Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

LUẬN VĂN: Xây dựng môi trường văn hóa ở thành phố Hạ Long trong thời kỳ đổi mới hiện nay ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 125 trang )


z













LUẬN VĂN:
Xây dựng môi trường văn hóa ở
thành phố Hạ Long trong thời kỳ
đổi mới hiện nay














Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chúng ta đang sống ở một thời đại có nhiều biến chuyển lớn lao. Những thay
đổi này diễn ra với một gia tốc mạnh mẽ không chỉ trong phạm vi quốc gia, khu vực
mà còn mang tính toàn cầu, tất yếu dẫn đến những triển vọng to lớn và cả những thách
thức nghiêm trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Phát triển trong
thời đại ngày nay đòi hỏi nhìn nhận văn hóa với một nhãn quan mới. Trong vài thập
niên trở lại đây, văn hóa có vai trò quan trọng chưa từng thấy trong lịch sử. Sự tiến
bộ hay lạc hậu của một quốc gia, sự phát triển hay trì trệ của một dân tộc, sự thành
công hay thất bại của một chiến lược phát triển, sự hưng thịnh hay suy vong của một
đất nước đều phụ thuộc vào chỗ văn hóa đã được nhận thức và sử dụng như thế nào
trong phát triển kinh tế - xã hội.
Điều đó chứng tỏ rằng, sự phát triển tiến bộ, bền vững của mỗi quốc gia dân
tộc chỉ có thể có được khi nó được tạo lập trong một môi trường văn hóa (MTVH)
trong sạch, lành mạnh, phong phú và mang đậm truyền thống của dân tộc. Về vấn
đề này, ông Federico Mayor - Tổng Giám đốc UNESCO - đã lên tiếng cảnh báo:
"Hễ nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách khỏi môi trường
văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra những mất cân đối nghiêm trọng cả về kinh tế lẫn
văn hóa, và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy giảm rất nhiều" [9, tr. 8].
Nhận thức rõ vị trí vai trò quan trọng của MTVH qua tổng kết lịch sử phát
triển mấy nghìn năm của dân tộc, kết hợp với nghiên cứu xem xét các yếu tố cơ bản
dẫn đến thành công hay thất bại của một số nước trên thế giới, tại Hội nghị Trung
ương 5 (khóa VIII) Đảng ta khẳng định: "Văn hóa là nền tảng tinh thần, là mục tiêu
và là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội". Theo tinh thần của Nghị quyết, sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) mà chúng ta đang tiến hành
nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội (CNXH) đang đặt ra nhiệm vụ
cấp bách là xây dựng một xã hội không chỉ có nền kinh tế và khoa học công nghệ


phát triển cao, mà cùng với nó phải là một MTVH trong sạch, lành mạnh, thực sự là
nguồn năng lượng tinh thần vô giá, là "cái nôi" nuôi dưỡng tâm hồn, phát triển trí
tuệ và hình thành nhân cách con người. Nhiệm vụ này hoàn toàn thống nhất với
mục tiêu của con đường đi lên CNXH mà Đảng ta đã lựa chọn: "Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" [16, tr. 163], hoàn toàn phù hợp với
nguyện vọng thiết tha của toàn thể dân tộc ta.
Thành tựu lớn lao của chặng đường hơn 15 năm đổi mới toàn diện đất nước
càng khẳng định xây dựng MTVH phải trở thành yêu cầu bức thiết và là điều kiện
cơ bản đảm bảo cho sự thành công của công cuộc đổi mới, đảm bảo sự phát triển
tiến bộ, bền vững của quốc gia dân tộc. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX cũng
khẳng định phải phát triển nhanh nhưng bền vững; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi
với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; mục tiêu chân - thiện
- mỹ là đích vươn tới của văn hóa Việt Nam.
Cũng cần phải nghiêm túc thừa nhận rằng, bên cạnh những thành tựu đáng
tự hào mà chúng ta đã đạt được trong công cuộc đổi mới vừa qua, thực trạng
MTVH nước ta còn nhiều những hạn chế, bất cập đáng lo ngại: sự gia tăng nhanh
chóng của tệ nạn xã hội; sự băng hoại đạo đức, lối sống của một lớp người trong xã
hội, đặc biệt là lớp thanh niên trẻ; sự tấn công, phá hoại nhiều mặt của các thế lực
thù địch trong và ngoài nước đang làm xói mòn đạo đức, lối sống, phá vỡ thuần
phong mỹ tục, chao đảo kỷ cương, phép nước Tất cả dẫn đến nguy cơ nhiễu loạn,
ô nhiễm MTVH, cản trở con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Tuy nhiên, việc xây dựng MTVH đáp ứng những yêu cầu nhiệm vụ của
CNH, HĐH đất nước còn là vấn đề khá mới mẻ, chưa được quan tâm nhiều trong
hoạt động nghiên cứu khoa học cũng như trong thực tiễn xây dựng MTVH ở các địa
phương cho nên không tránh khỏi những hạn chế, bất cập trong nhận thức và giải
quyết vấn đề.
Hạ Long (thuộc tỉnh Quảng Ninh) là một thành phố trẻ, một trung tâm du
lịch của cả nước, có tầm cỡ thế giới. Đặc biệt, với hệ thống đường biển và cảng biển

phong phú và thuận lợi, Hạ Long là cửa ngõ giao thông quan trọng của các tỉnh phía

Bắc trong giao lưu với các nước trong khu vực và quốc tế. Vì vậy, xây dựng MTVH
của thành phố càng là vấn đề cấp thiết và không kém phần khó khăn, phức tạp. Xuất
phát từ tình hình đó, tác giả chọn đề tài: "Xây dựng môi trường văn hóa ở thành
phố Hạ Long trong thời kỳ đổi mới hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Về vấn đề MTVH và xây dựng MTVH ở nước ta cho đến nay đã có một số
công trình nghiên cứu của các tác giả đề cập đến như:
Văn hóa - một số vấn đề lý luận của PGS. Trường Lưu, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1999. Tác giả đã xem xét MTVH trong mối quan hệ thống nhất hữu cơ
với môi trường tự nhiên (MTTN) và môi trường xã hội (MTXH), từ đó đặt ra yêu
cầu trong hoạt động xây dựng MTVH cần có sự kết hợp hài hòa, đồng bộ với nhiệm
vụ xây dựng MTTN và MTXH nhằm phát triển toàn diện con người, qua đó tác
động tới sự phát triển của văn hóa, xã hội.
GS.TS Hoàng Vinh trong cuốn Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng
môi trường văn hóa ở nước ta hiện nay, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1999 nhấn
mạnh vai trò của việc tổ chức xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở - bước đi ban đầu
của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc - đưa văn hóa
thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân.
Từ việc đi sâu nghiên cứu khái niệm, bản chất, chức năng của văn hóa,
GS.TS Trần Văn Bính trong Đề cương bài giảng lý luận văn hóa (cho hệ đào tạo
cao học và nghiên cứu sinh), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,
2000 xem MTVH được hình thành bởi các giá trị mà hoạt động của con người tạo
ra.
Trong công trình nghiên cứu Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta hiện nay
từ góc nhìn giá trị học, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2002, GS.TS Đỗ Huy đã
tiếp cận MTVH theo thước đo giá trị lịch sử - xã hội, làm hiện diện bản chất của

MTVH như một di sản có nhiều năng lượng quý hiếm mà tất cả các thế hệ tiếp nối
đều phải gìn giữ và sáng tạo tiếp. Từ đó đề ra việc đánh giá MTVH phải được dựa
vào một hệ chuẩn nhất định.

