Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TIEU LUAN TRIET HOC TIM HIEU THUYET CHINH DANH NHO GIAO VA VAN DUNG TRONG THOI KY DAT NUOC HIEN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.41 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

   

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Tên đề tài:

TÌM HIỂU THUYẾT CHÍNH DANH TRONG NHO
GIÁO


MỤC LỤC
Trang Mở đầu………………………………………………………………….…..2
Chương I:Hoàn cảnh ra đời của trường phái Nho giáo………………………3
1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội………………………………………….……..…..3
2. Thân thế - sự nghiệp của Khổng Tử……………………………….…..…….4
Chương II:Nội dung học thuyết "chính danh" của Nho giáo………….……...5
1. Nội dung của học thuyết "chính danh"………………………………..……..5
2. Những giá trị và hạn chế của học thuyết "chính danh" của Nho giáo..…10
2.1.Những giá trị tích cực………………………………………………….….....10
2.2.Những hạn chế-Học thuyết của Khổng Tử……….……………….…..….11
Chương III. ý nghĩa của học thuyết chính danh trong giai đoạn hiện nay .12
Kết luận……………………………………………………………………………..15
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………..…….16


MỞ ĐẦU
Sau 20 năm đổi mới, với sự nỗ lực phấn đấu của tồn Đảng, tồn dân, tồn
qn ta, cơng cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn cả về nhận thức


và hoạt động thực tiễn. Những thành tựu ấy đã góp phần nâng cao đời sống mọi
mặt cho nhân dân ta và nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Để
phát triển tiếp những thành tựu ấy chúng ta đang tiến hành những nhiệm vụ của
giai đoạn cách mạng mới, đẩy mạnh công cuộc đổi mới mà cụ thể là đẩy mạnh
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đến năm 2020 đất
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Để đạt được những mục tiêu đặt
ra, Đảng và nhân dân ta phải không ngừng sáng tạo, phải nắm vững, vận dụng
sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu chọn
lọc kinh nghiệm của các nước. Ngồi ra, có những học thuyết chính trị - xã hội
ngồi chủ nghĩa Mác mà trong đó có những nhân tố hợp lý, những giá trị chung
của toàn nhân loại. Những học thuyết ấy nếu biết gạn lọc, biết hấp thụ một cách
có phê phán thì sẽ làm giàu thêm nền tảng tư tưởng mà chúng ta đang vận
dụng. Nhìn lại lịch sử tư tưởng chính trị, đặc biệt là lịch sử tư tưởng chính trị
Trung Quốc cổ đại với nhiều trường phái đưa ra học thuyết của mình để nhằm
ổn định xã hội. Trong những học thuyết đó thì học thuyết chính trị - xã hội của
trường phái Nho giáo là một trong những học thuyết có ảnh hưởng khá sâu rộng
trong xã hội Trung Quốc và các nước phương Đông thời bấy giờ. Và đặc biệt
trong giai đoạn hiện nay những giá trị của nó vẫn được các nước khai thác, vận
dụng, phát triển để góp phần xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Cụ thể
như những nhân tố hợp lý trong học thuyết "chính danh" của Nho giáo chúng ta
cũng cần nghiên cứu, phát triển, vận dụng vào việc đẩy mạnh công cuộc đổi mới
của nước ta hiện nay nhằm mục đích xây dựng và hồn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Được sự
hướng dẫn của các thầy giáo trong bộ môn, em xin chọn nội dung: Học thuyết
"chính danh" của Nho giáo.


