Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Đáp án môn tư tưởng hồ chí minh ôn thi tốt nghiệp LỚP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HÀNH CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.49 KB, 22 trang )

1
Câu hỏi 1: Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh ?
1. Phần đặt vấn đề:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra đời do yêu cầu khách quan,
đáp ứng những nhu cầu bức thiết do cách mạng Việt Nam đặt ra từ đầu thế kỷ XX đến nay. Vậy tư tưởng
Hồ Chí Minh là gì ? Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh ? Làm rõ những câu hỏi trên không
những giúp chúng ta biết được thế nào là tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như nguồn gốc hình thành mà còn
cho ta hiểu được nguồn gốc hình thành nào là quan trọng nhất.
2. Phần nội dung:
2.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh:
Tại Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW Đảng Khóa 8 Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng
năm 2001 ghi rõ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại…”.
2.2. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh:
Từ khái niệm trên cho thấy tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ các nguồn gốc sau đây:
• Thứ nhất, giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc VN thể hiện qua các giá trị căn bản sau đây:
- Chủ nghĩa yêu nước là ý chí bất khuất, tự lực tự cường để dựng nước và giữ nước được hun đúc
qua hàng ngàn năm. Dân tộc và nhà nước ta hình thành từ rất sớm và không phải chỉ duy nhất là từ sự
phân hóa giai cấp sâu sắc, mà căn bản là do nhu cầu của cuộc đấu tranh chống lại xâm lăng và yêu cầu
sản xuất trước môi trường thiên nhiên khắc nghiệt mà tổ chức lại thành dân tộc, nhà nước. Trãi qua hàng
ngàn năm hun đúc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là giá trị tinh thần cao nhất của dân tộc ta, nhưng có đặc
điểm sâu sắc là nó mang trong mình một giá trị kép: Yêu nước - Thương dân, Thương dân - Yêu nước.
Vấn đề dân tộc, vì thế, gắn liền với vấn đề con người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống con người
Việt Nam.
- Tinh thần cộng đồng, đoàn kết, ý thức dân chủ xuất hiện và được nuôi dưỡng trong quá trình dựng
nước, giữ nước và trở thành giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Những giá trị này được biểu hiện
trong kinh tế như trong chế độ ruộng đất công điền; về xã hội là vấn đề dân chủ và tự chủ trong tổ chức
làng xã, xây dựng hương ước; trong văn hóa là sự tôn vinh các giá trị anh hùng, thờ phụng những người
có công dựng nước, giữ nước, xây dựng làng xã, nghề nghiệp và trọng người hiền tài. Những giá trị tốt


đẹp đó làm cho mối quan hệ Cá nhân - Gia đình - Làng - Nước trở nên bền chặt và nương tựa vào nhau để
tồn tại và phát triển. Nước mất dựa vào làng để khôi phục Nước. Từ liên kết Gia đình để giữ Làng, liên
kết Làng để giữ Nước. Các mối quan hệ đó có cơ sở kinh tế, văn hóa, chính trị, đặc biệt thể hiện trong
chính sách của Nhà nước, trong hương ước và tổ chức làng, xã. Con người cá nhân trong lịch sử Việt
Nam có quan hệ chặt chẽ với cộng đồng làng xã và dân tộc.
- Cùng với những truyền thống dũng cảm, cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động sản xuất,
chiến đấu, dân tộc Việt Nam luôn rộng mở đón nhận những giá trị văn minh của nhân loại để bảo tồn dân
tộc và phát triển đất nước. Tiếp thu cái hay để tồn tại và phát triển đã tạo ra tư duy mở, mềm dẻo của con
người Việt Nam.
Một dân tộc sau hàng ngàn năm làm nô lệ, bị cưỡng bức đồng hóa về thể chất lẫn tinh thần như:
Giết đàn ông, đốt sách, nô dịch, đồng hóa về văn hóa, phong tục tập quán… nhưng vẫn không khuất phục,
kiên nhẫn chịu đựng và nuôi dưỡng ý thức độc lập dân tộc để rồi lại đứng lên giành lấy độc lập, xây dựng
một quốc gia đó chính là sự thật của lịch sử dân tộc Việt Nam. Sức mạnh ấy là những giá trị văn hóa
truyền thống vô cùng tốt đẹp.
Sức mạnh của truyền thống văn hóa dân tộc với những giá trị căn bản nêu trên được duy trì và tồn
tại trong cơ sở kinh tế, hiện thân vào văn hóa và tổ chức xã hội của làng xã đã vượt qua một ngàn năm nô
lệ của thời kỳ Bắc thuộc để bảo tồn được dân tộc với một nền văn hóa riêng và đã thành công trong xây
dựng nhà nước độc lập vào thế kỷ X cũng như bảo vệ được nền độc lập của mình trước những cuộc xâm
lăng của các thế lực phong kiến phương Bắc ở những thế kỷ sau đó.
Chính chủ nghĩa yêu nước - nhân văn của Việt Nam là cội nguồn, là giá trị văn hóa truyền thống tốt
đẹp, là điểm xuất phát, là động lực để Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước và là bộ lọc các học thuyết
để Hồ Chí Minh lựa chọn, tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại mà đỉnh cao của nó là chủ nghĩa Mác -
2
Lênin. Người nói: “Lúc đầu, chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi
theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.
• Thứ hai, tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây:
Phật giáo vào Việt Nam từ đầu thiên niên kỷ thứ nhất và có ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa Việt
Nam. Đặc biệt là ở thời kì đầu xây dựng nhà nước độc lập của nhà Lý, Trần, Phật giáo được coi như là
quốc giáo và cũng đã có nhiều đóng góp vào công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hình thành nên
những nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam với chủ trương gắn bó với dân tộc và đất nước.

