CÂU 1: Đồng chí hãy phân tích: Nguồn gốc hình thành tư tưởng HCM, làm rõ mối quan
hệ giữa các nguồn gốc đó và khẳng định nhân tố có vai trò quan trọng nhất.
(Truyền thống dân tộc - Tinh hoa văn hóa nhân loại - Chủ nghĩa Mác-Lênin - Chủ quan
của Hồ Chí Minh).
Bài làm
Chủ tịch HCM - vị anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, điều đó đã được
dân tộc VN và cả nhân loại ngày nay thừa nhận. Với thiên tài trí tuệ của mình, với lòng yêu
nước nồng nàn và thương dân sâu sắc, Bác - từ một con người giản dị bình thường đã trở
thành nhà tư tưởng vĩ đại, một nhà lý luận thiên tài của cách mạng VN. Người là sự kết tinh
những giá trị tinh hoa nhất của văn hóa dân tộc và của nhân loại, là bước phát triển mới
của CN Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của VN. Tư tưởng ấy có giá trị vô cùng to lớn,
định hướng cho CM VN trong hơn nữa thế kỷ qua, góp phần thúc đẩy tiến trình văn minh,
tiến bộ của nhân loại. Hiện nay tư tưởng HCM đang tiếp tục soi đường cho CM nước ta
trong sự nghiệp đổi mới, cương lĩnh của Đảng ta năm 1991 đã xác định:” Đảng lấy CN
Mác-Lênin và tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đây là
kết luận rút ra từ kết quả tổng kết sâu sắc thực tiễn lịch sử Đảng ta và CM VN từ khi có
Đảng lớn Hội nghị TW 6 (lần 2) khóa 8 khi bàn về quyết định những nhiệm vụ cơ bản và
cấp bách trong công tác xây dựng Đảng, một lần nữa khẳng định quan điểm có tính
nguyên tắc của Đảng là:” Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM là nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động của Đảng”.
Tư tưởng HCM là sản phẩm của sự kết hợp sáng tạo CN Mác-Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước, là lý luận chiến lược CM d.tộc, dân chủ nhân dân tiến
lên CNXH, là khoa học về quy luật phát triển xã hội thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế chưa
phát triển, là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân VN trong thời đại mới. Hay có
thể nói đó là một hệ thống những luận điểm về cách mạng VN từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân tiến lên CNXH nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và con người, xây
dựng một nước VN hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, góp phần vào CM
thế giới.
Tư tưởng HCM hình thành và phát triển từ trong quá trình Người tham gia các hoạt động
tìm đường cứu nước, từ những kinh nghiệm phong phú được tích lũy qua quá trình hoạt
động phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và thực tiễn lãnh đạo CM VN, tư tưởng của
người được hình thành không tách rời những nguồn gốc xã hội lúc bấy giờ.
Hồ chủ tịch là người kế thừa xuất sắc những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của
nhân dân ta trong quá trình dựng nước và giữ nước. Đó là truyền thống kiên cường bất
khuất, nhân nghĩa, yêu chuộng tự do hòa bình, đoàn kết cộng đồng d.tộc. Bác là người tiếp
thu, nhận thức rất sớm và sâu sắc những truyền thống tốt đẹp đó. Trong cảnh nước mất,
nhà tan, nhân dân lầm than dưới hai tầng áp bức bóc lột chính là nguồn động lực hun đúc
cho Bác hình thành nguồn gốc tư tưởng đầu tiên của Người, nguồn gốc đó là toàn bộ tinh
hoa văn hóa VN được kết tinh qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, nổi bật nhất là
chủ nghĩa yêu nước VN.
Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, điều đó đã được chứng minh trong lịch sử và cả thế
giới ngày nay thừa nhận, sống trên một mảnh đất không rộng người không đông, mảnh đất
của bao thời kỳ giặc ngoại xâm qua lại, nhiều kẻ thù mạnh hơn gấp bội, qua các thời kỳ giặc
ngoại xâm phương Bắc: từ Triệu, Đnh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập… đã đánh bại các
triều đại Tần, Hán, Đòng, Nguyên, Minh, Thanh, sản sinh ra các anh hùng hào kiệt từ hai bà
1
Trưng, Lý Thường Kiệt, Lê Lợi, Quang Trung. Từ thời kỳ Pháp xâm lược với chính sách
người dân, hòng xóa tên VN trên bản đồ thế giới cũng không khuất phục được nhân dân ta.
Nhiều sĩ phu yêu nước đã tập hợp lực lượng chống lại thực dân Pháp, khởi nghĩa nổ ra
khắp nơi như Ba Đình, Bãi Sậy, phong trào Đông kinh nghĩa thục với các tên tuổi của Phan
Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu trình…khởi nghĩa. Ở Thái
Nguyên, Yên Bái. Chủ nghĩa y6eu nước, truyền thống đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường đã
thúc giục những con người ưu tú, trong đó có Nguyễn Tất Thành, quyết ra đi tìm đường cứu
nước, cứu dân. Đó cũng là tư tưởng, tình cảm chi phối mọi suy nghĩ và hành động của HCM
trong suốt cuộc đời. Người nói:” Tôi chỉ có một ham muốn tột bậc là làm sao cho đất nước
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành”
Nói về Chủ nghĩa Mác LêNin, HCM khẳng định:” đó là vũ khí tư tưởng không gì thay thế
được, nó là cẩm nang, là mặt trời soi sáng ta đi tới CNXH, CNCS” với phép biện chứng duy
vật đã giúp Bác có được tư duy và phương pháp luận đúng đắn, nhờ đó Bác đã thành công
trong trong quá trình hoạt động CM, gần mười năm bôn ba qua nhiều châu lục, khảo sát
thực tiễn qua nhiều nước Tư bản và thuộc địa, Bác đã sớm nhận thức được xu hướng của
thời đại, từ một người yêu nước, từ nhận thức hết sức nhạy bén, sáng tạo và trí tuệ sáng
suốt Bác đã gặp CN Mác-Lênin như một cuộc hẹn hò từ trước” Luận cương về vấn đề dân
tộc và thuộc địa” của Lênin đã soi sáng và tạo ra những bước ngoặt phát triển tư tưởng của
HCM, từ yêu nước chưa có định hướng chuyển sang lập trường của CN M-Lê nin và Người
đã rút ra kết luận : ”Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
ngoài con đường cách mạng vô sản”. Đó là cuộc CM dân chủ tư sản kiểu mới do Đảng tiên
phong của giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm đánh đổ đế quốc phong kiến và tay sai, giành
độc lập dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm CM XHCN, xây dựng
CNXH và CNCS Ở VN. Đó là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, kết
hợp CN yêu nước và CN quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức
mạnh thời đại nhằm đạt mục tiêu cuối cùng là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải
phóng con người.
Đối với tông giáo, Bác hiểu rất sâu sắc, vận dụng rất sáng tạo của Nho giáo, Phật giáo và
các tôn giáo khác như việc liên hệ đạo đức người CM với đạo tam tài, trời, đất. Bác nói:”
Ông Mác có phép DVBC, ông Khổng có đức trí dũng con người, Đức chúa Giêsu có lòng
nhân ái, Đức phật Thích ca có lòng từ bi bác ái, Tôn Dật Tiên có chủ nghĩa tam dân. Nếu
các vị ấy còn sống thì chắc họ sẽ sống hoàn mỹ với nhau, bởi vì các vị đó có một điểm
chung là muốn giải phóng con người, giải phóng nhân loại, tôi nguyện làm người học trò
nhỏ của các vị ấy”.
Những giá trị tốt đẹp ấy đã trở thành nguồn gốc rất quan trọng trong quá trình hình thành
nhân cách, tư tưởng HCM trong cuộc đời và sự nghiệp đã làm cho nhiều người nể phục.
Bác ra đi tìm đường cứu nước năm 1911, hoạt động Ở nước ngoài 30 năm, qua nhiều quốc
gia châu lục hành trang của Người là chủ nghĩa yêu nước và văn hóa VN. Năm 1923, tại đại
hội quốc tế V tại Liên Xô, một nhà thơ Liên Xô đã từng nhận xét:” Từ Nguyễn ái Quốc tỏa ra
một nền văn hóa, không phải là văn hóa Châu âu mà có lẽ là văn hóa tương lai”, lời tiên
đoán đó sau 67 năm đã trở thành hiện thực vào năm 1990 khi UNESCO công nhận HCM “
vị anh hùng giải phóng dân tộc của VN và là một nhà VH lớn”.
Từ bản lĩnh, phẩm chất, tính cách của HCM cho ta thấy, ngay từ thuở nhỏ Bác đã có
hoài bão lớn, có bản lĩnh kiên định, giàu tính nhân ái và sớm có ý thức Y.nước, cứu nước,
2
tự tin vào mình, Bác coi trọng Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh nhưng không tán thành con
đường đi của các bậc tiền bối ấy. Ở con người Bác có linh khiếu chính trị cộng với nghị lực
phi thường nên Bác đã rất thành công trong lãnh đạo CM. Với hai bàn tay Bác đã quyết
tâm xa quê đi tìm đường cứu nước mà lòng quặn đau nỗi nhớ:” Đất nước đẹp vô cùng
nhưng Bác phải ra đi”. Nhờ vào sức lực trí tuệ, vượt mọi gian khó mà Bác đã chiến thắng
tất cả, ta thử tưởng tượng trong hoàn cảnh hiện nay, lớp trẻ phải làm gì để học tập người
thanh niên ấy. Sống trong lòng CNTB, thực dân, với khả năng, tư chất thông minh, Bác
không màng, không tưởng tới bất cứ một điều gì cho mình, một mình đến với CN M-Lê nin,
tự ghiền nghiền ngẫm, so sánh, đối chiếu với thực tiễn để chọn đó làm lý tưởng cho bản
thân, cho d.tộc, bác quả là một người vĩ đại- một con người mà:
Giàu sang không thể quyến rũ.
Nghĩa khí không thể chuyển lay.
Uy lực không thể khuất phục.
Kể cả khi trở thành người đứng đầu Đảng và nhà nước Bác vẫn là con người hết sức
dung dị, bình thản nhưng rất vĩ đại. Nhân dân ta gọi người là Bác, cả đời người là của
nước non. Cơ sở nội tại, nhân tố chủ quan trong con người HCM là một trong những cơ
sở hình thành tư tưởng của Bác.
Như vậy, qua phân tích tư tưởng HCM, cùng với nguồn gốc nội tại, có 3 nguồn gốc cơ
bản đó là: CN Mác-Lênin, chủ nghĩa yêu nước và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh
hoa văn hóa nhân loại.
Trong các nguồn gốc hình thành nên tư tưởng HCM, chủ nghĩa yêu nước là cơ sở ban
đầu và động lực thúc đẩy Người tự giác đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, còn CN Mác-Lê nin
đã nâng CN yêu nước lên một bước phát triển mới về chất phù hợp với thời đại mới. CN
Mác-Lê nin là nguồn gốc trực tiếp và chủ yếu của tư tưởng HCM.
Tinh hoa văn hóa nhân loại đã giúp cho HCM hiểu sâu sắc hơn CN Mác-Lê nin, làm
phong phú bản sắc tư tưởng của Người, do kết hợp được dân tộc với thời đại, phương
Đông với phương Tây và nâng tầm văn hóa chính trị của Người ngang tầm với thời đại. Tư
duy HCM hình thành là sự tổng hợp, chắt lọc tư duy độc lập qua trí tuệ và nhân cách lớn
của Người. Trên cơ sở một bản lĩnh chính trị kiên định và cốt cách văn hóa độc đáo của
Người. Đó là kết quả tổng hợp quá trình đấu tranh lâu dài trong thực tiễn, hiểm nguy, gian
khó qua nhiều châu lục, một quá trình học tập, tích lũy kinh nghiệm sống và chiến đấu của
Người.
Nguồn gốc hình thành tư tưởng HCM đã quy định tính cách mạng, khoa học của tư
tưởng đó. Tư tưởng HCM là kết quả của sự vận dụng sáng tạo CN Mác-Lê nin trong điều
kiên cụ thể của nước ta. Tư tưởng HCM là tài sản tinh thần quý báu của toàn Đảng, toàn
dân tộc ta đã đang và sẽ biến thành sức mạnh vật chất soi đường chỉ lối cho dân tộc ta đi
tiếp chặng đường đổi mới, xây dựng CNXH.
