương Ưởng thì nhà nước cho cơng bố rộng rãi và cơng
khai cho mọi người biết trên thân của đỉnh đồng. Pháp luật là mệnh lệnh ban bố

rõ ràng ở nơi của cơng, hình phạt chắc chắn đối với lịng dân, thưởng cho những
kẻ cẩn thận giữ pháp luật, phạt những kẻ làm trái lệnh. Ông đặt ra quy chế tố
cáo lẫn nhau để xét thực sự, cho các nhà kết thành từng nhóm năm nhà, mười
nhà cùng nhau chịu tội, thưởng hậu mà chắc chắn, hình phạt nặng và dứt khốt.
Sử ký Tư Mã Thiên dùng: "Ưởng sai chia quân thành từng nhóm, năm hộ, mười
hộ, phải kiểm sốt nhau vì bị giàng buộc vào nhau. Ai không tố cáo kẻ gian thì
bị chém ngang lưng, ai tố cáo kẻ gian thì cũng được thưởng ngang với chém đầu
quân địch; người che giấu quân gian bị phạt ngang với người đầu hàng qn
địch. Gia đình có hai người con trai trở lên mà khơng chia của riêng thì bắt đánh
thuế gấp đơi. Ai có cơng thì cứ theo bậc mà thưởng, ai đánh nhau về việc riêng
thì đều bị hình phạt lớn hay nhỏ, tùy theo nặng hay nhẹ mà trị. Ai ra sức vào
nghề nghiệp gốc, cày cấy, dệt vải, cung cấp nhiều lúa thì được tha khỏi sưu
dịch. Trái lại ai theo cái lợi trên ngọn (ý nói bn bán) cùng những người lười
và nghèo thì đều bắt cùng với vợ con làm nô. Định cấp bậc tước trật cao thấp rõ
ràng, ghi tên các ruộng vườn, thần thiếp áo quần theo số liệu từng nhà. Ai có
cơng thì hiển vinh, ai khơng có cơng thì tuy giàu có cũng không được vinh hoa.
Như vậy nguyên lý cơ bản của biện pháp Thương Ưởng: Mọi người bình đẳng
trước pháp luật, lấy thưởng phạt làm nguyên lý trị nước, không cần giáo dục, vì
vậy dân chúng dùng sức vất vả mà không nghĩ ngợi, đuổi theo quân định gặp
nguy hiểm mà không lùi. Nhờ vậy nước giàu, quân mạnh. Đây là mặt tích cực
mà chúng ta cần nghiên cứu phép trị nước, an dân. Có thể nói nó đã tiến bộ so
với lúc bấy giờ. Phái trọng thuật do Thân Bất Hại đề ra. Sử ký Tư Mã Thiên
chép: "Thân Bắt Hại là người đất Kinh, vốn là một viên quan nhỏ ở nước Trịnh,
nhờ có học thuật nên thành thân cận với Hàn Chiều Hầu, Chiêu Hầu dùng Thân
3


Bất Hại làm tướng quốc. Thân Bất Hại bên trong lo sửa đổi chính sự, giáo lễ,
bên ngồi lo đối phó với chư hầu suốt mười lăm năm cho đến khi Thân Tử mất,
nước được bình n, binh mạch, khơng nước nào xâm lấn nước Hàn. Trong

thuật là đề cao mưu thuật chính trị là biết cách làm thế nào để ông vua điều
khiển được quần thần, khống chế được các quan. Thưởng phạt theo chức trách,
làm vượt chức trách cũng bị phạt.
Phái trọng thế do Thận Đáo đề ra. Trọng Thế là đề cao địa vị quyền lực
của vua. Tư tưởng này của Thận Đáo trái với quan điểm của Khổng - Mạnh, vì
hai ơng này cho rằng vua là người có tài năng đức độ nhất (Đức Trị của Nho
giáo). Thận Đáo cho rằng không cần đức lắm vì ít có người tài đức vẹn tồn (xã
hội đang đại loạn) mà chỉ cần tài đức trung bình trở lên nhưng phải cho họ có
thế. Ơng ví dụ: Con rồng sở dĩ là rồng vì nó ở trên cao, có mây ngũ sắc nâng đỡ,
nên nó rất oai phong và được kính nể, cịn nếu bị dưới đất thì nó chỉ là con rắn
thường, khơng ai biết đến cũng giống con giun vậy. Tài đức như Khổng Tử mà
còn khơng được làm vua, trong khi đó tài đức vua nước Lỗ kém xa Khổng Tử
nhưng lại làm vua. Như vậy thế là rất quan trọng, muốn cai trị nước phải có
quyền thế, có thực lực. Thân Tử nói Nghiêu mà là kẻ thất phu thì khơng cai
quản được ba người, cịn Kiệt làm thiên tử thì có thể làm loạn cả thiên hạ. Ta
căn cứ vào đó thì biết cái thế và địa vị là đủ để cậy nhờ, cịn sự khơn ngoan sáng
suốt khơng đủ cho ta hâm mộ.
Hàn Phi Tử là người kết hợp cả ba phái: Pháp - Thuật - Thế. Trong hoàn
cảnh xã hội lúc đó Phi đau xót: Các vua chúa, trước hết là nước Hàn chẳng lo
soi sáng pháp chế, nắm lấy cái thế để chế ngự bầy tôi, lo cho nước giàu dân
mạnh, dùng những người tài giỏi, trái lại họ nghe theo bọn sâu mọt làm hại
nước. Ơng có sẵn kiến thức vô cùng uyên bác để tiếp thu Tuân Tử, ơng kiểm
sốt lại tình hình chính trị của các thời đại, lý giải tại sao nước này mạnh, nước
kia yếu, thời kỳ này cường thịnh thời kỳ kia suy đồi. Ông thấy lý do là rất đơn
giản. Những người nhà vua cần dựa vào để bảo vệ đất nước là những người tài
giỏi, binh sĩ, người cày thì vứt bỏ. Trái lại nhà vua lo nuôi bọn lừa dối, làm hại
đến nước, không ai chịu xây dựng một kỷ cương, pháp luật để làm cho dân giàu
nước mạnh và chỉ vâng theo ham thích nhất thời.
Càng hiểu được sự thực
ơng càng thất vọng. Ơng phẫn uất trong cảnh cơ độc, thấy cái khó trong việc nói

sự thực. Phi là người có tật, ơng nói ngọng - khơng thành cơng trong việc nói,
ơng dốc hết tâm trí vào việc viết, mong để lại cho đời sau các học thuyết mà ông
tin là sẽ làm cho dân yên nước mạnh.