Những tư tưởng căn bản của Phật giáo đã ảnh hưởng tích cực tới văn hóa Việt Nam là tư tưởng vị
tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân; nếp sống có đạo đức, trong sạch
giản dị, chăm lo làm điều thiện… Vì vậy, Phật giáo đã ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành và phát triển
của văn hóa, tư tưởng và lối sống Việt Nam.
Nho giáo Trung Hoa và Việt Nam do nhu cầu của sự thống trị nhưng trong quá trình đó đã được
Việt hóa thành Nho giáo Việt Nam, thể hiện những giá trị về lòng yêu nước, thương dân, nhân văn, dung
hòa giữa mỗi con người với cộng đồng trên lợi ích cá nhân, gắn lợi ích của cá nhân với lợi ích của dân
tộc. Nho giáo Việt Nam lấy yêu nước - nhân văn Việt Nam là đạo lý làm người. Trong điều kiện lịch sử
của dân tộc, Nho giáo Việt Nam đã đáp ứng yêu cầu của dân tộc trong dựng nước, giữ nước, xây dựng đất
nước cũng như trong xây dựng gia đình và con người.
Nho giáo Trung Hoa đặt mối liên hệ vua - tôi ở vị trí cao nhất. Nho giáo Việt Nam cũng nhấn
mạnh vấn đề này nhưng đòi hỏi nhà vua trước hết phải trung thành với Tổ quốc, nhân hậu với nhân dân,
cũng phải lấy tu thân làm gốc. Ca ngợi, ủng hộ những vị vua hiền lành biết quan tâm đến dân chúng và
đồng thời gạt bỏ những ông vua bất lực nhằm mục đích lập lại những triều đại mới quan tâm tới đất nước
và nhân dân là nội dung tích cực của Nho giáo Việt Nam.
Bên cạnh những yếu tố tích cực của Nho giáo như triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo
giúp đời; tư tưởng về một xã hội bình trị, an ninh hòa mục, thế giới đại đồng; triết lý nhân sinh tu thân,
dưỡng tính… cũng được việt hóa thành các giá trị văn hóa Việt Nam, phù hợp với các giá trị gốc của dân
tộc.
Những tác động tích cực của Phật giáo và Nho giáo Việt Nam đã tác động tới Hồ Chí Minh ngay
từ khi còn nhỏ ở trong môi trường văn hóa Việt của làng xã Việt Nam và dưới sự dạy bảo của cụ Phó
bảng Nguyễn Sinh Sắc.
Sau này, trở thành nhà cộng sản, Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục tìm hiểu văn hóa phương Đông, đặc biệt
là những trào lưu tư tưởng mới ở Ấn Độ và Trung Hoa mà điển hình là chủ nghĩa Găngđi và chủ nghĩa
nhân dân Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh đã tìm thấy trong chủ nghĩa nhân dân của Tôn Trung Sơn “những
điều thích hợp cho điều kiện nước ta” – đó là dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc mà
sau này, người đã đưa vào đó nội dung xã hội chủ nghĩa thành tiêu chí Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
Khi học ở Huế, những tư tưởng tiến bộ của cách mạng Pháp “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” đã ảnh
hưởng lớn đến Hồ Chí Minh và là một trong những yếu tố tác động mạnh đến hướng đi tìm đường cứu
nước của người. Ba mươi năm sống, học tập, lao động, học tập làm trong môi trường văn hóa phương

Tây, Hồ Chí Minh đã có điều kiện tìm hiểu, nghiên cứu và trực tiếp trải nghiệm các hoạt động chính trị,
văn hóa, xã hội ở đây. Người đã trực tiếp tìm hiểu tư tưởng dân chủ của các nhà khai sáng (Voonte, útxô,
Môngtétxkiơ …) qua các tác phẩm của họ. Người đã tới Pháp, Mỹ, Anh và trực tiếp khảo sát mọi mặt tại
những nơi khơi nguồn cho ba cuộc cách mạng tư sản điển hình trên thế giới. Tư tưởng cách mạng tiến bộ
của các cuộc cách mạng này đã tác động mạnh mẽ tới Hồ Chí Minh. Đó là những tư tưởng cơ bản của chủ
nghĩa dân tộc và nhân văn trong cách mạng tư sản Mỹ và Pháp với quyền dân tộc, quyền con người và tư
tưởng dân chủ mà nội dung của nó là Tự do-Bình đẳng-Bác ái. Đây là những điểm mới về tư tưởng trong
tinh hoa văn hóa phương Tây đã tác động mạnh mẽ đến suy nghĩ, hành động và tư tưởng của Hồ Chí
Minh.
Sống trong môi trường dân chủ và thông qua các hoạt động dân chủ trong làm việc, sinh hoạt và
các tổ chức lao động, xã hội và chính trị ở phương Tây. Hồ Chí Minh đã học được cách làm việc dân chủ
là hình thành phong cách dân chủ ở Người.
• Thứ ba, Chủ nghĩa Mác-Lênin:
Với hành trang giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc (chủ yếu là chủ nghĩa yêu nước -
nhân văn với những giá trị về giải phóng dân tộc và con người) để so sánh, đối chiếu, chọn lọc và tiếp thu
3
giá trị văn hóa đương đại của nhân loại và trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh đã có điều kiện đến và thu nhận
một cách tự nhiên, về cả lý trí và tình cảm, học thuyết giải phóng con người triệt để nhất của thời đại là
chủ nghĩa Mác - Lênin. Tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã từ một người yêu nước trở
thành người cộng sản khi trở thành người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Với thế giới quan và phương pháp luận mácxít, Hồ Chí Minh có sự chuyển biến về chất tư tưởng
cách mạng của mình để có thể tiếp tục hấp thụ và chuyển hóa được những giá trị tích cực và tiến bộ của
truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, giúp cho Người tổng kết thực
tiễn, đúc rút lý luận và hình thành nên một hệ thống những quan điểm cơ bản về cách mạng Việt Nam,
hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Vì vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin chính là một nguồn gốc lý luận, là cơ sở chủ yếu nhất hình thành và phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm
phong phú chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại mới.
Trên cơ sở năng lực trí tuệ cao và được trang bị những giá trị văn hóa tinh túy của dân tộc và nhân
loại mà cơ bản là vấn đề độc lập cho dân tộc tự do, hạnh phúc cho nhân dân, Hồ Chí Minh đã thu nhận và

đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin một cách tự nhiên. Đến với chủ nghĩa Mác xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn
giải phóng dân tộc và con người Việt Nam, từ nhu cầu chung của nhân loại về quyền dân tộc, quyền con
người, Hồ Chí Minh đã vận dụng lập trường quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để
nghiên cứu thực tiễn và tìm ra con đường cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Chính vì vậy, chủ
nghĩa Mác-Lênin là cơ sở làm cho Hồ Chí Minh vượt lên trước những nhà yêu nước đương thời, khắc
phục được sự khủng khoảng về đường lối cứu nước của dân tộc Việt Nam.
Như vậy, các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc được nâng lên tầm thế giới với việc thu nhận
tinh hoa của văn hóa nhân loại và chủ nghĩa Mác-Lênin đã hình thành, tạo ra bước phát triển mới phù hợp
với tiến hóa của nhân loại trong thời đại mới của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Có thể nói về văn hóa, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa các giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc và
nhân loại trên một trình độ mới về chất phù hợp với thời đại mới.
• Thứ tư, trí tuệ và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh:
Tại sao có nhiều người đi tìm đường cứu nước nhưng chỉ có Hồ Chí Minh mới nhận thức được con
đường mới và phù hợp với yêu cầu của dân tộc và xu thế phát triển của thời đại?
Trước hết phải nói tới những phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh mà nổi bật là ý chí quyết tâm của
một người yêu nước, một chiến sĩ cộng sản với tấm lòng yêu nước, thương dân và đồng loại khổ đau, sẵn
sàng hiến dâng cuộc đời cho dân tộc độc lập, cho tự do hạnh phúc của con người Việt Nam.
Đó là tài năng trí tuệ của Hồ Chí Minh mà biểu hiện trước hết ở sự kiên trì học tập tiếp thu vốn tri
thức phong phú của dân tộc và nhân loại; là tư duy độc lập tự chủ trong tiếp thu, phê phán, chọn lọc các
giá trị văn hóa dân tộc và nhân loại, trí tuệ của thời đại để trên cơ sở đó sáng tạo và phát triển thành
những giá trị tư tưởng mới vì mục tiêu độc lập dân tộc và giải phóng triệt để con người.
Đó là năng lực hoạt động thực tiễn phong phú của Hồ Chí Minh đã giúp Người phân tích và rút ra
được nhiều kết luận chính xác từ thực tiễn lịch sử của phong trào cách mạng thế giới và trong nước.
3. Phần kết luận:
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn và được hình thành từ nhiều nguồn gốc như các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác-Lênin
thông qua hoạt động trí tuệ và thực tiễn của Người. Tuy nhiên, trong các nguồn gốc trên thì chủ nghĩa
Mác - Lênin được xem là một nguồn gốc lý luận, là cơ sở chủ yếu và quan trọng nhất để hình thành và
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, quyết định bước ngoặt cách mạng và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí
Minh.