Tính khoa học sáng tạo của HCM đã được lịch sử đấu tranh CM 70 năm qua kiểm
chứng, trải qua bao khúc quanh của lịch sử dân tộc và những biến cố khắc nghiệt của d.tộc,
thời đại, tư tưởng của Bác vẫn luôn cùng con cháu thời đại HCM vững bước đi tới mục tiêu
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, tư tưởng đó là niềm tự hào của mọi thế
hệ VN. Dưới ánh sáng của CN Mác-Lê nin và tư tưởng HCM, toàn Đảng, toàn dân ta càng
vững tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng. Mỗi CB, đảng viên và
người dân VN cần phải ra sức học tập, rèn luyện tu dưỡng theo tư tưởng của Người góp
phần xây dựng một nước VN độc lập, thống nhất bền vững trong thời đại ngày nay, tư
tưởng HCM vẫn sống mãi với non sông VN./
Câu 1a: Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Bài Làm
3
ĐH Đảng lần IX khẳng định : “tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm toàn
diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng VN, là kết quả sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
kế thưà và phát triển các giá trị truyển thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại” và “tư tưởng HCM soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân ta
giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”
Nghị quyết 09 Bộ Chính trị (khoá VII) viết:”Chủ tịch HCM đã sớm nắm bắt
sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học, tinh thần biện chứng và nhân đạo của
học thuyết Mác-Lênin, vận dụng một cách sáng tạo học thuyết ấy phù hợp với hoàn
cảnh thực tế nước ta; đồng thời Người đã kế thừa phát huy chủ nghĩa yêu nước
truyền thống thống đẹp của dân tộc và tinh hoa của nhân loại. Tư tưởng HCM được
hình thành từ những nguồn gốc đó “
Tư tưởng HCM là sự kế thừa và phát triển những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc VN mà đỉnh cao là chủ nghĩa yêu nước
Truyền thống yêu nước, ý chí độc lập tự cường là chuẩn mực cao nhất, đứng đầu bản
giá trị văn hóa tinh thần VN. Mọi học thuyết đạo đức tôn giáo du nhập vào VN đều được tiếp
nhận, khúc xạ qua lăng kính của tư tưởng yêu nước đó. Tại ĐH II (1951) của Đảng, Chủ tịch
HCM nói:”dân ta có một lòng nồn nàng yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ
xưa đến nay mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn
sóng vô cùng mạnh mẽ to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả
lũ bán nước và cướp nước.”
Các dân tộc đều có lòng yêu nước. Song truyền thống yêu nước VN có những nét
đặc sắc : một là tinh thần độc lập tự chủ, anh dũng bất khuất trong đấu tranh dựng nước và
giữ nước hiếm thấy một dân tộc nào trên thế giới ở vào hoàn cảnh lịch sử phải đấu tranh
trường kỳ như thế, gay go quyết liệt như thế để chống ngoại xâm, để bảo vệ độc lập tự do
bản sắc và phẩm giá dân tộc như dân tộc VN. Hai là giàu tính cộng đồng, tính nhân dân,
tính nhân bản trong tư tưởng tình cảm yêu nước VN ngay thời phong kiến nước chủ yếu
không phải là Vua mà trước hết là dân là đồng bào, là phẩm giá dân tộc và phẩm giá con
người. Ba là do hai dặc tính trên tư tưởng yêu nước truyền thống VN có xu hướng gắn với
tiến bộ XH. Tư tưởng yêu nước VN chưa đựng khát vọng về tự do công bằng bình đẳng
XH của nhân dân. Các vị anh hùng dân tộc đều có đường lối ít nhiều đáp ứng khát vọng ấy.
Nhân dân VN yêu nước mình nhưng không ít kỷ hẹp hòi dân tộc mà tôn trọng các dân tộc
khác khoan dung và quý trọng tình hoà hiếu.
Dân tộc VN có truyền thống đoàn kết nhân ái tinh thần tộng đồng lá lành đùm lá rách
trong hoạn nạn khó khăn. Dân tộc VN có truyền thống lạc quan yêu đời trong muôn nguy
ngàn khó ngươi LĐ vẫn độ viên nhau “chớ thấy sóng cã mà ngả tay chèo” và tiếng cười vẫn
không ngớt vang lên trong cuộc sống. Dân tộc VN cần cù thông minh sáng tạo trong SX và
chiến đấu đồng thời cũng là dân tộc ham học hỏi và mở rộng cửa đón nhân tinh hoa VH
nhân loại. Người VN từ xưa đã rất xa lạ với đầu óc hẹp hòi thủ cựu thói bài ngoại cực đoan.
Trên cơ sở giử vững bản sắc dân tộc nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu cải biến những
cái hay, cái tốt cái đẹp của người thành những giá trị riêng của mình.
Tư tưởng HCM là sự kết tinh trọn vẹn sinh động của những giá trị truyền thống cao
quý đó. Chủ nghĩa yêu nước VN là nguồn gốc sâu xa của tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ tuổi
thanh niên HCM đã là một trong những người con yêu nước ưu tú nhất tiêu biểu nhất của
dân tộc. Tất cả ý nghĩa cuộc sống đối với người lúc đó là cứu nước giải phóng dân tộc cứu
4
đồng bào bị đọa đày đau khổ. Người coi đấy là lẽ sống thiêng liêng nhất, Người nói :”tự do
cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả
những đều tôi hiểu”. Đối với Người tất cả mọi kế sách đều vô nghĩa nếu không nhằm tự do
cho đồng bào, độc lập cho tổ quốc . Cả cuộc đời Người”chỉ có một sự ham muốn, ham
muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành “. HCM lúc thiếu thời rất
khâm phục tinh thần yêu nước xã thân vì nước của các sĩ phu văn thân, các chiến sĩ như
Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Nhưng Người
không tán thành đường lới cứu nước của các vị. Tư tưởng yêu nước của HCM thời trẻ,
ngay khi chưa gặp CNXH, đã thể hiện có tầm vượt trước những quan niệm cứu nước
đương thời. Bởi đó là một tư tưởng yêu nước sáng suốt có tính phê phán không bảo thủ.
Nó hướng tới việc tìm con đường thật sự CM và KH dẫn đến mục tiêu triệt để giải phóng
dân tộc. Đó là tư tưởng yêu nước mang đậm tính nhân dân, tính nhân bản. Cứu nước
trước hết là cứu hàng triệu “đồng bào bị đoạ đày” , những “người cùng khổ”. trong quan
niệm về mục tiêu cứu nước của HCM (khi chưa là người Mác xít) nước độc lập phải đi đôi
với quyền tự do ấm no hạnh phúc. Rõ ràng mục tiêu ấy không thể tìm thấy ở con đường
cứu nước trên ập trường phong kiến và cả trân lập trường TS hay tiểu TS. Ở tuổi 13 cũng
như một số nhà yêu nước đương thời HCM đã sớm bị hấp dẫn bởi khẩu hiệu”tự do bình
đẳng bác ái”. Song khác các vị ấy HCM muốn tìm hiểu đến tận nơi “ cái gì ẩn đằng sau”
những từ đẹp đẽ ấy không chỉ trên lý thuyết mà ngay trên thực tế. Với một hoài bảo và lòng
yêu nước như thế làm hành trang HCM ra đi tìm đường cứu nước. Như vậy là chủ nghiõa
yêu nước truyền thống đang đòi hỏi điược đổi mới là tiền để tư tưởng đưa HCM đến một
cách tự nhiên với chủ nghĩa Mác Lênin, đáp ứng yêu cầu bức xúc của lịch sử lúc đó là phải
xác định một đường lối cứu nước đúng đắn. Tư tưởng yêu nước HCM phản ánh yêu cầu
giải phóng bức xúc của dân tộc VN và các dân tộc thuộc địa nói chung.
Tư tưởng HCM là sự tiếp thu và phát triển tinh hoa của VH nhân loại (VH Đông
tây)
Tư tưởng càng vĩ đại khi nguồn gốc của nó càng sâu xa, cơ sở của nó càng rộng lớn.
Tư tưởng HCM không chỉ kết tinh những giá trị dân tộc mà còn bắt nguồn từ tinh hoa VH
nhân loại cả phương Đông và phương Tây mà Người đã thâu thái được. HCM xuất thân
trong một gia đình khoa bản, từ nhỏ đã được hấp thu một nền Nho học vững vàng. Vì vậy
không có gì lạ khi thấy trong tác phẩm của mình Người sử dụng khá nhiều mệnh đề của
Nho giáonhưng đã đem lại cho nó một ý nghĩa mới. HCM cũng đã chỉ ra những hạn chế lớn
của Nho giáo như phân chia đẳng cấp,c oi thường phụ nữ, khinh LĐ chân tay… HCM căn
bản không dùng học thuyết Khổng tử để cải tạo XH song Người nói :”Tuy Khổng tử là phong
kiến và tuy trong học thuyết của Khổng tử có nhiều điều không đúng song những điều hay
trong đó thì chúng ta nên học” Người cho rằng để kế thừa những cái hay trong tư tưởng các
bậc tiền bối cần theo phương pháp Lênin . Người nói :”Chỉ có những người CM chân chính
mới thu thái được những hiểu biết quý báu của các đời trước để lại. Lênin dạy chúng ta như
vậy” Tù tuổi thiếu niên, HCM đã tiếp cận những yếu tố VH phương Tây qua trường học
Pháp Việt. Trong cuộc đời hoạt động CM của mình Chủ tịch HCM đã sống 30 năm ở nước
ngoài mà chủ yếu là ở Châu âu nên Người cũng chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền VH
dân chủ CM phương Tây. Người đã từng sống và làm việc ở thủ đô của các nước TB phát
triển nhất như Mỹ, Anh và nhất là Pháp… Tại quê hương của tự do bình đẳng bác ái,
Nguyễn Aùi Quốc đã tiếp xúc trực tiếp với các tác phẩm cũa các nhà triết học Khai sáng như
Vonte, Rútxô, Môngtéckiơ… những lýù luận gia của CM Pháp
Hồ Chí Minh tiếp thu những giá trị tư tưởng VH phương Tây cũng như đối với những
giá trị phương đông vơí tinh thần phê phán Người đã trực tiếp thấy rõ ách thống trị tàn bạo
5
của thực dân Pháp ở Đông dương, những thống khổ không sao kể siết của đồng bào mình,
đã tận mắt trong thấy tội ác dã man của bọn thực dân ở tất cả các nước thuộc địa mà
Người đi qua, trực tiếp chứng kiến những bất công phổ biến ngay ở những nước “văn
minh”. Qua thực tế HCM đã sớm phát hiện ra mặt trái của nền văn minh phương Tây. Song
điều đó không ngăn cản Người tiếp thu kế thừa những giá trị tốt đẹp của văn minh phương
Tây
Tư tưởng HCM là sự vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin
Trên cơ sở những nhân tố tư tưởng nói trên đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước Nguyễn Aí
Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác Lênin. Tư tưởng HCM là kết quả sự gặp gở giữa chủ nghĩa
yêu nước VN và chủ nghĩa Mác Lênin. Việc Nguyễn Aùi Quốc đến với chủ nghĩa Mác Lênin,
tìm thấy ở chủ nghĩa Mác Lênin “cái cần thiết” và “ con đường” giải phóng dân tộc VN, “ngọn
hải đăng soi đường cho toàn thể nhân loại bị áp bức đi tới giải phóng” là bước quyết định
trong quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Bắt gặp chủ nghĩa Mác Lênin tư tưởng
yêu nước ở Nguyễn Aí Quốc có bước nhảy vọt về chất-tư tưởng của Nguyễn Aùi Quốc trở
thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ tịch HCM luôn nhấn mạnh rằng : yêu nước anh dũng
chiến đấu hy sinh vì độc lập dân tộc không phải phẩm chất riêng có ở những người công
sản mà là vốn có ở hàng triệu người trong Đảng cũng như ngoài Đảng. Song chỉ có Đảng
của giai cấp CN được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác Lênin mới có đường lối đúng đắn để
giải phóng dân tộc biến chủ nghĩa yêu nước truyền thống thành chủ nghĩa yêu nước hiện
đại trên cơ sở kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa XH KH, chủ nghĩa yêu nước với
chủ nghĩa quốc tế vô sản. Được tư tưởng KH của giai cấp CN quốc tế soi sáng phong trào
gải phòng dân tộc VN đã tìm ra đường lối cứu nước đúng đắn. Chủ nghĩa Mác Lênin là cơ
sở chủ yếu nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính lý luận Mác Lênin đã cung cấp
cho HCM thế giới quan và phương pháp luận DVBC để tổng kết kiến thức tổng kết lịch sử
và kinh nghiệm thực tiễn tìm ra con đường cứu nước đúng đưa Người vượt hẳn lên phía
trước so với những người yêu nước đương thời, khắc phục căn bản khủng hoảng về đường
lối giải phóng dân tộc. Theo Lênin một người “chỉ xứng đáng với danh hiệu nhà tư tưởng khi
nào họ đi trước phong trào tự phát chỉ đường cho nó, khi nào họ biết giải quyết, trước
những người khác, tất cả các vấn đề lý luận CT sách lược và các vấn đề tổ chức mà
“những yếu tố vật chất” của phong trào hút phải một cách tự phát” HCM là một nhân vật kiệt
xuất trong những con người như thế.