NỘI DUNG

CHƯƠNG I

HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TRƯỜNG PHÁI NHO GIÁO
1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội:
Trung Quốc là một quốc gia phương Đơng điển hình, đó là một xã hội khơng
có hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, đặc biệt thể hiện rõ nét nhất là khơng có tư
hữu về ruộng đất. xã hội Trung Quốc cũng giống như nhiều xã hội khác ở châu á
không hề giống như một xã hội nô lệ và phong kiến phương Tây. Đặc điểm của xã
hội ấy là công hữu ruộng đất chiếm ưu thế, tàn dư công xã kéo dài, nền kinh tế - xã
hội diễn ra với sự cống nạp từ bên dưới và phân phối từ bên trên. Nhà nước ra đời
sớm do nhu cầu, đòi hỏi của lịch sử, mặc dù phân hóa giai cấp chưa chín muồi. Xã
hội và quốc gia chiếm hữu nơ lệ ở Trung Quốc cổ đại được hình thành vào khoảng
thiên niên kỷ thứ 2 trước công nguyên. Lịch sử xã hội chiếm hữu nô lệ Trung Quốc
cổ đại là lịch sử đấu tranh tàn khốc giữa chủ nô và nô lệ, giữa tầng lớp thượng lưu
của xã hội chiếm hữu nô lệ với những người nông dân bị phá sản, bị nô dịch và
phụ thuộc. Giữa tầng lớp quý tộc gia truyền bị bần cùng hóa với những thương
nhân và trọc phú tiếm quyền. Những xung đột giai cấp trong quốc gia chiếm hữu
nô lệ Trung Quốc trở nên sâu sắc. Cuộc đấu tranh ấy để lại những dấu ấn rất nặng
nề. Nó tạo tiền đề chính trị - xã hội cho cuộc đấu tranh của các trường phái chính
trị khác nhau rất đa dạng và phong phú. Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, Trung Quốc
loạn bởi sự xâu xé lẫn nhau, tranh bá quyền với nhau, Trung Quốc bị chia thành
hàng trăm tiểu quốc, rồi những nước nhỏ có tương đồng với nhau trong hồn cảnh
nào đó liên minh với nhau chống lại liên minh khác, cuối cùng dẫn đến phong trào
ngũ bá (Tề, Tấn, Tần, Tống, Sở). Câu hỏi lớn của lịch sử Trung Quốc thời kỳ này
là làm thế nào để ổn định xã hội? Trả lời câu hỏi ấy là phong trào "bách gia tranh
minh, bách hoa tề phóng" (Trăm nhà đua tiếng, trăm hoa đua nở). Hàng trăm nhà
tư tưởng khác nhau đưa ra tư tưởng của mình nhằm cắt nghĩa, tìm ra nguyên nhân
xã hội loạn và từ đó đưa ra các cách chữa trị xã hội loạn ấy.


Trong số hàng trăm nhà như vậy nổi bật lên có các nhà lớn sau đây: Nho giao người đứng đầu là Khổng Tử, Lão Gia - người đứng đầu là Lão Tử, Mặc Gia người đứng đầu là Mặc Tử, Pháp gia - người đứng đầu là Hàn Phi Tử.
2. Thân thế - sự nghiệp của Khổng Tử (551 - 479 TCN) :

Khổng Tử sinh ra ở ấp Trâu, quận Xương Bình, nước Lỗ (nay thuộc miền Sơn
Đơng - phía Bắc Trung Quốc). Ơng là người dịng dõi nước Tống nhưng do chiến
tranh mà lưu lạc song nước Lỗ, tên là Khâu, tên chữ là Trọng Ni. Ngoài 50 tuổi
ông mới được vua Lỗ Định Công phong chức Trung Đô Tể, 4 năm sau được phong
chức Tư Không, rồi Đại Tư Khấu trông coi pháp luật. Suốt thời gian làm quan ơng
chăm lo chính sự cho nước Lỗ ổn định. Nước Tề lập kế để vua Lỗ mãi vui chơi,
qn việc triều đình. Ơng Can gián nhưng vua lỗ khơng nghe, bèn cùng học trị bỏ
vua Lỗ mà đi. Khổng Tử nhiều lần đi sang các nước chư hầu mong muốn áp dụng
học thuyết của mình vào việc trị nước, nhưng không được dùng, bản thân ông cũng
không được trọng dụng. Sau 14 năm du thuyết không thành, quay về nước Lỗ khi
ơng đã 68 tuổi. Ơng viết sách và mở trường tư dạy học, học trò theo học rất đơng.
Ơng thọ 73 tuổi. Học thuyết của Khổng Tử chủ yếu đề cập đến những vấn đề chính
trị - xã hội. Vì vậy nó là học thuyết chính trị. Tuy nhiên, dưới góc độ tiếp cận và
hướng giải quyết những va án đề chính trị - xã hội, tư tưởng của Khổng Tử lại là tư
tưởng về con người, về đạo đức. Hay nói khác học thuyết của Khổng Từ về cơ bản
là học thuyết chính trị - đạo đức. Tư tưởng chính trị của Khổng Tử được thể hiện
tập trung nhất trong quan niệm của ông về nhân, lễ, chính danh và mối quan hệ
giữa chúng. Trong phạm vi tiểu luận này tôi chỉ xin đề cập đến học thuyết "chính
danh" của Nho giáo. Tuy nhiên "chính danh" khơng phải là học thuyết độc lập mà
nó nằm trong chỉnh thể đức trị (nhân - lễ - chính danh). Có nhân và lễ thì mới có
chính danh. Và khi có "chính danh" thì chi phối cái nhân, lễ. Con người khơng có
nhân và lễ thì khơng có chính danh. Vì vậy, trong q trình phân tích học thuyết
“chính danh”,chúng ta không thể không đề cập đến “nhân” và “lễ”.


CHƯƠNG II
NỘI DUNG HỌC THUYẾT CHÍNH DANH CỦA NHO GIÁO
1. Nội dung của học thuyết "chính danh':
Thời đại của Khổng Tử sống là thời đại "vương đạo" suy vi, "bá đạo" nổi lên lấn
át "vương đạo", chế độ tông pháp nhà Chu bị đảo lộn, đạo lý nhân luân suy đồi.