4


Việc pháp gia chọn phương pháp - pháp trị không phải xuất phát từ ý
muốn chủ quan mà xuất phát từ những tiền đề lý luận, tiền đề lịch sử xã hội
quan niệm về đạo đức luân lý nhất định. Đó là bản tính ác của con người được
khởi xướng từ Tuân Tử mà Hàn Phi đã vận dụng phép trị nước của mình.
Hàn Phi lý luận: Sự thay đổi về dân số và số lượng của cải trong xã hội.
Đàn ơng khơng cần cày cấy vì đã có sản phẩm cây cỏ đủ ăn, đàn bà không cần
dệt vải vì đã có lơng chim, da thú để mặc, lúc đó người ít, của cải dư thừa, mọi
người khơng tranh giành nhau nên không cần thưởng phạt, lúc ấy con người cai
trị tự nhiên. Khi con người đã đông (chúng ta vẫn nói người khơn, của khó) của
cải ít đi, mọi người làm việc vất vả mà vẫn không đủ ăn, cho nên phải tranh
giành nhau, cướp giật, gây chiến tranh... lúc này phải cần đến pháp luật.
Trong pháp luật thì thưởng phạt là cơng cụ quan trọng nhất, dân dù đơng
bao nhiêu cũng trị được đó là lợi thế của pháp trị so với nhân trị.
Ở thời Xuân Thu - Chiến quốc Pháp gia đã hình thành nên 4 phái cơ bản:
Phái Trọng Thực của Lý Khôi, phái Trọng Thế của Thận Đáo, phái Trọng Thuật
của Thân Bất Hại, phái Trọng Pháp và biến pháp của Thương Ưởng.
Tư tưởng pháp trị được hình thành bởi Hàn Phi. Ơng đã tập hợp ba quan
điểm Pháp - Thế - Thuật thành một học thuyết có tính hệ thống trên nền tảng
học thuyết về "đạo", "vô vi" của Lão giáo, tư tưởng "chính danh", "tơn qn"
của Nho gia. Trong đó "Pháp" là nội dung của chính sách cai trị, "thế" và
"thuật" là phương tiện để thực hiện chính sách đó.
Pháp gia kế thừa tư tưởng "chính danh" của Nho gia ở chỗ nếu Nho gia
"chính danh" là danh và thực phải đi với nhau mỗi người đều phải làm tròn bổn

phận của mình, phải có suy nghĩ, việc làm, hành động... Đúng với danh phận.
Theo Nho giáo có "Nhân", có "Lễ" và "chính danh" thì là tốt, xã hội ổn định.
Pháp gia kế thừa "chính danh" trên cơ sở danh và thực phải đi đôi với
nhau. Nhưng ai ở phận nào chỉ được làm trịn ở phận ấy, khơng được làm q
bổn phận của mình, ai làm khơng được hay q bổn phận đều bị phạt chỉ được
làm đúng chức trách được giao. Pháp gia kế thừa tư tưởng "vô vi" của Lão Tử ở
nhiều lĩnh vực trong pháp, Thuật, Thế. Theo Lão Tử "Đạo" "Vô vi" là không,
hữu là cố, vô là khơng và ở giữa khơng và có. Tư tưởng của Lão Tử vĩ đại ở
chỗ. Cai trị, mà không gì khơng cai trị cả thế mới là cai trị. Pháp gia kế thừa
trong "thế" tức là uy quyền, thế lực làm cho người khác phải sợ đó là cái "Vơ".
Cịn "thuật" là mưu mẹo là cái giấu kín ở trong bụng khơng để người khác biết
đó cũng là cái "Vô" trong thuật.
5


Pháp Hàn Phi kế thừa tư tưởng của Lão Tử trong thi hành pháp luật. Lão
Tử nói trị nước như cá củ nhỏ nếu cứ lật đi lật lại thì cá sẽ nát. Phép trị nước
nếu thay đổi liên tục thì dân khơng biết đâu mà theo, nước sẽ loạn.
Tư tưởng chính trị cơ bản của Hàn Phi có thể tóm tắt theo những nét
chính sau đây:
2.1. Tư tưởng coi trọng pháp luật
Theo Hàn Phi, việc dùng pháp luật là tất nhiên bởi vì bản tính người
khơng phải là thiện, số người thiện tuy có nhưng ít, chờ người ta làm điều thiện
không phải là cách cai trị hiệu quả, vừa phải dùng pháp luật để khiến người ta
không làm điều ác. Hàn Phi khẳng định tầm quan trọng của pháp luật: "Bỏ pháp
luật và thuật trị nước mà lấy cái tâm để trị thì Nghiêu cũng khơng chỉ chỉnh đốn
được một nước. Bỏ cái quy, cái củ mà lấy ý mà đo đạc bừa thì Hề Trọng (quan
coi xe cộ của Hạ Vũ) không thể làm thành một bánh xe. Bỏ thước tấc để so sánh
cái dài, cái ngắn, thì Vương Nhĩ (tên người vợ khéo ngày xưa) khơng thể nêu
được chỗ ở giữa. Nhưng nếu một ông vua trung bình nắm lấy pháp luật mà trị

