Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Đáp án môn tư tưởng HCM bản chuẩn(11 11)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.94 KB, 110 trang )

Đề 1
Câu 1. Phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn và nội dung luận điểm của Hồ Chí Minh:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản”. (7 điểm)
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý
giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta
giành thắng lợi”

- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng các dân tộc đang bị chủ nghĩa thực
dân phương Tây áp bức muốn được giải phóng phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
Vậy cách mạng vơ sản là gì? Đó là cuộc cách mạng của giai cấp công nhân nhằm lật đổ giai
cấp tư sản. Tuy nhiên, khi vận dụng con đường cách mạng vơ sản ở Phương Tây vào hồn cảnh
cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh trăn trở rất nhiều về sự khác nhau giữa xã hội châu Âu và xã
hội phương Đông. Vận dụng phương pháp biện chứng của C. Mác để phân tích xã hội thuộc địa,
Người chỉ ra rằng, do nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, nên sự phân hóa giai cấp ở đây khác với xã
hội tư bản phương Tây, vì thế cuộc đấu tranh giai cấp ở đây không diễn ra giống như ở phương
Tây. Giữa những giai cấp khác nhau vẫn có sự tương đồng lớn: đều chung một số phận của
người dân mất nước. Nếu như mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn
giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản, thì mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa lại là mâu
thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với đế quốc xâm lược. Giai cấp tư sản dân tộc và một bộ phận địa
chủ vừa và nhỏ mặc dù vẫn có mặt hạn chế trong quan hệ với quần chúng lao động, nhưng trong
quan hệ với đế quốc Pháp, họ đều là người Việt Nam mất nước. Đó khơng phải là những giai
cấp thống trị, mà là giai cấp bị trị và có khả năng tham gia phong trào giải phóng dân tộc.
Nếu như C. Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, V.I. Lê-nin bàn nhiều
về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt đến
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Trong điều kiện xã hội thuộc địa, Người không nhấn
mạnh một chiều đấu tranh giai cấp, mà tập trung vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Độc lập,
tự do là khát vọng cháy bỏng của mọi người Việt Nam mất nước. Trong tư duy chính trị Hồ Chí
Minh, thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa chính là vấn đề độc lập dân tộc.


1


Việc lựa chọn và quyết định đi theo con đường cách mạng vô sản, theo con đường của
Cách mạng tháng Mười Nga, theo chủ nghĩa Mác-Lênin là một quyết định đánh dấu sự trưởng
thành vượt bậc về mặt nhận thức tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng thời
mang tính bước ngoặt căn bản đối với cách mạng Việt Nam.

- Cơ sở thực tiễn: (2,0 điểm)
+ Sự thất bại của các phong trào yêu nước ở Việt Nam từ nửa sau thế kỷ XIX đến đầu
thế kỷ XX:
Việt Nam có lịch sử và văn hiến lâu đời với truyền thống chống giặc ngoại xâm vô cùng
oanh liệt. Nhưng, đến thế kỷ XIX, cũng giống như các nước phong kiến phương Đông khác,
Việt Nam vẫn là một quốc gia lạc hâu, kém phát triển. Đến giữa thế kỷ XIX, trước sự suy yếu
của chế độ phong kiến nhà Nguyễn, đế quốc Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược nước ta. Mặc dù
triều định nhà Nguyễn ươn hèn đã từng bước đầu hàng thực dân Pháp, phản bội lợi ích dân tộc
và phong trào đấu tranh chống xâm lược của nhân dân ta, nhưng nhân dân ta đã liên tục anh
dũng đứng lên chống xâm lược trên cả nước. Từ 1858 đến cuối thế kỉ XIX, phong trào đấu
tranh yêu nước dưới sự lãnh đạo của Trương Định, Nguyễn Trung Trực (Nam Bộ); Trần Tấn,
Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng (Miền Trung); Nguyễn Thiện Thuật,
Nguyễn Quang Bích (Miền Bắc); phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế ... đều thất bại là

do chưa có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn. Tiếp đó là các cuộc đấu tranh giành
độc lập theo khuynh hướng tư sản đầu thế kỷ XX như: con đường bạo động của Phan Bội Châu
chủ trương dựa vào Nhật để chống Pháp, chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”;
con đường cải lương của Phan Chu Trinh (dựa vào Pháp để thực hiện khai dân trí, chấn dân khí,
hậu dân sinh) cũng chẳng khác nào “xin giặc rủ lòng thương”; con đường của Hoàng Hoa Thám
thực tế hơn, nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong kiến; con đường của Nguyễn Thái Học theo
hệ tư tưởng tư sản, đã chứng tỏ giai cấp tư sản Việt Nam không đảm đương được sứ mệnh dân
tộc. Có thể nói rằng, các phong trào cách mạng cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX đều thể hiện tinh

thần yêu nước muốn giải phóng dân tộc, tuy nhiên các cuộc đấu tranh đó cuối cùng đều thất bại
do tư tưởng cách mạng đã lỗi thời và khơng còn phù hợp với tình hình cách mạng Việt Nam lúc
bấy giờ. Do đó mặc dù rất khâm phục tinh thần cách mạng của cha ông, nhưng Người không tán
thành con đường cách mạng của họ. Người xuất ngoại, đến nhiều quốc gia trên thế giới để tìm
một con đường cứu nước mới
+ Thứ hai, các cuộc cách mạng trên thế giới:
2


Sự thành công chưa đến nơi của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản điển hình trên thế
giới:
Người nghiên cứu rất kỹ các cuộc cách mạng, điển hình là cách mạng giải phóng dân tộc
của Mỹ năm 1776, cách mạng Pháp 1789 và đi đến kết luận: “Cách mệnh Pháp cũng như cách
mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, ky
thực trong thì nó bốc lột cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa”. Vì vậy, Người không đi theo
con đường cách mạng Tư sản.
Thất bại của các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc giải phóng dân tộc trên tồn thế giới
tính tới đầu thế kỷ XIX
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phương tây đã chuyển từ tự do cạnh
tranh sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Các nước đế quốc tăng cường xâm chiếm thuộc địa
nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ, khai thác tài nguyên, bóc lột, nô dịch các dân tộc ở hầu hết
các nước Á, Phi và Mỹ La tinh. Tình hình đó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có trong lòng
chủ nghĩa tư bản và làm nảy sinh mâu thuẫn giữa nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc
với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Mâu thuẫn ngày càng phát triển, trở thành mâu thuẫn hết sức
sâu sắc của thời đại và thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc trên
tồn thế giới. Tuy nhiên các phong trào giải phóng dân tộc đã bị chủ nghĩa thực dân đàn áp đẫm
máu và nhanh chóng thất bại
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917
Người đến với Lênin và tán thành Đệ tam Quốc tế (Quốc tế III) vì Người thấy ở đó một
phương hướng mới để giải phóng dân tộc: Cách mạng Vơ sản. Người nhận xét: Trong thế giới

bây giờ chỉ có cách mạng Nga là thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh
phúc, tự do, bình đẳng thật sự. Cuộc cách mạng này đã mở ra hai con đường: giải phóng nhân
dân lao động trong nước và tạo điều kiện cho nhân dân các nước thuộc địa đứng lên tự giải
phóng
Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và các nhà cách mạng có xu hướng tư sản
đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa
chọn con đường cách mạng vô sản
Nội dung: (4,0 điểm)