Tiếp cận văn hóa như một tổng thể chiều sâu, bề rộng, tầm cao của các giá
trị mang tính nhân văn, TS. Văn Đức Thanh trong cuốn Về xây dựng môi trường
văn hóa cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001 đã đặt ra yêu cầu nhận thức và
vận dụng đúng đắn những vấn đề phương pháp luận trong quá trình xây dựng
MTVH cơ sở.
TS. Trần Lê Bảo và các tác giả của cuốn Văn hóa sinh thái nhân văn, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2001 lại xem xét vấn đề văn hóa, MTVH từ góc độ quan
hệ hữu cơ của con người với tự nhiên, với môi trường sinh thái (MTST) của nó, coi
đó là cơ sở để giải quyết vấn đề MTST - nhân văn, cũng là MTST - xã hội đang trở
nên bức xúc hiện nay.
Ngoài ra, nhiều tác giả không trực tiếp đề cập đến MTVH mà đi sâu nghiên
cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về văn hóa như: Văn hóa và đổi mới của
Phạm Văn Đồng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Vấn đề văn hóa và phát
triển của GS.TS Hoàng Trinh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; Quản lý hoạt
động văn hóa của Nguyễn Văn Hy - Phan Văn Tú - Hoàng Sơn Cường, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội, 1998; Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001; Những vấn đề văn hóa Việt Nam đương đại của GS.TSKH
Bùi Khái Vinh, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2001 Đây thực sự là những công
trình nghiên cứu có giá trị, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu toàn diện về MTVH.
Trong những năm gần đây, đã có một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ
nghiên cứu về MTVH ở các lĩnh vực khác nhau và các địa phương khác nhau. Tuy
nhiên, MTVH vẫn đang đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn cần giải quyết tiếp
và vấn đề "Xây dựng môi trường văn hóa ở thành phố Hạ Long trong thời kỳ đổi
mới hiện nay" chưa có công trình nào đề cập đến. Kế thừa những thành tựu đã đạt

được, luận văn này sẽ tập trung đi sâu vào tìm hiểu toàn diện hơn về MTVH và làm
rõ những vấn đề đang đặt ra trong việc xây dựng MTVH ở thành phố Hạ Long hiện
nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu

Mục đích:
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về MTVH, luận văn khảo sát
và đánh giá thực trạng MTVH ở thành phố Hạ Long, từ đó đề xuất một số giải pháp
chủ yếu xây dựng MTVH thành phố Hạ Long trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận MTVH.
- Khảo sát và đánh giá đúng thực trạng MTVH ở thành phố Hạ Long hiện
nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu lực, hiệu quả xây dựng
MTVH ở thành phố Hạ Long trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chủ yếu tập trung phân tích, đánh giá thực trạng MTVH ở thành
phố Hạ Long, từ đó đề ra các giải pháp sát thực, hữu hiệu.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ
nghĩa duy vật biện chứng, dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan
điểm của Đảng về văn hóa và xây dựng MTVH trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
- Kết hợp các phương pháp phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử; tiếp thu
và sử dụng linh hoạt các phương pháp so sánh, thống kê, điều tra xã hội học; sử
dụng kiến thức liên ngành về văn hóa - môi trường trong quá trình nghiên cứu.
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài

- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về MTVH và xây dựng MTVH ở nước ta
hiện nay.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng MTVH ở thành phố Hạ Long.
- Đề xuất một số giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu lực, hiệu quả xây
dựng MTVH ở địa phương trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Luận văn thành công sẽ là đề tài tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng
dạy môn Lý luận văn hóa trong hệ thống các trường Đảng địa phương.

- Luận văn cung cấp nguồn tư liệu cho các cấp các ngành và chính quyền
địa phương tham thảo trong hoạt động lãnh đạo quản lý xây dựng MTVH trên địa
bàn thành phố.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương, 6 tiết.

Chương 1
môi trường văn hóa và Vai trò của xây dựng
môi trường văn hóa trong sự nghiệp đổi mới

1.1. Quan niệm về môi trường văn hóa
Nói tới văn hóa là nói tới con người, nói đến việc phát huy những năng lực
bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Nghiên cứu
MTVH trên cơ sở phương pháp luận mácxít thực chất là nghiên cứu mối quan hệ
biện chứng giữa con người với hoàn cảnh. Con người là một thực thể xã hội được
hình thành trong những điều kiện hoàn cảnh tự nhiên và xã hội nhất định, trong đó
con người không chỉ là sản phẩm của hoàn cảnh mà còn là kẻ sáng tạo ra hoàn cảnh,
là chủ thể tích cực của hoàn cảnh. Mác và Ăngghen đã khẳng định rằng: "Con
người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức
ấy" [28, tr. 55].
Như vậy, xét theo góc độ văn hóa, con người vừa là chủ thể sáng tạo, tích
lũy và phát triển văn hóa, vừa là khách thể trong sự tác động trở lại của văn hóa
nhằm tạo nên những nhân cách toàn diện. Toàn bộ những sản phẩm văn hóa do con
người sáng tạo ra bằng tri thức, lao động và tất cả các hoạt động khác của nó hợp
thành một "thế giới nhân tạo" phân biệt với thế giới tự nhiên, được gọi là "hệ sinh
thái văn hóa". Cùng với hệ sinh thái tự nhiên, hệ sinh thái văn hóa thường xuyên tác
động đến con người, nuôi dưỡng tâm hồn, phát triển trí tuệ và hình thành nhân cách
con người. Trong sự tác động qua lại nhiều chiều ấy, "nếu đại tự nhiên là cái nôi
đầu tiên nuôi sống con người thì văn hóa là cái nôi thứ hai, ở đó toàn bộ đời sống

của con người được hình thành, được nuôi dưỡng và phát triển. Con người không
thể tồn tại nếu tách rời đại tự nhiên, cũng như con người không thể thực sự là con
người nếu tách rời môi trường văn hóa" [8, tr. 65].