Đứng trước tình hình đó các Nho gia có hồi bão về một chế độ phong kiến có kỷ
cương, thái bịnh và thịnh trị. Khi xét tư tưởng của Khổng Tử ta thấy có một quy tắc
chính, một phát kiến của ơng đó là học thuyết "chính danh". "Chính danh" là tư
tưởng cơ bản của chính trị Nho giáo nhằm đưa xã hội loạn trở lại trị. Khổng Tử
phản đối nhà cầm quyền dùng pháp chế, hình phạt trị dân mà chủ trương nhân trị.
Sự vật tồn tại khách quan, để biểu hiện nó phải dùng ngơn ngữ, cái ngơn ngữ để
biểu hiện đó là "danh". Danh đối lập với thực. Danh có nội hàm, sự vật ln thay
đổi nên nội hàm của danh cũng luôn thay đổi. Nhưng ngôn ngữ lại có tính ổn định
nên danh thường lạc hậu hơn so với thực, không thay đổi kịp so với hiện thực, nhất
là xã hội có biến loạn. Nguyên nhân khiến cho xã hội loạn lạc là do "danh" không
hợp với "thực", xã hội đã xa rời đạo lý nhân nghĩa, kỷ cương phép nước bị đảo lộn.
Muốn ổn định trật tự xã hội, Khổng Tử chủ trương giáo dục chính trị đạo đức là
"chính danh, định phận". Thực chất là mỗi người cần phải có phẩm chất tương
xứng với vị thế xã hội của anh ta và suy nghĩ, hành động tương xứng với vị thế ấy.
Khổng Tử nói rằng: "Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính" (khơng ở vị thế khác thì
khơng mưu việc của người ở vị thế ấy). ở đây cần nhìn vấn đề "chính danh" từ sự
quy định lẫn nhau giữa phẩm chất và năng lực với vị thế xã hội, nghĩa là mọi vật
cần hợp với cái danh nó mang. Mỗi cái danh đều bao hàm bổn phận, trách nhiệm,
những cá nhân mang danh ấy phải có trách nhiệm và bổn phận phù hợp với danh
ấy.


Khổng Tử nói: danh với thực phải hợp nhau, nếu khơng hợp nhau thì gọi tên ra,
người ta sẽ khơng hiểu, lý luận sẽ không xuôi. Mọi việc sẽ không thành, lễ, nhạc,
hình pháp sẽ khơng định được mà xã hội sẽ loạn. Ơng Vua là người được trời giao
phó cho nhiệm vụ lo cho dân đủ ăn, đủ mặc, làm gương cho dân, dạy dỗ dân, để
dân được sống n ổn, làm trịn nhiệm vụ đó là danh xứng với thực, nếu khơng thì
khơng xứng đáng gọi là khơng thể gọi là vua được. Cho nên Khổng Tử khẳng định,
muốn khôi phục lại lễ chữ Tây Chu, theo ông điều trước tiên là phải khôi phục lại
danh phận, địa vị của các đẳng cấp mà lễ chế đã quy định. Chính vì vậy, khi vua

nước Vệ có ý mời Khổng Tử ra chống chính Tử Lộ hỏi Khổng Tử "Thầy định làm
cái gì trước?" Khổng Tử đáp là "chính danh trước đã". Tử Lộ cho rằng người viển
vông và khơng thực tế, Khổng Tử mắng Tử Lộ và nói: "Người qn tử đối với
những điều mình khơng biết thì hãy để trống đấy. Danh khơng chính thì lời nói
khơng thuận, lời nói khơng thuận thì việc khơng thành, việc khơng thành thì lễ
nhạc khơng gây lại được, khơng gây lại được lễ nhạc thì hình phạt sẽ sai cả, hình
phạt khơng đúng thì dân sẽ bị bó tay. Cho nên người quân tử có danh rồi tất phải
nói, nói rồi tất phải làm".
Theo học thuyết "chính danh" Khổng Tử đã chia xã hội thành các mối quan hệ cơ
bản, trong đó mỗi mối quan hệ gọi là một luân. Theo Khổng Tử trong xã hội có 5
luân, đó là: Vua - Tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn - bè. Trong đó 3 luân
đều được chú trọng hơn cả và gọi đó là tam cương, các luân đã nói rõ danh phận
của từng người. Nếu mỗi người thực hiện đúng danh phận đó sao cho "vua phải giữ
đạo vua, bề tôi phải giữ đạo bề tôi, cha phải giữ đạo cha, con phải giữ đạo con,
chồng phải giữ đạo chồng, vợ phải giữ đạo vợ" (quân kính, thần trung, phu từ, tử
hiếu, phu xướng, phụ tùng" thì có chính danh. Mỗi người giữ đúng danh phận của
mình thì mới có thể gây lại được nền chính trị của thời thiên hạ có đạo".
Vì vậy, Khổng Tử khẳng định muốn làm cho xã hội ổn định thì phải "chính
danh", "chính danh" từ trên xuống: qn - quân, thần - thần, phụ - phụ, tử - tử. Chứ
thứ 2 là chữ chỉ "danh", với tiêu chuẩn lý tưởng, là những con người cấp tính để
người ta phải tu vào đó. Chứ thứ nhất là chữ chỉ những con người cụ thể bằng
xương, bằng thịt, có tên tuổi. Cho nên phải kết hợp giữa con người lý tưởng và con
người cụ thể. Vì thế "quân" phải tu cho được là ông vua lý tưởng, vua phải ra vua,
là ông vua minh, hiền, triết, yêu dân, yêu nước."Quân" lý tưởng ấy là địa vị chính
đáng của vạn vật trong tự nhiên "như sao bắc đẩu đứng ở vị trí của nó mà các sao
khác đều hướng theo...".Cịn chữ "danh" trong xã hội là danh vị,hiểu theo ngôn