3


Con đường cách mạng Việt Nam nhằm thực hiện độc lập dân tộc và đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội
Người nói: “Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành”

Đi theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh sớm xác định phương hướng chiến
lược của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng (tức cách mạng giải phóng
dân tộc) và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Người dành nhiều tâm trí vào sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, hình thành nên những quan điểm hết sức cơ bản về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa với những tàn tích
phong kiến nặng nề; xác định những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội, mục tiêu và bước
đi để đạt tới chủ nghĩa xã hội. Đó là một q trình cải biến cách mạng lâu dài, gian khổ, phải trải
qua nhiều chặng đường khác nhau, tất cả vì sự nghiệp giải phóng con người, làm cho con người
phát triển tồn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, xây
dựng lý luận cách mạng giải phóng và phát triển dân tộc theo khuynh hướng vô sản, giải quyết

thành công mối quan hệ giữa đất nước và thời đại, giữa dân tộc và quốc tế. Đó là cống hiến xuất
sắc nhất và cũng là cống hiến đầu tiên của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng và phát triển lý
luận cách mạng vô sản vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Trước hết phải tập trung cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc
Khi phân tích về mối quan hệ giữa nhiệm vụ giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp ,
Người khơng nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp, mà tập trung vào cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc. Độc lập, tự do theo Người mới là khát vọng cháy bỏng của mọi người Việt Nam
mất nước. Toàn thể dân tộc Việt Nam đều mâu thuẫn với chủ nghĩa thực dân và mong muốn
giành độc lập dân tộc, giải phóng đất nước. Trong tư duy chính trị Hồ Chí Minh, thực chất của
vấn đề dân tộc thuộc địa chính là vấn đề độc lập dân tộc.
Phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo
Quyết định đi theo con đường cách mạng vô sản, cách mạng Việt Nam muốn giành thắng
lợi, Hồ Chí Minh cho rằng, trước hết phải có một đảng chân chính lãnh đạo. Người nói: “ Cách
4


mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh...Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng... Đảng
muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt...Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng
chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Để đảm bảo
sau khi cách mạng thành cơng, đất nước có nền độc lập hoàn toàn, đa số nhân dân lao động
được hưởng ấm no hạnh phúc thì cách mạng phải do Đảng cộng sản lãnh đạo. Đảng đó phải
được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng cộng sản: Xác định mục tiêu của cách mạng, xây dựng đường
lối cách mạng giải phóng dân tộc; thơng qua cương lĩnh, đường lối của mình, Đảng tổ chức vận
động, tập hợp các lực lượng cách mạng, xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, (mà nòng cốt là
liên minh công nông), thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chống đế quốc và chống phong kiến,
giành độc lập dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Để đáp ứng được với những
yêu cầu nhiệm vụ đó, Đảng cộng sản phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới
của Lênin, được vũ trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Lực lượng cách mạng phải là khối đại đoàn kết toàn dân tộc, dựa trên nền tảng liên
minh cơng nhân, nơng dân và trí thức
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người khẳng định lực lượng cách mạng là bao
gồm cả dân tộc. Trong phạm vi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà đối tượng cần đánh
đổ trước hết là bọn đế quốc và đại địa chủ phong kiến tay sai, Hồ Chí Minh chủ trương tập hợp
rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang bị làm nô lệ trong một mặt trận dân tộc thống
nhất nhằm huy động sức mạnh toàn dân. Sách lược vắn tắt chỉ rõ “Đảng phải hết sức liên lạc với
tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt,.. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp.
Còn với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng
thì phải lợi dụng, chí ít là làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào ra mặt phản cách mạng (như
Đảng Lập hiến) thì cần phải đánh đổ”. Trong lực lượng toàn dân tộc, Người ln nhắc nhở
khơng được qn cốt lõi của nó là công - nông. Phải nhớ: “Công nông là gốc cách mệnh, học
trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư sản áp bức, song không cực khổ bằng công nông, ba
hạng ấy chỉ là bầu bạn của cách mệnh, của công nông thôi”, và phải thực hiện theo đúng nguyên
tắc: “Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi
ích gì của cơng nơng mà đi vào đường thoả hiệp”. Hồ Chí Minh khẳng định để có thể tập hợp
5


lực lượng thì phải đồn kết tất cả những người Việt Nam yêu nước để cùng đánh đổ kẻ thù
chung của cả dân tộc, trong đó bộ phận trung tâm là công nhân, nông dân và khối liên minh
công – nơng do giai cấp cơng nhân lãnh đạo.
Tóm lại, q trình Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận cách mạng vô sản ở
Việt Nam là một quá trình giải quyết những yêu cầu của lịch sử dân tộc, luôn xuất phát từ thực
tiễn khách quan, hình thành nên một học thuyết về giải phóng và phát triển dân tộc theo con
đường cách mạng vô sản, được thâm nhập rộng rãi trong đông đảo quần chúng yêu nước và trở
thành sức mạnh vật chất vô cùng to lớn trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, làm nên những
thắng lợi chiến lược của cách mạng Việt Nam và tiến lên xây dựng đất nước ngày càng “đàng
hồng hơn, to đẹp hơn”. Thực tiễn đó khẳng định giá trị của ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh,
khẳng định thành cơng của Hồ Chí Minh trong q trình vận dụng và phát triển lý luận cách

mạng vơ sản vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam; để lại những bài học lịch sử vô cùng
quý báu, mà bài học lớn nhất là phải kiên định mục tiêu lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản, luôn
bám sát thực tiễn của đất nước, giữ vững tính độc lập về tư duy, không ngừng vận dụng và phát
triển sáng tạo lý luận và kinh nghiệm của cách mạng thế giới để xác định đường lối chính trị
đúng đắn, đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đến thành công và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc.