Từ góc độ nghiên cứu một số vấn đề về lý luận và thực tiễn của MTVH, cần
thiết phải tìm hiểu các khái niệm văn hóa, MTVH.
1.1.1. Văn hóa và môi trường văn hóa
Khái niệm văn hóa
Văn hóa là một thuật ngữ có nội hàm ngữ nghĩa khá phong phú và phức tạp,
có nguồn gốc cả ở phương Tây và phương Đông. ở phương Tây, từ văn hóa xuất
hiện rất sớm trong đời sống ngôn ngữ, ban đầu nó là một từ có căn gốc La tinh
"colere", sau trở thành "cultura" nghĩa là cày cấy, vun trồng. Về sau, "cultura" được
chuyển sang nghĩa rộng hơn là sự vun trồng tinh thần, trí tuệ. Cicéron, nhà chính trị
hùng biện thời La Mã (thế kỷ I Tr. CN) từng có câu nói nổi tiếng: "Filosofia cultura
animiest" nghĩa là: Triết học là văn hóa (sự vun trồng) tinh thần, chính là nói về quá
trình giáo dục, bồi dưỡng về các mặt tinh thần, trí tuệ cho con người. ở phương
Đông, từ văn hóa xuất hiện vào thời Tây Hán. Lưu Hướng (năm 77-6 Tr. CN) trong
sách Thuyết Uyển, bài Chỉ Vũ có viết: "Bậc thánh nhân trị thiên hạ, trước dùng văn
đức, sau mới dùng vũ lực. Phàm dùng vũ lực đều để đối phó kẻ bất phục tùng, dùng
văn hóa không thay đổi được thì sau đó sẽ chinh phạt" [38, tr. 13]. ở đây, văn hóa
được hiểu như một cách giáo hóa đối lập với vũ lực, theo đó văn hóa là "văn trị giáo
hóa" tức là dùng "văn trị" (cái hay cái đẹp) để "giáo hóa" (giáo dục cảm hóa) con
người. Như vậy có thể thấy, ngay từ thuở rất xa xưa, ở cả phương Tây và phương
Đông, con người đã ý thức được về văn hóa và vai trò của nó đối với việc giáo dục,
bồi dưỡng tâm hồn, trí tuệ và tình cảm con người.
Mặc dù có mặt rất sớm trong đời sống ngôn ngữ như vậy, nhưng phải đến
thế kỷ XVIII, từ văn hóa mới được đưa vào sử dụng như một thuật ngữ khoa học
với ý nghĩa: văn hóa là toàn bộ những gì được tạo ra do hoạt động xã hội của con
người, nghĩa là văn hóa đối lập với trạng thái tự nhiên. Cuối thế kỷ XIX, sau khi
công trình "Văn hóa nguyên thủy" của E.B. Taylor được công bố (1871), ngành

khoa học về văn hóa mới chính thức được khẳng định. Tuy nhiên, chỉ đến thế kỷ
XX, đặc biệt là những thập niên cuối của thế kỷ, việc nhận thức về văn hóa và vai

trò của nó đối với đời sống xã hội mới thực sự được chú ý. Sự phát triển như vũ bão
của khoa học công nghệ khiến con người tiến nhanh về phía trước với những bước
đi của "người khổng lồ", song bên cạnh đó là sự sụp đổ về mô hình phát triển ở một
số quốc gia dân tộc chỉ chú trọng phát triển kinh tế thuần túy, xem nhẹ vai trò của
văn hóa đã khiến cho con người bắt đầu nhìn nhận văn hóa với một nhãn quan mới.
Văn hóa được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Bằng lập luận của mình, mỗi nhà
khoa học đều có sự phân tích, bổ sung thêm, làm cho văn hóa trở thành một đối
tượng đặc biệt có nội hàm không ngừng được mở rộng, được nhìn nhận với một thái
độ rất văn hóa và cũng rất khoa học. Bởi lẽ đó, cho đến nay, theo thống kê của một
nhà dân tộc học người Mỹ, có khoảng hơn 400 định nghĩa về văn hóa. Có thể nói,
có bao nhiêu người nghiên cứu văn hóa thì có bấy nhiêu định nghĩa về văn hóa, và
việc đưa ra một khái niệm đầy đủ về văn hóa là vô cùng khó khăn. Jacques Dérrida,
nhà nghiên cứu văn hóa người Pháp đã phải thốt lên: "Văn hóa chính là cái tên mà
chúng ta đặt cho điều bí ẩn không cùng với những ai ngày nay đang tìm cách suy nghĩ
về nó" [19, tr. 35].
Từ điển Triết học đưa ra định nghĩa: "Văn hóa gồm toàn bộ những giá trị
vật chất và tinh thần do con người tạo ra trong quá trình thực tiễn xã hội - lịch sử và
tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội Văn hóa là một hiện
tượng lịch sử, phát triển phụ thuộc vào sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội"
[43, tr. 1329-1330].
Hiện nay UNESCO đang nhìn nhận văn hóa với một ý nghĩa rộng rãi hơn,
coi văn hóa như một phức thể - tổng thể các đặc trưng, diện mạo về tinh thần, vật
chất, tri thức, tình cảm khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm
làng, vùng miền, quốc gia, xã hội. Năm 1988, khi phát động Thập kỷ thế giới phát
triển văn hóa, Tổng giám đốc UNESCO Federico Mayor cũng đưa ra một định
nghĩa: "Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của cá nhân và cộng
đồng trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình

thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác
định đặc tính riêng của mỗi dân tộc" [9, tr. 23]. Với ý nghĩa đó, văn hóa có mặt

trong bất cứ hoạt động nào của con người, dù đó là hoạt động sản xuất vật chất và
sản xuất tinh thần, hay trong quan hệ giao tiếp ứng xử xã hội, trong thái độ đối với
thiên nhiên.
ở Việt Nam nước ta, văn hóa từ danh từ chuyển hóa thành thuật ngữ đa
nghĩa cả trong ngôn ngữ thường ngày lẫn trong luận điểm khoa học. Xa xưa, ông
cha ta dùng từ "văn hiến" thay cho từ văn hóa như hiện nay và nội hàm của nó cũng
chưa mở rộng như các giai đoạn sau này. Từ đời Lý (1010), người Việt đã tự hào
nước mình là một "văn hiến chi bang". Đến đời Lê (thế kỷ XV), danh nhân văn hóa
Nguyễn Trãi đã khẳng định: "Duy ngã Đại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang"
(Duy nước Đại Việt ta thực sự là một nước văn hiến). Từ "văn hiến" mà Nguyễn Trãi
dùng ở đây là một khái niệm rộng chỉ một nền văn hóa cao, trong đó nếp sống tinh
thần, đạo đức được chú trọng.
Năm 1942, tại "Mục đọc sách" viết xen trong bản thảo "Nhật ký trong tù",
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa hết sức xác đáng: "Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa" [30, tr. 431]. Với định nghĩa này, Hồ Chí
Minh bằng cách tiếp cận biện chứng đã nắm bắt trạng thái vận động và cả trạng thái
tĩnh của văn hóa.
Học giả Đào Duy Anh trong cuốn Việt Nam văn hóa sử cương cũng đưa ra
một nhận định mang dáng nét tương đồng với quan niệm của Hồ Chủ tịch: "Hai tiếng
văn hóa chẳng qua là chỉ chung tất cả các phương tiện sinh hoạt của loài người cho
nên ta có thể nói rằng: "Văn hóa tức là sinh hoạt"" [2, tr. 13].
Những năm gần đây, nghiên cứu văn hóa thực sự trở thành một môn khoa
học tại Việt Nam. Một số học giả tập trung nghiên cứu về văn hóa tiếp tục đưa ra
các quan niệm của mình về văn hóa. Trên cơ sở phân tích các định nghĩa về văn hóa,