ngữ ngày nay là cương vị và quyền hạn,còn chữ "phận" có nghĩa là "phần",là "bổn
phận" tức là gồm cả quyền lợi,nghĩa vụ,mọi mặt.Trong quan hệ vua - tôi, Khổng

Tử chủ trương dùng đức trị, tức là người thống trị tự lấy đạo đức của mình để cảm
hóa người bị trị, làm cho họ khơng chống lại. Khác với hình chính, đức trị khơng
quan tâm đến sản xuất, đến chính sách, không dùng biện pháp thưởng - phạt, mà
chỉ cho rằng người thống trị chỉ cần có đạo đức là đủ, thậm chí khơng cần cả đẳng
cấp xuất thân của họ. Ơng thường nói làm chính trị mà có đức nhân là đã đứng vào
vị trí của sao bắc đẩu, vị trí mà tất cả các ngơi sao khác phải hướng theo.
Theo ơng đối với dân lịng tin là quan trọng nhất, sau đó mới đến lương thực và
những thứ khác. Vì vậy, nhà cầm quyền phải giúp cho dân giàu có, sau khi đã giàu
có rồi thì nhà cầm quyền phải giáo hóa dân. Và để làm được điều đó thì nhà cầm
quyền phải làm ba việc: - Đó là phân cơng cho người dưới quyền mình, họ làm
xong phải xem xét lại. Thứ hai là phải dung thứ cho những người phạm phải lỗi
nhỏ. Thứ ba là phải đề cử và dùng người hiền đức, tài cán ở đây quan niệm hiền tài
của ông cũng khác: Hiền là có năng (kỹ năng, kỹ nghệ), có nghệ (lắm tài ba)song
ơng q đức hơn năng nghệ. Ơng nói người qn tử coi đạo là mục tiêu, nhân đức
là chỗ dựa, cịn nghệ chỉ là để chơi (chí ư đạo, cứ ư đức, y ư nhân, du ư nghệ). Như
vậy, ở đây ta thấy Khổng Tử chỉ rõ nhà cầm quyền để chính danh thì phải có nhân
và lễ, nhà cầm quyền phải có lịng thương người, u người. Ơng vua, kẻ sĩ lớn
nhất cũng trước hết là từ chữ nhân mà trở thành ngôi sao bắc đẩu để cai trị các sao
khác hướng theo. Chữ nhân ở đây không bị giới hạn ở một cá nhân nhất định mà từ
trong mỗi cá nhân để đi ra nhân hóa xã hội. Người cầm quyền phải biết phát hiện
và sử dụng những người tài đức, giúp họ trở thành nhân, làm cho cái đẹp, cái thiện
trong mỗi người nảy nở, chớ không khơi dậy cái ác trong họ. Tựu trung lại theo
Khổng Tử, nhân là nền móng, là gốc từ đó nảy sinh ra các phẩm chất đạo đức khác.
Vì vậy, người nhân không thể không giữ lễ. ở trong mối quan hệ vua - tơi thì vua
lấy "lễ" để sai khiến bề tơi. Cịn tơi đối với vua thì phải trung có nghĩa là phải trung
thành, hết lịng, thành tâm. Trong mối quan hệ cha - con, thì cha từ, con hiếu. Hiếu
ở đây chủ yếu được xét trên góc độ tâm, hiếu khơng chỉ phụng dượng người sinh ra
mình mà phải có lịng thành kính, cịn nếu khơng chẳng khác gì ni chó ngựa.
Hiếu khơng nhất nhất là theo cha mẹ, mà phận làm con thấy cha mẹ sai lầm phải
can gián một cách nhẹ nhàng. Ơng nói: "chỉ xét cái đáng theo mà theo mới gọi là

trung, hiếu. Như vậy, ông không chủ trương ngu trung, ngu hiếu, quân có nhân thì
thần mới trung, phụ có từ thì tử mới hiếu. Đó là quan hệ hai chiều mà ít người để ý.