nước, một người thợ vụng giữ cái quy, cái củ, cái thước, cái tấc, thì vạn điều
khơng sai một điều. Kẻ làm vua chúa nếu có thể bỏ được các điều mà người giỏi
cũng không làm được, để giữ cái mà người vụng làm vạn điều khơng sai một thì
sức người dùng được hết mà công danh được xác lập" [4, tr. 252] pháp luật phải
công khai: "Pháp luật là cái chép để ở trong sách vở, đặc nơi cửa công, ban bố
cho trăm họ". Đã lập pháp luật thì cả nước đều biết, không ai được tự ý thay
đổi: "Pháp luật không hùa theo người sang. Sợi dây dọi khơng uốn mình theo
cây gỗ cong. Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không thể từ, kẻ dũng
cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái
đúng không bỏ kẻ thất phu. Cho nên đều sửa chữa được sự sai lầm của người
trên, trị được cái gian của kẻ dưới, trừ được loạn, sửa được điều sai, thống nhất
đường lối của dân khơng gì bằng pháp luật" [4, tr. 62].
Có pháp luật rồi để khen thưởng hay trừng phạt thì phải xét cái sự thực đã
làm ra (hình) và tên gọi của cơng việc (danh) có phù hợp với nhau khơng. Điều
này đã được Hàn Phi nêu rõ: "Bậc làm vua muốn cấm chuyện gian tà thì phải
xét kỹ tên gọi và việc làm xem có hợp với nhau khơng, phải xét xem việc làm
có hợp với lời nói khơng. Bằng lời trình bày lời nói mà giao cơng việc, rồi căn
cứ vào cơng việc mà xét kết quả. Nếu kết quả phù hợp với việc làm, việc làm
phù hợp với lời nói thì thưởng. Nếu kết quả không phù hợp với việc làm, việc
làm khơng phù hợp với lời nói thì phạt" [4, tr. 65].
6


Ông vua có hai cái quyền thưởng và phạt Hàn Phi gọi đó là "hai cái cán"
mà ơng vua khơng thể trao cho ai. Cái thế của ông vua là ở đấy. Ông vua phải
thưởng, phạt nghiêm mà giữ lấy cái thế của mình, ơng nói: "Bậc vua sáng suốt
sở dĩ lãnh đạo và chế ngự được bầy tôi chẳng qua chỉ nhờ hai cái cán mà thôi.
Hai cái cán ấy là hình và đức" [4, tr. 63]. Hàn Phi đề cao đến mức tuyệt đối hóa
việc thưởng phạt: "Giết chóc gọi là hình phạt, khen thưởng gọi là ân đức. Kẻ
làm tơi sợ bị giết, bị phạt mà có lợi ở chỗ được khen thưởng. Cho nên kẻ làm

vua nếu tự mình dùng hình phạt và ân đức thì bầy tôi sợ cái uy của nhà vua mà
chạy theo cái lợi của họ" [4, tr. 63]. Ơng cịn so sánh nếu quyền uy này lọt vào
tay của bề tôi, khơng khác nào hổ trao nanh vuốt cho chó, khi đó hổ lại phải
phục tùng chó. Ơng dùng hình ảnh rất cụ thể, dễ hiểu để nói lên triết lý cuộc
sống. Ơng vua dùng hình phạt và ân đức để khống chế bầy tơi, nay ơng vua bỏ
hình phạt và ân đức của mình để trao cho bầy tơi sử dụng thì ơng vua sẽ bị bầy
tơi khống chế. Ơng đưa ra hai ví dụ trong lịch sử để khẳng định hình và đức
phải đi đơi với nhau, người cầm quyền phải giữ được tôn hai quyền ấy nếu
không sẽ bị mất quyền lực.
Ví dụ thứ nhất là vua để cho người khác lấn mình việc khen thưởng:
"Điền Thường ở trên thì xin trước lộc để ban cho quần thần, ở dưới làm những
đấu hộc lớn hơn đấu hộc thưởng để làm ơn với trăm họ (Điền thường cho vay
thì dùng đấu lớn, người ta trả thì đong bằng thứ đấu nhỏ nên người Tề quý ông
ta). Thế là Tề Giản Công đã bỏ mất ân đức mà Điền Thường lại dùng cái ân đức
ấy. Cho nên Từ Giản Công bị giết.
Ví dụ thứ hai là một ơng vua bng lơi việc kỷ luật, trao vào tay người
khác quyền này mà bị cướp mất ngơi báu: Tử Hãn nói với vua Tống: "Việc khen
thưởng và tăng cấp là điều dân chúng thích xin bệ hạ tự làm lấy. Việc giết chóc
và dùng hình phạt là điều dân chúng ghét, thần xin nhận làm". Do đó, vua nước
Tống bỏ mất hình phạt để giao cho Tử Hãn sử dụng. Kết quả vua Tống bị cướp
ngôi. Điền Thường chỉ dùng ân đức mà Giản Cơng bị giết, Tử Hãn chỉ dùng
hình phạt mà vua Tống bị cướp ngôi. Như vậy pháp là căn cứ khách quan để
định rõ danh phận, phải trái, cơng tội từ đó mọi người biết rõ bổn phận của
mình tất cả cứ đúng mực thước, đúng pháp luật mà làm thì xã hội ổn định.
2.2. Tư tưởng trọng thuật
Hàn Phi phê bình Thương Ưởng rằng, chỉ có pháp luật nhưng khơng có
thuật thì khơng biết rõ kẻ gian. Dù pháp luật có tơ vẽ giải thích ra rõ mười phần,
người làm tơi vẫn ngược lại dùng nó để làm chỗ dựa để mưu đồ lợi riêng... Do
vậy người làm chúa phải có "thuật", theo Hàn Phi "Thuật" là cái nằm kín đáo
7