Chủ nghĩa yêu nước là cơ sở ban đầu và động lực thúc đẩy HCM đến với chủ nghĩa
Mác Lênin. Còn chủ nghĩa Mác Lênin đã nâng chủ nghĩa yêu nước truyền thống ở HCM lên
bươ81c phát triển về chất phù hợp với thời đại mới. Người nói “Lúc đầu chính là chủ nghĩa
yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa công sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo quốc tế thứ
3. Từng bước một trong cuộc đấu tranh vửa nghiên cứu lý luận Mác Lênin vừa làm công tác
thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có CNXH CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị
áp bức và những người LĐ trên thế giới khỏi ách nô lệ” Như vậy tư tưởng HCM là thuộc hệ
tư tưởng Mác Lênin. Những phạm trù cơ bản của tư tưởng HCM cùng nằm trong các phạm
trù cơ bản của lý luận Mác Lênin . Tuy nhiên tư tưởng HCM không phải chỉ là sự vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh và điều kiện VN mà còn là sự phát triển và
làm phong phú chủ nghĩa Mác Lênin ở thời dại các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh
giành độc lập tự do.
Cuối cùng phải nói đến những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân
của HCM là nhân tố rất quan trọng để hình thành và phát triển tư tưởng HCM
6
Đó tà tư chất bản lĩnh trí tuệ, tâm hồn, phong cáh đặc biệt được tôi luyện trong hoạt
động thực tiễn lâu dài. Đó là tư duy độc lập tự chủ sáng tạo cộng với đầu óc phê phán tinh
tường sáng sốt trong việc nghiên cứu tìm hiểu phong trào thế giới đặc biệt là các cuộc CM
TS rút ra những kết luận cần thiết để vận dụng vào điều kiện nước ta. Đó là khổ công học
tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời đại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của
phong trào giải phóng dân tộc , phong trào công nhân quốc tế đễ có thể tiếp cận với chủ
nghĩa Mác Lênin KH về CM của giai cấp vô sản quốc tế và đó là tâm hồn của một chiến sĩ
nhiệt thành CM một trái tim yêu nước thương dân vô bờ bến sẳn sàng chịu đựng hy sinh
cao nhât vì độc lập của tổ quốc vì tự do hạnh phúc của đồng bào. Chính thông qua phẩm
chất trí tuệ và năng lực đặc biệt đó mà truyền thống vẽ vang của dân tộc cùng với các giá trị
kim cổ đông tây được hấp thụ chắc lọc thành một sản phẩm đặc biệt-tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tóm lại trong các nguồn gốc nói trên chủ nghĩa yêu nước là cơ sở ban đầu và động
lực thúc đẩy Người tự giác đến với chủ nghĩa Mác Lênin. Còn chủ nghĩa Mác Lênin đã nâng
chủ nghĩa yêu nước lên một bước phát triển mới về chất phù hợp với thời đại mới. Chủ
nghĩa Mác Lênin là nguồn gốc trực tiếp và chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tinh hoa văn
hóa nhân loại đã giúp HCM hiểu sâu chủ nghĩa Mác Lênin, làm phong phú bản sắc tư tưởng
của Người do kết hợp được dân tộc với thời đại, VH phương Đông và phương Tây và nâng
tầm VH CT của Người ngang tầm thời đại…Sự hình thành tư tưởng HCM không phải là số
cộng giản đơn ba bộ phận đó. Ở đây diễn ra một quá trình tổng hợp chắc lọc qua tư duy
độc lập, qua trí tuệ và nhân cách lớn của HCM trên cơ sở một bản lĩnh CT kiên định và cốt
cách VH độc đáo của Người . Đó cũng là kết quả tổng hợp của cả quá trình lăn lộn đấu
tranh lâu dài trong thực tiễn gian khổ hiểm nguy ở hầu khắp các châu lục; là một quá trình
tự rèn luyện tự học tập tích lũy kiến thức, kinh nghiệm sống và chiến đấu của Người.
Câu 2
: Làm rõ những sáng tạo của HCM trong tư tưởng G.phóng dân
tộc.
Nguồn gốc của tư tưởng (lý luận, thực tiễn); từng nội dung, so sánh với các
tư tưởng khác, với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng của quốc tế cộng sản để
thấy rõ sáng tạo trong tư tưởng HCM; ý nghĩa p.pháp luận.
TRẢ LỜI
:
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là hạt nhân cốt lõi, là tư tưởng trung
tâm, xuyên suốt toàn bộ học thuyết tư tưởng HCM.
Tư tưởng yêu nước “không có gì quí hơn độc lập tự do” luôn luôn đứng ở
hàng đầu trong bản giá trị tinh thần VN, nhưng trước Nguyễn Ái Quốc, HCM
nó vẫn dừng lại ở chủ nghĩa yêu nước truyền thống. Điểm khác biệt giữa HCM
và các lãnh tụ yêu nước tiền bối là ở chỗ người đã gặp được thời đại ta đã tìm
thấy con đường giải phóng dân tộc trong quĩ đạo cuộc CM vô sản. Vì vậy ngay
từ khi bắt gặp luận cương của Lê nin hình thành đường lối cứu nước, giải
phóng dân tộc, ở HCM đã có sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và
CNXH.
Tư tưởng HCM về con đường giải phóng dân tộc:
Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ 20, tư tưởng về con đường giải
phóng dân tộc ở HCM khẳng định trong một luận đề nổi tiếng: “chỉ có giải
phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng
chỉ có thể sự nghiệp của CNCS và cuộc cách mạng thế giới”
Tư tưởng HCM về con đường giải phóng dân tộc là thực hiện sự kết hợp
hài hòa giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế,
7
độc lập dân tộc và CNXH. Nội dung của thực thể này được HCM xây dựng
thành một hệ thống luận điểm dưới đây.
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản: thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ 19 đầu
thế kỷ 20 là do chưa có đường lối đúng, khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ
thống thế giới, Nguyễn Ái Quốc ví chủ nghĩa đế quốc là “con đỉa 2 vòi”, một vòi
bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế
quốc cùng một lúc cắt cả 2 vòi của nó đi, tức là phải thực hiện cách mạng vô
sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, phải xem
cách mạng ở thuộc địa như là một trong những cái cứu cánh cách mạng vô
sản, cùng tiến bước với cách mạng vô sản.
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai
cấp công nhân lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc khẳng định: muốn cách mạng giải
phóng dân tộc thành công trước hết phải có Đảng Cách mệnh … Đảng có
vững thì cách mạng mới thành công … Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm nòng cốt … bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
.nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác - Lê
nin.
Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên
cơ sở liên minh công nông do Đảng cộng sản lãnh đạo. cách mạng giải
phóng dân tộc1theo Nguyễn Ái Quốc là việc chung ca dân chúng chứ không
phải việc của một hai người, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, sỉ, nông, công,
thương đều nhất trí chống lại cường quyền. Nhưng trong sự tập hợp rộng rãi
đó không được quên cái cốt của nó là công nông và do Đảng lãnh đạo. Phải
nhớ: “công nông là chủ cách mệnh … công nông là gốc cách mệnh, nhưng
phải có Đảng cộng sản lãnh đạo thì mới đoàn kết được và CM mới thành công.
Cách mạng giải phóng dân tộc được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Trong phong trào cộng sản quốc tế một thời gian dài đã tồn tại một quan
điểm xem thắng lợi của CM thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của CM
vô sản ở chính quốc. Quan điểm này vô hình chung đã làm giảm tính năng
động sáng tạo của các phong trào CM ở thuộc địa.
Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa
đế quốc do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa y.nước và tinh thần
D.tộc, ngay từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định rằng CM thuộc địa
không những không phụ thuộc và CM vô sản ở chính quốc mà có thể và cần
phải tiến hành trước và bằng thắng lợi của mình, nó có thể giup đở những
người anh em mình ở Phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn.
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn rất to lớn, một
cống hiến rất quan trọng vào khủng hoảng tàng lý luận Mác - Lê nin.
Cách mạng giải phóng dân tộc phải được th.hiện bằng con đường bạo lực,
kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang của nhân
dân. Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng lần thứ 8 tháng 5-1941dưới sự chủ trì
của Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra quyết định: cuộc CM Đông Dương kết liễu
bằng mọi cuộc khở nghĩa vũ trang mở đầu có thể là khở nghĩa từng phần trong
từng địa phương … mà mở đường cho cuộc tổng khở nghĩa to lớn. Để chuẩn
bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang người đã về nước chỉ đạo xây dựng căn cứ địa,
đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức chính trị của quần chúng,
lập ra các đội du kích vũ trang chủ động đón thời cơ, chóp thời cơ, phát động
tổng khởi nghĩa tháng 8 giành thắng lợi trong cả nước.
8
Thấu hiểu sâu sắc chính sách tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa đế
quốc Pháp và từ những kết luận rút ra qua khảo sát, nghiên cứu phong trào
cách mạng giải phóng dân tộc ở một số nước thuộc địa như: Aán Độ, HCM chỉ
rõ: muốn giải phóng dân tộc phải thực hiện con đường CM bạo lực. Năm
1947, nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập G.phóng quân VN. Người khẳng định:
D.tộc VN nhất định phải được giải phóng. Muốn G.phóng thì phải đánh phát xít
Nhật và Pháp. Muốn đánh chúng thì phải có lực lượng quân sự. Muốn có LL
lượng thì phải có tổ chức. Muốn tổ chức thành công thì phải có kế hoạch, có
quyết tâm.”
Trong quá trình lãnh đạo CM nhờ biết kế thừa truyền thống và kinh nghiệm
đánh giặc giữ nước của dân tộc, vận dụng sáng tạo lý luận bạo lực CM của
chủ nghĩa Mác - Lê nin, tiếp thu tinh hoa lý luận và kinh nghiệm quân sự của
thế giới. HCM đã đẻ ra và hoàn chỉnh dần lý luận về bạo lực CM ở VN.
Theo HCM, bạo lực CM ở VN là sức mạnh tổng hợp của hai yếu tố chính trị
và quân sự, hai lực lượng là lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ
trang nhân dân. CM bạo lực là sử dụng sức mạnh tổng hợp để chống lại bạo
lực phản CM, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền dưới hình thức
đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
Khẳng định G.phóng D.tộc phải bằng con đường CM bạo lực. Song, HCM
luôn luôn chủ động, tích cực đưa ra giải Pháp để tranh thủ khả năng hòa bình
và phát triển CM. Thực tiễn CM VN đã chứng minh tư tưởng này của HCM.
Tư tưởng về D.tộc và CM G.phóng D.tộc là một nội dung lớn, nổi bật trong hệ
thống tư tưởng HCM. Với tư tưởng này HCM chẳng những đã đưa nước VN
đến độc lập tự do, thống nhất trọn vẹn, mà còn góp phần to lớn vào sự nghiệp
G.phóng các D.tộc thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới.
Với những đóng góp đó HCM đã được nhân dân tôn vinh là nhà G.phóng
D.tộc và nhà văn hóa lớn.
Tóm lại, Nguyễn Ái Quốc – HCM đã vận dụng sáng tạo học thuyết của chủ
nghĩa Mác - Lê nin về CM thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới, sáng
tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược, phương pháp tiến hành CM
G.phóng D.tộc ở thuộc địa.
Thắng lợi CM tháng 8 và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã chứng
minh hùng hồn tính khoa học đ.đắn, tính CM s.tạo của tư tưởng HCM
Tư tưởng về D.tộc và CM G.phóng D.tộc là một nội dung lớn nổi bật trong hệ thống
tư tưởng HCM. Với tư tưởng này HCM chẳng những đã đưa nước VN đến độc lập tự
do, thống nhất trọn vẹn, mà còn góp phần to lớn vào sự nghiệp G.phóng các D.tộc
thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới. Với những đóng góp đó HCM đã được nhân loại
tôn vinh là anh hùng G.phóng D.tộc và nhà văn hóa lớn.
Câu 2a: Làm rõ những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong tư tưởng giải phóng
dân tộc.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa XH là hạt nhân cốt lõi, là tư tưởng trung tâm,
xuyên suốt tòan bộ học thuyết tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng yêu nước “không có gì quí hơn độc lập tự do” luôn luôn đứng ở hàng đầu
trong bản giá trị tinh thần Việt Nam, nhưng trước Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh nó vẫn
dừng lại ở chủ nghĩa yêu nước truyền thống. Điểm khác biệt giữa Hồ Chí Minh và các lãnh
tụ yêu nước tiền bối là ở chỗ người đã gặp được thời đại ca đã tìm thấy con đường giải
phóng dân tộc trong quĩ đạo cuộc CM vô sản. Vì vậy ngay từ khi bắt gặp luận cương của
Lê nin hình thành đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc , ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó
thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa XH.