Trong quan hệ vợ chồng thì chồng phải giữ đạo chồng, vợ phải giữ đạo vợ, vợ
phải nghe theo chồng được như thế xã hội sẽ có trật tự xã hội sẽ có trật tự kỷ
cương, thái bình thịnh trị. Như vậy, khi nghiên cứu học thuyết "chính danh" Khổng
Tử đưa ra ta cần tập trung vào các nội dung:
Tương xứng với địa vị cai trị, phải có phẩm chất tương ứng như nhân, nghĩa,
liêm, chính... đồng thời chỉ được sử dụng "lễ" tương ứng với địa vị đang được thừa
nhận, bề tôi, chư hầu, đại phu chỉ dùng "lễ" của bề tôi, chư hầu, đại phu, không
được dùng "lễ" của thiên tử. Trên dưới trật tự phân minh "vua lấy lễ mà sai khiến
bề tôi, bề tôi lấy trung để thờ vua". Là chức trách xã hội của người cai trị và của
mọi thành viên xã hội "làm vua phải cư xử cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra
cha, con cho ra con". Đánh giá vai trị của chính danh đối với cai trị, Khổng Tử
khái qt: Nếu khơng chính danh tất loạn, có nghĩa là các chức trách của xã hội
khơng chính được thì xã hội sẽ loạn. Nếu chính danh thì khơng cần ép buộc dân
cũng theo, tất trị, nghĩa là nếu các chức trách xã hội chính danh được thì dân sẽ
hưởng theo thì xã hội sẽ trị. Nhưng làm thế nào để thực hiện chính danh? ơng cho
rằng mọi người phải tự giác giữ lấy danh phận của mình. Từ thiên tử, chư hầu, đại
phu đến "kẻ sĩ" phải tu dưỡng đạo nhân để có sự tự giác đó. Vậy muốn chính danh
thì thân mình phải chính, ngơn ngữ cũng phải chính nữa, lời nói và việc làm phải
hợp với nhau, khơng được nói nhiều mà làm ít, khơng được lời nói thì kính cẩn mà
trong lịng thì khơng, hơn nữa "phải siêng năng về việc làm, thận trọng về lời nói"
và nên "chậm chạp về lời nói, mau mắn về việc làm". Khổng Tử cho rằng đối với
người cai trị thì "thân mình mà chính được thì khơng phải hạ lệnh mọi việc vẫn
tiến hành, thân mình mà khơng chính được thì dù có hạ lệnh cũng chẳng ai theo".
"Nếu thân mình mà chính được rồi thì đối với mọi việc chính sự có cịn gì khó.
Khơng thể chính được thân mình thì chính người khác thế nào? Khổng Tử khẳng
định "để mang cái danh là vua, thì phải làm trịn trách nhiệm của ông vua, nếu

không sẽ mất cái danh và mất ln cả ngơi.
Tóm lại, quy tắc chính danh đưa tới quy kết: ai ở địa vị nào cũng phải làm trịn
trách nhiệm, và ai giữ phận nấy, khơng được việt vị, nghĩa là không được hưởng
những quyền lợi cao hơn địa vị của mình. Khi Khổng Tử với tư cách một đại phu
trí sĩ có trách nhiệm khuyến cáo vua Lỗ trừng trị một nghịch thần của một nước
bạn, và ơng đã theo “chính danh” nghiêm cẩn làm trịn trách nhiệm đó. Cịn Hồn
Tử đã tự ban cho mình cái quyền dùng vũ “bát dật” mà chỉ thiên tử mới được dùng
là trái với quy tắc chính danh. “Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính” là quan điểm quan


trọng đối với Khổng Tử, ai giữ phận nấy, cứ theo đúng tổ chức xã hội rất chặt chẽ,
rất có tơn ti của chu cơng thì nước sẽ trị, thiên hạ mới gọi là hữu đạo. Hay nói cách
khác, mọi người phải trọng pháp điển, có tơn ti khơng ai được việt vị (lễ). Người
trên phải đính chính, làm trịn nhiệm vụ, u dân (nhân), có tín đức thì mới chính
danh, đáng được dân trọng. Như vậy, muốn cho xã hội khỏi loạn Khổng Tử đã đề
ra học thuyết “chính danh”, mà muốn chính danh thì phải tơn trọng “lễ”, và một
người muốn chính danh thì phải có nhân.
2. Những giá trị tích cực và hạn chế của học thuyết “chính danh” của Nho
giáo:
2.1. Những giá trị tích cực:
Nho giáo là một học thuyết đức trị, lễ trị, nhân trị, văn trị, khẩu hiệu của nó là thu
phục lịng người. Học thuyết chính danh đề ra là bài thuốc để chữa trị xã hội loạn,
nhằm mục đích thu phục lịng người. Do vậy, dù đứng ở một góc độ nào đi chăng
nữa thì đây cũng chính là một học thuyết chính trị xã hội, nó đưa xã hội vào kỷ
cương có lợi cho giai cấp thống trị. - Khổng Tử đưa ra học thuyết chính danh, địi
hỏi nhà cầm quyền phải có tài đức xứng với địa vị của họ, lời nói và việc làm phải
đi đơi với nhau, trọng việc làm hơn lời nói. Dùng đạo đức của người cầm quyền để
cai trị, cai trị bằng giáo dục, giáo dưỡng, giáo hóa chứ khơng phải là cai trị bằng
gươm giáo, bằng bạo lực. Đây là giá trị phổ biến tích cực cho đến ngày nay. Bởi vì
dù chính trị có hiện đại thế nào đi chăng nữa thì giáo dục, giáo dưỡng, giáo hóa