6


Câu 2. Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
trong giai đoạn hiện nay (3 điểm)
Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
- Về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc: Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, xác định con
đường cứu nước theo khuynh hướng chính trị vơ sản, nhưng Hồ Chí Minh đã khơng áp dụng
rập khn, máy móc những nguyên lý có sẵn. Năm 1924, Người đã phát hiện thấy chủ nghĩa
Mác được xây dựng trên một triết lý nhất định của lịch sử châu Âu, mà châu Âu “chưa phải là
toàn thể nhân loại”, và đặt ra nhiệm vụ: “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó,
củng cố nó bằng dân tộc học phương Đơng”.
- Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh làm phong phú thêm Chủ nghĩa
Mác - Lênin về cách mạng thuộc địa: Vận dụng phương pháp làm việc biện chứng của học
thuyết Mác-Lênin, Người đã phân tích thực tiễn xã hội thuộc địa, phát triển chủ nghĩa MácLênin trong điều kiện lịch sử cụ thể, xây dựng nên lý luận cách mạng giải phóng dân tộc và
truyền bá vào Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, yêu cầu khách quan của cách mạng ở thuộc địa không phải là chống
chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chống chủ nghĩa thực dân và tay sai
của nó. Cho nên điều cần kíp là phải tiến hành cuộc cách mạng giải phóng, giành độc lập tự do
cho dân tộc.
Về động lực của cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã khẳng định, chủ nghĩa
dân tộc chân chính là một động lực to lớn và kêu gọi phát động chủ nghĩa dân tộc nhân danh
Quốc tế cộng sản.

- Phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh hết sức độc đáo
và sáng tạo, thấm nhuần tính nhân văn.
Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa, nhất là so sánh lực lượng quá chênh lệch
về kinh tế và quân sự giữa các dân tộc bị áp bức và chủ nghĩa đế quốc, Người đã xây dựng nên
lý luận về phương pháp khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân, phát huy và sử dụng sức
mạnh toàn dân tộc để chiến thắng kẻ thù hùng mạnh. Đây là một di sản tư tưởng quân sự vô giá
mà Người để lại cho Đảng và nhân dân ta.
Về Tình hình quốc tế và trong nước tác động đến việc bảo vệ độc lập, chủ quyền đất
nước hiện nay
7


Hiện nay tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp
đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát
triển vẫn là xu thế lớn. Tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học- công nghệ, kinh tế
tri thức tiếp tục được đẩy mạnh. Châu á Thái Bình Dương trong đó có khu vực Đơng Nam Á đã
trở thành một cộng đồng, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa-kinh tế-chính trị
chiến lược lược ngày càng quan trọng; đồng thời đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược
giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển đảo trong
khu vực và trên Biển Đông còn diễn ra gay gắt.
Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất
nước ngày càng được nâng cao. Thời cơ, vận hội phát triển mở ra rộng lớn. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng ta đã khẳng định, ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan
trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta. Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước đã đạt được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc
XHCN…Tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn
còn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế
giới; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy
thối về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, cơng chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức
tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí…
- Định hướng bảo vệ:
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc , chúng ta cần nghiên cứu, vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội nhằm tạo ra những nguồn lực mới, đưa sự nghiệp đổi mới vững bước tiến lên
những thắng lợi mới. Phải khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, tạo
điều kiện và phát huymoij nguồn lực để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Trước hết phải xác định rõ các nguồn lực và nhấn mạnh phải phát huy tối đa các nguồn nội
lực. Nội lực, hiểu một cách tồn diện, bao gồm con người, trí tuệ, truyền thống dân tộc, truyền
thống cách mạng, đất đai, tài nguyên, vốn liếng… nhưng tựu trung lại, yếu tố quan trọng nhất,
quyết định nhất vẫn là nguồn lực con người với tất cả sức mạnh thể chất và tinh thần của nó.
8


Chủ nghĩa yêu nước là nguồn lực mạnh mẽ nhất, trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân
tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần yêu nước ấy đã được phát
huy cao độ, biến thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng vô song, đưa đến mọi thắng lợi của dân
tộc ta. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, truyền thống quý báu ấy
cần được tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực vô tận để đưa đất nước
vượt qua mọi nguy cơ, thử thách, vững bước tiến lên.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và
cách mạng giải phóng dân tộc, chúng ta cần thực hiện những nội dung sau:
Một là, kiên định con đường ĐLDT gắn liền với CNXH. Trong bất ky điều kiện và hoàn
cảnh nào cũng phải giữ vững được nền độc lập hoàn toàn, độc lập thực sự của đất nước.
Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đáp ứng với yêu cầu, nhiệm
vụ trong thời ky lịch sử mới. Trước hết là mỗi đảng viên tự nâng cao trình độ nhận thức chính trị
và chun mơn, trau dồi , rèn luyện đạo đức để xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung
thành của nhân dân.
Ba là, tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh cơng-nơngtrí, trên cơ sở phát huy tinh thần tự lực, tự cường, “đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân”

Bốn là, trong bối cảnh hiện nay phải đặt lợi ích quốc gia-dân tộc lên trên hết; kiên định độc
lập tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi;
kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc VN XHCN.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc được hình thành và phát
triển trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Đó là sự sáng tạo của Hồ Chí Minh, mang tinh
thần cách mạng và khoa học, được kiểm chứng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam và
phong trào cách mạng thế giới. Những quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc thấm đượm khát vọng của nhân dân Việt Nam về độc lập, tự do, công bằng,
văn minh, ấm no, hạnh phúc. Đó là đòi hỏi chính đáng của tất cả các dân tộc trong đó có
Việt Nam. Những cống hiến sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc,
cả lý luận và thực tiễn bổ sung cho kho tàng lý luận cách mạng thế giới, của chủ nghĩa MácLênin, mãi mãi là niềm tự hào cho dân tộc ta tiếp tục tiến lên.

9


Đề 2.
Câu 1. Trình bày nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng
dân tộc. (7 điểm)
TTHCM về cách mạng giải phóng dân tộc là hệ thống những quan điể toàn diện và sâu sắc
về con đường cứu nước, chiến lược cách mạng, sách lược cách mạng và phương pháp cách
mạng nhằm giải phóng áp bức, nơ lệ, XD 1 nước VN hịa bình thống nhất, độc lập và CNXH.
TTHCM về cách mạng dân tộc gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, về Mục tiêu, nhiệm vụ, tính chất:
Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc là cuộc cách mạng do nhân dân các nước
thuộc địa, (hoặc các nước bị nô dịch) tiến hành, nhằm lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc,
khôi phục độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, xây dựng chính quyền, xây dựng nhà nước
thuộc về lực lượng dân tộc. Do đó, mục tiêu cơ bản và chủ yếu của cách mạng giải phóng dân
tộc là lật đổ ách áp bức, nô dịch của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành độc lập dân tộc, khôi
phục chủ quyền quốc gia.