9
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc:
Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ 20, tư tưởng về con đường giải phóng dân tộc
ở Hồ Chí Minh khẳng định trong một luận đề nổi tiếng: “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì
mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng chỉ có thể sự nghiệp của chủ nghĩa
cộng sản và cuộc CM thế giới”
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc là thực hiện sự kết hợp hài
hòa giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế , độc lập dân tộc
và chủ nghĩa XH. Nội dung của thực thể này được Hồ Chí Minh xây dựng thành một hệ
thống luận điểm dưới đây.
CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường CM vô sản: thất
bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 là do chưa có đường lối
đúng, khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới , Nguyễn Ái Quốc ví CNTB đế
quốc là con đĩa 2 vòi: một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh
bại chủ nghĩa đế quốc cùng một lúc cắt cả 2 vòi của nó đi, tức là phải thực hiện CM vô sản
ở chính quốc với CM giải phóng dân tộc ở thuộc địa , phải xem CM ở thuộc địa như là một
một trong những cái cánh của CM vô sản, cùng tiến bước với CM vô sản.
CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo:
Nguyễn Ái Quốc khẳng định: muốn CM giải phóng dân tộc thành công trước hết phải
có Đảng Cách mệnh … Đảng có vững CM thì mới thành công … Đảng muốn vững thì
phải có chủ nghĩa làm nồng cốt … bao giờ học thuyết nhiều , chủ nghĩa nhiều , nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất , chắc chắn nhất, CM nhất là chủ nghĩa Mác - Lê nin.
CM giải phóng dân tộc là sự nghiệp đòan kết của tòan dân trên cơ sở liên minh công
nông do Đảng cộng sản lãnh đạo. CM giải phóng dân tộc theo Nguyễn Ái Quốc là việc
chung ca dân chúng chứ không phải việc của một hai người , vì vậy phải đòan kết tòan
dân , sỉ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền. Nhưng trong sự tập hợp
rộng rãi đó không được quên cái cốt của nó là công nông và do Đảng lãnh đạo. Phải nhớ:
“công nông là chủ cách mệnh … công nông là gốc cách mệnh, nhưng phải có Đảng cộng
sản lãnh đạo thì mới đòan kết được và CM mới thành công.
CM giải phóng dân tộc được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành
thắng lợi trước CM vô sản ở chính quốc.
Trong phong trào cộng sản quốc tế một thời gian dài đã tồn tại một quan điểm xem
thắng lợi của CM thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của CM vô sản ở chính quốc.
Quan điểm này vô hình chung đã làm giảm tính năng động sáng tạo của các phong trào
CM ở thuộc địa.
Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc
do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc , ngay từ
năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định rằng CM thuộc địa không những không phụ
thuộc và CM vô sản ở chính quốc mà có thể và cần phải tiến hành trước và bằng thắng lợi
của mình, nó có thể giup đở những người anh em mình ở Phương Tây trong nhiệm vụ giải
phóng hòan tòan .
Đây là một luận điểm sáng tạo , có giá trị lý luận và thực tiễn rất to lớn , một cống hiến
rất quan trọng vào khủng hỏang tàng lý luận Mác - Lê nin.
CM giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực , kết hợp lực
lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang của nhân dân. Hội nghị Ban chấp
hành TW Đảng lần thứ 8 tháng 5-1941dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra
quyết định: cuộc CM Đông Dương kết liễu bằng mọi cuộc khở nghĩa vũ trang mở đầu có
thể là khở nghĩa từng phần trong từng địa phương … mà mở đường cho cuộc tổng khở
nghĩa to lớn. Để chuẩn bị tiến tới khở nghĩa vũ trang người đã về nước chỉ đạo xây dựng
căn cứ địa, đào tạo, huấn luyện cán bộ , xây dựng các tổ chức chính trị của quần chúng ,
10
lập ra các đội du kích vũ trang chủ động đón thời cơ, chóp thời cơ, phát động tổng khởi
nghĩa tháng 8 giành thắng lợi trong cả nước.
Thấu hiểu sâu sắc chính sách tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa đế quốc
Pháp và từ những kết luận rút ra qua khảo sát , nghiên cứu phong trào giải phóng dân tộc
ở một số nước thuộc địa như: Aán Độ, Hồ Chí Minh chỉ rõ: muốn giải phóng dân tộc phải
thực hiện con đường CM bạo lực. Năm 1947, nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập giải phóng
quân Việt Nam. Người khẳng định: dân tộc Việt Nam nhất định phải được giải phóng.
Muốn giải phóng thì phải đánh phát xít Nhật và Pháp. Muốn đánh chúng thì phải có lực
lượng quân sự . muốn có lực lượng thì phải có tổ chức. Muốn tổ chức thành công thì phải
có kế hoạch , có quyết tâm.”
Trong quá trình lãnh đạo CM nhờ biết kế thừa truyền thống và kinh nghiệm đánh giặc
giữ nước của dân tộc, vận dụng sáng tạo lý luận bạo lực CM của chủ nghĩa Mác - Lê nin,
tiếp thu tinh hoa lý luận và kinh nghiệm quân sự của thế giới. Hồ Chí Minh đã đẻ ra và
hoàn chỉnh dần lý luận về bạo lực CM ở Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, bạo lực CM ở Việt Nam là sức mạnh tổng hợp của hai yếu tố
chính trị và quân sự, hai lực lượng là lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang
nhân dân. CM bạo lực là sử dụng sức mạnh tổng hợp để chống lại bạo lực phản CM,
giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền dưới hình thức đấu tranh chính trị và đấu
tranh vũ trang.
Khẳng định giải phóng dân tộc phải bằng con đường CM bạo lực. Song, Hồ Chí Minh
luôn luôn chủ động, tích cực đưa ra giải Pháp để tranh thủ khả năng hòa bình và phát triển
CM. Thực tiễn CM Việt Nam đã chứng minh tư tưởng này của Hồ Chí Minh.
Tư tưởng về dân tộc và CM giải phóng dân tộc là một nội dung lớn, nổi bật trong hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Với tư tưởng này Hồ Chí Minh chẳng những đã đưa nước
Việt Nam đến độc lập tự do, thống nhất trọn vẹn, mà còn góp phần to lớn vào sự nghiệp
giải phóng các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới.
Với những đóng góp đó Hồ Chí Minh đã được nhân dân tôn vinh là nhà giải phóng
dân tộc và nhà văn hóa lớn.
Tóm lại, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết của chủ
nghĩa Mác - Lê nin về CM thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới , sáng tạo , bao
gồm cả đường lối chiến lược, sách lược , phương pháp tiến hành CM giải phóng dân tộc ở
thuộc địa.
Thắng lợi CM tháng 8 và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã chứng minh
hùng hồn tính khoa học đúng đắn , tính CM sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng về dân tộc và CM giải phóng dân tộc là một nội dung lớn nổi bật trong hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Với tư tưởng này Hồ Chí Minh chẳng những đã đưa nước Việt
Nam đến độc lập tự do , thống nhất trọn vẹn , ma còn góp phần to lớn vào sự nghiệp giải
phóng các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới. với những đóng góp đó Hồ Chí
Minh đã được nhân lọai tôn vinh là anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa lớn
Câu 2b : Làm rõ những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong tư tưởng về Cách mạng giải
phóng dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một tài sản tinh thần qúi báu của Đảng và dân tộc. Tư tưởng
đó là sự kế thừa có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại, là sự tiếp thu
và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Trong toàn
bộ nội dung tư tưởng của Người thì cách mạng giải phóng dân tộc là một trong những vấn
đề cớ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Ở điều này đã thể hiện sự sáng tạo của Hồ Chí Minh
mà dưới đây chúng ta sẽ cùng tìm hiểu.
11
Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, Người đã mắt thấy tai nghe
những nỗi khổ cực nhọc nhằn của một dân tộc mất nước, cảm nhận được sự tàn ác dã man
của bọn thực dân đế quốc : “Lịch sử việc người Âu xâm chiếm Châu Phi cũng như bất cứ
lịch sử xâm chiếm thuộc điạ nào thì từ đầu đến cuối đều được viết bằng máu những người
bản xứ “. Yêu nước thương dân, sau bao năm : “Lênh đênh bốn bể một con tàu” Người đã
tìm ra con đường cưu nước cứu dân : “ Muốn cưú nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Chỉ có con đường này mới giải phóng
được hai mặt cơ bản của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là mâu thuẫm giữa hội Việt Nam Đế
Quốc Tay Sai và mâu thuẫn nhân dân với điạ chủ phong kiến muốn giải quyết được hài hòa
vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc. Theo Người : “ Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới
giải phóng được dân tộc. Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của CNCS và
cách mạng thế giới. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh cơ sở hàng đầu để đánh giá tính triệt
đổ của một cuộc cách mạng là qui mô giải phóng quần chúng lao động bị ápbức, vì thế
Người đã chọn con đường cách mạnh vô sản, theo gương cách mạng tháng 10 Nga là một
cuộc cách mạng nằm trong dòng chảy liên tục của quá trình giải phóng con người.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện nước ta, Người đã xác định
cách mạng Việt Nam phải trãi qua hai giai đoạn mà đã được thể hiện Q. VVVT là : “Chủ
trương làm TS dân quyền cách mạng và thổ địa CN để đi tới XHCS”. Như vậy, tư tưởng Hồ
Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội đã được thể hiện rất rõ ràng và đó là
luận điểm trọng tâm xuyên suốt toàn b ộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. “Cách mạng giải
phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng
lợi hoàn toàn”. Đó là điểm khác biệt căn bản giữa con đường cứu nước của Hồ Chí Minh
với các ngà yêu nước khác như : Phan Bội Châu, Phan Chu trinh, Nguyễn Thái Học …
Phan Bội Châu đã phải thốt lên : “Than ôi ! Lịch sử của tôi là lịch sử một trăm thất bại không
một thành công”, thì ngược lại, Hồ Chí Minhlà người duy nhất tìm ra con đường đúng đắn
để cứu nước, giải phóng cho nhân dân lao động.
Trong tư tưởng về chủ nghĩa giải phóng dân tộc đã thể hiện sự sáng tạo thiên tài của
Hồ Chí Minh. Đó là luận điểm về cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc có thể nổ ra
và thắng lợi trước cách mạnh vô sản chính quốc và tác động trở lại thúc đẩy cách mạng
chính quốc. Là người yêu nước, lăn lộn trong phong trào cộng sản và chủ nghĩa quốc tế lại
là người hoạt động rất tích cực trong phong trào giải phóng dân tộc thế giới nên Người hiểu
rõ hơn ai hết về thuộc địa, về chủ nghĩa thực dân, về những nối thống khổ mà nhân dân
thuộc địa phải gánh chịu. Người đã thấy được tinh thần cách mạng đang ầm ỉ và ngày càng
mãnh liệt của nhân dân Đông Dương. Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương
giấu một cái gì đang sục sôi, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ
đến. Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đatá rồi. Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải
làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi. Hồ Chí Minh đã vì chủ
nghĩa đế quốc như con đĩa hai vòi, mộtvòi hút máu nhân dân lao động chính quốc, một vòi
hút máu nhân dân thuộc địa. Khi cách mạng bùng nồ thì hàng trăm triệu nhân dân thuộc địa
sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ thủ tiêu một trong những ĐK tồn tại của chủ nghĩa tư
bản, cắt bớt một vòi của chủ nghĩa đế quốc và như thế họ có thể giúp đỡ người anh em
mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn, cắt đứt cái vòi còn lại của chủ
nghĩa đế quốc ở chính quốc. Theo Hồ Chí Minh : “An Nam dân tộc cách mạng thành công
thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mạng cũng dễ
dàng”. Như vậy, Hồ Chí Minh chẳng những hiểu rõ về sức mạnh to lớn của phong trào giải
phóng dân tộc mà còn thấy được tính chủ động, tích cực của cách mạng giải phòng dân tộc.