trong bụng, để so sánh các đầu mối của sự việc và ngấm ngầm cai trị các bề tôi.
Dùng "Thuật" thì làm cho kẻ thân gần gũi cũng khơng ai biết được. Dùng
"Thuật" để biết tính trung hay gian của "bầy tơi", do đó mà điều khiển được
"bầy tơi", "bầy tơi" khơng làm hết trách nhiệm của mình hay vượt quá trách
nhiệm của mình đều bị xử phạt. Dùng "Thuật" cũng biết được "cơng", "danh",
"lời nói", "việc làm" của "quần thần". Những cái đó khơng xứng với nhau cũng
bị phạt. Thuật còn là sử dụng nhân tài của các bậc đế vương. Thực chất "thuật"
của Hàn Phi chỉ là thủ đoạn của "người làm vua" dùng để điều khiển cho các
quan lại phải giữ gìn pháp luật và tuân theo mệnh lệnh. Nhưng thuật của Hàn
Phi là phải đi kèm với tính chất và hiệu lực của pháp luật.
Theo Lão Tử: Thuật vô vi là lý thuyết của ông. Nhưng Đạo đức kinh của
Lão Tử thuần túy là tác phẩm tư biện, Hàn Phi đã biến thành tác phẩm thuần túy
thực dụng, chứa đựng tồn mánh khóe mưu mơ. Đây cũng là đóng góp riêng
của ơng về thuật trị nước. Hàn Phi chỉ rõ "vô vi" là danh từ kép "cái làm của cái
vơ", cái vơ cũng khơng có gì bí hiểm, đó là cái lẽ tự nhiên, khách quan của sự
vật, do đó mà thực tế có vẻ như khơng làm cái gì hết. Con người là ích kỷ, ham
lợi, sợ trừng phạt đó là cái lẽ tự nhiên. Con người "vô vi" chấp nhận các quan hệ
khách quan, khơng việc gì chống lại nó. Anh ta đạt đến cái lợi của mình bằng
cách sử dụng các quan hệ ấy theo lợi ích của mình. Hàn Phi viết: "Trời có cái lẽ
tự nhiên của nó, con người có cái lẽ tự nhiên của nó. Mùi thơm, vị ngon, rượu
nồng, thịt béo làm ngon miệng nhưng sinh bệnh... cái quyền khơng nên lộ ra,
bản chất của nó là vơ vi. Bậch thánh nhân nắm lấy cái chủ yếu, bốn phương đến
phục dịch. Mình hư tâm (khơng có thành kiến) đối xử, người ta tự họ thi hành.
Bốn biển đã đầy đủ, do âm mà thắng dương. Những người xung quanh đã xác
lập xong, mở cửa để đón tiếp. Nói chung sự vật đều có chỗ thích nghi của nó,
mỗi người đều đứng vào chỗ đứng của mình cho nên trên dưới vô vi. Khiến con
gà gáy sáng, khiến con mèo bắt chuột, mọi vật đều dùng cái tài của nó cho nên
trên dưới vô sự" [4, tr. 67 - 68].

Thuật dùng người: Vua dùng bầy tơi theo cách chính danh, căn cứ vào đó
để thưởng, phạt, tức là lời nói, việc làm của bầy tơi phải tương xứng. Nói mà
khơng làm cũng như làm mà khơng nói. Làm khơng hết chức trách cũng có tội
như làm quá chức trách: "Khi bậc vua sáng nuôi bầy tôi, bầy tôi không được
vượt q chức quan để có cơng lao, khơng được nói những lời khơng đúng chỗ,
vượt qua chức quan thì chết. Nói những lời khơng đúng chỗ thì bị tội. Nếu
những người làm quan nói những lời nào cũng xác thực thì bầy tơi khơng thể
kết bè, kết đảng với nhau được" [4, tr. 66]. Hàn Phi còn nêu rõ bảy thuật làm
cho an và sáu đường làm cho nguy.
8


Ông phân tích từng thuật để thấy rõ từ cái lợi, cái hại của nó. Chẳng hạn
như: Tập hợp sự khơn ngoan. Tập hợp những người khơn để hỏi thì những
người không khôn sẽ trở thành khôn. Hiểu sâu một vật thì những điều kín đáo
đều biến mất.
2.3. Tư tưởng trọng Thế
Hàn Phi cho rằng chỉ có hai điều "pháp luật" và "thuật" mà thiếu quyền
lực để cưỡng bức người thì dẫu người làm vua có "thuật" điều khiển các "bầy
tôi", cũng không thể bảo đảm cho "bầy tôi" phục tùng sự cai trị của vua. Đồng
thời dẫu có pháp luật nhưng nhân dân không tuân theo cũng không thể đảm bảo
cho pháp luật được thực hiện có hiệu lực. Cho nên ông cho rằng "Thế" là điều
đặc biệt cần thiết. Quan niệm về "Thế" của Hàn Phi là một thứ quyền lực đặt ra
cho phù hợp với yêu cầu của pháp luật chứ không phải thứ quyền lực nảy sinh
một cách "tự nhiên" trong "chủ nghĩa nhân trị". "Thế" còn là vị thế, địa vị, thế
lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể, là xu thế của lịch sử. Ơng ví Ngựa
trở được nặng và đi được xa là vì sức gân, chúa chinh phục được vì có uy thế.
Mối quan hệ giữa "Thuật" và "Thế":
"Thuật" và "Thế" quan hệ chặt chẽ với nhau: Một nước là gì? là cái xe
của nhà vua, "Thế" là gì? là ngựa của nhà vua. Khơng có thuật để điều khiển xe

ngựa ấy, dẫu cho thân vất vả, cũng không tránh khỏi loạn, có thuật để điều khiển
xe ngựa ấy, thân vẫn ở nơi an nhàn mà lại được công to bằng các bậc đế vương.
Quan hệ giữa "thế" và "pháp":
Theo Hàn Phi nếu cái thế (quyền lực) nằm trong tay người kém cũng có
thể làm rối loạn pháp luật và gây tai họa cho nước. Cho nên quyền lực (thế)
được đặt ra cho những "người trung bình". "Pháp" và "Thế" khơng tách rời
nhau. "người trung bình" là người ở giữa người tài giỏi (như Nghiêu, Thuấn) và
người kém (như Kiệt Trụ) và biết giữ gìn "Pháp" và "Thế" thì nước yên trị, nếu
trái "pháp", bỏ "thế" thì nước nổi loạn.
Thưởng phạt là cơng cụ rất quan trọng. Vì vậy nếu thưởng phạt không
thỏa đáng sẽ không răn được ai và xã hội sẽ loạn. Nhưng để có được thưởng
phạt thỏa đáng thì phải có các tiêu chuẩn phải trái, khen chê được đặt ra như
những mực thước quy củ.
Theo Hàn Phi, hình phạt nghiêm khắc sẽ loại bỏ được sáu hạng người:
bọn hàng giặc chạy dài, sợ chết, bọn tự cao học đạo, tự lập ra các học thuyết và