4
Câu hỏi 2: Tại sao trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản” ?
1. Phần đặt vấn đề:
Sở dĩ trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” là vì:
Thực tiễn các phong trào yêu nước Việt Nam lúc bấy giờ đều bị thất bại, những con đường giải
phóng dân tộc của các bậc tiền bối cũng lần lượt đều bế tắc về đường lối cứu nước. Thực tiễn cách mạng
Việt Nam đã chứng minh rằng chỉ sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-
nin vào nước ta với tư tưởng chỉ đạo “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”, cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta mới thoát ra khỏi cuộc
khủng hoảng về tư tưởng và có được tôn chỉ hành động đúng đắn giúp cách mạng Việt Nam giành hết
thắng lợi này đến thắng lợi khác, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
2. Phần nội dung:
- Hoàn cảnh lịch sử VN trước khi Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước:
Năm 1802, triều đình nhà Nguyên phản động trong nước tăng cường đàn áp, bóc lột nhân dân, cải
cách đổi mới, đàn áp người theo phong trào ba anh em Tây Sơn. Về đối ngoại, nhà Nguyễn thực hiện
chính sách bế quan tỏa cảng-đóng cửa, không qua hệ, làm mất cơ hội tiếp xúc và bắt nhiệp với sự phát
triển bên ngoài, nhất là với các nước phương Tây. Kết quả đã không phát huy được những thế mạnh của
dân tộc và đất nước, không tạo ra được tiềm lực v/c và tinh thần đủ sức bảo vệ Tổ quốc, chống lại âm
mưu xâm lược của các nước phương Tây đang cận kề. Triều Nguyễn từng bước đầu hàng thực dân Pháp.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược VN nhưng mãi đến 30 năm sau, thực dân Pháp cơ bản mới
thống trị VN, chính sách đưa ra cực kì dã man, các phong trào yêu nước nổi lên: thời phong kiến, phong
trào Cần Vương, Hoàng Hoa Thám… nhưng đều bị thất bại. Tính chất XHVN đã thay đổi VN từ một
nước phong kiến trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Hai mâu thuẫn cơ bản của nước ta lúc bấy giờ
là mâu thuẫn giữa Thực dân Pháp với dân tộc VN và mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ, phong kiến với
nhân dân lao động mà trực tiếp là nông dân.
Các phong trào đấu tranh cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản cũng như theo khuynh
hướng phong kiến như: Đông Du đi về hướng Đông (Phan Bội Châu); Duy Tân (Phan Chu Trinh, Huỳnh

Thúc Kháng); Đông Kinh Nghĩa Thục (Lương Văn Can, Nguyễn Huyền)… đều lạc hậu, lỗi thời do đó
cuối cùng cũng đều bị thất bại. Việt Nam rơi vào tình trạng bế tắc đường lối cứu nước. Trước thực trạng
như vậy, cần phải có con đường cứu nước giải quyết triệt để cả hai con đường cứu nước vốn đã lỗi thời,
lạc hậu nói trên.
- Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước và đã khẳng định: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”:
Hồ Chí Minh sớm nhận thức được thất bại của phong trào yêu nước cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ
XX ở nước ta là do chưa có đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn khi chủ nghĩa đế quốc đã
thành một hệ thống thế giới; vừa tranh giành nhau trong việc xâu xé thuộc địa, vừa liên kết với nhau trong
việc đàn áp phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc của các nước thuộc địa. Các thuộc địa chẳng
những cung cấp nguyên vật liệu cho các nhà máy mà còn cung cấp binh lính cho quân đội đế quốc nhằm
đàn áp các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở chính quốc. Trong cuộc đấu tranh tự giải phóng
dân, giai cấp vô sản ở chính quốc và nhân dân các dân tộc thuộc địa có chung 1 kẻ thù, vì vậy phải phối
hợp hành động và cổ vũ lẫn nhau.
Từ đầu những năm 20 của thế kỉ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: Chủ nghĩa đế quốc là một con
đỉa 2 vòi, 1 vòi bám vào chính quốc, 1 vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải
đồng thời cắt cả 2 cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng
giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phỉa xem cách mạng ở thuộc địa như là “một trong những cải cách của
cách mạng vô sản, tức là phải đi theo đường lối Mác-Lênin. Nguyễn Ái Quốc đã sớm khẳng định: Muốn
giải phóng dân tộc thành công” Trước hết phải có Đảng cách mệnh Đảng có vững cách mệnh mới thành
công Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều ,những
chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Mác-Lênin”.
Như vậy Nguyễn Ái Quốc đã khằng định: Muốn giải phóng dân tộc thành công muốn thằng lợi phải đặt
5
dưới sự lãnh đạo của Đảng gia cấp công nhân, Đảng đó phải được xấy dựng theo nguyên tắc, Đảng kiểu
mới của Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác-Lênin. Các lãnh tụ yêu nước tiền bối cũng đã bước
đầu nhận thức được tầm quan trọng và vai trò của chính đảng cách mạng. Phan Chu Trinh đã nói: ngày
nay, muốn độc lập, tự do, phải có đoàn thể nhưng ông chỉ mới nói mà chưa kịp làm. Phan Bội Châu đã tổ
chức ra Đảng Việt Nam Quang phục hội, sau dự định cải tổ nó thành Việt Nam Quốc dân Đảng theo kiểu
Tôn Trung Sơn, nhưng ông chưa kịp thục hiện thì đã bị bắt, bị đưa về giam lỏng tại Huế, Dù đã thành lập