vẫn rất quan trọng, kết hợp giáo dục với pháp luật chúng ta sẽ rèn dũa con người
vào kỷ cương hơn.
Lời lẽ của học thuyết rất dân dã, ít tối tân, ít tư biện, ít mang tính bác học vì vậy
nó dễ hiểu, dễ nhớ nên người ta dễ vận dụng, nó là món ăn tinh thần của nhiều
người. "Chính danh là học thuyết mà ngồi những hạn chế thì có những yếu tố hợp
lý, rất có ý nghĩa đối với xã hội hiện đại. Nếu chúng ta thực hiện nó thì sẽ đưa xã
hội vào trật tự kỷ cương.
Học thuyết "chính danh" cũng đặt ra vấn đề coi trọng người hiền tài, sử dụng
người hiền tài đúng với trình độ của họ. Như vậy, sẽ phát huy được hết tiềm năng
của người hiền tài nhằm phục vụ cho dân, cho nước. Đây cũng là một học thuyết
coi trọng sự học tập, có học mới được làm quan, coi sự học là tiêu chí để vào chính


trị. Sự học ở đây là có giáo dục, được giáo dục, được giáo hóa để rèn dũa những
phẩm chất đạo đức, rèn khí tiết, tu khí tiết, tu tâm.
Học thuyết chính danh cịn có giá trị là khi thực hiện nó làm cho con người có
trách nhiệm với bản thân hơn, có trách nhiệm với cơng việc của mình hơn, từ đó
phấn đấu để hồn thành nhiệm vụ được giao.
2.2. Những hạn chế - Học thuyết của Khổng Tử:
Quá tuyệt đối hóa đạo đức, cho đạo đức là tất cả, từ đấy đánh giá con người quy
về đạo đức hết. Ơng khẳng định ơng vua chỉ cần đạo đức là đủ, hay khi đánh giá
hiền tài ông đưa tiêu chuẩn đạo làm mục tiêu, nhân đức là chỗ dựa cịn cái tài là chỉ
để chơi.
Học thuyết chính danh của Khổng Tử cịn có hạn chế đó là hồi cổ, bao hàm ý
bảo thủ, phải trọng danh cũ, phải hành động hợp với tiêu chuẩn cũ. Trong học
thuyết chính danh của Khổng Tử vẫn trọng danh hơn thực, trọng xưa hơn nay, từ
đó ơng đã gạt bỏ nhiều giá trị đạo đức mang tính nhân đạo.
Học thuyết chính danh mà Khổng Tử đưa ra "Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính",
"thứ nhân bất nghị" là khơng cho dân có quyền bàn việc nước. Chỉ một ý đó thơi
cũng cho ta thấy ở đây khơng có dân chủ. Mặc dù ông rất yêu dân, lo cho dân ănng

không cho dân bàn việc nước vì dân khơng được học, khơng đủ tư cách bàn việc
nước, cho họ làm việc nước thì sẽ loạn. - Hơn nữa, học thuyết chính danh cịn thể
hiện rõ sự bất bình đẳng, thang bậc trong xã hội, coi thường phụ nữ (người phụ nữ
phải theo chồng thì mới đúng đạo làm vợ), coi thường lao động chân tay. Và vì ơng
khơng dám đả động đến "tơng pháp" của Chu Cơng nên học thuyết chính danh của
ơng có vẻ lưng chừng, khơng triệt để. Và chỉ là lý thuyết sng vì đương thời danh
và thực mâu thuẫn nhau sâu sắc. Cái thực của đời sống xã hội, trật tự xã hội đã có
nhiều biến đổi làm cho cái danh phận cũ được quy định theo lễ chế của nhà Chu
khơng cịn phù hợp nữa. Do đó mà khơng thể làm đượchuyết "chính danh" chúng
ta khơng thể khơng đề cập đến "nhân" và “lễ”