PGS.TSKH Trần Ngọc Thêm đã đưa ra định nghĩa: "Văn hóa là một hệ thống hữu cơ

các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt
động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội
của mình" [42, tr. 27]. Định nghĩa này đã nêu bật bốn đặc trưng quan trọng của văn
hóa là: tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử, tính nhân sinh.
Ngoài ra, một số các định nghĩa khác của GS. Hà Văn Tấn, GS. Trần Quốc
Vượng, GS. Hoàng Vinh, GS. Trần Văn Bính, PGS. Trường Lưu cũng là những
đóng góp quan trọng bổ sung cho nhận thức chung về văn hóa. Mặc dù đứng ở
nhiều góc độ tiếp cận khác nhau nên cách giải thích, cách quan niệm cũng khác
nhau song nhìn chung, đại đa số các nhà nghiên cứu văn hóa đều quan niệm văn hóa
gắn với con người, là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra, trở
thành bộ phận cơ bản trong xã hội.
Tóm lại, văn hóa không phải là một lĩnh vực riêng biệt có tính ngành nghề.
Đó là hoạt động nhằm phát huy những năng lực bản chất của con người, vươn tới
cái chân, cái thiện, cái mỹ. Văn hóa là hoạt động nhằm tạo ra những giá trị, những
chuẩn mực xã hội. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân và
hoạt động có hướng đích nhằm đạt tới một giá trị nào đó trong xã hội. Văn hóa là
"thiên nhiên thứ hai", là "cái nôi' nuôi dưỡng tâm hồn và hình thành nên phẩm giá
con người. Một không gian văn hóa lành mạnh bao gồm toàn bộ những sản phẩm,
hành động, khuôn mẫu ứng xử chứa đựng hệ thống giá trị nhân văn và vốn kinh
nghiệm xã hội, sẽ tạo thành "môi trường văn hóa" lành mạnh nuôi dưỡng đời sống
tinh thần con người, phát triển con người ngày càng hoàn thiện về mọi mặt. Đây
chính là cơ sở lý luận quan trọng để tiếp cận, nghiên cứu về MTVH.
Khái niệm môi trường văn hóa
Trước đây ở nước ta, một số khái niệm liên quan đến môi trường như: môi
trường sống, môi trường tự nhiên, môi trường xã hội thường được dùng phổ biến
để chỉ phạm vi những điều kiện thiết yếu cho sinh vật (trong đó có con người) tồn
tại và phát triển. Từ Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII) của Đảng Cộng sản Việt
Nam, một thuật ngữ mới là "môi trường văn hóa" bắt đầu xuất hiện, được đông đảo


mọi người tiếp nhận và nhanh chóng thu hút sự tập trung chú ý của nhiều nhà nghiên
cứu. Đây thực sự là vấn đề mới mẻ trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa, cho đến nay
chưa có được một quan niệm thống nhất.
Từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, khái niệm "môi trường" mới chỉ được tiếp
cận ở góc độ khoa học tự nhiên thuần túy ở phương Tây nên môi trường chỉ được
coi là những gì thuộc về tự nhiên hay thế giới vật chất bao quanh con người như
không khí, đất, nước, các loài sinh vật v.v Quan niệm này trở thành khá phổ biến
ở nhiều nước trên thế giới trong suốt một thời gian dài. ở Việt Nam những năm gần
đây, quan niệm này vẫn còn tồn tại trong giới nghiên cứu khoa học. Tạp chí Cộng sản
số 19/1996 đưa ra quan niệm: "Môi trường là tổng hợp các điều kiện cư trú về tự
nhiên và sinh thái của con người, của một hay nhiều loài động vật, thực vật hoặc
sinh vật", từ đó dẫn đến quan niệm về bảo vệ môi trường là "tổng hợp các biện pháp
nhằm quản lý, duy trì, sử dụng hợp lý, phục hồi, nâng cao hiệu quả sử dụng môi
trường tự nhiên giúp cho cuộc sống của con người và thiên nhiên có sự hài hòa, phù
hợp" [44, tr. 58]. Qua đó có thể thấy, khái niệm môi trường bị đồng nhất (hoặc lẫn
lộn) với khái niệm MTTN, MTST.
Thực ra, nhìn nhận vấn đề ở tầm khái quát có thể thấy khái niệm "môi
trường" chỉ một phạm vi rất rộng lớn. Theo định nghĩa của UNEP (chương trình môi
trường của Liên hợp quốc) thì: "Môi trường là thế giới mà chúng ta đang sống trong
đó"; trong quan niệm của nhà nghiên cứu ấn Độ Suriyakuran, "môi trường có thể
được xác định như là tổng di sản hành tinh và tổng số của tất cả các tài nguyên" [31,
tr. 25].
Michel Batisse, nhà nghiên cứu người Pháp nổi tiếng về môi trường và tài
nguyên thiên nhiên đã khẳng định: "Môi trường không chỉ bó hẹp ở những không
gian được gọi là tự nhiên và đã bị biến đổi ít nhiều qua các thời kỳ mà còn bao gồm
cả những không gian nhân tạo làm thành khung cảnh cho cuộc sống của hầu hết mọi
người" [29, tr. 47-48].

Trên cơ sở những quan niệm về môi trường theo nghĩa rộng mà các nhà

nghiên cứu đã đưa ra, PGS. Trường Lưu khái quát lại: "Về một định nghĩa chung nhất
thì môi trường là những gì gắn chặt và bao quanh con người" [27, tr. 241].
Tập hợp tất cả các ý kiến trên, có thể rút ra nhận định: Môi trường là một
khái niệm "mở", nó bao gồm "mọi thứ quanh ta", "có liên quan mật thiết với ta". Đó
là những yếu tố tự nhiên hay nhân tạo, thuộc phạm trù vật chất hay tinh thần, bao
quanh con người, có ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển của con người và xã hội.
Theo đó có thể hiểu, môi trường sống của con người không chỉ là MTTN và MTXH,
đó là còn là MTVH - môi trường sống đặc biệt chỉ có ở cộng đồng người. Các yếu
tố này có quan hệ hữu cơ mật thiết với nhau, đan xen vào nhau tạo nên điều kiện
sống và điều kiện phát triển của cá nhân và của xã hội. Như vậy, MTVH chính là
một bộ phận của môi trường sống của con người, nhưng nó không tồn tại tự thân mà
nó chính là kết quả của sự "đan bện" rất phức tạp và đa dạng giữa các hệ môi trường
với nhau, tạo nên một môi trường đặc biệt riêng có ở con người, gắn với cuộc sống
của con người, còn gọi là môi trường nhân văn (MTNV).
Khái niệm MTVH lần đầu tiên được đề cập đến trong tác phẩm "Sinh thái
nhân văn" năm 1975 của Giáo sư sinh - nhân chủng học người Pháp Georges
Olivier, trong đó MTVH hay MTNV được tạo nên bởi "sự tác động của con người
tới con người" và "tổ chức xã hội của chúng ta", còn "sự tác động của con người với
tự nhiên cũng như sản phẩm từ nền công nghiệp đương nhiên đã có và phải có" [20,
tr. 10]. Theo ý nghĩa này, MTVH là khái niệm mang tính đa phương, đa diện:
MTVH là không gian văn hóa chứa đựng các mối quan hệ giữa con người với thiên
nhiên, con người với xã hội, con người với con người.
Theo quan niệm của nhà nghiên cứu Xô viết GS.TS Triết học A.I.ác-nôn-đốp
, MTVH là "tổng thể ổn định những yếu tố vật thể và nhân cách, nhờ đó các cá thể
tác động lẫn nhau. Chúng ảnh hưởng tới hoạt động khai thác và sáng tạo giá trị văn
hóa, tới nhu cầu tinh thần, hứng thú và định hướng giá trị của họ. Môi trường văn hóa