hay chưa thì các đảng kiểu đó cũng không thể lãnh đạo các mạng giải phóng dân tộc đi đến thành công, vì
nó thiếu một đường lối chính trị đúng đắn và một đường lối tổ chức chặt chẽ; lại không có cơ sở rộng rãi
trong quần chúng, nên sớm muộn cũng roi vào tan rã và thất bại.
Ngày 5/6/1911, Bác đi tìm con đường cứu nước. Người bắt đầu thực hiện cuộc khảo nghiệm dài
ngày ở nhiều châu lục để tìm con đường giải phóng dân tộc. HCM sống cuộc đời người thợ, gắn mình với
phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc thế giới ra sức học hỏi kinh nghiệm và tham gia
các phong trài chính trị XH ở các nước mà Người đã sống và HCM đã rút ra kết luận: CNTB, đế quốc ở
đâu cũng tàn bạo, độc ác bất công; người lao động ở đâu cũng bị áp bức, bóc lột đầu đọa. Những nhận
thức đó của người đã tiến gần tới qua điểm của C.Mác và V.I.Lênin. Bởi vậy, giữa tháng 7/1920, khi
Người đọc được” Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lênin
đăng trên báo L’Humannité của Đảng XH Pháp thì Người nhận ra rằng đây là cái cần thiết của chúng ta,
con đường giải phóng chúng ta. Như vậy, bằng 1 cuộc khảo sát thực tiễn và nghiễn cứu lý luận trên bình
diện trọng lớn ở trong nước và thế giới, HCM đã gặp CNMLN. Đến với CNMLN cũng là lúc HCM nhận
rõ con đường cứu nước, con đường cách mạng của dân tộc. Người rút ra kết luận: “Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường CMVS”, Bác khẳng định: muốn sống thì
phải làm cách mệnh trước hết cần phải có Đảng lãnh đạo: Đảng cần thực hiện các nhiệm vụ:
- Đối nội: Tập hợp giáo dục và rèn luyện quần chúng và đưa quần chúng ra đấu tranh.
- Đối ngoại: thực hiện liên lạc với tất cả các giai cấp vô sản và nhân dân lao động trên toàn thế
giới, đoàn kết quốc tế.
Sau khi tìm thấy con đường CMVN, HCM đã tích cực chuẩn cho sự ra đời đảng CM ở nước ta.
Sau nhiều năm chuẩn bị, HCM đã triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng vào mùa xuân năm 1930.
ĐCSVN ra đời đã hông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do HCM soạn thảo. Cương lĩnh
khẳng định: VN làm “tư sản dân quyền cách mệnh và thổ địa cách mệnh để đi tới XHCN” nhằm “đánh
đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, “dựng ra chính phủ công, nông, binh”, trong đó giai cấp
Công nhân là nòng cốt và duy nhất có sứ mệnh lịch sử đó là lật đỗ chế độ cũ giành độc lập dân tộc cho
đất nước.
Tăng cường XD và củng cố liên minh giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức để làm
hạt nhân XD khối đại đoàn kết toàn dân. Công dân là giai cấp lãnh đạo; công nhân, nông dân, trí thức là
động lực CM; giai cấp và tầng lớp khác có tinh thần yêu nước và yêu dân tộc thành khối đại đoàn kết.
Khi xác định con đường cứu nước theo CMVS, HCM đã chỉ rõ hướng phát triển là đi lên CNXH

mới có thể giải phóng hoàn toàn dân tộc, XH và con người.
3. Phần kết luận:
- Con đường cách mạng theo chọn lựa của Bác “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” đã mở ra bước ngoặc lớn cho Đảng ta, cho cả dân tộc
Việt Nam xây dựng thành công trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và trong xây dựng CNXH
hiện nay.
- Liên hệ thực tiễn:
Qua câu nói của Bác, Đảng ra đã vận dụng vào giai đoạn hiện nay để tập trung giải quyết vấn đề
sau: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trong thời kì đổi mới là Đảng ra xác định đổi mới phải giữ vững
và kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; thực hiện đổi mới, Đảng ta khẳng định: đổi mới
không phải là mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đi vào đổi mới, từ thực tiễn CM với những
thành công và khuyết điểm sai lầm, Đảng ta rút ra những bài học lớn, trong đó, bài học đầu tiên là “Nắm
vững ngon cờ độc lập dân tộc và CNXH, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch HCM đã trao lại cho thế hệ
hôm nay và các thế hệ mai sau”.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của CMVN. Bởi vậy thực
hiên đổi mới, Đảng ta xác định: cán bộ, đảng viên là tư tưởng phải thông suốt, bản lĩnh chính trị phải
6
vững vàng, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, đây là phẩm chất cán bộ đảng viên.
Kiên trì con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH đòi hỏi con đường đó phải được cụ thể hóa ở thời
kỳ đổi mới làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên nhận thức và đi theo. Đại hội VI của Đảng đề ra đường lối
đổi mới toàn diện. Đại hội VII thông qua Cương lĩnh XD đất nước trong thờig kì quá độ lên XHCN,
chiến lược ổn định và phá triển kinh tế XII đến năm 2000, đại hội VIII và Đại hội IX tiếp tục hoàn thiện
phát triển đường lối đổi mới. Đại hội VII thông qua Cương lĩnh XD đất nước trong thời kì quá độ lên
XHCN, chiến lược ổn định và phát triển sinh tế XII đến năm 2000. Đại hội VIII và Đại hội IX tiếp tục
hoàn thiện phát triển đường lối đổi mới. Đại hội mới khẳng định: những bài học đổi mới do các đại hội
VI, VII, VIII của Đảng nêu lên đến nay vẫn còn có giá trị lớn.
Đổi mới là XD thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc VNXHCN. Thực hiện độc lập
dân tộc gắn liền với CNXH trong đổi mới như Đảng ta đã khẳng định là thực hiện sự kết hợp giữa hai
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
* Có thể liên hệ thêm bản thân đảng viên:

7
Câu hỏi 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và chỉnh đốn Đảng ?
1. Phần đặt vấn đề:
Trải qua 83 ra đời và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện đã lãnh đạo đất nước, lãnh đạo dân tộc Việt Nam gặt hái được nhiều những thành tựu quan trọng.
Trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng đều có những nhiệm vụ khác nhau, song tất cả đều hướng đến một
mục đích đó là mang lại lợi ích thiết thân cho nhân dân, cho dân tộc. Và ở mỗi một giai đoạn cách mạng,
Đảng ta đều tự xây dựng và chỉnh đốn mình, để trong sạch hơn, vững mạnh hơn.
2. Phần nội dung:
2.1. Tư tưởng của HCM về xây dựng và chỉnh đốn Đảng:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng là sự vận dụng, phát triển sáng tạo học
thuyết Mác - Lê-nin về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt
Nam. Tư tưởng ấy được thể hiện ở những luận điểm: Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết
hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; Đảng Cộng sản Việt Nam
là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam; Đảng phải được xây dựng theo
những nguyên tắc của đảng kiểu mới của giai cấp vô sản; Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi
mới.
- Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là người lãnh đạo cách mạng, vừa là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân thực hiện đường lối đó một cách có hiệu quả nhất. Đảng muốn giữ được vai trò lãnh đạo,
được dân tin, dân phục, dân yêu thì một vấn đề căn bản là, trong Đảng “từ Trung ương tới các chi bộ cần
phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ
phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Với cương vị lãnh đạo hệ thống chính trị, Đảng phải xứng danh là người lãnh đạo, phải là một Đảng trí
tuệ, đạo đức, văn minh. Là thành viên của hệ thống chính trị, Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ hiến
pháp và pháp luật, không được đứng trên, đứng ngoài pháp luật; không được đứng trên Nhà nước và nhân
dân. Đảng phải xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân; chống mọi biểu hiện tiêu cực
của bộ máy nhà nước, như bệnh quan liêu, lãng phí, tham nhũng; xây dựng và nâng cao bản lĩnh chính trị
và uy tín của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Uy tín này chủ yếu nằm ở đạo đức cách mạng, bản lĩnh và trí tuệ;