Nhiệm vụ của cách mạng giải phóng dân tộc: nhiệm vụ chủ yếu và căn bản của cách mạng
giải phóng dân tộc là thành lập Đảng cách mạng (ở Việt Nam là Đảng cộng sản); đề ra chủ
trương, đường lối cách mạng phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử thực tiễn của mỗi
nước; tập hợp lực lượng dân tộc, tiến hành vận động cách mạng, khởi nghĩa đánh đổ ách thống
trị của thực dân đế quốc, giành độc lập dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân. Sau khi
giành chính quyền, tổ chức xây dựng xã hội mới do nhân dân làm chủ.
Tính chất của cách mạng giải phóng dân tộc : Đây là cuộc đấu tranh giữa những người bị
áp bức chống kẻ áp bức; giữa nhân dân thuộc địa-những người bị xâm lược chống kẻ xâm lượcchủ nghĩa thực dân; là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn dân tộc với đế quốc, nhằm giải
phóng dân tộc. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam là cuộc đấu tranh chính nghĩa.
Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản: Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng các dân tộc đang bị chủ nghĩa thực dân
phương Tây áp bức muốn được giải phóng phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Tuy
nhiên, khi vận dụng con đường cách mạng vơ sản ở Phương Tây vào hồn cảnh cụ thể của Việt
Nam, Người chỉ ra rằng, do nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, nên sự phân hóa giai cấp ở đây khác
với xã hội tư bản phương Tây, vì thế cuộc đấu tranh giai cấp ở đây không diễn ra giống như ở
10


phương Tây. Trong điều kiện xã hội thuộc địa, Người không nhấn mạnh một chiều đấu tranh
giai cấp, mà tập trung vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Độc lập, tự do là khát vọng cháy
bỏng của mọi người Việt Nam mất nước. Trong tư duy chính trị Hồ Chí Minh, thực chất của vấn
đề dân tộc thuộc địa chính là vấn đề độc lập dân tộc.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước ở Việt Nam từ nửa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ
XX: các phong trào cách mạng cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX theo khuynh hướng cách mạng
phong kiến và khuynh hướng tư sản dân tộc đều thể hiện tinh thần yêu nước muốn giải phóng
dân tộc, tuy nhiên các cuộc đấu tranh đó cuối cùng đều thất bại do tư tưởng cách mạng đã lỗi
thời và không còn phù hợp với tình hình cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Vì vậy, mặc dù rất
khâm phục tinh thần cách mạng của cha ông, nhưng Người không tán thành con đường cách
mạng của họ. Người xuất ngoại, đến nhiều quốc gia trên thế giới để tìm một con đường cứu nước
mới.

Sự thành công chưa đến nơi của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản điển hình trên thế giới:
Người nghiên cứu rất kỹ các cuộc cách mạng, điển hình là cách mạng giải phóng dân tộc của
Mỹ năm 1776, cách mạng Pháp 1789 và đi đến kết luận: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh
Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, ky thực
trong thì nó tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa”. Vì vậy, Người không đi theo con
đường cách mạng Tư sản.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917: Người đến với Lênin và tán thành Đệ tam
Quốc tế (Quốc tế III) vì Người thấy ở đó một phương hướng mới để giải phóng dân tộc: Cách
mạng Vơ sản. Người nhận xét: Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là thành công đến
nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật sự. Cuộc cách mạng
này đã mở ra hai con đường: giải phóng nhân dân lao động trong nước và tạo điều kiện cho nhân
dân các nước thuộc địa đứng lên tự giải phóng. Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu
và các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách
mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Việc lựa chọn và
quyết định đi theo con đường cách mạng vô sản, theo con đường của Cách mạng tháng Mười
Nga, theo chủ nghĩa Mác-Lênin là một quyết định đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc về mặt
nhận thức tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng thời mang tính bước ngoặt
căn bản đối với cách mạng Việt Nam
11


Thứ ba, Cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi triệt để thì phải có Đảng
Cộng sản lãnh đạo: Quyết định đi theo con đường cách mạng vô sản, cách mạng Việt Nam
muốn giành thắng lợi, Hồ Chí Minh cho rằng, trước hết phải có một đảng chân chính lãnh đạo.
Người nói: “ Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh...Đảng có vững cách mệnh mới
thành cơng... Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt...Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa
Lênin”. Để đảm bảo sau khi cách mạng thành công, đất nước có nền độc lập hồn tồn, đa số
nhân dân lao động được hưởng ấm no hạnh phúc thì cách mạng phải do Đảng cộng sản lãnh
đạo. Đảng đó phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin, được vũ trang

bằng chủ nghĩa Mác - Lênin.
Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng cộng sản: Xác định mục tiêu của cách mạng, xây dựng đường
lối cách mạng giải phóng dân tộc; thơng qua cương lĩnh, đường lối của mình, Đảng tổ chức vận
động, tập hợp các lực lượng cách mạng, xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, (mà nòng cốt là
liên minh công nông), thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chống đế quốc và chống phong kiến,
giành độc lập dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Để đáp ứng được với những
yêu cầu nhiệm vụ đó, Đảng cộng sản phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới
của Lênin, được vũ trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Thứ tư, Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đồn kết tồn dân, trên cơ sở liên
minh cơng nơng làm nịng cốt: Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người khẳng
định lực lượng cách mạng là bao gồm cả dân tộc. Trong phạm vi của cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc mà đối tượng cần đánh đổ trước hết là bọn đế quốc và đại địa chủ phong kiến tay sai, Hồ
Chí Minh chủ trương tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang bị làm nô lệ trong
một mặt trận dân tộc thống nhất nhằm huy động sức mạnh toàn dân. Sách lược vắn tắt chỉ rõ
“Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng, Thanh niên, Tân Việt,.. để kéo họ
đi vào phe vô sản giai cấp. Còn với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản An Nam mà chưa
rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, chí ít là làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào ra
mặt phản cách mạng (như Đảng Lập hiến) thì cần phải đánh đổ”. Trong lực lượng tồn dân tộc,
Người ln nhắc nhở khơng được qn cốt lõi của nó là cơng - nơng. Phải nhớ: “Công nông là
gốc cách mệnh, học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư sản áp bức, song không cực khổ
bằng công nông, ba hạng ấy chỉ là bầu bạn của cách mệnh, của công nông thôi”, và phải thực
12


hiện theo đúng nguyên tắc: “Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào
nhượng một chút lợi ích gì của cơng nơng mà đi vào đường thoả hiệp”. Hồ Chí Minh khẳng
định để có thể tập hợp lực lượng thì phải đồn kết tất cả những người Việt Nam yêu nước để
cùng đánh đổ kẻ thù chung của cả dân tộc, trong đó bộ phận trung tâm là công nhân, nông dân
và khối liên minh công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Thứ năm, Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có

khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc: Căn cứ vào thực tiễn tình
hình cách mạng Việt Nam và sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh
khơng đồng tình với chủ trương của nhiều đại biểu phát biểu tại Đại hội Quốc V Quốc tế cộng
sản. Tại diễn đàn Đại hội V (1924), Hồ Chí Minh đã phát biểu thẳng thắn quan điểm của mình:
“Hiện nay nọc độc và sức sống của bọn rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa
hơn là ở chính quốc”. Người khẳng định: Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc
vào cách mạng vơ sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước.
Hồ Chí Minh khẳng định, thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa, khơng chỉ giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực dân, mà còn tạo điều
kiện cho cho cuộc cách mạng vơ sản ở chính quốc. Người nói: “Trong khi thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những
người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hồn tồn”
Đây là một luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối
với phong trào cách mạng thế giới và là sự bổ sung kịp thời vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin. Đặc biệt, đối với cách mạng Việt Nam, luận điểm cách mạng của Hồ Chí Minh đã
được vận dụng một cách chủ động, sáng tạo trong tiến trình vận động cách mạng giải phóng dân
tộc. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, là một minh chứng khẳng định
luận điểm của Hồ Chí Minh hồn tồn đúng đắn
Thứ sáu, Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực,
kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân: Căn cứ
vào thực tiễn tình hình cách mạng thế gới và thực tiễn Việt Nam; nghiên cứu quan điểm lý luận
về cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh khẳng định, để cứu nước, giải phóng dân tộc, cách mạng
Việt Nam phải tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực: Kết hợp khởi nghĩa vũ trang với
đấu tranh chính trị của quần chúng.
13


Nghiên cứu về phong trào đấu tranh yêu nước, cách mạng ở Việt Nam những năm cuối thế
kỷ 19 đầu thế kỷ 20, phương pháp đấu tranh bằng con đường cải lương (do Phan Chu Trinh khởi
xướng), với phương châm: “Pháp Việt đề huề”, chủ trương dựa vào Pháp để tăng tiềm lực đất

nước; chủ yếu sử dụng hình thức đấu tranh hợp pháp, đấu tranh bằng phương pháp hoà bình để
giành độc lập dân tộc ở Việt Nam. Nhưng đó chỉ là phương pháp mang tính ảo tưởng, thiếu thực
tế và đã thất bại. Vì bản chất của thực dân, đế quốc là xâm lược, nô dịch và lợi nhuận, nên nó sẽ
khơng dễ dàng từ bỏ thị trường, thuộc địa mà chúng đang bóc lột, thu lợi.
Phương pháp vũ trang bạo động, nhờ sự giúp đỡ của bên ngồi (phong trào Quang phục
hội, Đơng Du do Phan Bội Châu lãnh đạo), hoặc bằng phương pháp vũ trang ám sát theo
khuynh hướng dân chủ tư sản, ( tiêu biểu là đường lối của Quốc Dân Đảng do Nguyễn Thái
Học... khởi xướng), cũng đều thất bại.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng,
để cuộc cuộc khởi nghĩa vũ trang có thể giành thắng lợi, phải sử dụng cách mạng bạo lực, kết
hợp khởi nghĩa vũ trang với lực lượng chính trị của quần chúng, coi đó là điểm tựa để phát triển
lực lượng vũ trang, tổ chức các hình thức đấu tranh vũ trang từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn, phù
hợp với từng nơi, từng thời ky cụ thể.
Quan điểm Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực,
kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ tranh; tiến hành khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng
khởi nghĩa, đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân đã được
Hồ Chí Minh chỉ đạo thực hiện rất linh hoạt và hiệu quả. Trong đó nổi lên vấn đề quan trọng là
xây dựng lực lượng, nhưng vấn đề chọn thời cơ khởi nghĩa cũng là vấn đề mang tính quyết định,
đem đến thắng lợi.
Tóm lại: Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết của Lênin về cách
mạng thuộc địa, hình thành một hệ thống luận điểm khá hồn chỉnh, bao gồm cả đường lối chiến
lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
Đặt chiến lược của cách mạng Việt Nam trong quỹ đạo cách mạng vô sản thế giới, khẳng
định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh đã lựa chọn con
đường cách mạng giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vơ sản, đó là sự lựa chọn đúng
đắn, phù hợp với lịch sử đất nước và thời đại. Khẩn trương xúc tiến việc chuẩn bị mọi điều kiện
cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam; soạn thảo Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn
14



tắt của Đảng, Hồ Chí Minh đã xác định nhiệm vụ chiến lược cho cách mạng giải phóng dân tộc
Việt Nam là chống đế quốc và chống phong kiến. Hai nhiệm vụ đó khơng tách rời nhau, cho
nên, Đảng ta phải chỉ đạo giải quyết đặt ra hàng loạt vấn đề: về sắp xếp lực lượng cách mạng, về
xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, về liên minh công nông, về phương pháp tiến hành cách
mạng, về khởi nghĩa vũ trang, về thời cơ khởi nghĩa vv...

15


Câu 2. Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
trong giai đoạn hiện nay (3 điểm)
Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
- Về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc: Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, xác định con
đường cứu nước theo khuynh hướng chính trị vơ sản, nhưng Hồ Chí Minh đã khơng áp dụng
rập khn, máy móc những nguyên lý có sẵn. Năm 1924, Người đã phát hiện thấy chủ nghĩa
Mác được xây dựng trên một triết lý nhất định của lịch sử châu Âu, mà châu Âu “chưa phải là
toàn thể nhân loại”, và đặt ra nhiệm vụ: “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó,
củng cố nó bằng dân tộc học phương Đơng”.
- Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh làm phong phú thêm Chủ nghĩa
Mác - Lênin về cách mạng thuộc địa: Vận dụng phương pháp làm việc biện chứng của học
thuyết Mác-Lênin, Người đã phân tích thực tiễn xã hội thuộc địa, phát triển chủ nghĩa MácLênin trong điều kiện lịch sử cụ thể, xây dựng nên lý luận cách mạng giải phóng dân tộc và
truyền bá vào Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, yêu cầu khách quan của cách mạng ở thuộc địa không phải là chống
chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chống chủ nghĩa thực dân và tay sai
của nó. Cho nên điều cần kíp là phải tiến hành cuộc cách mạng giải phóng, giành độc lập tự do
cho dân tộc.
Về động lực của cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã khẳng định, chủ nghĩa
dân tộc chân chính là một động lực to lớn và kêu gọi phát động chủ nghĩa dân tộc nhân danh
Quốc tế cộng sản.
- Phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh hết sức độc đáo

và sáng tạo, thấm nhuần tính nhân văn.
Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa, nhất là so sánh lực lượng quá chênh lệch
về kinh tế và quân sự giữa các dân tộc bị áp bức và chủ nghĩa đế quốc, Người đã xây dựng nên
lý luận về phương pháp khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân, phát huy và sử dụng sức
mạnh toàn dân tộc để chiến thắng kẻ thù hùng mạnh. Đây là một di sản tư tưởng quân sự vô giá
mà Người để lại cho Đảng và nhân dân ta.
Về Tình hình quốc tế và trong nước tác động đến việc bảo vệ độc lập, chủ quyền đất
nước hiện nay
16