không chỉ là tổng hợp những yếu tố văn hóa vật thể mà còn có những con người hiện
diện văn hóa" [1, tr. 75].
ở Việt Nam những năm gần đây, MTVH trở thành vấn đề bức xúc, thu hút

sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Xuất phát từ những mục đích nghiên cứu khác
nhau, các nhà nghiên cứu đề cập và tiếp cận MTVH từ các góc độ và cấp độ cũng
khác nhau. Trong công trình nghiên cứu khoa học "Nuôi dưỡng giá trị văn hóa trong
nhân cách người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam" của Bộ Quốc phòng, "môi
trường văn hóa là tổng hòa những thành tố vật chất và tinh thần tương đối ổn định,
trong một thời gian và không gian cụ thể, ở đó các cá nhân tác động đến nhau, con
người là yếu tố quan trọng nhất của môi trường văn hóa" [46, tr. 32].
Từ góc độ lãnh đạo, quản lý, các tác giả của cuốn sách "Quản lý hoạt động
văn hóa" năm 1998 nhận định: "Môi trường văn hóa là một tổng thể các sản phẩm
văn hóa, chương trình văn hóa, hành vi văn hóa, thiết chế, phương tiện và cảnh quan
văn hóa mà cá nhân tiếp xúc trong suốt đời mình và có ảnh hưởng qua lại với
mình" [24, tr. 77].
Mới đây, xuất phát từ quan điểm giá trị học, GS.TS Đỗ Huy cho rằng: "Môi
trường văn hóa gắn với toàn bộ hoạt động người. Các lớp và không gian của môi
trường gắn liền với sự đối tượng hóa các năng lực bản chất của con người " [23, tr.
24]. Từ đó, tác giả đi đến kết luận: "Môi trường văn hóa chính là sự vận động của các
quan hệ của con người trong các quá trình sáng tạo, tái tạo, đánh giá, lưu giữ và hưởng
thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của mình" [23, tr. 35-36]. Như vậy, có thể
hiểu MTVH là tổng hòa các giá trị văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần tác động
đến con người và cộng đồng trong một không gian và thời gian xác định, ảnh hưởng
trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách, lối sống của cá nhân và cộng
đồng. Theo ý nghĩa này, MTVH đồng nghĩa với MTNV, bởi theo TS. Vũ Hào
Quang, MTNV chính là "những điều kiện tự nhiên, văn hóa, xã hội xung quanh con
người, có tác động trực tiếp tới sự hình thành phát triển nhân cách của cá thể, lối
sống của các nhóm xã hội cũng như của toàn thể xã hội" [34, tr. 3-4]. MTVH chính

là dạng "môi trường sống đặc biệt" chỉ có ở cộng đồng người. Và nếu tiếp cận văn
hóa như sự phát triển những "giá trị người" theo cái chân - thiện - mỹ trong tiến
trình lịch sử thì môi trường sống của con người bao quát toàn bộ MTXH và những
gì thuộc MTTN nhưng được con người "nhân hóa", "văn hóa hóa", "thẩm mỹ hóa".

Mặc dù góc độ nghiên cứu, cấp độ nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và cách
diễn giải về MTVH khác nhau nhưng các tác giả đều đi đến khẳng định MTVH là
một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong môi trường sống của con người.
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng để phân tích khái niệm cũng rất đa
dạng, song nhìn chung, quan niệm về MTVH của các tác giả mang tính đồng thuận,
đồng chiều, không có sự đối lập, mâu thuẫn, phủ định nhau.
Tuy nhiên, để nắm được một cách đầy đủ bản chất của MTVH, cần đối
chiếu, so sánh và phân biệt khái niệm MTVH với một số khái niệm khác có liên
quan.
Lâu nay, văn hóa được coi là "thiên nhiên thứ hai" do con người tạo nên, là
"cái nôi" nuôi dưỡng đời sống tinh thần, tình cảm con người. Gần đây, khi khái
niệm MTVH xuất hiện, người ta cũng gọi MTVH là "cái nôi" nuôi dưỡng tinh thần
và phát triển nhân cách con người. Đó không phải là những cách hiểu thiếu chiều sâu
dẫn đến sự lẫn lộn, không phân biệt hoặc đồng nhất hai khái niệm này. Nguyên do là ở
chỗ giữa hai khái niệm "văn hóa" và "môi trường văn hóa" có những nét tương đồng.
Nếu văn hóa là "sự phát huy các năng lực bản chất của con người, là sự thể hiện đầy đủ
nhất chất người nên văn hóa trở thành năng lực tinh thần đặc biệt, giúp con người hoàn
thiện nhân cách, tâm hồn, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của con người" [8, tr.
65], thì một khi đã hình thành, văn hóa lại tạo ra môi trường sống, MTVH của con
người, góp phần quan trọng trong việc hình thành con người như một thực thể văn
hóa. Trong mối quan hệ nhiều chiều của môi trường sống đến con người, văn hóa và
MTVH đều là những nhân tố có ảnh hưởng, tác động quan trọng đến phát triển toàn
diện con người.

Bên cạnh những nét tương đồng, có thể nhận thấy giữa văn hóa và MTVH
có những sự khác biệt tương đối để phân định, không thể đồng nhất. Văn hóa hàm
chứa một ý nghĩa rất rộng lớn. Văn hóa được nhìn nhận là trình độ, năng lực bản
chất người, là hoạt động sáng tạo và sản phẩm (giá trị) sáng tạo của con người. Văn
hóa vừa tiềm ẩn trong con người, vừa được thể hiện ra thế giới xung quanh con
người. Còn MTVH lại chính là một bộ phận của môi trường sống được "nhân hóa",