ở sức cảm hóa, thuyết phục nhân dân, với tinh thần hiểu dân, học dân, hỏi dân, tin dân, thật sự là người
đầy tớ trung thành của nhân dân
- Theo Hồ Chí Minh, muốn như vậy, một trong những biện pháp cơ bản là Đảng phải thường
xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng, và đây là công việc thường xuyên; Đảng cầm quyền, nhưng nhân dân
là chủ. Vì vậy, chỉnh đốn Đảng một mặt, khẳng định sức mạnh chính trị to lớn của Đảng trong cải tạo cái
cũ, xây dựng cái mới đối với các lĩnh vực đời sống xã hội; mặt khác, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các
biểu hiện thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên lợi dụng cương vị của Đảng vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân, đi ngược lại lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, dẫn tới lạm quyền, lộng
quyền, đặc quyền, đặc lợi.
- Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng ta vừa là đạo đức, vừa là văn minh, là người khởi xướng và lãnh
đạo mọi sự đổi thay của đất nước qua các giai đoạn lịch sử của cách mạng. Ngay từ những ngày đầu lãnh
đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn làm cách mạng giành chính quyền, cần có nhiều
yếu tố, song nhân tố quan trọng quyết định nhất là phải có Đảng chân chính của giai cấp công nhân và của
nhân dân lao động. Đặc biệt, trước mỗi bước ngoặt của cách mạng, Người nhấn mạnh thêm, để hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình, Đảng phải coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đó là việc
trước tiên, việc chính, việc cần kíp, việc phải làm ngay.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng.
Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó,
xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là
một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính. Theo Người, mỗi cán bộ, đảng viên trong bất kỳ môi
trường xã hội nào luôn chịu sự tác động của những cái hay, cái dở, cái tốt, cái xấu. Để loại bỏ cái xấu, cái
dở cần phải rèn luyện thường xuyên, trong đó biện pháp quan trọng là đổi mới, xây dựng, chỉnh đốn
Đảng. Chỉnh đốn Đảng là để cán bộ, đảng viên khi gặp khó khăn thì củng cố quan điểm, lập trường, tư
8
tưởng, bình tĩnh sáng suốt, không bi quan, không chủ quan, tự mãn. Chỉnh đốn, xây dựng Đảng là để khắc
phục những thiếu sót, khuyết điểm, làm cho Đảng mạnh lên
- Nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tư tưởng HCM được thể hiện rất phong phú, đa dạng.
Người nêu rõ phương châm từng bước, có trọng tâm, có kế hoạch rõ ràng, chu đáo. Chỉnh đốn Đảng, xây
dựng Đảng phải làm toàn diện cả chính trị, tư tưởng và tổ chức; phải được tiến hành ở tất cả các cấp.
Trong đó đặc biệt coi trọng làm tốt ở chi bộ, vì chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ

tốt. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở
cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của
quần chúng”
(4)
; Người còn chỉ rõ: “Chi bộ là gốc rễ của Đảng ở trong quần chúng. Chi bộ tốt thì mọi
chính sách của Đảng đều được thi hành tốt, mọi công việc đều tiến bộ không ngừng. Trái lại, nếu chi bộ
kém thì công việc không trôi chảy”.
- Một nội dung quan trọng nữa trong xây dựng chỉnh đốn Đảng, theo Hồ Chí Minh, là xây dựng
đội ngũ đảng viên. Hồ Chí Minh đề cập đến nhiều nội dung, nhưng toát lên những nội dung bản chất nhất:
Một, đảng viên phải suốt đời phấn đấu hy sinh cho lý tưởng của Đảng. Quá trình phấn đấu đó là bền bỉ,
liên tục. Hai, đảng viên phải luôn đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước
hết, biết hy sinh lợi ích của cá nhân mình để bảo đảm lợi ích cho Đảng. Ba, đảng viên phải có đời tư trong
sáng, là một tấm gương mẫu mực để mọi người noi theo. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí
Minh rất quan tâm đến trách nhiệm và tư cách đảng viên. Tư tưởng chủ đạo và xuyên suốt là, đặt lợi ích
của Đảng, của dân tộc lên trên hết và ra sức phấn đấu tu dưỡng rèn luyện, học tập để phục vụ Tổ quốc,
phục vụ nhân dân được tốt hơn.
2.2. Công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay:
- Đánh giá tình hình:
Trong những năm gần đây, công tác tự phê bình và phê bình trong Đảng còn yếu; một số bộ phận
không nhỏ đảng viên suy thoái về đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi; nhiều đảng viên và tổ chức đảng tính chiến đấu chưa cao, nhất là ở tổ chức cơ sở đảng; việc
xây dựng quy chế và hoàn thiện quy chế theo hướng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn hạn chế
và có nhiều lúng túng , đó là những lý do càng đòi hỏi phải coi trọng, đẩy mạnh và quyết tâm chỉ đạo
chặt chẽ hơn nữa cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
- Vấn đề cấp thiết cần đặt ra:
Để thực hiện nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình hiện
nay, cần tập trung làm tốt một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân kiên định, giữ vững và tăng cường bản chất
giai cấp công nhân của Đảng, hệ tư tưởng của Đảng. Công tác giáo dục phải làm cho mục tiêu, lý tưởng
của Đảng ăn sâu, bám chắc vào đời sống chính trị tinh thần của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Trên

cơ sở nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
mỗi cán bộ, đảng viên phải trung thành, vận dụng sáng tạo lý luận của Đảng vào từng lĩnh vực của đời
sống xã hội. Tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng trên nền của sự giác ngộ chính trị cao và những
nguyên tắc của công tác xây dựng Đảng, ra sức tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận và đấu tranh chống
lại những quan điểm sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù chống phá sự nghiệp cách mạng
nước ta, phá hoại khối đoàn kết trong Đảng, trong toàn xã hội.
Thứ hai, ra sức học tập, rèn luyện đạo đức, lối sống cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Trước hết phải nâng cao kiến thức mọi mặt cho cán bộ, đảng viên, trong đó tập trung bồi dưỡng lý luận
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, năng lực tư duy, hoạt động thực tiễn và chuyên môn
nghiệp vụ, thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân. Khắc phục triệt để tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên giảm sút ý chí, phai nhạt lý t-
ưởng, thoái hóa, biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống Đảng ta xác định việc học tập, tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống là chế độ bắt buộc, là tiêu chuẩn để phân loại, đánh giá chất lượng tổ
chức đảng và đảng viên.
Thứ ba, củng cố tổ chức, chấp hành nghiêm các nguyên tắc, chế độ sinh hoạt của Đảng. Đây là cơ
sở để củng cố tổ chức, bảo đảm đoàn kết thống nhất, kỷ luật trong Đảng. Vì vậy, phải quán triệt, chấp
hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, chế độ tự phê bình và
9
phê bình trong toàn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII; Nghị quyết Đại hội
Đảng lần IX, X, XI và Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI, để tiếp tục khơi dậy và phát huy tính tích cực,
dân chủ, trách nhiệm của đảng viên. Kiên quyết chống quan điểm, tư tưởng phủ nhận, xuyên tạc, bóp méo
nguyên tắc, chế độ xây dựng Đảng, hòng làm cho Đảng suy yếu về tổ chức, dẫn đến biến chất Đảng.
* Có thể liên hệ thêm tại đơn vị
3. Phần kết luận:
Công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt ở tất cả các cấp, các ngành. Trong sự
nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, sự suy yếu, thoái hoá, biến chất của tổ chức Đảng, làm vai trò cầm
quyền của Đảng bị suy giảm, có thể dẫn đến mất ổn định chính trị- xã hội là một nguy cơ lớn. Chăm lo
xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh là điều kiện tối cần thiết và là điều kiện tiên quyết để
giữ vững ổn định chính trị - xã hội, phát triển kinh tế, văn hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