12
Theo Người, cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc quan hệ mật thiếc với nhau
như hai cánh của một con chim trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế
quốc.Trong cuộc đấu tranh đó, khi có chủ nghĩa Mác – Lênin soi đường và được Đảng
Cộng Sản lãnh đạo thì nhân dân các dân tộc thuộc địa có thể chủ động tự đứng lên : “đem
sức ta mà tự giải phòng cho ta”. Mặc dù, ở các nước thuộc địa CN, thương nghiệp chưa
phát triển, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, trình dộ thấp kém. Hồ Chí Minh sớm ý thức được
về sức mạnh tự giải phóng của nhân dân các dân tộc bị áp bức. Theo Người cách mạng giải
phóng dân tộc là sự nghiệp của bản thân các dân tộc bị áp bức. “Hỡi anh em ở các nước
thuộc điạ ! Anh em phải làm thế nào để được giải phóng ? vận dụng công thức của Các
Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng : công cuộc giải phóng, anh em chỉ có thể thực hiện
được bằng nổ lực của bản thân anh em …”. Luận điểm dân tộc tự đứng lên giải phóng được
Hồ Chí Minh quán triệt trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Nói như vậy,
không có nghĩa là không cần sự giúp đỡ của bè bạn năm châu, ngược lại sự giúp đỡ đó lá
rất quí báu, song “chỉ có chúng ta mới giải quyết được số phận chúng ta, và hoàn cầu cũng
chú ý đến chúng ta khi chúng ta mạnh. Tóm lại, lực lượng đoàn kết và chiến đấu của toàn
dân vẫn là tất cả, vẫn định đoạt tất cả”. Ở Hồ Chí Minh, việc tập hợp lực lượng cách mạng
cũng thể hiện sự linh hoạt sáng tạo của Người. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng
dân tộc là sự nghiệp của toàn dân, “nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều chống lại cường
quyền …”, giải phóng dân tộc là việc chung của dân chúng, của đồng bào ta. Nhờ vậy, mà
cách mạng Việt Nam đã tổ chức được một lực lượng cách mạng vô cùng to lớn dướisự lãnh
đạo giai cấp công nhân mà đội tiền phong là Đảng Cộng Sản Việt Nam, giành được thắng
lợi này đến thắng lợi khác. Như vậy, tư tưởng cách mạng thuộc địa có thể thành công trước
cách mạng chính quốc và tác động trở lại thúc đẩy cách mạng chính quốc là sáng tạo thiên
tài của HoÀ Chí Minh làm phong phú thêm lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về CMDT nói
chung và cách mạng giải phóng dân tộc nói riêng. Luận điểm này có ý nghĩa chủ đạo thực
tiễn rất quan trọng đối với phong trào giải phóng dân tộc. Nó chỉ ra cho nhân dân các dân
tộc thuộc địa không nên trông chờ ỷ lại vào cách mạng chính quốc mà phải chủ động đứng
lên tự giải phóng khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, góp phần tích cực vào cách
mạng thế giới trong đó có cả cách mạng ở chính quốc. Thực tiễn cách mạng Việt nam mà
điển hình là cách mạng tháng 8 thành công đã chứng minh và khẳng định tính đúng đắn của
luận điểm trên.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tư tưởng Hồ
Chí Minh vẫn mãi sáng soi cho toàn Đảng, toàn dân nhứt là trong giai đoạn đổi mới hiện
nay. Giươngcao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữ vững định lý xã hội chủ nghĩa, phát huy tinh thần tự lực tự
cường (phát huy nội lực trong xây dựng đất nước, giữ gìn sự trong sáng và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ quan điểm có áp bức thì có đấu tranh, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vì bị áp
bức mà sinh ra cách mạng, cho nên hễ bị áp bức càng nặng thì lòng cách mạng càng cao,
chí cách mạng càng quyết. Người đã chỉ rõ nhân dân thuộc địa chịu đau khổ gấp ngàn lần
nội đau của giai cấp công nhân chính quốc. Trên thế giới không có dân tộc chiến bại nào bị
đàn áp và hành hạ như người dân thuộc địa.
13
(*) Lênin là người thấy được sức mạnh to lớn của phong trào giải phóng dân tộc.
Ngườiđã nhấn mạnh tư tưởng kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với phong trào giải
phóng dân tộc ở thuộc địa, yêu cầu Đảng CS ở chính quốc giúp đỡ phong trào này. Tuy
nhiên, cũng như những người lãnh đạo QTCS, Lênin cho rằng cách mạng thuộc địa phụ
thuộc vào cách mạng chính quốc, là “hậu bị quân” của cách mạng chính quốc, chỉ có thể nổ
ra thắng lợi khi cách mạng vô sản ở chính quốc thành công.
“Công nhân và nông dân không chỉ ở An Nam, Angiêri bền gan mà cả ở Ba Tư và
Ácmêni chỉ có thể được độc lập khi nào công nhân ở Anh, ở Pháp đã lật đổ được chính phủ
của thủ tướng Lôi – Gióc và Cơcô – Măngxô, giành chính quyền về tay mình
Câu 2 c : Con đường cứu nước của Hồ Chí Minh.
Trả lời :
Từ giữa thế kỷ 19, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, mặc dù các phong trào
chống Pháp liên tục nổ ra, người trước ngã người sau đứng lên nhưng tất cả các
cuộc nổi dậy ấy đều thất bại. Nguyên nhân có nhiều nhưng suy cho cùng nguyên
nhân chủ yếu là chưa có một đường lối đúng.
Bằng thiên tài trí tuệ và nghị lực phấn đấu phi thường vượt qua những hạn chế
của những người yêu nước cùng thời, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành không tán thành chủ trương cứu nước của cụ Phản ánh Bội Châu, cũng
như cụ Phan Chu Trinh, tuy người hết sức khâm phục tinh thần yêu nước của hai
cụ: “cụ Phan Chu Trinh thì yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương … chẳng
khác gì xin giặc nhủ lòng thương”, “cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đở để
đuổi Pháp, điều đó rất nguy hiểm chẳng khác gì đưa hổ cửa trước, rướt Beo cửa
sau”.
Chính vì thế, Nguyễn Tất Thành quyết định tìm đường cứu nước khác.
Tháng 6/1911 Nguyễn Tất Thành ra đi với mục đích: “tôi muốn đi ra nước ngoài
xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ
trở về giúp đồng bào chúng ta”. Khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” của CM tư
sản Pháp đã thúc dục Nguyễn Tất Thành đi đến những nước có cuộc CM tư sản
thắng lợi.
Suốt nhiều năm xông pha, người đã có mặt ở nhiều nước, tiếp xúc với nhiều lớp
người thuộc nhiều dân tộc khác nhau. Khi đến các nước tư bản phát triển ở Châu
Âu và Bắc Mỹ, người nhìn thấy cảnh giai cấp công nhân bị áp bức bóc lột thậm
tệ. Khi sang các nước Châu Á, Châu Phi và Mỹ La Tinh người tận mắt thấy nhiều
dân tộc , bị thực dân thống trị hết sức hà khắc, giã man. Nhận ra kẽ thù chung,
người đi đến kết luận quan trọng: dù màu đã có khác nhau, trên đời này chỉ có
hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có
một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản” (Hồ Chí Minh toàn tập
NXB chính trị QG Hà Nội 1995, tập 1, trang 266).
Từ tấm lòng yêu nước thương dân, đến sự phân biệt XH có hai giống người, ở
người đã có sự chuyển biến sâu sắc , hình thành ý thức giai cấp rõ rệt khiến
người đến một cách rất tự nhiên với chủ nghĩa Lê nin, chủ nghĩa Mác - Lê nin
đỉnh cao của trí tuệ nhân lọai, khi được đọc luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa.
Những năm hoạt động trong phong trào cộng sản , phong trào công nhân và
phong trào giải phóng dân tộc , tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê nin , học
tập kinh nghiệm của các Đảng cộng sản , kinh nghiệm của Liên xô quê hương
14
của CM tháng 10 Nga, người đã tích lũy những kiến thức và kinh nghiệm thực
tiễn phong phú, hình thành dần đường lối cứu nước. Luận cương của Lê nin đã
giải đáp trúng những vấn đề mà Bác Hồ đang tìm hiểu và người đi đến khẳng
định: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường CM vô sản”. Có thể nói đây là bước ngoặc căn bản sau 10 năm đi tìm
chân lý để giải phóng đồng bào, kết thúc một quá trình chuyển biến trong nhận
thức tư tưởng của Bác Hồ từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa Mác - Lê nin.
Tìm thấy cẩm nang thần kỳ cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam,
ngày 3/2/1930 người chủ trì thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Theo Hồ Chí
Minh: muốn thực hiện thành công CM giải phóng dân tộc , điều kiện đầu tiên đảm
bảo phải có Đảng cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp vô sản, người
đại diện cho dân tộc Việt Nam.
Các văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng do người trực tiếp sọan thảo như:
chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt là mẫu mực của sự vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lê nin vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của nước ta, trở thành
cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta. Đó là chủ trương làm CM tư sản dân quyền, CM
và thỗ địa CM để đi tới XH cộng sản.
Nhva ngay từ khi thành lập Đảng , tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa XH đã được thể hiện rất rõ ràng. Đây là luận điểm trung tâm
xuyên suốt trong tòan bộ tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê nin nhận thức được xu thế phát triển của thời đại ,
Hồ Chí Minh sớm chỉ ra CM giải phóng dân tộc phải đi theo con đường của CM
vô sản và CM Việt Nam là một bộ phận khắng khít của CM thế giới. Từ luận điểm
coi chủ nghĩa đế quốc là con đĩa 2 vòi, CM ở chính quốc và CM giải phóng dân
tộc ở thuộc địa là hai cánh của một con chim, là hai dòng thác của trào lưu CM
thế giới. phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin vào điều kiện cụ thể một
nước thuộc địa , Hồ Chí Minh đã di đến một luận điểm mới: CM thuộc địa không
phụ thuộc vào CM ở chính quốc , mà cần được tiến hành với tinh thần chủ động
sáng tạo, tự lực đứng lên đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Hơn nữa lại còn
có thể giúp đỡ được người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải
phóng hòan tòan. Do vậy ở những nước thuộc địa phải đặt lên hàng đầu CM giải
phóng dân tộc để đi tới chủ nghĩa XH. Đây là bài học lịch sử lớn, có ý nghĩa
nguyên tắc nói lên nguyên lý: thực tiễn là tính chất của chân lý , CM là sáng tạo
giáo điều , rập khuôn sẽ dẫn tới thất bại.
Luận điểm các dân tộc đứng lên tự giải phóng , được Hồ Chí Minh quán triệt
trong suốt quá trình lãnh đạo CM Việt Nam. Trong CM tháng 8, Hồ Chí Minh đòi
hỏi phải “đem sức ta ra mà tự giải phóng cho ta” trong kháng chiến chống mỹ là
tinh thần “tự lực cánh sinh”, “dựa vào sức mình là chính” … với tinh thần đó Hồ
Chí Minh luôn luôn đề cao sức mạnh động lực dân tộc , xây dựng lực lượng CM
trong nước là yếu tố quyết định thắng lợi cuộc CM. Mặt khác người vẫn hết sức
tranh thủ sự đồng tình , giúp đỡ của các lực lượng CM , lực lượng tiến bộ trên
thế giới.
Người xác định CM giải phóng dân tộc là của tòan dân , nghĩa là Sĩ, Nông ,
Công, Thương đều chống lại cường quyền , không phân biệt giai cấp Đảng phái,
địa vị XH , giàu nghèo. Tuy vậy trong tòan dân , Hồ Chí Minh và Đảng ta khẳng
định: CM Việt Nam do giai cấp công nhân lãnh đạo dựa trên nền tảng liên minh
Công-Nông và Trí thức.
Hồ Chí Minh đánh giá cao tinh thần yêu nước của bộ phận tư sản dân tộc Việt
Nam. Theo người, công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc cùng với các
15
thân sĩ yêu nước hợp thành lực lượng cách mạng trong cách mạng giải phóng
dân tộc. Sắp xếp lực lượng CM của Hồ Chí Minh vừa đúng với quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lê nin , vừa phù hợp với đặc điểm của dân tộc, đất nước Việt
Nam.
Thấu hiểu sâu sắc chính sách thuộc địa tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc và từ
những kết luận rút ra qua khảo sát , nghiên cứu phong trào giải phóng dân tộc ở
một số nước thuộc địa , Hồ Chí Minh chỉ rõ: muốn giải phóng dân tộc phải thực
hiện con đường CM bạo lực.
Trong quá trình lãnh đạo CM , người biết kế thừa truyền thống và kinh nghiệm
đánh giặc giữ nước của dân tộc, vận dụng sáng tạo lý luận bạo lực CM của chủ
nghĩa Mác - Lê nin , tiếp thu tinh hoa lý luận và những kinh nghiệm quân sự của
thế giới , Hồ Chí Minh đã đề ra và dần dần hoàn chỉnh lý luận bạo lực CM. Đó là
sự tổng hợp các yếu tố chính trị , quân sự , với nhiều bước đi, nhiều biện pháp ,
hình thức đấu tranh cụ thể để đạt được mục tiêu của từng chặng đường tiến tới
mục đích cuối cùng là đánh đổ thực dân, giành độc lập dân tộc tự do hạnh phúc
cho nhân dân.