"văn hóa hóa", "thẩm mỹ hóa" , là sự biểu hiện văn hóa của con người ra bên ngoài
cùng với con người hoạt động văn hóa. Hơn thế nữa, văn hóa là một trong những
yếu tố quan trọng định hướng, chi phối bản chất, trình độ phát triển của MTVH, bởi
theo GS.TS Trần Văn Bính, "văn hóa không dừng lại ở các hoạt động. Các hoạt
động sẽ tạo ra các giá trị. Giá trị là hạt nhân tạo nên văn hóa, là hòn đá thử vàng để
phân biệt các hoạt động văn hóa với các hoạt động phản văn hóa. Các giá trị này
đến lượt nó lại hình thành nên khái niệm mà ta gọi là môi trường văn hóa" [8, tr.
67].
Trong mối quan hệ với con người, MTVH giữ vai trò khách thể, là cái "bao
quanh" con người, tác động trở lại con người một cách khách quan. Con người là
yếu tố quan trọng, giữ vai trò chủ thể của văn hóa. Văn hóa luôn luôn vận động biến
đổi. Thông qua sự vận động và phát triển của văn hóa, MTVH luôn luôn được bồi
đắp các giá trị mới, đó là các giá trị nhân văn, nhân bản, hiện đại, đảm bảo cho sự
phát triển tiếp nối các giá trị truyền thống, tạo ra tính đa dạng, linh hoạt của MTVH.
"Môi trường văn hóa là thành quả kết tinh của một thời đại cụ thể" [23, tr. 67], song
nó không đơn thuần chỉ là sản phẩm của nền văn hóa trong xã hội hiện tại mà còn là
sự phát triển tiếp nối của truyền thống dân tộc, của hệ thống các giá trị, các chuẩn
mực đạo đức, pháp luật, các phương thức hoạt động, khuôn mẫu ứng xử được các
thế hệ liên tục nuôi dưỡng và bồi đắp thêm, đã định hình và tương đối ổn định trong
suốt tiến trình vận động và phát triển nền văn hóa dân tộc. Vì vậy, có thể khẳng định
rằng, MTVH là một bộ phận quan trọng, một phương diện cốt lõi của văn hóa, phản
ánh bản chất, trình độ phát triển của nền văn hóa trong một xã hội cụ thể.

Theo quan điểm giá trị học, MTVH là tổng thể các giá trị tinh thần "bao
quanh con người". Chất lượng của MTVH trong từng giai đoạn lịch sử nhất định là
yếu tố quyết định sự phát triển con người, phát triển xã hội trong giai đoạn lịch sử
ấy.
Trong thực tế, MTVH được biểu hiện như sự đan xen phức hợp giữa
MTTN và MTXH. Không nên lẫn lộn hay đồng nhất MTVH với MTXH mặc dù
chúng có quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động hữu cơ với nhau: "Môi trường xã hội

nói chung, trong đó bao gồm nhiều yếu tố văn hóa, hay môi trường văn hóa cũng
đồng thời là môi trường xã hội nếu hiểu văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội"
[27, tr. 241]. Có nghĩa là, MTXH và MTVH vừa thống nhất hữu cơ, vừa khu biệt
theo cơ chế tổ chức. Cũng không nên quan niệm MTVH, do chỗ là tổng hợp những
giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra nên nó biệt lập, tách rời MTTN. Đến
đây có thể thấy rõ, sự phân định môi trường sống của con người ra thành ba lĩnh
vực: MTTN, MTXH, MTVH như trên chỉ có tính tương đối. MTVH là một lĩnh vực
riêng có trong môi trường sống của con người, nó có tính độc lập tương đối với quy
luật vận động và phát triển mang tính đặc thù. Sự "đan bện" phức hợp giữa ba hình
thái môi trường này sẽ tạo ra những điều kiện cần thiết cho sự phát triển toàn diện
con người.
Trong tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại, con người ngày càng được
tạo điều kiện để phát huy năng lực hoạt động sáng tạo của mình nhằm thỏa mãn
những nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao của xã hội. Xã hội càng phát triển
thì phạm vi của MTVH càng rộng mở và càng có tác động tích cực đến đời sống con
người và xã hội. MTVH hình thành nên những biểu trưng giá trị cho con người và cộng
đồng, xác định nội dung tư tưởng, điều chỉnh nhu cầu và nguyện vọng, định hướng cho
mọi hoạt động sáng tạo trong xã hội hướng tới chân - thiện - mỹ. Nói cách khác,
MTVH là tổng hòa các điều kiện vật chất, tinh thần, hoàn cảnh, tổng hòa các mối
quan hệ xã hội có ảnh hưởng, tác động đến sự phát triển và hoàn thiện nhân cách,
phát triển năng lực sáng tạo của con người. Vì lẽ đó, xem xét con người không bao
giờ được tách rời khỏi mối quan hệ với ba hình thái môi trường nêu trên. Và, thực hiện

nhiệm vụ xây dựng MTVH ở nước ta phải dựa trên cơ sở kết hợp đồng bộ, hài hòa và
chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng MTTN và MTXH thực sự phong phú, trong sạch, lành
mạnh. Xây dựng MTVH là phải giải quyết tốt các mối quan hệ giữa con người với xã
hội, con người với tự nhiên và con người với con người. "Môi trường văn hóa của
chúng ta là môi trường mà ở đó con người giao tiếp với tự nhiên, phát triển hài hòa với
tự nhiên. Môi trường văn hóa của chúng ta là môi trường mà ở đó con người được
sống bình đẳng, tự do và hạnh phúc, và bộ giá trị chân - thiện - mỹ là hướng vận động

cơ bản" [23, tr. 25].
Trên cơ sở những phân tích lý giải trên, có thể rút ra một khái niệm chung
về MTVH như sau:
Môi trường văn hóa là tổng hòa các yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể
bao quanh con người, có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đối với con người trong một
không gian và thời gian xác định, có ảnh hưởng tác động đến sự hình thành và phát
triển toàn diện nhân cách con người, phù hợp với sự vận động và phát triển của đời
sống xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Là chủ thể tích cực của MTVH, con người luôn luôn đóng vai trò quyết định
trong việc sáng tạo những giá trị văn hóa, hình thành những quan hệ văn hóa, lựa chọn,
tổ chức, tham gia những hình thái hoạt động văn hóa và điều tiết, phát huy tác dụng
của những thiết chế đảm bảo đời sống văn hóa, hợp thành MTVH. Trong suốt quá
trình hình thành và phát triển của MTVH, con người vừa là chủ thể xây dựng
MTVH, vừa là sản phẩm chủ yếu nhất của MTVH, bởi con người - theo các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - là con người xã hội. Tách khỏi đời sống xã hội và
MTVH, con người không thể hình thành và phát triển nhân cách của mình được:
"Người không đẻ ra người, đứa trẻ chỉ trở nên người trong quá trình giáo dục" [59,
tr. 129].
Vì vậy, để phát triển con người một cách toàn diện theo yêu cầu của xã hội
và thời đại, cần phải tiến hành xây dựng và bảo vệ tốt MTVH.
1.1.2. Cấu trúc của môi trường văn hóa