10
Câu hỏi 4: Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định: Văn hóa vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự
nghiệp cách mạng ?
1. Phần đặt vấn đề:
CNXH chính là biểu trưng giá trị cao đẹp nhất, sáng tạo nhất mà trong đó dân tộc Việt Nam có thể
xem là một chủ thể xứng đáng. Tuy nhiên, hành trình đến CNXH không phải là con đường bằng phẳng
trơn tru, bằng phẳng. Thực tiễn cách mạng đấu tranh giải phóng dân tộc hàng ngàn năm lịch sử bị đô hộ
bị áp đặt, nô dịch về văn hóa của ông cha ta cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay đang
có nhiều vấn đề mới nảy sinh và thách thức. Đặc biệt, trong xu hướng toàn cầu hóa với việc mở cửa, hội
nhập đang đòi hỏi mỗi dân tộc cần thiết phải khẳng định bản lĩnh của mình trên mọi mặt trong đó có văn
hóa. Trong tất cả những sức mạnh cần khẳng định, sức mạnh văn hóa cần thiết phải đặt vào vị trí hàng
đầu, vì “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là tầm cao, chiều sâu về trình độ phát triển của dân tộc,
kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa người với người, người với xã hội, với thiên nhiên.
Vì “văn hóa là động lực, mục tiêu của sự nghiệp cách mạng”- Đó cũng là khẳng định của Hồ Chí Minh
khi đề cập về vấn đề văn hóa. Vậy văn hóa là gì và tại sao văn hóa có tầm quan trọng như vậy chúng ta sẽ
tìm hiểu phân tích sau đây.
2. Phần nội dung:
2.1. Khái niệm về văn hóa của Hồ Chí Minh:
Tháng 8 năm 1943, khi còn ở trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, lần đầu tiên Hồ Chí Minh đưa
ra một định nghĩa của mình về văn hoá: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức à văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh
tồn”
2.2. Văn hóa là động lực của cách mạng?
Động lực của văn hóa thể hiện ở chức của văn hóa:
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp.
Tư tưởng và tình cảm là vấn đề chủ yếu nhất của đời sống tinh thần. Nó đúng đắn, cao đẹp hoặc
ngược lại. Bồi dưỡng phải tiến hành thường xuyên và chú ý đến những tư tưởng và tình cảm lớn, chi phối

đời sống tinh thần của con người và dân tộc. Lý tưởng là điểm hội tụ của những tư tưởng lớn. Đó là lý
tưởng vì nước quên mình; vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng; độc lập, tự cường, tự chủ; không có gì
quý hơn độc lập tự do; độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tình cảm lớn là yêu nước, thương dân; yêu
chân-thiện-mỹ; yêu tính trung thực, chân thành, ghét giả dối, lừa lọc. Tư tưởng đúng và tình cảm đẹp có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau: con đường đi tới tư tưởng đúng vừa bằng lý trí, vừa bằng tình cảm.
Những lý tưởng và tình cảm cách mạng khi đã đi sâu vào tâm lý quốc dân sẽ biến thành một sức mạnh vật
chất, tạo động lực cho cách mạng.
Hai là, nâng cao dân trí.
Dân trí là sự hiểu biết của người dân về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, chuyên môn, khoa học,
kỹ thuật, thực tiễn… Nhưng con đường đi tới nâng cao dân trí phải bắt đầu từ chỗ biết chữ, chống giặc
dốt, từng bước đi tới hiểu biết. Mục đích cuối cùng là vì độc lập độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Muốn đạt tới những nhận thức đó phải thông qua con đường văn hóa, trước hết là văn hóa giáo dục.
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất và phong cách tốt đẹp, lành mạnh để không ngừng hoàn thiện
bản thân. Văn hóa sẽ góp phần bồi dưỡng phẩm chất đạo đức để sửa đổi tham nhũng, lười biếng, phù hoa,
xa xỉ, chống “giặc nội xâm”, hướng con người vươn tới chân-thiện-mỹ. Văn hóa cũng có vai trò bồi
dưỡng phẩm chất chính trị, phẩm chất chuyên môn, tạo động lực thúc đẩy sự nghiệp cách mạng.
Văn hóa soi đường cho quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ. Tư
tưởng Mác-Lênin trong cấu trúc văn hóa đưa con người từ chỗ bị tha hóa đến chỗ phát triển tự do, toàn
diện.
Văn hóa-mà con người là trung tâm-tạo ra sức mạnh to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ
nước. Đó chính là sự thắng lợi của “văn minh đối với bạo tàn”.
Các yếu tố văn hóa như khoa học, giáo dục, đạo đức, pháp luật… giúp dân tộc vượt qua yếu hèn,
thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
11
Văn hóa là chất keo tạo sự liên kết, tăng cuwofng mối lương tác, hiểu biết giữa các dân tộc, điều
tiết các mối quan hệ quốc tế.
2.3. Văn hóa là mục tiêu của cách mạng?
Triết lý phát triển xã hội Việt Nam của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc, dân chủ, chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội trong quan niệm của HCM vừa là mục tiêu phát triển, vừa là phương thức thực hiện sự
phát triển đó, bao gồm kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa. Đi tới chủ nghĩa xã hội theo quan điểm HCM là

XD một XH phát triển hài hòa, bền vững cả đời sống vật chất lẫn tinh thần, trong đó chú trọng một xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh, đầy tình thương và lòng nhân ái với những giá trị cao đẹp chân-thiện-mỹ.
Triết lý phát triển HCM lấy chất lượng làm cơ bản và lâu dài, vì hạnh phúc con người. Người quan tâm
tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc giải quyết thất nghiệp; giải quyết sự phân hóa giàu-nghèo, sự bất ổn về
xã hội; chú trọng quyền làm chủ của nhân dân; đảm bảo môi trường sống; xây dựng nền đạo đức mới của
XH và giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc; xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực; đạt phổ cập giáo dục tiểu học
và nâng cao dân trí; tăng cường bình đẳng nam-nữ và nâng cao vị thế người phụ nữ; giảm tỷ lệ tử vong ở
trẻ sơ sinh; tăng cường sức khỏe bà mệ; phòng chống dịch bệnh; bbảo đảm bền vững về môi trường; thiết
lập quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển. Đó thực chất là định hướng phát triển bền vững ở VN theo quan
điểm của HCM.
Theo tư tưởng HCM, nhân tố con người biểu hiện tính tập trung nhất về động lực, mục tiêu của
văn hóa. Bởi vì, như chính người Mỹ cũng đã phải thừa nhận: “Ai cũng biết rằng trong thế kỷ XX, chính
vật chất là sức mạnh của thời đại chúng ta, thời đại có nhiều tên gọi: thời đại điều khiển học, thời đại
chinh phục vũ trụ, thời đại tin học… Dù là kể đến thiết bị nào thì Mỹ cũng đều có và người VN đều
không có. Sức mạnh duy nhất của họ là sức mạnh của con người”.
3. Phần kết luận:
Trong quá trình lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta đã “nhận thức
ngày càng sâu sắc rằng xã hội, văn hóa là những lĩnh vực thể hiện rõ nhất bản chất của chế độ xã hội chủ
nghĩa. Trong những năm tới, cần đưa việc giải quyết các vấn đề xã hội và phát triển văn hóa lên nhanh
hơn nữa, tương xứng với nhịp độ phát triển kinh tế”. Chiến lược xây dựng con người và phát triển văn
hóa, xã hội chính là một mục tiêu, một động lực quan trọng của sự nghiệp đổi mới, đồng thời thể hiện bản
chất ưu việt của chế độ XHCN khi Việt Nam bước vào phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế.
12
Câu hỏi 5: Những giải pháp của Đảng ta trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong
công tác dân vận ?
1. Đặt vấn đề:
Công tác dân vận của Đảng ta luôn chiếm một vị trí quan trọng, thậm chí quyết định đến sự thành
bại của cách mạng. Điều này cho thấy vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác dân vận:
" Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành

công"
Công tác dân vận vừa là tiền đề, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên,
để làm tốt công tác này, đòi hỏi chúng ta phải hiểu thế nào là dân vận và công tác dân vận cùng những
giải pháp hữu hiệu trong thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
2. Phần nội dung:
2.1. Quan điểm của Đảng ta về dân vận và công tác dân vận:
Dân vận là tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục mọi người dân thực hiện các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Dân vận còn có nghĩa là làm gương
trước dân. Nói theo nghĩa thông thường thì, dân vận là công tác dân vận của các tổ chức dân vận của
Đảng, chính quyền, đoàn thể trong hệ thống chính trị nói chung và của cả hệ thống xã hội nói riêng. Nói
tóm lại, mục tiêu cao nhất của dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là vì dân. Do đó, mọi hành động
của chúng ta phải vì dân và mang lại hiệu quả thiết thực cho dân.
Công tác dân vận được xem là công việc (hay còn gọi là nhiệm vụ chính trị) của các tổ chức đảng,
Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội cần phải làm tròn trước Đảng và nhân dân. Ví dụ như, công
tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt đạo đức, tác phong, lối sống văn hóa, văn minh theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa VI cũng chỉ rõ: “Các cấp ủy
từ Trung ương đến cơ sở phải nắm vững và làm đúng chức năng lãnh đạo của mình bằng phương pháp
dân chủ, kiên quyết khắc phục tình trạng bao biện công việc của Nhà nước, của các đoàn thể quần chúng”
.
Công tác dân vận trong thời kỳ đổi mới là công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục
mọi người dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đáp
ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2. Nội dung và yêu cầu công tác dân vận trong thời kỳ mới:
Những năm qua, công tác dân vận của Đảng ta đã thu được những thành tựu đáng kể. Đó là mức
sống của đại bộ phận nhân dân ngày càng được cải thiện rõ rệt; bộ mặt của đất nước được đổi mới khá
toàn diện ; mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân được củng cố và tăng cường; nhiều kênh truyền thông
đại chúng được tăng cường để theo dõi, nắm bắt tình hình đời sống, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp
nhân dân, đề xuất những kiến nghị kịp thời với Đảng, Nhà nước về các chủ trương, chính sách, giải quyết
các quyền lợi chính đáng của nhân dân. Cơ cấu, tổ chức và hoạt động của Ban Dân vận các cấp được
củng cố và kiện toàn. Các cơ quan, tổ chức dân vận trong hệ thống chính trị đã có sự phối hợp nhịp nhàng

trong việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác dân vận. Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban
Dân vận các cấp và các tổ chức, đoàn thể quần chúng.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, công tác dân vận vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém. Một
số cấp ủy, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ về vai trò, tầm quan trọng của công tác dân vận đối với sự
nghiệp phát triển đất nước. Công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân vẫn
chưa đi vào chiều sâu, đồng bộ Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, đạo
đức, lối sống, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Tâm trạng của người dân
còn nhiều phiền muộn và không bằng lòng với một bộ phận cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước cố
tình nhũng nhiễu, gây phiền hà. Nguyên nhân là do nhận thức về đổi mới công tác dân vận chưa đồng đều
trong tất cả các cấp, ngành; đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận bất cập về trình độ, năng lực, nghiệp vụ
chuyên môn; cơ chế, chính sách và điều kiện làm việc của tổ chức và cá nhân cán bộ làm công tác dân
vận còn nhiều khó khăn, bất cập. Cơ chế phối hợp hoạt động trong công tác vận động nhân dân còn chưa
đồng bộ trong các tổ chức trong hệ thống chính trị; khuynh hướng "hành chính hóa" các tổ chức quần
chúng và công tác vận động quần chúng đang có xu hướng phát triển. Đây thực sự là những vấn đề bức
xúc cần được quan tâm nghiên cứu cả về lý luận lẫn thực tiễn, để có những giải pháp hữu hiệu nhằm tiếp
13
tục phát huy bản chất tốt đẹp của Đảng ta trong công tác dân vận trong điều kiện kinh tế thị trường và hội
nhập kinh tế quốc tế.
Trước tình hình đó, việc đổi mới công tác dân vận theo hướng công bằng trong hệ thống chính trị
và trong toàn xã hội là vấn đề rất cần thiết và cấp bách hiện nay. Điều đáng chú ý là, công bằng giữa các
giai tầng, dân tộc, tôn giáo, giữa nam và nữ Đó là vì nước ta bị những hạn chế rất cơ bản: 1 - Nền tảng
kinh tế - xã hội nông nghiệp - nông thôn truyền thống nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, 2 - Nền tảng
văn hóa truyền thống trọng nam khinh nữ vừa là hệ quả của nền tảng kinh tế - xã hội nêu trên vừa là nhân
tố xã hội độc lập tạo ra tình trạng bất bình đẳng giới dai dẳng và nan giải, 3 - Quan hệ giữa nhà nước (vô
thần) và tôn giáo (hữu thần) là một vấn đề xuyên suốt lịch sử dân tộc cũng như nhân loại mà trong quá
trình hóa giải mâu thuẫn thì xung đột thường dễ xảy ra hơn là đồng thuận, hài hòa nhiều khi chỉ là ảo
tưởng
Cần có cái nhìn thực tế, khách quan về việc xây dựng mô hình tổ chức dân vận trong điều kiện
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Sự chuyển đổi của cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng
công nghiệp - dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp, đã dẫn đến sự chuyển đổi về tư duy và cách làm ăn của