9


bọn lìa xa pháp luật, bọn ăn chơi xa xỉ, bọn bạo ngược, ngạo mạn, bọn dung thứ
lũ giặc, giấu giếm kẻ gian, bọn nói khéo, khoe khơn dối trá.
Dùng hình phạt nghiêm là để khuyến khích sáu loại người: Những người
lăn mình vào chốn hiểm nghèo, hy sinh thành thực, những người ít nghe lời bậy,
tuân theo pháp luật, những người dốc hết sức mà làm ăn, làm lợi cho đời, những
người trung hậu, thật thà ngay thẳng, hiền lành, những người trọng mạng mình,
những người giết giặc trừ gian, làm sáng tỏ lệnh trên.
Học thuyết pháp trị của Hàn Phi lấy pháp luật làm công cụ trị nước là phù
hợp với xu hướng thống nhất, trên cơ sở thiết lập chế độ phong kiến chuyên chế
Trung ương tập quyền của giai cấp địa chủ phong kiến mới, phủ định hình thức
chính trị địa phương, phân tán và phong tỏa địa phương của tầng lớp phong kiến

cũ. Lý luận này đã có tác động chỉ đạo cả một thời gian dài trong các chế độ
chính trị chuyên chế về sau.
Sở dĩ học thuyết của Hàn Phi có giá trị trong cơng cuộc trị nước đã được
Tần Thủy Hồng áp dụng và đã thống nhất được Trung Quốc là vì ông đã tổng
hợp được ba học thuyết Nho, Lão, Pháp mà ở đó Nho là tài liệu xây dựng, pháp
là bản thiết kế, lão là kỹ thuật thi công của ngơi nhà đó.
Trong tác phẩm Hàn Phi Tử có 20 quyển được chia thành 55 thiên, mỗi
thiên có những nội dung khác nhau nhưng đọc và suy nghĩ thì chúng ta thấy tuy
tác phẩm của ông đã viết cách đây 2.300 năm nhưng vẫn cịn giá trị cho đến
ngày hơm nay.
Chẳng hạn ở quyển V, thiên XV: Những điềm mất nước Hàn Phi đã đưa
ra 47 điềm cảnh báo, điềm 1 nói chung, khi nước của nhà vua thì nhỏ mà các
nhà riêng thì lớn, quyền mình thì ít mà bầy tơi thế mạnh thì có thể mất nước. Ý
nói đến lợi ích cá nhân nhiều hơn việc nước thì mất nước điều này cũng cho
chúng ta liên tưởng đến xã hội của chúng ta hôm nay, khi mà một số quan chức
giàu lên nhanh chóng, số nhân dân lao động nghèo khó lại tăng lên, nguy cơ
cảnh báo xã hội khơng ổn định, nếu Nhà nước khơng có những chính sách hợp
lý. Điềm 19 có ghi nước nhỏ mà không chịu nhún nhường, sức yếu mà không sợ
nước mạnh, vô lễ làm nhục nước láng giềng lớn; tham lam bướng bỉnh lại vụng
giao thiệp thì có thể mất. Điều này cũng giúp chúng ta vận dụng trong chính
sách ngoại giao hiện nay nhất là chính sách đối với các nước lớn. Nếu chúng ta
khơng linh hoạt, mềm dẻo thì những vấn đề bất lợi vẫn có thể xảy ra. Trong
những năm gần đây nước ta đã có sách lược ngoại giao mềm dẻo, Việt Nam sẵn
sàng là bạn với tất cả các nước trên thế giới. Quan hệ với Trung Quốc chúng ta
10


thực hiện 16 chữ vàng. Song đất nước ta còn khó khăn do ảnh hưởng của hai
cuộc chiến tranh kéo dài, việc phát triển kinh tế là rất cần thiết địi hỏi chúng ta
cần phải có những quyết sách đúng đắn hơn nữa.

Điềm 41 ghi kho nhà nước trống rỗng mà quan đại thần nhiều của cải.
Các hộ dân trong nước nghèo mà dân trú ngụ giàu. Kẻ sĩ lo cày và chiến đấu thì
nghèo, dân làm nghề ngọn được lợi thì có thể mất. Câu này liên tưởng đến
chúng ta hiện nay, với 80% nhân dân lao động của chúng ta cịn khó khăn, vất
vả đầu tắt mặt tối nhưng chỉ tạm đủ ăn, trong khi chi phí tiêu dùng lại quá lớn,
tiền con cái học hành, ốm đau... trong khi đó một bộ phận nhỏ cán bộ làm ở vị
trí hậu hĩnh lại giàu có, làm nhức nhối trong xã hội, một số doanh nghiệp thì chỉ
lo bóc tách của nhà nước chứ không lo sản xuất hàng hóa... đây cũng là điều
chưa tốt cho xã hội chúng ta hôm nay.
Trên đây chỉ là một vài điểm được minh chứng để làm rõ thêm tư tưởng
của Hàn Phi về những điềm ông đã cảnh báo. Những điềm mất nước đó khơng
phải là nói rằng thế nào cũng mất nước, mà là có thể mất. Hai Nghiêu khơng thể
cùng làm cho nhau thành vương. Hai Kiệt không thể làm cho nhau mất. Cái
then chốt khiến cho nhà vua mất nước là ở chỗ nơi trị nơi loạn, nơi mạnh nơi
yếu khác xa nhau.
Cây gỗ bị gãy thế nào cũng có mọt ở trong. Cái tường bị đổ thế nào cũng
có lỗ hở ở trong. Thế nhưng cây gỗ tuy bị mọt nhưng khơng có gió mạnh thì
khơng gãy. Cái tường tuy có chỗ hở nhưng khơng có mưa to thì khơng đổ. Bậc
vua chúa có mn cỗ xe, biết dùng thuật trị nước thi hành pháp luật để làm mưa
làm gió đối với những ơng vua có điềm mất nước thì việc thơn tính thiên hạ là
khơng khó vậy.
Cũng ở Quyển V thiên XVI ơng có nói ba điều phải giữ. Ba điều này ông
cảnh báo cho nhà cầm quyền phải giữ nếu khơng trọn vẹn thì ba điều ức hiếp
nảy sinh. Ba điều phải giữ đầy đủ thì ba điều ức hiếp bị ngừng lại. Ba điều ức
hiếp bị ngừng lại thì làm vương vậy.
Quyển V thiên XVII đề phịng bên trong có ý nêu bậc vua sáng khơng
làm những việc mà mình khơng kiểm tra được, khơng ăn thức ăn khác thường,
nghe và nhìn gần để xem xét những sai sót bên trong và bên ngồi. Xét những
lời giống nhau và khác nhau để phân biệt bè đảng. Xét điều xiên điều không nên
để biết được sự thực trong việc trình bày, nắm lấy cái sau để cho ứng với cái