Văn hóa là một cấu trúc phức hợp, đa diện và đa nghĩa, theo đó MTVH cũng
có cấu trúc hết sức phức tạp theo cả chiều rộng và chiều sâu. Có thể tiếp cận cấu
trúc đó ở nhiều phương diện khác nhau như: phân chia thành những yếu tố vật thể
và những yếu tố phi vật thể; phân chia thành những yếu tố tự nhiên và những yếu tố
xã hội; phân chia thành những yếu tố đã có, đã hoàn thiện, được kế thừa, chọn lọc và
những yếu tố đang ở dạng tiềm năng, đang trong quá trình phát sinh, hình thành và
phát triển
Cũng có thể tiếp cận cấu trúc đó ở nhiều góc độ khác nhau như: tiếp cận từ

vấn đề và hiện tượng sẽ thấy MTVH bao gồm các hình thái chuẩn mực (phong tục, tập
quán), các hình thái giá trị (truyền thống yêu nước, thương dân, quên mình vì nghĩa
lớn) và hình thái biểu tượng (các vua Hùng, Lạc Long Quân - Âu Cơ, các vị anh hùng
dân tộc dựng nước và giữ nước).
Bất luận từ phương diện nghiên cứu hay góc độ nghiên cứu nào để nhìn nhận,
xem xét, đánh giá thì MTVH cũng gắn với một không gian xác định và những cấp
độ khác nhau.
Nếu phân chia theo phạm vi không gian thì MTVH sẽ bao gồm hai cấp độ
cơ bản là:
- MTVH vi mô: là môi trường mà ở đó diễn ra quá trình nhập thân văn hóa
đầu tiên của con người, là nơi con người có sự chuyển biến quan trọng từ chỗ là một
sinh thể (con người tự nhiên) trở thành một con người xã hội, một thực thể văn hóa,
làm cho nhân cách mỗi người ngày càng hoàn thiện hơn. Nói đến MTVH vi mô là
nói đến MTVH ở phạm vi nhỏ hẹp, có quan hệ trực tiếp và tác động qua lại nhiều
chiều, thường xuyên đối với mỗi cá nhân như MTVH gia đình, dòng tộc , MTVH
làng bản, khối phố, trường học , MTVH công sở, cơ quan, đơn vị công tác, sản
xuất
Gia đình là MTVH vi mô của xã hội, có ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức,
thái độ, hành vi, niềm tin của con người. Đó là nơi con người hình thành cá tính và
khám phá bản thân. Văn hóa gia đình ngoài các chức năng kinh tế - xã hội còn có

hai thiên chức không gì thay thế được là: duy trì nòi giống và giáo dưỡng tình cảm,
tính nhân bản của con người. Do đó, gia đình là môi trường cơ bản của xã hội, đảm
nhận chức năng khởi nguồn của đạo đức, lối sống và chuẩn giá trị xã hội. Đặc biệt,
gia đình là nơi bảo toàn và trao truyền các giá trị văn hóa, nơi hình thành các giá trị
nhân văn của xã hội, nơi lưu truyền và phát triển các giá trị nhân bản nhất của con
người. Văn hóa gia đình như một MTVH đặc thù với những giá trị chuẩn mực "chi
phối đời sống, quan hệ trong nội bộ gia đình với tư cách là một tế bào của xã hội"
[22, tr. 262]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã chỉ rõ:
"Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi

trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Các chính sách của Nhà
nước phải chú ý tới xây dựng cho gia đình no ấm, hòa thuận, tiến bộ" [11, tr. 15].
Tinh thần này tiếp tục được khẳng định ở Đại hội IX của Đảng: "Nêu cao trách
nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên của mình có
lối sống văn hóa, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành
mạnh của xã hội" [16, tr. 116].
MTVH làng bản, khối phố, trường học; MTVH công sở, cơ quan, đơn vị
công tác, sản xuất là những đơn vị cơ bản có quan hệ hết sức gắn bó với mỗi cá
nhân và cộng đồng trong quá trình sinh hoạt, học tập, công tác, rèn luyện nhân cách; là
nơi tiếp tục hoàn thiện nhân cách, phát triển năng lực sáng tạo, kỹ năng nghề nghiệp,
khả năng cống hiến, tính tích cực chính trị của mỗi công dân, tạo nền tảng vững chắc
cho sự ổn định và phát triển xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ đã đề ra nhiệm vụ: "Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là môi
trường xây dựng phong cách lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả
cao, nơi thể hiện tình đồng chí, tình đồng đội, hình thành nhân cách con người mới và
nền văn hóa mới" [11, tr. 19].
Các dạng thức trên của MTVH vi mô không đứng biệt lập mà chính là
những bộ phận cấu thành nên MTVH vĩ mô.

- MTVH vĩ mô: là nơi mà những giá trị văn hóa, hoạt động văn hóa và giao
tiếp văn hóa của mỗi cá nhân và cộng đồng được mở rộng với những mối quan hệ
rộng lớn hơn. ở cấp độ vĩ mô có MTVH tỉnh thành, vùng, miền, quốc gia, quốc tế.
Nhìn chung, cách phân chia MTVH theo hai cấp độ nêu trên chỉ là tương
đối. Nói tới MTVH là nói tới cả cấp độ vi mô và cấp độ vĩ mô của nó. Hai cấp độ
này có thể chuyển hóa lẫn nhau một cách biện chứng. Chẳng hạn, hệ "sinh thái nhân
văn" - theo cách dùng của Georges Olivier - được coi như MTVH vĩ mô, nhưng
ngay trong một MTVH xác định, cụ thể cũng đã chứa đựng ý nghĩa sinh thái nhân
văn rồi. Chính vì vậy, mỗi MTVH đều chứa đựng trong nó cả tính nhân loại, tính
khu vực, đồng thời in đậm bản sắc dân tộc và sắc thái riêng của tiểu cộng đồng, tức
là vừa phản ánh tính phổ quát, vừa phản ánh tính bản sắc của văn hóa. Theo đó,

MTVH xã hội (MTVH vĩ mô) là tổng hòa MTVH của tất cả các cá nhân riêng lẻ,
của gia đình và của các cộng đồng lớn nhỏ. Cũng cần khẳng định rằng, MTVH vi
mô hay vĩ mô đều có tầm quan trọng đối với sự phát triển của mỗi người, mỗi cộng
đồng và cả loài người, và đều chịu sự tác động lẫn nhau. Lớn hay nhỏ ở đây là
phạm vi, kích thước. MTVH nếu được coi trọng đúng mức sẽ tác động mạnh mẽ
đến các môi trường khác trong quan hệ tương tác và sự khoan hòa giữa MTTN,
MTXH và MTVH là một trạng thái lý tưởng cho sự phát triển của con người như
một tổng hòa các quan hệ xã hội.
MTVH hết sức đa dạng và phong phú cho nên ngoài cách phân chia cấu
trúc theo hai cấp độ cơ bản trên còn có thể có nhiều cách phân chia khác nữa, không
theo một khuôn mẫu nhất định nào. Chẳng hạn, nếu xem xét cấu trúc MTVH trên
phương diện các thành tố cơ bản cấu thành nên nó thì MTVH bao gồm:
- Văn hóa chính trị tư tưởng: là lĩnh vực đặc thù trong thượng tầng kiến trúc
cũng như trong kết cấu một chế độ xã hội, nó là lĩnh vực phức tạp, nhiều khi trừu
tượng, có thể định tính mà không định lượng được. Một chế độ xã hội phát triển và ổn
định thì lĩnh vực tư tưởng - văn hóa cũng phát triển và ổn định; và ngược lại, lĩnh vực