Khẳng định giải phóng dân tộc phải bằng con đường bạo lực CM, song Hồ Chí
Minh luôn chủ động , tích cực đưa ra giải Pháp để tranh thủ khả năng hòa bình
và phát triển của CM. Thực tiễn CM Việt Nam đã chứng minh tư tưởng này của
Hồ Chí Minh là đúng đắn.
Tóm lại, Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam khẳng định: công lao
to lớn nhất của Hồ Chí Minh là người đã tìm con đường cứu nước đúng đắn , gắn
mục tiêu độc lập dân tộc với mục tiêu chủ nghĩa XH và cống hiến suốt đời cho
mục tiêu đó. Với tư tưởng này, Hồ Chí Minh chẳng những đã đưa nước Việt Nam
đến độc lập tự do, thống nhất tòan vẹn mà còn góp phần to lớn vào sự nghiệp
giải phóng các dân tộc thuộc địa trên thế giới. chính vì thế Hồ Chí Minh đã được
nhân lọai tôn vinh là anh hùng giải phóng dân tộc, đẩy nhanh nhân văn hóa thế
giới.
Ngày nay Đảng ta và nhân dân ta vẫn kiên định con đường CM với mục tiêu ma
Hồ Chí Minh đã lựa chọn: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước
Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh … tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của
nhân dân ta giành thắng lợi , là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”
(VKĐH 9 trang 20, 21).
Đảng ta xác định mục tiêu CM: dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ,
văn minh.
Xây dựng Nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân mục đích để phát huy
sức mạnh toàn dân tộc để xây dựng đất nước.
Các dân tộc Việt Nam đều có quyền bình đẳng tạo điều kiện giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ.
Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng quan hệ quốc tế.
Kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam XHCN.
CÂU 3
: Phân tích cơ sở để Hồ Chí Minh lựa chọn con đường đi lên chủ
nghĩa XH.
a)- Cơ sở lý luận.
16
Vận dụng và quán triệt quan điểm duy vật về lịch sử của học thuyết Mácxít. Hồ
Chí Minh quan niệm lịch sử XH loài người là một quá trình tự nhiên của sự thay
thế lần lượt các phương thức SX, Hồ Chí Minh nghiên cứu lý luận hình thái KT
XH của chủ nghĩa Mác - Lê nin , học thuyết này cho rằng sự phát triển của XH
loài người là sự thay thế nhau của các học thuyết KT XH. Chính vì thế, XH
TBCN nhất định sẽ được thay thế bằng XH CSCN ma giai đoạn đầu của nó là
chủ nghĩa XH. Sự thay thế này được thực hiện nhờ hai tiền đề quan trọng là sự
phát triển của lực lượng SX và sự trưởng thành của giai cấp vô sản. Sự thay
thế này là một quá trình lịch sử tự nhiên.
XH loài người phát triển theo hướng đi lên với những hình thái ngày càng cao
hơn về chất. Nếu chế độ tư bản tất yếu ra đời từ chế độ PK thì CNTB cũng sẽ
xác lập các tiền đề khách quan để tự phủ định chính nó. Tiến lên chủ nghĩa XH
là qui luật vận động khách quan của lịch sử trên phạm vi toàn thế giới. Kết luận
này của Hồ Chí Minh hoàn toàn tuân thủ các nguyên lý phổ biến của học thuyết
Mác - Lê nin và hình thái KT XH.
Nhưng ở mỗi nước tùy theo đặc điểm điều kiện của mình ma không nhất thiết
phải tuần tự tuân theo các giai đoạn phát triển của hình thái KT XH , có thể bỏ
qua một, hai giai đoạn (My,û Úc không có giai đoạn PK) Lê nin đã phát triển tư
tưởng CM không ngừng của Mác và Aêng để luận chứng một cách toàn diện
khả năng đi tới chủ nghĩa XH bỏ qua chế độ TBCN của các dân tộc thuộc địa.
Trên nền lý luận chung đó Hồ Chí Minh đã lĩnh hội những vấn đề mấu chốt cho
dân tộc mình. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa XH là sự phát triển tất yếu không
chỉ đối với đã qua CNTB mà còn có đối với VN.
Mặt khác, Hồ Chí Minh không phải trên cơ sở phân tích sự chín muồi của cơ
sở KT làm xuất hiện chủ nghĩa XH như là một phương thức cần thiết để giải
quyết những mâu thuẫn của CNTB , mà người chú ý đến một phương diện khác
không kém phần quan trọng là chủ nghĩa XH ra đời chính từ sự tàn bạo của
CNTB. Tại các nước thuộc địa, những hình thức bóc lột nô dịch của bọn thực
dân làm bộc lộ những khuyết tật phi nhân tính bẩm sinh không thể khắc phục
được của CNTB. Đó là cơ sở để người lao động ý thức giác ngộ sứ mệnh lịch
sử của mình, nhất là đối với giai cấp công nhân – giai cấp tiên tiến CM , trước
vận mệnh quốc gia dân tộc , chờ thời cơ để vùng dậy thủ tiêu xiềng xích thực
dân, thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng chính họ thoát khỏi
bất kỳ một hình thức áp bức bóc lột nào.
Về cơ sở thực tiễn, xuất phát từ truyền thống văn hóa lịch sử dân tộc Việt Nam
có lòng vị tha nhân ái. Trong XH PK Việt Nam cũng xuất hiện nhiều mầm mống
tư tưởng XHCN: đề cao dân chủ, lấy dân làm gốc (Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi
…)
Việc đoàn kết xây dựng làng xóm, lối sống cộng đồng cũng nói lên được nhân
tố XHCN sớm hình thành trong con người Việt Nam. Đồng thời như chúng ta đã
biết Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc những mặt tích cực của Nho giáo, Phật
giáo, Lão giáo như trọng hiền tài, đạo đức , văn hóa , mong muốn XH tốt `. Đây
cũng là những cơ sở hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về đi lên chủ nghĩa
XH ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh là con người sống hòa nhập vào thực tiễn tệ luôn luôn gắn bó lý
luận với thực tiễn. Người sinh ra và lớn lên trong XH PK nên có điều kiện, cơ
hội nhìn thấy những bất công, áp bức của giai cấp thống trị, bọn cường hào ác
bá đối với quần chúng nhân dân.
17
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, giai cấp thống trị đã cấu kết với thực
dân Pháp áp bức nhân dân ta nặng nề hơn. Tại các nước thuộc địa trong đó có
VN, bọn thực dân áp dụng bóc lột , cai trị dã man, tàn bạo để vơ vét tài nguyên,
của cải quí giá đem về chính quốc.
Chính từ đó đòi hỏi bức xúc cần phải giải phóng dân tộc thoát khỏi xiềng xích
thực dân, nảy sinh ý thức giác ngộ dân tộc, giác ngộ giai cấp , chủ nghĩa XH,
chủ nghĩa cộng sản với tư cách là một chế độ XH có khả năng phá bỏ hoàn
toàn mọi xiềng xích , nô dịch.
Đánh giá về vị trí lịch sử và chức năng XH của các cuộc CM dân chủ tư sản ,
Hồ Chí Minh cho rằng những cuộc CM ấy không triệt để.
Trong quan niệm của HCM cơ sở hàng đầu để đánh giá tính triệt để của một
cuộc CM không phải là những lý tưởng , khâu khẩu hiệu được nêu ra mà là qui
mô giải phóng quần chúng lao động bị áp bức. CM dân chủ tư sản , do bản chất
của nó chỉ là sự thay thế một hình thức áp bức bóc lột này bằng hình thức áp
bức bóc lột khác, đại bộ phận người lao động vẫn sống cực khổ. CM Việt Nam
không thể lập lại những vết xe của các cuộc CM tư sản ấy.
Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc rằng: CM tháng 10 Nga là cuộc CM nằm trong
dòng chảy liên tục của quá trình giải phóng con người. Xét về bản chất , CM
tháng 10 như là sự nỗi trội vượt xa và khác hẳn các cuộc CM XH đã từng diễn
ra trong lịch sử trước đó. Đảng cộng sản đã lãnh đạo quần chúng nhân dân
đánh đổ địa chủ giai cấp tư sản đem lại tự do cho nhân dân lao động, đồng thời
giúp cho các dân tộc khác giải phóng. Nhờ cuộc CM đó mà nhân dân lao động
đã làm chủ nước nhà, những dân tộc nhỏ yếu, giành được độc lập ruộng đất trở
về tay người dân cày.
Đối với Việt Nam , Hồ Chí Minh khẳng định muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không còn con đường nào khác con đường CM vô sản , con đường CM
tháng 10.
Đặt CM giải phóng dân tộc nằm trong phong trào CM vô sản, gắn độc lập dân
tộc với chủ nghĩa XH đã khiến quan điểm giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh
mang tính toàn diện và triệt để. Trong điều kiện Việt Nam, độc lập dân tộc là tiền
đề đầu tiên để tiến tới chủ nghĩa XH , đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Độc lập dân tộc không phải là mục tiêu cuối cùng của giai cấp công nhân.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa XH và con đường đi lên chủ
nghĩa XH ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đảng và nhân dân ta quyết tâm
xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan
điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của CM Việt Nam. Đó là tư
tưởng về giải phóng dân tộc , giải phóng giai cấp , giải phóng con người về độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa XH. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho
cuộc đấu tranh của nhân dân ta để giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn
của Đảng và dân tộc ta. Để giữ vững được mục tiêu chủ nghĩa XH cần phải xây
dựng , chỉnh đốn Đảng , nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng , đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước , phát huy dân
chủ , tăng cường Pháp chế.
Khắc phục những biểu hiện : chủ quan, nóng vội , duy ý chí. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc
đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị
nhằm tạo niềm tin trong quần chúng nhân dân, bảo vệ vững chắc chế độ XHCN. Cần
phải kết hợp hài hòa giữa phát triển KT với thực hiện tiến bộ công bằng XH , đảm bảo
18
được định hướng XHCN. Cần kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại , nội
lực với ngoại lực, phải biết dựa vào nhân dân , vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với
thực tiễn, luôn luôn sáng tạo, nhạy bén nắm bắt cái mới, tận dụng thời c
Câu 3a : Làm rõ căn cứ khoa học để Hồ Chí Minh lựa chọn mục tiêu CNXH – CNCS ở
VN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là một trong những nội dung cơ bản trong
toàn bộ tư tưởng của Người. Trong những thập niên đầu của thế kỷ 20, cả dân tộc đang bị
đoạ đày đau khổ dưới ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai, với tấm lòng yêu nước
thiết tha Người đã ra đi tìm đường cưú nước, giải phóng cho dân tộc khỏi áp bức bóc lột và
Người đã tìm được con đường cứu nước là con đường cách mạng vô sản. Người nhận
thấy “ Chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức, những người lao
động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Việc lực chọn con đường XHCN là một phát hiện thiên tài
và là cống hiến to lớn của Người đối với cách mạng Việt Nam. Vậy cơ sở nào để Hồ Chí
Minh lựa chọn mục tiêu CNXH – CNCS ở Việt Nam ? Đó là vấn đề mà chúng ta sẽ cùng làm
rõ dưới đây.