CHƯƠNG III
Ý NGHĨA CỦA HỌC THUYẾT CHÍNH DANH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
ĐẠI

Đối với Việt Nam từ chính trị Nho giáo có ảnh hưởng rất quan trọng. Thực tế
xây dựng các triều đại phong kiến đã cho thấy điều đó, Nho giáo đã góp phần quan
trọng vào việc tổ chức đời sống - xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến một
cách có nề nếp, có quy chế, có kỷ cương. Nó đã có những đóng góp tích cực trong
việc khuyên bảo, dạy dỗ con người thương yêu đồng loại, quan hệ tốt với nhau.
Sống yên vui, hòa thuận với nhau. Nho giáo đặt giáo dục đạo đức để thuyết phục
và cảm hóa lên trên chính trị và hình phạt. Nho giáo tỏ rõ tinh thần tích cực đi vào
đời sống xã hội, đứng ra đảm nhận việc dân, việc nước nhằm thực hiện lý tưởng
của mình ở khắp mọi nơi. Vì thế cho nên Nho giáo thể hiện khá rõ chủ nghĩa nhân
đạo và nó góp phần tích cực vào việc thúc đẩy xã hội học tập. Và những ý nghĩa đó
đến nay vẫn cịn giá trị mà chúng ta vận dụng, phát triển thành cơng sẽ góp phần
rất lớn vào việc ổn định và phát triển đất nước trên tất cả các mặt. Qua 20 năm đổi



mới đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, đồng thời cũng cịn khơng ít thiếu sót và vấn đề mới đặt ra đòi hỏi
được giải quyết.
Trong 20 năm đó, trong nước và trên thế giới có nhiều biến đổi phức tạp tạo ra
cả thời cơ và thách thức mà chúng ta phải vượt qua, rút kinh nghiệm để tiếp tục chỉ
đạo đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới. Đảng ta luôn khẳng định, CNXH là mục tiêu lý
tưởng của Đảng và nhân dân ta, đi lên CNXH là yêu cầu khách quan, là con đường
tất yếu của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, đây là một sự nghiệp lâu dài vơ cùng
khó khăn gian khổ, từ một nước nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu bị chiến tranh
tàn phá nặng nề như nước ta đi lên CNXH lại càng khó khăn, phải trải qua nhiều
thời kỳ, nhiều chặng đường vừa làm, vừa rút kinh nghiệm và phải biết kế thừa
những thành tựu của dân tộc và tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, kinh nghiệm
của thời đại để vận dụng đúng đắn phù hợp với thực tế và quy luật khách quan. Để
làm được điều đó toàn Đảng, toàn dân chúng ta phải quyết tâm thực hiện mọi chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đặt ra. Mỗi người phải thấy
được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với đất nước, phải góp sức mình vào
xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Đây là mục tiêu mà toàn Đảng, toàn dân ta hướng tới. Cụ thể trong giai đoạn
hiện nay Đảng ta khẳng định phải đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và hoàn
thiện nhà nước pháp quyền thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Nhà nước pháp quyền quản lý xã hội bằng pháp luật và các công cụ
khác. Nhưng việc sử dụng bất cứ công cụ nào cũng phải trong khuôn khổ pháp
luật. Vì vậy, chúng ta phải đề ra một hệ thống pháp luật đồng bộ và đưa vào thực
thi. Vấn đề đặt ra là khi chúng ta đã đề ra luật, ra chính sách thì chúng ta phải thực
hiện bằng được, nếu đưa ra mà khơng thực hiện được thì sẽ nhờn luật và khơng thể
trừng trị những người có hành động xâm phạm lợi ích của tổ quốc và của nhân dân.
Để quyết tâm thực hiện được chủ trương, chính sách, pháp luật thì địi hỏi mỗi
người dân phải có ý thức, trách nhiệm hay nói cách khác là phải "chính danh, định
phận", nói phải đi đơi với làm, nói ít làm nhiều. Bên cạnh đó thì chúng ta phải kết
hợp các biện pháp giáo dục đạo đức, truyền thống để nâng cao ý thức pháp luật cho

người dân. Để làm được điều đó, nếu chúng ta vận dụng, phát triển học thuyết
chính danh của Nho giáo ở những nhân tố hợp lý thì sẽ thu được hiệu quả rất cao.
Chúng ta đang xây dựng một trật tự kỷ cương trong xã hội: Đảng ra Đảng, Nhà
nước ra Nhà nước, thủ trưởng ra thủ trưởng, nhân viên ra nhân viên, khơng có sự