tư tưởng - văn hóa phát triển lành mạnh cũng tác động tích cực đến sự ổn định, phát
triển của một chế độ xã hội nói chung và kinh tế nói riêng.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định:
Toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan
liêu, làm trong sạch đội ngũ Đảng viên. Các cấp ủy tổ chức, hướng dẫn
và kiểm tra đảng viên học tập, không ngừng nâng cao trình độ chính trị,
học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức lãnh đạo, quản lý và vận
động nhân dân, phát huy vai trò tiên phong gương mẫu. Cán bộ, đảng
viên ở bất cứ cương vị nào đều phải chấp hành nghiêm chỉnh Cương
lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước [16, tr.
139-140].
- Văn hóa đạo đức, lối sống: đạo đức và lối sống là những giá trị cốt lõi của

văn hóa. Đạo đức là những chuẩn mực ứng xử của con người, là những quy tắc và
cam kết của cộng đồng mà con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi
ích cá nhân và tiến bộ xã hội. Con người sẽ hành động ra sao, xã hội sẽ đi tới đâu,
môi trường sinh thái sẽ bị hủy hoại như thế nào nếu như hoạt động của con người
thiếu những yếu tố đạo đức. Do vậy, văn hóa đạo đức là một thành tố đặc biệt quan
trọng của MTVH. Nền tảng nhân cách, phẩm hạnh của con người, cũng như nền tảng
tinh thần của xã hội có phát triển lành mạnh, ổn định vững chắc hay không tùy thuộc
rất nhiều ở chất lượng của thành tố này. Dự thảo Nghị quyết Trung ương 5 (khóa
VIII) xác định phải xây dựng con người Việt Nam mới, có lối sống lành mạnh, nếp
sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân ái, nghĩa tình, tôn trọng kỷ cương phép
nước, quy ước của cộng đồng chính là nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết để ổn
định và phát triển văn hóa đạo đức, lối sống.
- Văn hóa khoa học - kỹ thuật, giáo dục - đào tạo: là hình thái đặc thù của
MTVH, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với trình độ phát triển của mỗi cá nhân, cộng
đồng, quốc gia, dân tộc, nhân loại. Có thể coi đây là lĩnh vực có sự kết hợp hài hòa các

điều kiện chủ quan và khách quan phục vụ cho các hoạt động dạy - học, nghiên cứu,
ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ nhằm nâng cao trình độ học vấn,
thúc đẩy ý thức sáng tạo của con người trong thực tiễn đời sống, xây dựng con người
phát triển toàn diện, có đủ năng lực làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên và làm chủ bản
thân. Tiếp theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII), Đại hội IX của
Đảng một lần nữa khẳng định: "Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển
giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [16, tr. 12].
- Văn hóa thẩm mỹ: văn hóa thẩm mỹ cũng là một bộ phận trong đời sống
văn hóa của xã hội, song nó không thể hiện trong một xã hội cụ thể như các thứ văn
hóa khác; trái lại, nó có mặt trong mọi hoạt động của con người: trong lao động sản
xuất, trong quan hệ giao tiếp, trong sáng tạo và thưởng thức các giá trị tinh thần,
trong xây dựng môi trường sống và làm việc, trong việc hoàn thiện nhân cách. Và, "ở
một mức độ nào đó, có thể nói, văn hóa thẩm mỹ là biểu hiện một trình độ tổng hợp

của văn hóa xã hội" [21, tr. 141]. Theo Mác (trong "Bản thảo kinh tế - triết học"
năm 1844) thì bản chất của con người là biết sáng tạo hiện thực theo quy luật cái đẹp,
đó chính là dấu hiệu cơ bản để phân biệt hoạt động của con người với hoạt động của
con vật. Bởi vậy, văn hóa thẩm mỹ có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát
triển nhân cách theo định hướng giá trị xã hội, ươm mầm những phẩm chất tốt đẹp cao
quý của con người. ở một mức độ nào đó, nó tạo nên khả năng tự điều chỉnh của con
người. Vì vậy, Macxim Goocki hoàn toàn có lý khi gọi mỹ học là "đạo đức học của
tương lai".
Xem xét cấu trúc của MTVH theo các thành tố cơ bản cấu thành như trên
cũng chỉ là sự phân tách tương đối, bởi giữa các thành tố cấu thành MTVH nêu trên có
mối quan hệ biện chứng thống nhất với nhau khó thể tách rời.
Trong một chỉnh thể môi trường sống nói chung của con người, MTVH chính
là một trong những yếu tố cấu thành quan trọng nhất. Song khi đặt vấn đề nghiên
cứu MTVH như một đối tượng nghiên cứu độc lập thì nó trở thành một hệ thống

bao gồm các yếu tố cấu thành có chức năng riêng nhưng vẫn có quan hệ với nhau
hết sức chặt chẽ. Điều đó nói lên tính thống nhất mà đa dạng của MTVH, đồng thời
đặt ra yêu cầu khi nghiên cứu MTVH, dù ở cấp độ nào, phạm vi nào cũng phải đặt
nó trong một hệ thống, xem xét ngoại diên (đặt MTVH trong mối quan hệ với các
yếu tố khác của hệ thống đó), kết hợp với xem xét nội hàm của nó (mối quan hệ
giữa các yếu tố cấu thành nên MTVH). Từ đó giúp chúng ta nhận định đúng những
đặc điểm của MTVH để định ra những chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn,
sát hợp trong xây dựng MTVH theo mục tiêu đã đề ra.
1.1.3. Đặc điểm của môi trường văn hóa
Là sản phẩm hoạt động tinh thần của xã hội, MTVH không thể không phản
ánh và chịu sự quy định của phương thức sản xuất vật chất. Trong tiến trình lịch sử
nhân loại, mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất định hình thành một kiểu MTVH nhất
định tương ứng với nó. Trong đó, hệ tư tưởng, ý thức hệ của giai cấp thống trị luôn
là hạt nhân cốt lõi của MTVH, giữ địa vị thống trị và chi phối toàn bộ sự phát triển
của văn hóa, định hướng việc tạo lập và phát huy tác dụng của MTVH phù hợp với

lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội đó. Bởi vậy, thích ứng với đặc thù của mỗi
quốc gia dân tộc, mỗi vùng miền, mỗi đơn vị cơ sở là một hình thái MTVH mang
sắc thái riêng biệt. Tuy nhiên, đó chỉ là những nét khác biệt tương đối. Nhìn chung,
MTVH nào cũng mang những đặc điểm chung cơ bản sau:
Một là, có sự kết hợp hài hòa biện chứng giữa các giá trị truyền thống và
giá trị hiện đại trong MTVH.
Theo dòng lịch sử, mỗi cộng đồng dân tộc sinh sống trong một giai đoạn
lịch sử nhất định đều tồn tại và phát triển trong một MTVH tương ứng với nó. Là
dòng chảy liên tục luôn gắn kết với lôgíc phát triển của xã hội, trên thực tế không có
MTVH nào xuất hiện từ con số không. Các giá trị văn hóa truyền thống của cộng
đồng không chỉ là sự tiếp nối biện chứng từ quá khứ đến hiện tại mà còn không đứt
đoạn từ hiện tại đến tương lai. Mỗi cộng đồng dân tộc chỉ có thể phát triển vững

×