Hiện nay tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp
đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát
triển vẫn là xu thế lớn. Tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học- công nghệ, kinh tế
tri thức tiếp tục được đẩy mạnh. Châu á Thái Bình Dương trong đó có khu vực Đơng Nam Á đã
trở thành một cộng đồng, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa-kinh tế-chính trị
chiến lược lược ngày càng quan trọng; đồng thời đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược
giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển đảo trong
khu vực và trên Biển Đông còn diễn ra gay gắt.
Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất
nước ngày càng được nâng cao. Thời cơ, vận hội phát triển mở ra rộng lớn. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng ta đã khẳng định, ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan
trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta. Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước đã đạt được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc
XHCN…Tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn
còn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế
giới; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy
thối về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, cơng chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức

tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí…
- Định hướng bảo vệ:
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc , chúng ta cần nghiên cứu, vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội nhằm tạo ra những nguồn lực mới, đưa sự nghiệp đổi mới vững bước tiến lên
những thắng lợi mới. Phải khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, tạo
điều kiện và phát huymoij nguồn lực để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Trước hết phải xác định rõ các nguồn lực và nhấn mạnh phải phát huy tối đa các nguồn nội
lực. Nội lực, hiểu một cách tồn diện, bao gồm con người, trí tuệ, truyền thống dân tộc, truyền
thống cách mạng, đất đai, tài nguyên, vốn liếng… nhưng tựu trung lại, yếu tố quan trọng nhất,
quyết định nhất vẫn là nguồn lực con người với tất cả sức mạnh thể chất và tinh thần của nó.
17


Chủ nghĩa yêu nước là nguồn lực mạnh mẽ nhất, trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân
tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần yêu nước ấy đã được phát
huy cao độ, biến thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng vô song, đưa đến mọi thắng lợi của dân
tộc ta. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, truyền thống quý báu ấy
cần được tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực vô tận để đưa đất nước
vượt qua mọi nguy cơ, thử thách, vững bước tiến lên.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và
cách mạng giải phóng dân tộc, chúng ta cần thực hiện những nội dung sau:
Một là, kiên định con đường ĐLDT gắn liền với CNXH. Trong bất ky điều kiện và hoàn
cảnh nào cũng phải giữ vững được nền độc lập hoàn toàn, độc lập thực sự của đất nước.
Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đáp ứng với yêu cầu, nhiệm
vụ trong thời ky lịch sử mới. Trước hết là mỗi đảng viên tự nâng cao trình độ nhận thức chính trị
và chun mơn, trau dồi , rèn luyện đạo đức để xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung
thành của nhân dân.
Ba là, tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh cơng-nơngtrí, trên cơ sở phát huy tinh thần tự lực, tự cường, “đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân”
Bốn là, trong bối cảnh hiện nay phải đặt lợi ích quốc gia-dân tộc lên trên hết; kiên định độc

lập tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi;
kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc VN XHCN.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc được hình thành và
phát triển trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Đó là sự sáng tạo của Hồ Chí Minh,
mang tinh thần cách mạng và khoa học, được kiểm chứng trong thực tiễn cách
mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới. Những quan điểm của Hồ Chí
Minh về cách mạng giải phóng dân tộc thấm đượm khát vọng của nhân dân Việt
Nam về độc lập, tự do, công bằng, văn minh, ấm no, hạnh phúc. Đó là đòi hỏi chính
đáng của tất cả các dân tộc trong đó có Việt Nam. Những cống hiến sáng tạo của Hồ
Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, cả lý luận và thực tiễn bổ sung cho kho
tàng lý luận cách mạng thế giới, của chủ nghĩa Mác-Lênin, mãi mãi là niềm tự hào cho
dân tộc ta tiếp tục tiến lên.
18


ĐÁP ÁN ĐỀ THI SỐ 03
Câu 1: Phân tích quan điểm, nội dung vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh trong bối cảnh hiện nay.
Tình hình thế giới hiện nay đã và đang có những biến đổi to lớn, sâu sắc về nhiều
mặt. Cách mạng khoa học- công nghệ phát triển mạnh mẽ, tồn cầu hóa và hội nhập
quốc tế trở thành tất yếu của xu thế hợp tác, liên kết giữa các ngành, các quốc gia và các
khu vực trên thế giới với nhiều cấp độ; hòa bình, phát triển, dân chủ hóa các quan hệ
quốc tế trở thành xu thế của thời đại. Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn cùng
với những mâu thuẫn mới nảy sinh, làm cho căng thẳng trong quan hệ quốc tế, xung đột
tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp lật đổ, khủng
bố, diễn ra phức tạp.
VN cũng đang đứng trước những thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức đan
xen nhau. Những thành tựu, kinh nghiệm 30 mươi năm đổi mới đã tạo ra thế và lực, sức
mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước. Đồng thời các khó khăn, thách thức khơng

giảm mà ngày càng phức tạp hơn. Đặc biệt tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với
Đảng và Nhà nước…
Bối cảnh mới đòi hỏi chúng ta vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng HCM trong
các lĩnh vực đời sống xã hội. Nghĩa là vận dụng những quan điểm lý luận của Người,
xuất phát từ thực tế, xác định đường lối chiến lược, sách lược và chỉ đạo cho phù hợp
trên cơ sở giữ vững mục tiêu ĐLDT và CNXH.
Về quan điểm:
Phải quán triệt lời dạy của chính Hồ Chí Minh: Vận dụng lập trường, quam điểm,
phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
vào hồn cảnh mới phù hợp từng nơi, từng lúc. Đứng vững lên lập trường giai cấp công
nhân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mới nhận thức và giải
quyết đúng đắn, hợp lý những vấn đề giàu nghèo, quan hệ lợi ích giữa dân tộc và giai
cấp, dân tộc và quốc tế do thực tiễn đặt ra.