trước. Dựa vào pháp luật để cai trị mọi người. Tập hợp cái điều mới để xem xét.
Khơng thưởng kẻ sĩ vì mình u. Khơng thưởng vượt quá việc đã làm, giết thì
11


phải cho đúng. Kẻ có tội thì khơng tha. Như vậy thì bọn gian tà mới khơng có
cách nào che giấu điều riêng tư của họ được.
Sưu dịch nhiều thì khổ sở. Đâu khổ sở thì kẻ có quyền thế nổi lên. Kẻ có
quyền thế nổi lên thì việc sưu dịch càng nặng. Việc sưu dịch càng nặng thì kẻ sĩ
càng giàu sang, làm dân khổ sở mà những kẻ giàu sang nổi lên, trao cái thế cho
bọn bầy tôi, đó khơng phải là cái lợi lâu dài của thiên hạ.
Nước thắng được lửa, điều đó đã rõ, nhưng lấy cái nồi để ngăn nước lại
thì ở trên nước sơi, bốc hơi cho đến cạn, nhưng ở dưới lửa vẫn cứ cháy rần rật,
vì nước khơng có cái thế để thắng lửa. Nay việc cai trị thì thắng bọn gian tà,
điều đó càng rõ hơn nữa. Nhưng những bầy tơi giữ pháp luật lại làm thành cái
nồi cho nên pháp luật chỉ sáng rõ ở trong bụng mà bỏ mất cái thế ngăn cấm gian
tà.
Theo những lời thượng cổ để lại, những lời sách Xuân Thu chép thì
những kẻ phạm pháp, làm chuyện bạo nghịch thành bọn đại gian xưa nay đều
xuất phát từ những bầy tôi được tôn quý. Thế mà những kẻ pháp lệnh đề phịng,
hình phạt giết chết, thường là ở địa vị thấp hèn. Cho nên dân chúng tuyệt vọng,
không biết kêu vào đâu. Điều này vẫn cịn có ý nghĩa hết sức thực tiễn đối với
việc sử dụng con người hiện nay, nhất là chọn những người vào những công
việc quan trọng. Trong công tác tổ chức cán bộ của chúng ta hiện nay đã có quy
hoạch, kế hoạch đào tạo, bổ nhiệm, về lý thuyết thì tốt nhưng trong thực tế thì
cịn phải làm tốt hơn.
Các quan đại thần bè đảng với nhau, bên trong cùng nhau che đậy nhà
vua, làm lợi cho nhau, bên ngồi thì giả vờ ghét nhau để tỏ ra vơ tư, cùng làm
tai mắt cho nhau để rình mị chỗ sơ hở của nhà vua. Nhà vua bị che đậy khơng
có cách nào nghe được, tuy có cái tiếng là chủ nhưng khơng có cái thực, bầy tơi

nắm lấy pháp luật mà thi hành. Tình hình thiên tử nhà Chu là như thế. Nếu cho
mượn quyền thế của mình thì trên và dưới. Thay đổi địa vị cho nên nói khơng
thể cho bầy tơi mượn quyền thế.
Bậc vua sáng vững chắc ở bên trong cho nên khơng sai sót ở bên ngoài.
Sai lầm về cái ở gần nhà mà lại khơng mất cái ở xa là điều khơng có. Cho nên
nhà Chu cướp được nhà Ân là vì sự sai lầm của triều đình. Ví thử nhà Ân khơng
có lỗi ở triều đình thì nhà Chu sẽ khơng dám nhịm ngó đến sợi lơng mùa thu ở
biên giới. Cịn nói gì đến việc thay đổi địa vị? Đạo của bậc vua sáng là đúng với
pháp luật, pháp luật của ông ta hợp với lòng người. Cho nên khi cai trị thì theo
đúng pháp luật. Liên hệ với chúng ta hiện nay luật của chúng ta cũng đã có
12


tương đối đầy đủ, nhưng việc thi hành pháp luật thì chưa nghiêm. Nhiều vụ án
xử thế nào cũng đúng, các văn bản dưới luật còn nhiều, còn chồng chéo nhau,
tạo ra kẽ hở cho pháp luật.
Trong Thiên XXVI. Đạo giữ nước
Cái thiện sinh ra như cây cỏ mùa xuân, cái ác chết đi như cây cỏ mùa thu.
Cho nên dân được khuyến khích dốc hết sức mà vui vẻ trong việc tận tình làm
việc. Pháp luật rõ ràng thì người hiền không cướp của kẻ kém, người mạnh
không thể hiếp kẻ yếu. Người đông không thể hung bạo với kẻ ít. Gửi thiên hạ
cho cái phép tắc của Nghiêu thì kẻ sĩ thẳng thắn khơng bỏ mất chức phận của
mình, kẻ gian khơng dám cầu mong.
Bậc vua chúa người mà lập ra những điều khó làm để trị tội những người
khơng làm được thì cái ốn giận riêng sẽ sinh ra. Bầy tôi bỏ mất cải sở trường
mà phải phục vụ những việc khó làm thì nỗi ốn giận kín đáo tích tụ lại. Người
khó nhọc vất vả khơng được vỗ về, người buồn bã lo lắng không được thương
xót, khi vui thì khen kẻ tiểu nhân, người hiền và kẻ hư hỏng đều được thưởng.
Khi giận thì hủy báng người quân tử, khiến cho Bá Di và Đạo Chính đều bị
nhục. Cho nên có bầy tơi phản chúa.