lẫn lộn. Mỗi người, mỗi tổ chức phải giữ đúng danh phận, chức trách của mình.
Trước hết chúng ta phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, có trí tuệ xứng
đáng với vai trị lãnh đạo tồn xã hội. Muốn xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh,
điều quan trọng nhất là mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong sinh hoạt và
công tác, không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, nói đi đơi với làm, chấp hành
nghiêm chỉnh cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
kiên quyết khắc phục sự suy thoái đạo đức cũng như những tiêu cực trong xã hội.
Nói cách khác, người cán bộ, đảng viên phải thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng, vơ tư (như Hồ Chí Minh đã vận dụng đề ra) để làm gương cho nhân dân noi
theo. Đó là điều rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi tình trạng tham nhũng,
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ đảng viên là rất nghiêm trọng, nó có ảnh hưởng rất lớn đối với lịng tin của nhân
dân, với Đảng, với chế độ mà nguyên nhân chính là việc tổ chức thực hiện nghị
quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa tốt, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm
và tinh thần trách nhiệm chấp hành của cán bộ và nhân dân chưa cao. Vì vậy, mỗi
cán bộ, mỗi người đảng viên phải xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, hay
nói cách khác là phải "chính danh, định phận" để góp phần đề ra chủ trương, chính
sách cho phù hợp với thực tế và quyết tâm thực hiện tính nghiêm minh của pháp
luật.
Trong giai đoạn hiện nay, nếu chúng ta vận dụng học thuyết "chính danh" để
xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước có vị trí xứng đáng với tài năng của
mình, thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả làm việc của người lao động và năng suất
lao động xã hội sẽ ngày càng cao hơn. Thực tế hiện nay ở các cấp, các ngành vẫn
còn tồn tại một đội ngũ cán bộ kiêm chức khá đông, mà theo như Khổng Tử nói

"danh khơng chính thì ngơn khơng thuận, ngơn khơng thuận thì việc khơng
thành...". Cho nên hiệu quả cơng việc khơng cao, tình trạng ỷ lại cho nhau vẫn cịn
mà cụ thể nhất là vấn đề chịu trách nhiệm trước công việc chung. Vì vậy, xây dựng
đội ngũ cán bộ chúng ta phải coi trọng tài năng của họ để xây dựng đội ngũ cán bộ
có tính chun nghiệp, nghĩa là biết người, biết dùng người tạo điều kiện cho họ
phát huy hết tài năng và phẩm chất của mình, phải chính quy đội ngũ cán bộ, tránh
tình trạng kiêm nhiệm, kiêm chức để xảy ra tình trạng "nhiều sãi khơng ai đóng
cửa chùa".


KẾT LUẬN
Tóm lại, học thuyết "chính danh" của Nho giáo đương thời Khổng Tử là ảo tưởng,
nhưng những giá trị hợp lý của nó mà chúng ta biết vận dụng, biết chắt lọc và thực
hiện nó thì sẽ đưa xã hội vào trật tự kỷ cương, làm cho người dân trung thành với
chế độ với sự nghiệp hơn. Người công nhân trung thành với xí nghiệp, vui với cái
vui của xí nghiệp, buồn với cái buồn của xí nghiệp, vạn bất đắc dĩ mới chuyển xí
nghiệp. Vận dụng học thuyết "chính danh" ơng chủ coi cơng nhân như con cái của
mình, quan tâm, lo lắng đến cuộc sống của người cơng nhân, đến gia đình người
cơng nhân. Từ đó, người công nhân cũng làm việc xứng với cái danh của mình,
trung thành, hết lịng, thành tâm với ơng chủ, với xí nghiệp, dồn hết sức lực của
mình để tạo ra giá trị thặng dư cao. Đó là bí quyết hóa rồng của Nhật Bản và các
nước châu á. Điều đó rất có ý nghĩa trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam
hiện nay. Kết luận Qua nghiên cứu nội dung học thuyết chính danh của Nho giáo,
nếu chúng ta gạt bỏ đi những yếu tố bất hợp lý như là bất bình đẳng, thang bậc xã
hội, gạn lọc những nhân tố hợp lý của học thuyết thì nó rất có ý nghĩa đối với xã
hội hiện đại. Vận dụng nó chúng ta xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa có
tâm trong sáng, có trí tuệ và thể lực tốt, có lập trường quan điểm vững vàng, có
trách nhiệm với mình, với mọi người, có lịng u thương đồng loại, luôn phấn
khởi và tin tưởng đem hết nhiệt tình, trí tuệ và năng lực của mình đóng góp một
cách tích cực vào cuộc phấn đấu chung của cả nước và thế giới. Để phát triển đất

nước ngày càng giàu mạnh thì chúng ta phải phát huy nhân tố con người, khuyến
khích người dân học tập nâng cao trình độ, phải học tập khí tiến học, tinh thần học,
thái độ học của Nho giáo để không những tu dưỡng rèn luyện thành con người có
đức mà cịn phải học khoa học kỹ thuật để áp dụng và phát triển đất nước. Phải tôn
trọng và sử dụng người hiền tài, tạo điều kiện cho họ làm việc phù hợp với với sở
trường của từng người để tạo ra được giá trị cao trong lao động, làm cho họ dù ở
cương vị nào cũng hoàn thành nhiệm vụ được giao


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình Triết Học ,NXB chính trị Quốc gia-sự thật Hà Nội -2015.
2.Phan văn các “ nghiên cứu nho giáo Việt Nam trong bối cảnh khu vực và thời
đại’- tạp chí Triết Học.
3.Giáo trình “Triết học Mác-Lênin”-nhà xuất bản chính trị quốc gia-năm 2002.



×