Cơ sở lý luận để Hồ Chí Minh lựa chọn con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là chủ
nghĩa Mác - Lênin. Đó là vũ khí tư tưởng và lý luận cách mạng khoa học của thời đại đã
giúp cho Hồ Chí Minh lựa chọn con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc. Ra đời vào
giữa thế kỷ 19, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đáp ứng được yêu cầu bức thiết giữa lúc phong
trào chủ nghĩa quốc tế đang khủng hoảng đường lối, đã trở thành lý luận soi đường và
phương pháp đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản. Sự ra đời
của nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới sau cách mạng tháng 10 Nga 1917, là thực tiễn
sinh động chứng minh bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin , chứng
minh sự đúng đắn của con người chủ nghĩa vô sản, cách mạng tháng 10 Nga đã cổ vũ cho
các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh và ý nghĩa của nó đã được Hồ Chí Minh đánh giá :
“ Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng tháng 10 chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh
hàng triệu triệu người bị bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa có cuộc cách
mạng nào có ý nghĩa to lớn sâu xa như thế”. Hồ chí Minh cũng đã lựa chọn đi theo con
đường cách mạng thế giới để giải phóng dân tộc và đi lên CNXH. Đó là sự lựa chọn đúng
qui luật, phù hợp xu thế lịch sử. Lý luận về HTKT – XH của chủ nhiã Mác - Lênin đã chỉ rõ
xã hội loài người phát triển theo xu hướng đi lên trải qua 5 hình thức kính tế xã hội mà hình
thức kinh tế xã hội sau cao hơn, tiến bộ hơn hình thức kinh tế xã hội trước nó. Và thực tiễn,
lịch sử cũng đã chứng minh loài người đã trải qua hình thức kinh tế xã hội : Công sản
nguyên thủy, CHNL, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và hiện nay đang là thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Nếu chế độ tư bản chủ nghĩa tất yếu ra đời từ chế độ phong kiến thì chủ
nghĩa tư bản cũng sẽ xác lập các tiền đề kết quả để tự phủ định nó, và theo Hồ Chí Minh,
logic tiến lên xã hội cho thấy đã đến lúc chủ nghĩa tư bản mở đường cho sự ra đời một chế
độ xã hội mới là chế độ xã hội chủ nghĩa. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là qui luật vận động kết
quả của lịch sử trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa Mác – Lênin sẽ là thứ vũ khí lý luận
không gì thay thế được, là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam là mặt trời soi sáng cho con
đường cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng, đó là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản. Ở Hồ Chí Minh, Người tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin là tiếp thu những nguyên lý
cơ bản, tiếp thu phương pháp biện chứng chứ không sao chép giáo điều. Người vận dụng
sáng tạo lý luận về chủ nghĩa không ngừng vào cách mạng Việt Nam. Người đã giải quyết
tốt mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Theo Người : “Trong thời đại
ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khắng khít của cách mạng vô sản
19
trong phạm vi toàn thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc phải tiến lên thành cách mạng xã
hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”. Như vậy, cách mạng giải phóng dân
tộc không phải là mục đích cuối cùng mà nó chỉ là màn giáo đầu của chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa và chỉ có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì mới thức sự giải phóng được nhân dân lao
động, mới đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho mọi người.
Chủ nghĩa xã hội là ước mơ của nhân dân lao động trên toàn thế giới, nó đối lập hoàn
toàn với chủ nghĩa tư bản đầy máu và nước mắt. Đó là máu và nước mắt của giai cấp vô
sản, chính quốc và của nhân dân thuộc địa : Hồ Chí Minh đã nói : Chủ nghĩa đế quốc là con
đĩa hai vòi, một vòi hút máu nhân dân lao động chính quốc, một vòi hút máu nhân dân thuộc
địa. Và một vòi nhơ nhớp đó đã vươn tới Việt Nam vào năm 1858 khi Pháp nổ súng xâm
lược nước ta và đặt ách đô hộ trên toàn cõi Việt Nam. Công cuộc khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp đã làm cho tính chất xã hội Việt Nam thuộc điạ một nhiệm hai màu hai mâu
thuẫn cơ bản la ømâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn nông
dân với điạ chủ phong kiến. Từ thực trạng xã hội Việt Nam đòi hỏi cách mạng Việt Nam phải
giải quyết hai mâu thuẫn đó, phải giành độc lập – tự do, phải xoá bỏ mọi chế độ áp bức bóc
lột bất công, thiết lập một xã hội công bằng nhân ái. Đây cũng là cơ sở thực tiễn để Hồ Chí
Minh lực chọn mục tiêu Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bởi vì chỉ có cách mạng xã hội chủ
nghĩa mới xây dựng được một xã hội tốt đẹp mới giải quyết được hài hòa cả hai môi trường
của xã hội Việt Nam bấy giờ. Một khía cạnh khác mà Hồ Chí Minh đã nhận thấy là sự cai trị
dã man, những hình thức bóc lột tàn bạo của bọn thực dân đối với người bản xứ đã làm cho
tinh thần cách mạng thêm ầm ĩ, mãnh liệt, làm cho ý thức độc lập , tự chủ, tinh thần yêu
nước càng trỗi dậy, ở các dân tộc Đông Dương. Người đã kết luận : “ Sự tàn bạo của chủ
nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc gieo hạt giống
của công cuộc giải phóng nữa thôi”. Đây là một luận điểm sáng tạo và hết sức quan trọng
của Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa xã hội ra đời chính từ sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản. Tại các
nước thuộc điạ các hình thức bóc lột, nô dịch của bọn thống trị đã làm bộc lộ những khuyết
tật phải nhân tính bẩm sinh không thể khắc phục được chủ nghĩa tư bản. Đó là cơ sở để
người lao động ý thức, giác ngộ SMLS của mình trước vận mệnh quốc gia, dân tộc chủ
nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội có khả năng xóa bỏ mọi xiềng xích, nô dịch, là
một xã hội không có người bóc lột, Người đã trở thành ngọn cờ vẫy gọi các dân tộc thuộc
điạ vùng dậy làm cách mạng giải phóng dân tộc để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, sự lựa chọn con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa là xuất phát từ thực
trạng xã hội Việt Nam, song bên cạnh đó, sự lựa chọn mục tiêu chủ nghĩa xã hội còn xuất
phát từ thực tiễn của các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới. Trải qua bao năm bôn ba
nước ngoàivà khảo sát các cuộc cách mạng điển hình trên thế giớinhư cách mạng tư sản
Pháp 1789, cách mạng tư sản Mỹ 1776, Cách mạng tháng 10 Nga 1917. Người đã rút ra
những kết luận quan trọng. Người đã phát hiện ra rằng các cuộc cách mạng tư sản như :
cách mạng Pháp, Cách mạng Mỹ là những cuộc cách mạng không triệt để, tuy thành công
nhưng không đến nơi đến chốn vì người lao động vẫn chưa hoàn toàn được giải phóng, xã
hội còn đầy bất công. Đảng viên Hồ Chí Minh cơ sở hàng đầu để đánh giá tính triệt để của
một cuộc cách mạng là qui mô giải phóng nhân dân lao động bị áp bức. Cách mạng dân chủ
tư sản do bản chất của nó, chỉ là sự thay thế hình thức áp bức bóc lột khác và tại bộ phận
người lao động vẫn sống cực khổ. Dưới nhãn quan của Hồ Chí MInh chỉ có cách mạng
tháng 10 Nga là triệt để là thành công đến nơi, nhân dân lao động đã được giải phóng và trở
thành người chủ của xã hội. Người đã nhận định : “ Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh
Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh
20
phúc tự do bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa
Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mạng Nga đã đuổi được vua, tư bản, điạ chủ, rồi lại
ra sức cho công nông các nước và dân bị áp bức các thuộc điạ làm cách mệnh để đập đổ
tất cả đế quốc chủ nghĩa, tư bản và thế giới”. Từ đó mà Người đã lựa chọn con đường cho
cách mạng Việt Nam là đi theo cách mạng tháng 10 . Trên đây là những cơ sở lý luận và
thực tiễn để Hồ Chí Minh lựa chọn mục tiêu chủ nghĩa xã hội – chủ nghĩa cộng sản ở Việt
Nam. Ở đây, không thể không bàn đến một nhân tố đã đóng góp vào sự lựa chọn đúng đắn
cho cách mạng Việt Nam. Nhân tố đó chính là bản lĩnh cốt cách và tinh thần cách mạng triệt
để của Hồ Chí mInh. Trong những thập niên đầu thế kỷ 20 không phải chỉ có Hồ Chí Minh là
người Việt Nam duy nhất được đọc lý luận Mác - Lênin, được biết về cách mạng tháng 10,
nhưng duy nhất chỉ có Hồ Chí Minh là dứt khoát và quyết tâm theo chủ nghĩa Mác - Lênin,
đi theo con đường cách mạng tháng 10, tinh thần quyết tâm đó của Hồ Chí MInh đã được
thể hiện trong suốt quá trình đấu tranh chủ nghĩa và thực tiễncủa cách mạng Việt Nam đã
chứng minh cho sự lựa chọn đó là sáng suốt và đúng đắn. Ngày nay trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Một là công cuộc đổi mới hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn mãi
sáng soi cho cả dân tộc đi đến mục tiêu mà. Người đã lựa chọn cho nhân dân ta từ những
năm 30 của thế kỷ 20. Đảng ta củng cố xác định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí MInh làm nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của Đảngvà cách mạng Việt
nam. Giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta phải kiên trì với mục tiêu đấu
tranh dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn duy nhất đúng, là vấn đề có tính
nguyên tắc. Phải giữ vững định lý xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, đổi mới để có
chủ nghĩa xã hội và hơn chứ không phải để “ đổi màu”. Vết xe đổ của Liên Xô và đã là bài
học xương máu cho cách mạng Việt Nam. Trong sự nghiệp đổi mới, cần đấu tranh bảo vệ
sự trong sáng của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí MInh . Tư tưởng Hồ Chí MInh
là di sản tinh thần quí báu của Đảng và dân tộc, tư tưởng đó luôn sống động mang tính
khoa học và cách mạng cho nên cần được giữ gìn. Mỗi cán bộ Đảng viên phải thấm nhuần
tư tưởng Hồ Chí Minh và hành động theo tư tưởng của Người. Mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam trong hơn 70 năm qua không thể tách rời tư tưởng Hồ Chí MInh và ngày nay tư
tưởng đó tiếp tục sáng soi cho toàn Đảng toàn dân trên chặng đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, biết bao ước mơ cao đẹp “ xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” của Người trở thành hiện thực
CÂU 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền.
(“Đảng ta là đạo đức, là văn minh, là độc lập dân tộc, là hòa bình và ấm no”; Đảng ta là
tiêu biểu cho trí tuệ dân tộc và thời đại; là lương tâm, đạo đức của dân tộc; là ý chí của dân
tộc, phát huy quyền làm chủ của nh.dân gắn bó với nhân dân.)
TRẢ LỜI:
Là người sáng lập, tổ chức và rèn luyện Đảng ta Hồ Chí Minh đã quan tâm
đặc biệt đến công tác xây dựng đảng. Trong những di sản tư tưởng mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã để lại, những luận điểm của Người về xây dựng đảng là
bộ phận cực kỳ quan trọng. Những tư tưởng về đảng của Hồ Chí Minh hết sức
phong phú, toàn diện, sâu sắc, sáng tạo trong đó Người đặc biệt quan tâm đến
vấn đề đảng cầm quyền.
Xuất phát từ lòng yêu nước thương dân và ý chí, bản lĩnh làm cách mạng
đến nơi của mình, Hồ Chí Minh đã khảo sát và tìm hiểu các kiểu đảng chính trị
trên thế giới, nhằm tìm ra nhân tố thắng lợi công cuộc giải phóng nước nhà.
Từ những kinh nghiệm thực tiễn cùng với sự tiếp thu vận dụng và phát triển
chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là năm nguyên tắc xây dựng “đảng kiểu mới”
21
của Lênin, Hồ Chí Minh đã tuân theo những nguyên tắc ấy và tổ chức thành
lập đảng cộng sản Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng muốn thành công phải có đảng của cách
mạng chân chính, một lòng một dạ phục vụ nhân dân. Sự lãnh đạo đúng đắn
của đảng cộng sản là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Ơ nước ta, đảng là sản phẩm của sự kết hợp của chủ nghĩa yêu nước
với phong trào yêu nước, đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, phải
phục vụ cho được đại bộ phận giai cấp công nhân. Tuy giai cấp công nhân còn
nhỏ bé nhưng có khả năng lãnh đạo cách mạng. Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền
tảng tư tưởng của đảng, bản chất giai cấp công nhân của đảng thể hiện ở chủ
nghĩa Mác-Lênin, ở sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, dân chủ rộng
rãi đi đôi với kỷ luật chặt chẽ, thực hiện nghiêm túc tập thể lãnh đạo cá nhân
phụ trách, đảng phải là một mối đoàn kết thống nhất từ trung ương đến cơ sở,
từ chủ trương đến hành động, phê bình và tự phê bình là quy luật phát triển
của đảng.