19


Có 4 quan điểm mang tính phương pháp luận trong nhận thức và hành động theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
+ Một là: Lý luận gắn với thực tiễn.
Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: ‘‘Phải nâng cao sự tu dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin
để dùng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết
kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có
như thế, chúng ta mới dần dần hiểu được qui luật phát triển của cách mạng Việt Nam,
định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ
nghĩa thích hợp với tình hình nước ta’’. Rõ ràng, theo Hồ Chí Minh cần phải gắn lý luận
với thực tế thơng qua việc thực tế hóa lý luận và lý luận hóa thực tế, chỉ có như vậy mới
vận dụng sáng tạo và phát triển thành công, không chỉ tư tưởng Hồ Chí Minh mà cả Chủ

nghĩa Mác – Lênin cho phù hợp điều kiện mới, yêu cầu mới hiện nay.
+ Hai là: Quan điểm lịch sử và cụ thể.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của một thời ky lịch sử cụ thể, chịu sự ước định
của điều kiện lịch sử đó. Nghiên cứu để nhận thức hay vận dụng một quan điểm hoặc
một câu nói nào đó của Người cần thiết phải đặt nó trong bối cảnh cụ thể: Nói với ai,
nhằm mục đích gì, do đâu hay vì sao mà nói, viết như thế để không dẫn đến những suy
diễn hay qui kết nhầm lẫn, sai lệch với tư tưởng của Người. Cần chú ý rằng Hồ Chí
Minh khơng chỉ là một chiến lược gia vĩ đại mà còn là một nhà chỉ đạo chiến lược, một
nhà sách lược tài giỏi. Tùy đối tượng, hồn cảnh cụ thể mà Người có cách xử lý linh
hoạt, sáng tạo riêng. Như vậy, vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh rất cần nắm
chắc lịch sử vấn đề và rất cần so sánh, tìm hiểu các điều kiện ra đời quan điểm tư tưởng
đó còn khơng ? còn như thế nào để bổ sung và phát triển.
+ Ba là: quan điểm toàn diện và hệ thống.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống đề cập toàn diện đến các vấn đề của con
người và xã hội Việt Nam. Bản thân Người khi xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng, xã
hội hay con người luôn nhìn qua các mối quan hệ nhiều chiều để thấy tồn diện của vấn
đề, đồng thời cũng nhìn tồn diện các vấn đề như: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội;
quá khứ hiện tại, tương lai; truyền thống và hiện đại; dân tộc và quốc tế; cá nhân, tập
thể, cộng đồng; thời, thế, lực; thiên thời, địa lợi, nhân hòa; nhận thức, tư tưởng, phương
20


pháp, phong cách; tình cảm, đạo đức, nhân cách, lối sống; lý luận và thực tiễn, nói và
làm, quyền lợi và nghĩa vụ,.v.v. Người thường nhắc cán bộ, đảng viên trong cơng tác,
cơng việc phải có cái nhìn tồn cục, tránh chủ quan phiến diện, cục bộ. Vận dụng, phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết là vận dụng, phát triển cách nhìn tồn diện về
mình, về người, về vật, về việc của Người. Mặt khác là hoàn thiện nội dung toàn diện
của hệ thống các chữ dân trong ‘‘ham muốn tột bực’’ của Người.
+ Bốn là: Quan điểm kế thừa và phát triển.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa và phát triển tinh hoa văn hóa tư tưởng của

dân tộc và nhân loại. Bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh là khoa học, cách mạng và sáng
tạo nên luôn luôn mới với tư cách là nguyên lý và những nguyên tắc phương pháp luận
trong suy nghĩ, giải quyết vấn đề. Nhưng cũng có nhiều vấn đề, sinh thời Hồ Chí Minh
chưa có điều kiện đề cập đến. Vì vậy, chúng ta phải biết kế thừa để phát triển, vừa kế
thừa vừa phát triển và phát triển trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh. Trung thành ở
đây không phải là khư khư giữ nguyên các câu chữ cũ mà là trung thành với mục tiêu lý
tưởng, với lơgic phát triển tư duy của Hồ Chí Minh, để sáng tạo ra những luận điểm
mới, nội dung mới, cách làm mới phù hợp với điều kiện hoàn cảnh mới. Nghĩa là tìm ra
những vấn đề có tính qui luật và qui luật của cách mạng Việt Nam thời ky hậu Hồ Chí
Minh.
Quán triệt những quan điểm trên, bằng phương pháp biện chứng duy vật và lịch sử,
lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phát triển bền vững,
ổn định làm cái bất biến và sử dụng linh hoạt các hình thức, cách làm, giải pháp trong
sự vạn biến sôi động của cuộc sống, chắc chắn sẽ thành công
Về nội dung vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện
nay:
- Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đó là ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay
và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiên tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã
hội và là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Vì rằng, thế giới đã và đang thay đổi nhiều, song cuộc đấu tranh cho độc lập dân
21


tộc và chủ nghĩa xã hội vẫn diễn ra gay gắt. Sau sự đổ vỡ của hệ thống xã hội chủ nghĩa,
các xu hướng dân tộc vị kỷ, cực đoan trỗi dậy mạnh mẽ dẫn đến các cuộc chiến tranh
dân tộc, sắc tộc đẫm máu. Các thế lực phản động quốc tế ra sức khai thác, kích động, lơi
cuốn các dân tộc vào cơn lốc bạo lực mới chưa biết khi nào chấm dứt. Bên cạnh đó các
cường quốc cơng nghệ đang thực hiện âm mưu biến các nước chậm phát triển thành bãi

thải cơng nghệ, hòng kìm hãm các nước này trong vòng lạc hậu dễ bề thao túng, bóc lột.
Ở nước ta các thế lực phản động trong và ngồi nước cấu kết với nhau kích động hận
thù và theo đuổi mưu toan xóa bỏ chủ nghĩa xã hội. Vấn đề độc lập dân tộc, bảo vệ chủ
quyền đất nước luôn luôn đặt ra như một ý thức thường trực không được một phút lơ là.
Nền độc lập dân tộc chỉ được bảo vệ vững chắc khi và chỉ khi nước ta giàu, mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Đó cũng là mục tiêu phản ánh đầy đủ quan niệm của Hồ Chí
Minh và Đảng ta về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Tiếp tục nâng cao nhận thức về giá trị bất hủ của chân lý ‘‘Khơng có gì q hơn
độc lập, tự do’’.
Muốn vậy, phải đẩy mạnh giáo dục và phát huy chủ nghĩa yêu nước, khơi dậy ý
thức tự lực tự cường của dân tộc, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thử thách, khó khăn tạo
động lực phát triển nhanh, mạnh nhưng phải bền vững, ổn định. Trong phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy chủ nghĩa yêu nước dù phức tạp, khó
khăn hơn so với thời ky khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nhất là khi ta hội nhập thế giới, nếu
khơng có lòng u nước và tinh thần dân tộc độc lập thì cũng dễ đánh mất chủ quyền
quốc gia và bản sắc văn hóa dân tộc, sẽ rơi vào nguy cơ ‘‘tái thuộc địa hóa’’ở dạng mới.
Chân lý ‘‘khơng có gì q hơn độc lập, tự do” phải được thể hiện thành chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam hiện đại gắn liền lý tưởng độc lập dân tộc với lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, chân lý khơng có gì q hơn độc lập, tự do khơng phải thuần túy nói về độc
lập dân tộc mà tự do là một vấn đề rất lớn. Chủ nghĩa tư bản chưa giải quyết được tự do
cho mỗi con người và các dân tộc. Vì vậy, thực hiện Di chúc của Hồ Chí Minh ‘‘xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” là độc lập, tự do của Việt Nam và
cũng là chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
- Xây dựng và phát huy động lực cách mạng trong đổi mới
22


Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người khẳng định lực lượng cách mạng là bao
gồm cả dân tộc.

Xác định đổi mới là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng, mọi chủ trương chính sách phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc, cái gì lợi cho dân
phải hết sức làm cái gì hại đến dân phải hết sức tránh.
Giải quyết tốt vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân (tam nông) để ổn định xã
hội, đồng thời cũng là để xây dựng cơ sở của khối đoàn kết dân tộc, của liên minh cơng
nơng trí, nhằm khắc phục và hạn chế khoảng cách giàu nghèo, khoảng cách giữa nông
thôn và thành thị. Vấn đề “tam nông” giải quyết không kịp thời, ít hiệu quả sẽ là nguyên
nhân tiềm ẩn làm thất bại sự nghiệp đổi mới, dẫn đến xung đột xã hội khó lường. Vì đến
70% dân số nước ta hiện nay là nông dân, sống ở nông thôn, dựa chủ yếu vào nơng
nghiệp.
Mở rộng, củng cố khối đại đồn kết dân tộc làm cho chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí
Minh đạt thắng lợi mới rực rỡ hơn. Tìm những hình thức mới, biện pháp sinh động, hiệu
quả nhằm phát huy động lực con người, động lực đoàn kết dân tộc và chủ nghĩa yêu
nước; giải quyết tốt: Dân sinh, dân quyền, dân chủ và dân trí trong xã hội, sớm đưa đất
nước sánh vai các cường quốc năm châu. Mở rộng quan hệ quốc tế, kết hợp sức mạnh
dân tộc với thời đại, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập,
chủ quyền và bản sắc dân tộc.
- Củng cố hệ thống chính trị vững chắc
Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, Đảng phải thực sự là đạo đức văn minh,
vừa là người lãnh đạo vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ
của nhân dân, thực hiện đúng cơ chế dân chủ: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra
trong xây dựng Đảng cũng như trong phát triển đất nước. Thực hành dân chủ rộng rãi
trong Đảng và trong xã hội để dân chủ thực sự là “Chìa khóa vạn năng, có thể giải quyết
mọi khó khăn”.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện quyền lực nhà nước là thống nhất có
sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.

23



Xây dựng và củng cố vững chắc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phát huy vai trò của
Mặt trận trong việc tăng cường sức mạnh khối đoàn kết toàn dân tộc, để Mặt trận thực
sự là tổ chức đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân và hồn thành
có hiệu quả vai trò giám sát và phản biện xã hội.
- Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách HCM
Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong Đảng, hệ
thống chính trị và nhân dân. Tổ chức học tập, quán triệt và tuyên truyền sâu rộng,
thường xuyên, liên tục và có hệ thống bằng nhiều hình thức phong phú, sinh động các
nội dung chủ yếu về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong tồn Đảng, tồn
dân và tồn qn. Đó là hệ thống quan Điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và con người; về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội... Các quan Điểm và tấm gương đạo đức về: tuyệt đối trung thành, kiên
định lý tưởng cách mạng, đặt lợi ích của Đảng, của đất nước, dân tộc lên trên tất cả; hết
lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân, tận trung với nước, tận hiếu với dân;
hết lòng yêu thương đồng bào, đồng chí, yêu thương con người; cần, kiệm, liêm chính,
chí cơng vơ tư, thật sự là công bộc của nhân dân, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân,
cơ hội... Đó là phong cách Hồ Chí Minh, phản ánh những giá trị cốt lõi trong tư tưởng,
đạo đức của Người.

24


Câu 2: Phân tích sự phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
(4 điểm)
Để vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh phải quán triệt các quan điểm lịch
sử cụ thể, quan điểm toàn diện và hệ thống, quan điểm kế thừa và phát triển và lý luận
gắn với thực tiễn. Nội dung vận dụng và phát triển tư tưởng của Người phải toàn diện
theo những nội dung về kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; nâng cao nhận thức

chân lý "không có gì q hơn độc lập, tự do", xây dựng và phát huy động lực cách mạng
trong đổi mới, củng cố hệ thống chính trị vững chắc và học tập, làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam trong sạch, vững mạnh, để Đảng xứng đáng “là đạo đức, là văn minh” chiếm một vị
trí đặc biệt quan trọng. Việc vận dụng tư tưởng của Người vào công tác xây dựng Đảng
hiện nay sẽ góp phần to lớn vào cơng cuộc xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh.
Xây dựng Đảng chính là yêu cầu để Đảng tồn tại và phát triển
Trong Bài nói tại lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương (ngày 11-5-1952), Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng “vì điều kiện khó khăn, mà số đơng cán bộ và đảng viên
chưa được huấn luyện hẳn hoi cho nên tư tưởng và trình độ chính trị còn thấp kém và
lệch lạc. Điều đó tỏ rõ ra ở mỗi khuyết điểm như: khơng nắm vững chính sách trường ky
kháng chiến, tự lực cánh sinh; không phân biệt rõ ràng bạn và địch, bệnh quan liêu, công
thần và nạn tham ô hủ hóa khá nặng... Từ đó có thể thấy, xây dựng Đảng là cơ hội để mỗi
cán bộ, đảng viên tự rèn luyện, giáo dục và tu dưỡng, ngày một tiến bộ hơn, trở thành
người cách mạng chân chính.
Trước lúc đi xa, trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Người căn dặn: “Đảng
ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Hội nghị Trung ương 4 khóa XI đã đề ra nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách hiện
nay về xây dựng Đảng”. Nghị quyết chỉ rõ: “Bên cạnh những kết quả đã đạt được, cơng
tác xây dựng đảng còn khơng ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết
điểm kéo dài qua nhiều nhiệm ky chậm khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân
25


×