Để đánh giá một tác phẩm chúng ta phải xét ở thời điểm đó, xem nó có
những gì đột phá và tiến bộ so với trước đó, nó gợi ý gì cho đời sau, chứ khơng
nên nói nó đúng hay sai ở ngày hôm nay. Tuy nhiên để đánh giá khách quan thì
ngồi những giá trị tích cực của học thuyết Hàn Phi chúng ta cần phải xem xét
một số hạn chế trong tư tưởng của công.
3. Một số số hạn chế trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi
1. Pháp gia chỉ chú trọng đến hành chính, pháp luật và làm thế nào để
quốc gia phú cường chứ không giáo dục dân, bất chấp nguyện vọng của dân,
ông bảo vệ người giàu có và giai cấp q tộc.
2. Ơng chỉ nhìn thấy con người ở góc độ vụ lợi, cho đến nhà nước, theo
ông cũng chỉ quy về chủ nghĩa thực dụng, không thấy được lý tưởng cao đẹp và
sẵn sàng quên mình cho lý tưởng ấy của những con người có tâm có đức.
3. Ơng tuyệt đối hóa pháp luật ở những khía cạnh biểu hiện cụ thể của nó,
mà khơng thấy được cịn có những cơng cụ khác kết hợp để trị nước, nói như
người phương Đơng là "thấu tình, đạt lý".

13


4. Lý thuyết của ông không thể thực hiện được ngun nghĩa của nó, khi
mà xã hội cịn tổ chức theo kiểu quân chủ chuyên chế, vì theo Hàn Phi, hình
phạt khơng áp dụng đối với vua và thiên tử. Vì vậy Hàn Phi cũng khơng thể tìm
ra được cơ chế bắt buộc nhà vua phải đề phòng cái họa mà ông thấy từ trước.
Lý thuyết Hàn Phi được Tần Thủy Hoàng dùng để thống nhất Trung
Quốc. Ở thời Chiến Quốc Trung Quốc bị chia ra hàng trăm tiểu quốc, xâu xé lẫn
nhau chiến tranh đẫm máu. Thanh gươm chuyên chế để thống nhất Trung Quốc
là điều cần thiết để lập lại trật tự xã hội, do vậy phải giết một người để cứu triệu
người là lẽ tất nhiên.
Nước Tần lúc đó khơng phải là vùng đất trù phú, khơng phải ở vị trí trung
tâm, khơng phải là nơi có văn hóa phát triển. Nhưng trong mấy thế kỷ từ thời

Tần Hiếu Công cho tới cuối thời chiến quốc. Nhà Tần lại hội đủ các điều kiện
để chuyển lên chế độ phong kiến Trung ương tập quyền. Về kinh tế nhà Tần
phát triển tư hữu về tư liệu sản xuất, thống nhất đo lường, đặt ra ngạch thuế
khóa thích hợp, do đó kích thích được sản xuất. Về chính trị thực hiện hai lần
biến pháp, tổ chức hành chính theo chế độ quận huyện, chủ trương mọi quyền
tập trung vào ông vua, thực hành chế độ, pháp trị nghiêm ngặt, làm cho nước có
kỷ cương, trật tự, chính quyền có hiệu lực. Về văn hóa tư tưởng, chủ trương
quán triệt văn hóa tư tưởng thực dụng và bá quyền của phái pháp gia làm cho ai
đó cũng thấy chỉ có nỗ lực thì mới có quyền lợi và địa vị. Chính điều đó đã làm
cho nhà Tần có sức mạnh và chuyển lên chế độ phong kiến Trung ương tập
quyền. Thống nhất Trung Quốc về một mối đó chính là hiệu pháp của pháp gia
mà nhà Tần đã áp dụng để Trung Quốc thống nhất trong thời gian (221 - 206
TCN).
Ở Việt Nam sau khi đánh đuổi giặc Minh, giành được độc lập dân tộc,
triều Lê trọng đãi công thần. Các công thần này đại đa số là những người hiếu
học hay ít học, họ nắm giữ trọng trách, mâu thuẫn gay gắt giữ phái dân sự và
phái quân sự. Họ lộng hành và tàn sát lẫn nhau. Vua Thái Tông, Nhân Tông
không đủ khả năng kiềm chế tệ hưởng thụ, tham ô, hối lộ, lợi dụng chức quyền
để trục lợi riêng, diễn ra khá phổ biến trong cả trăm quan trong điều đình lúc ấy.
Trong bối cảnh đó vua Lê Thánh Tơng lên ngơi năm 1460. Ơng là vị vua anh
hùng tài lược, ông chủ trương và dày công xây dựng một nhà nước quân chủ
chuyên chế, đề cao uy quyền và quyền hành thực tế của ông vua, tăng cường sự
chi phối quyền lực của triều đình xuống địa phương, thực chất là đường lối mà
Lê Thánh Tông thực hiện là "Nội pháp, ngoại Nho". Để củng cố chính quyền,

14


mở mang bờ cõi thì ơng dùng pháp trị, để ổn định trật tự xã hội ông dùng Nho
giáo.