Từ cách mạng tháng Tám 1945 cho đến cuối đời trên cương vị đứng đầu
Nhà nước, đứng đầu một đảng cầm quyền, Người cùng tập thể lãnh đạo giải
quyết không biết bao nhiêu vấn đề lớn quốc gia trên tất cả các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, quân sự, ngoại giao, những vấn đề của cuộc kháng chiến
kiến quốc, của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, của cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở Miền Bắc và sự nghiệp giải phóng Miền Nam thống nhất nước
nhà. Trong đó vấn đề đảng cầm quyền bao giờ cũng là trung tâm then chốt
nhất được Người quan tâm chú ý. Hồ Chí Minh quan niệm đảng cầm quyền là
đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong điều kiện đảng đã lãnh đạo
quần chúng nhân dân giành được quyền lực nhà nước và đảng trực tiếp lãnh
đạo bộ máy nhà nước đó để tiếp tục hoàn thành sự nghiệp độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
Chức năng quan trọng nhất, cốt lõi nhất của một đảng cầm quyền là đảng
phải lãnh đạo được chính quyền nhà nước. Bảo đảm cho nhà nước thực sự là
của dân, do dân và vì dân. Nhà nước này thực sự mang bản chất giai cấp
công nhân. Bộ máy công chức nhà nước thực sự là công bộc của dân. Đảng
lãnh đạo chính quyền bằng chính sách và đường lối, chủ trương, bằng việc bố
trí cán bộ, bằng việc kiểm tra giám sát quá trình thực hiện đường lối đó của
nhà nước. Bên cạnh đó đảng phải lãnh đạo được các tổ chức chính trị xã hội,
đồng thời đảng cầm quyền phải giữ được mối quan hệ chặt chẽ với nhân dân,
đảng phải thật sự gắn bó máu thịt với nhân dân vì cơ sở xã hội của đảng là
liên minh công nhân-nông dân và tầng lớp trí thức.
Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, tiêu chuẩn của một đảng cầm quyền trước
hết là đảng phải có lý luận tiên tiến, cách mạng và khoa học. Người cho rằng:
“Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa nòng cốt, trong đảng ai cũng phải
hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”. Người khẳng định “Đảng mà không có
chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”, “Bây
giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Nắm lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin tức là nắm lập trường giai cấp công nhân-
lập trường cách mạng triệt để, đó là quan điểm cách mạng và khoa học; đó là
phương pháp duy vật biện chứng từ đó thực hành đúng và sáng tạo lý luận
chủ nghĩa Lênin trong hoạt động thực tiễn.
22
Tiêu chuẩn thứ hai yêu cầu đảng phải có đường lối đúng đắn, sát hợp. Đó là
đường lối phản ánh được mục tiêu của dân tộc, phản ánh được xu thế phát
triển của dân tộc và thời đại. Nó giải quyết được hài hòa mối quan hệ lợi ích
của các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội, giải quyết được những vấn đề bức
xúc của đời sống xã hội.
Để xây dựng đảng cầm quyền trong sạch vững mạnh, Hồ Chí Minh yêu cầu
đảng phải thực hiện các nguyên tắc tổ chức và xây dựng đảng. Trước hết là
nguyên tắc tập trung dân chủ –đây là nguyên tắc để phân biệt một đảng có
phải là đảng Macxit, đảng của giai cấp công nhân hay không. Đảng phải thực
hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đảng phải coi phê bình và tự phê
bình là vũ khí sắc bén trong việc xây dựng đảng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với việc xác định tính tất yếu phải có
đảng lãnh đạo thì phải gắn liền với việc thường xuyên chỉnh đốn đảng nhằm
để: giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong đảng; ngăn ngừa, khắc phục thống nhất
quan liêu, tự mãn và để nâng đảng lên ngang tầm nhiệm vụ.
Trong xây dựng đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề tư cách
đảng viên và vấn đề cán bộ. Người đánh giá rất cao vị trí của cán bộ trong sự
lãnh đạo của đảng. Nếu không có đội ngũ cán bộ tốt thì đường lối dù tốt đến
đâu cũng không thể trở thành hiện thực được.
Đồng thời với quan điểm về cán bộ, Hồ Chí Minh còn quan tâm đến công tác
cán bộ của đảng, quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức cán
bộ. Người yêu cầu “Phải hiểu và đánh giá đúng cán bộ” the những chuẩn mực
phù hợp với từng thời kỳ, từng địa phương, từng lĩnh vực, hoàn toàn công
minh, khách quan. Cán bộ phải được đào tạo từ gốc, đào tạo từ chuyên môn
lẫn lý luận. Việc sử dụng cán bộ theo Hồ Chí Minh phải “Khéo dùng cán bộ”.
Tức là đặt đúng người đúng việc và có kiểm tra, giúp đỡ thường xuyên để cán
bộ đó hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Hồ Chí Minh luôn luôn lưu ý vấn đề tăng cường mối quan hệ giữa đảng với
nhân dân. Người cho rằng phải luôn luôn học hỏi nhân dân, vận động nhân
dân tham gia xây dựng đảng. Phải có trách nhiệm nâng cao dân trí, phải là
người lãnh đạo và là người đầy tớ trung thành của nhân dân, đồng thời cũng
không được theo đuôi quần chúng.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta hiện nay, những
quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đảng cầm quyền được đảng ta vận
dụng và xem là vấn đề then chốt trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Trước mắt
là thực hiện tốt nghị quyết VI hội nghị BCH trung ương đảng lần 2 khóa VIII về
một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng đảng hiện nay trên
cả ba lĩnh vực: nhận thức, tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ
đảng viên và một số vấn đề tổ chức. Về nhận thức, tư tưởng chính trị phải kiên
định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định vai trò lãnh đạo của đảng, không ngừng củng
cố niềm tin, lý tưởng cho cán bộ đảng viên và nhân dân. Đảng phải đề ra
đường lối đúng đắn, sáng suốt, sát hợp với tình hình đất nước và xu thế của
thế giới. Về tổ chức: Đảng củng cố sắp xếp lại bộ máy tổ chức trên cơ sở tuân
thủ các nguyên tắc tổ chức và xây dựng đảng, đồng thời làm tốt công tác cán
bộ của đảng, tăng cường công tác phát triển đảng viên, đi đôi với nâng cao
chất lượng đảng viên. Về đạo đức lối sống: trước tình trạng suy thoái, biến
chất về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ của cán bộ đảng viên,
đảng ta cần phải tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện
23
đạo đức lối sống, tác phong cho cán bộ đảng viên, thực hiện có nề nếp việc
phê bình và tự phê bình, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân,
tư tưởng cơ hội, thực dụng, tệ tham nhũng, quan liêu…để làm trong sạch đội
ngũ cán bộ đảng viên.
Bên cạnh đó, để bảo đảm vai trò của đảng cầm quyền chúng ta cần tăng
cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, cảnh giác và chống âm mưu phá hoại
đảng của các thế lực thù địch trong và ngoài nước.
Tóm lại, có thể nói những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
đảng cầm quyền và cả những việc làm, tấm gương đạo đức hàng ngày của
Người thật sự là những đóng góp quan trọng vào việc phát triển học thuyết
Mác-Lênin về đảng cộng sản, về xây dựng đảng nói chung và đặc biệt là đảng
cầm quyền.
Đối với nước ta, những quan điểm tư tưởng đó đã có vai trò cực kỳ quan trọng trong
quá trình rèn luyện, xây dựng đảng ta trưởng thành như ngày nay và vẫn giữ nguyên
giá trị trong điều kiện đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước theo mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, XH cơ bản, dân chủ, V.minh
Câu 4a : Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh
Bài làm
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin
trong điều kiện cụ thể của nước ta và đã trở thành một tài sản tinh thấn quí báu của Đảng
và của dân tộc. Trong toàn bộ tư tưởng của Người thì tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng CS là
một bộ phận quan trọng, là sự kế thừa, bổ sung và phát triển, sáng tạo tư tưởng của Mác –
Ănghen và nhứt là những nguyên tắc về Đảng kiển mới của Lênin trong điều kiện Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã khẳng định cách mạng : “trước hết phải có Đảng cách mạng, để trong thời
vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thứ liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp
ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững,
thuyền mới chạy”. Đảng CSVN ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng đã đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu KQ của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ đang khủng
hoảng đường lối cứu nước. Cách mạng tháng 8 thành công mở ra một kỷ nguyên mới cho
dân tộc, đưa Đảng ta lên đảng cầm quyền, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ xã hội.
Trên cương vị mới Đảng tiếp tục lãnh đạo cách mạng Việt Nam hoàn thành cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước tiến lên CNXH. Sau đây, chúng ta cùng tìm hiểu tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch vững mạnh.
Đảng ta là Đảng của giai cấp côngnhân và nhân dân lao động : “Là Đảng cách mạng,
là Đảng lãnh đạo. Ngoài lợi ích của nhân dân và của giai cấp công nhân, Đảng ta không có
lợi ích nào khác”. Là một Đảng cầm quyền, Đảng có chức năng lãnh đạo cùng nhiệm vụ và
lãnh đạo các tổ chức chính trị, xã hội. Sự lãnh đạo đó được thể hiện bằng đường lối chủ
trương, bằng quy hoạch bố trí đội ngũ cán bộ và bằng việc kiểm tra đôn đốc giám sát, sự
lãn đạo của Đảng là nhân tố đảm bảo cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam theo ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Muốn thực hiện được vai trò chức năng của một Đảng cầm quyền, hoàn thành được
sứ mệnh mà giai cấp và dân tộc đã ủy thác, Đảng ta phải được trang bị lý luận tân tiến, cách
mạng và khoa học. Hồ Chí Minh cho rằng : “Đảng muốn vững mạnh phải lấy công nhân làm
24
cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo CN ấy. Đảng mà không có CN cũng như
người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. Vào những năm đầu thể kỷ 20, khi
Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước, trên thế giới, trên thế
giới có rất nhiều hệ thống lý luận, nhưng sau bao năm bôn ba hải ngoại, lăn lộn với phong
trào công nhân, tìm hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin và cách mạng T.10 Nga, Hồ Chí Minh đã
khẳng định : “Bây giờ học thuyết và CN và những chủ nghĩa chân chính nhứt , chắc chắn
nhứt, cách mạng nhứt là chủ nghĩa Lênin” và Đảng ở Việt Nam phải là một Đảng “theo chủ
nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
Sự lựa chọn đó là hoàn toàn đúng đắn. Chủ nghĩa Mác – Lênin là một học thuyết cách
mạng và khoa học chỉ ra thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn để giai cấp công
nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa đứng lên làm cách mạng cải tạo thế giới giải phóng
cho giai cấp, cho dân tộc khỏi mọi sự áp bức bóc lột. Sự đúng đắn của đường lối cách
mạng do Đảng ta vạcg ra ngay từ buổi đầu mới thành lập bắt nguồn từ việc Hồ Chí Minh đã
quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã giúp Đảng ta vượt qua
những trận thử thách … Như vậy, Đảng ta không những đã giành được quyền lãnh đạo đó
trên mọi lĩnh vực đã đập tan mọi âm mưu của giai cấp tư sản hòng tranh quyền lãnh đạo
cáchmạng với Đảng ta.
Trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng ta đã vạch ra được lối chủ trương đúng
đắn, sát hợp đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác mà thực tiễn
cách mạng Việt Nam là chứng minh hùng hồn nhứt để đảm bảo sứ mệnh dẫn lối soi đường
đó thì việc xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh là nhiệm vụ xuyên suốt của Đảng ta và là
một nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh : “Là một Đảng lãnh đạo, Đảng ta cần
phải mạnh mẽ, trong sạch, kiểu mẫu”. Đảng ta phải thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc về
tổ chức và xây dựng Đảng mà trong đó tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ
trách, phê bình và tự phên bình là nguyên tắc bất di bất dịch của Đảng. Tập trung dân chủ là
nguyên tắc tổ chức hoạt động cơ bản và quan trọng nhứt trong học thuyết vì Đảng kiểu mới
của Lênin và được Hồ Chí Minh rất coi trọng và vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể để xây
dựng Đảng CSVN. Tập trung nghĩa là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùngcấp trên,
tất cả Đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Người nhấn mạnh :
“Đảng tuy đông người nhưng ít khi tiến hành chỉ như một người”. Bên cạnh đó, Người cũng
nhấn mạnh dân chủ (trong Đảng) “Dân chủ là của quí báu nhứt của nhân dân”, phải chú ý
thực hành rộng rãi dân chủ của Đảng “Phải thực sự mở rộng dân chủ để tất cả các Đảng
viên bày tỏ hết ý kiến của mình, phải gom góp ý kiến của Đảng viên để giúp đỡ trung ương
chuẩn bị đại hội Đảng cho thật tốt”. Ở Hồ Chí Minh về nguyên tắc này dân chủ + sinh hoạt
Đảng là sự thống nhất biện chứng giữa dân chủ và tập trung, tập trung trên nền tảng dân
chủ và dân chủ dướisự chỉ đạo tập trung. Nguyên tắc này là tiêu chí quan trọng để xem xét
một Đảng còn là Đảng mác – xít chân chính nữa hay không ?
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng ta. Hồ Chí Minh
cho rằng : “tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau. Nếu
lãnh đạo không tập thể thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng
việc”. Còn nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh ra cái tệ người này ỷ cho người kia,
người kia ỷ cho người nọ, kết quả là không ai thi hành như tục ngữ có câu : “Nhiều sải
không ai đóng cửa chùa”.
25