Sau mười năm trị vì ngơi báu (1460 - 1470), bằng những biện pháp trong
đó có những biện pháp mang tính cải lương của mình, Lê Thánh Tơng đủ từng
bước tập trung được quyền hành, tạo nên sự thay đổi lớn cho đất nước. Năm
1471 Lê Thánh Tông ban hành hiệu định quan chế, thực hiện cải cách hành
chính triệt để. Cuộc cải cách hành chính này nhằm mục đích tăng cường quyền
lực cho chính quyền Trung ương, xây dựng hệ thống quyền lực ở các cấp, tăng
cường quản lý nhà nước đối với làng xã.
Lê Thánh Tông đề cao tư tưởng pháp trị, thể chế hóa lễ trị. Đi đơi với
việc củng cố bộ máy nhà nước, ông rất coi trọng thể chế pháp luật, ông chủ
trương dùng pháp luật để cai trị đất nước và quản lý xã hội. Năm 1464 ông dụ
các quan: "Pháp luật là phép công của nhà nước, ta cùng các ngươi phải tuân
theo". Về điểm này tư tưởng của ông đã vượt xa tư tưởng của Hàn Phi. Phi cho
rằng vua là Thiên tử, là người điều hành pháp luật. Sống trên pháp luật, luật chỉ
áp dụng đối với thần dân. Còn đối với Lê Thánh Tơng thì vua cũng phải tn
theo pháp luật.
Năm 1471 khi ban hành cải cách hành chính, ơng có lời dụ: "để cho lớn
nhỏ cùng giàng buộc với nhau, kính trọng cùng kiềm chế nhau, uy quyền không
bị lợi dụng, thế nước vậy là khó lay. Thành thói quen theo đạo, giữ phép khơng
có lỗi trái nghĩa phạm hình".
Năm 1474 vua lại khẳng định "đặt luật là để trừ gian sao dung được bọn
coi thường pháp luật".
Trong 38 năm cầm quyền của ông là 38 năm "triệu dân vỗ yên, trăm việc
chấn chỉnh, văn hóa rộng ban, vũ cơng đại định" "mở mang đất đai" "sáng lập
chế độ" như các sử gia phong kiến đã đánh giá trong đại Việt sử ký tồn thư. Lê
Thánh Tơng đã ban hành 83 sắc chỉ, chỉ dụ liên quan đến việc hành chính và thể
chế quan chức, mười sắc chỉ về quy định khiếu kiện, tám sắc chỉ liên quan đến
quyền, nghĩa vụ của quan lại trông coi pháp luật, mười một sắc chỉ về chống
tham nhũng, bn lậu, hối lộ và móc ngoặc.
Năm 1942 đúng vào dịp 500 năm ngày sinh Lê Thánh Tông Bác Hồ viết
cuốn lịch sử nước ta đã ca ngợi ơng:

"Vua hiền có Lê Thánh Tơng

15


Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành"
Đỉnh cao nhất là năm 1483, bộ quốc triều hình luật mà ta quen gọi là bộ
luật Hồng Đức được chính thức ban hành. Đây là bộ luật tổng hợp nhiều loại
luật (hình sự, dân sự, hơn nhân, tố tụng và gia đình). Nhưng hầu hết các quy
phạm trong bộ luật dù có thuộc lĩnh vực nào cũng được xây dựng dưới dạng các
quy phạm pháp luật hình sự và áp dụng chế tài hình sự. Bộ luật này có giá trị
điều chỉnh các quan hệ xã hội căn bản nhất, trụ cột nhất tạo nên cơ sở chính trị xã hội, kinh tế - văn hóa của chế độ nhà Lê trong một thời gian dài suốt 3 thế kỷ
sau đó. Đối với thời Lê Thánh Tông bộ luật tạo ra sự ổn định trật tự xã hội, tăng
cường kỷ cương phép nước, bảo đảm an dân, tạo điều kiện cho sự phát triển đất
nước.
KẾT LUẬN
Học tập nghiên cứu tư tưởng chính trị Hàn Phi chúng ta thấy có nhiều tác
nhân hợp lý có thể vận dụng trong cơng cuộc đổi mới của đất nước ta hôm nay.
Tác phẩm của ông vẫn còn một số hạn chế do điều kiện lịch sử lúc đó quy định.
Đánh giá một cách khách quan những tác nhân hợp lý đó, nó đã đóng góp nhiều
cho tư tưởng nhân loại. Tư tưởng "Trọng thế" nhắc chúng ta trong việc giành,
giữ thực thi quyền lực chính trị, "Trọng thuật" nhắc chúng ta khôn khéo, linh
hoạt, mềm dẻo trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cũng như trong đối
ngoại, đó cũng là chiến lược, sách lược ứng xử, trong quan hệ, "Trọng pháp" là
mọi người phải được sống trong một xã hội được điều hành bằng pháp luật, đó
là xã hội văn minh, là xã hội con người đang vươn tới. Mọi người phải được
sống và làm việc theo hiến pháp về pháp luật. Pháp luật càng đầy đủ đồng bộ thì
đất nước đó càng văn minh và người dân ở đó càng được tự do phát huy những
quyền cá nhân và lợi ích hợp pháp của mình. Trong sự nghiệp đổi mới của đất
nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, cùng với việc đẩy mạnh cơng

nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng đất nước ta thành một nước cơng
nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, đời sống và
tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc. Thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh thì chúng ta phải xây dựng
và hồn thiện hệ thống pháp luật và nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
vững mạnh, làm nền tảng cho sự phát triển đất nước. Do vậy việc nghiên cứu,
tiếp thu kế thừa có chọn lọc những tư tưởng hình pháp của ơng cha ta nói riêng
và nhân loại nói chung. Trong đó có tư tưởng pháp trị của Hàn Phi là một trong
những việc làm có ý nghĩa cần thiết./.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luận ngữ của Khổng Tử.
2. Đạo đức Kinh của Lão Tử.
3. Mặc Tử.
4. Tinh thần pháp luật của Montexkiơ.
5. Khế ước xã hội của Rutxo.
6. Giáo trình chính trị học (Hệ cao cấp lý luận) của Học viện CTQG Hồ Chí
Minh.
7. Thơng tin triết học số 8 (135) tháng 8-2002.
8. Thơng tin chính trị học số 16, 17, 18, 19 năm 2003.

17


PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………..……………….1-2

NỘI DUNG………………..…………………………………………………....2
1. Sơ lượt về tiểu sử của Hàn Phi Tử……………………………………………2
2. Tư tưởng chính trị pháp trị của Hàn Phi và giá trị lịch sử của nó………….2-6
2.1. Tư tưởng coi trọng pháp luật……………………..………………………6-7
2.2. Tư tưởng trọng thuật……………...………………………………………7-9
2.3. Tư tưởng trọng Thế…………………………………………………………9
Mối quan hệ giữa "Thuật" và "Thế":………………...………………………9-13
3. Một số số hạn chế trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi:………………..13-16
KẾT LUẬN……………………...…………………………………………….16

18



×