người dân. Từ sự biến đổi về kinh tế dẫn đến tình trạng là, đông đảo người nông dân từ nông thôn ra
thành thị làm ăn sinh sống không thuộc tổ chức nào quản lý, công tác dân vận ở đây gần như bị bỏ trống.
Vậy, ai là người quản lý họ? Những người dân xa quê, đi lang thang cơ nhỡ không nơi nương tựa và
không có chỗ để sinh hoạt, thì các tổ chức dân vận phải làm gì để mỗi người dân thực hiện đúng vai trò
của người công dân? Họ là người dân nhưng “không được biết, không được bàn, không được làm, không
được kiểm tra”, thậm chí họ bị công an kiểm tra do không rõ nguồn gốc xuất thân, hoặc tham gia các tệ
nạn xã hội (cờ bạc, ma túy, trộm cắp ) thì xã hội phải trả giá như thế nào về việc này? Do đó, phải có
một tấm lòng thật sự chân thành với dân mới tạo được niềm tin vững chãi trong dân. Tấm lòng “vì nước
quên thân, vì dân phục vụ” của Hồ Chí Minh là tấm gương sáng cho mọi dân tộc, giai cấp, tầng lớp nhân
dân (công nhân, nông dân, trí thức, phụ nữ, thanh niên ) noi theo. Cũng từ niềm tin vững chắc của nhân
dân đối với Người, và tấm lòng cao cả của Người đối với nhân dân mà không có một trở ngại, khó khăn
nào không vượt qua.
Vì vậy, cần phải đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách công tác dân vận ở vùng sâu,
vùng xa, vùng dân tộc ít người, vùng công nghiệp (nơi không có các tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội Phụ
nữ, Công đoàn ) có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị vững vàng, có kiến thức hiểu
biết tâm lý dân vận sâu rộng, biết cách làm việc có hiệu quả và được nhân dân tin yêu. Đồng thời, nâng
cao năng lực và sự tham gia của người dân vào việc thực hiện và kiểm tra việc thực hiện đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thông qua công tác dân vận.
2.3. Một số giải pháp thực hiện về công tác dân vận:
Một là, đổi mới công tác dân vận của Đảng theo hướng công bằng giữa các giai tầng xã hội, dân
tộc, tôn giáo, giới, trong hệ thống chính trị và trong toàn xã hội. Thực tế cho thấy, trong hệ thống chính
trị 3 khối, 4 cấp, cán bộ nam có thể làm bí thư, chủ tịch, cán bộ nữ có thể làm phó bí thư, phó chủ tịch, và
ngược lại, cán bộ nữ có thể làm bí thư, chủ tịch, cán bộ nam có thể làm phó bí thư, phó chủ tịch đều có
thể chấp nhận được. Nếu một giới nam hoặc nữ độc chiếm lãnh đạo là rất bất công cần được xóa bỏ.
Cũng như vậy, việc bảo đảm công bằng giữa các giai tầng xã hội, dân tộc, tôn giáo, cũng cần phải được
tính toán một cách hợp lý.
Hai là, đổi mới công tác dân vận phải phù hợp với vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, nhất là đặc
thù của mỗi giới. Mỗi một đối tượng khác nhau đòi hỏi phương thức đổi mới dân vận cũng phải khác
nhau. Thí dụ, người nông dân bị mất ruộng đất trong giải phóng đền bù, không còn niềm tin vào chủ
trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, thì cần phải đổi mới công tác dân vận như thế nào để lấy lại

niềm tin trong nông dân? Tại sao nhiều gia đình hiện nay không muốn con mình trở thành công nhân?
Thực tế hiện nay, tầng lớp lãnh đạo xuất thân từ giai cấp công nhân, nông dân chiếm tỷ lệ rất ít và thấp
(bố mẹ có thể là công nhân nhưng bản thân họ không thuộc giai cấp này), họ chủ yếu xuất thân từ cán bộ,
công chức, viên chức nhà nước. Trong khi, giai cấp công nhân còn gặp rất nhiều khó khăn về đời sống
mọi mặt Vậy, phải đổi mới công tác dân vận như thế nào để lấy lại niềm tin trong công nhân? Tại sao
những người đi lao động ở nước ngoài thích ở nước ngoài hơn là thích về nước để cống hiến? Chính phủ
trợ cấp tiền cho người nghèo ăn Tết nhưng ở một số nơi, cán bộ xã lại “xẻo tiền” của dân để làm việc
khác thì làm sao vận động được ai, thuyết phục được ai. Các trường Dân tộc Nội trú mở ra nhưng có nơi
14
vẫn chỉ dành cho con em của cán bộ là dân tộc nhiều hơn con em nhân dân là dân tộc. Ở những nơi có
đông đồng bào tôn giáo, các tổ chức Mặt trận, đoàn thể chưa được kiện toàn. Đổi mới công tác dân vận
trong điều kiện hiện nay là làm sao cho mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo trở về với dân,
sống với dân và giúp dân xây dựng cuộc sống no ấm, bình đẳng, hạnh phúc, tiến bộ, góp phần cùng dân
vào sự nghiệp phát triển chung của cả nước.
Ba là, đổi mới công tác dân vận của các tổ chức làm công tác dân vận của Đảng (như tổ chức
đảng, chính quyền, đoàn thể) trong hệ thống chính trị. Chẳng hạn, đổi mới công tác dân vận trong việc
xây dựng các chủ trương, đường lối, chính sách (của các tổ chức đảng); trong việc thực thi đường lối,
chính sách (của các tổ chức nhà nước); trong việc tham gia quản lý nhà nước (của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội) nhằm đáp ứng với yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế.
2.4. Công tác Dân vận trong tình hình hiện nay:
Trong những năm qua, hoạt động về công tác Dân vận, Mặt trận, các đoàn thể chính trị-xã hội trên
địa bàn huyện có nhiều chuyển biến tích cực, các thành viên trong hệ thống đã thực hiện tốt chủ trương
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, cùng với chính quyền đã cải thiện đời sống vật chất, tinh
thần cho nhân dân và vận động tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào thi đua
yêu đua yêu nước, hành động cách mạng, nêu gương điển hình dân vận khéo… góp phần phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội, Quốc phòng- an ninh của huyện nhà.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác dân vận vẫn còn những tồn tại khó khăn.
Một số cấp uỷ Đảng, chính quyền và một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn chưa nhận thức đầy đủ về tầm
quan trọng của công tác dân vận, nội dung và phương thức hoạt động chậm được đổi mới; việc thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở có lúc, có nơi còn mang tính hình thức, công tác dân vận cấp cơ sở chưa có sự

phối kết hợp chặt chẽ đồng bộ, việc xây dựng và nhân rộng các mô hình, điển hình “Dân vận khéo”; việc
xây dựng đội ngũ cốt cán chưa được chú trọng…
Nhìn chung công tác dân vận trên địa bàn huyện trong thời gian qua cơ bản hoàn thành tốt nhiệm
vụ chính trị được giao. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc kiểm tra, sơ kết,
tổng kết các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; không ngừng phát huy tính dân chủ, đổi mới nội dung phương
thức hoạt động, xây dựng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân; tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế xã
hội, từng bước nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân.
Để thực hiện tốt công tác dân vận trong thời gian tới, cần phải thực hiện một số nhiệm vụ như
sau:
Một là: Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về
công tác dân vận.
Các cấp ủy Đảng tùy theo theo tình hình thực tế nhiệm vụ của Đảng bộ, chi bộ xây dựng chương
trình hành động, kế hoạch công tác dân vận hằng năm để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Thường xuyên kiểm
tra, giám sát và sơ kết, tổng kết việc thực hiện chỉ thị, nghị quyết chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước về công tác dân vận. Trong sinh hoạt cần kiểm điểm, đánh giá công tác dân vận và bàn những chủ
trương, biện pháp để giải quyết tốt những vấn đề bức xúc trong nhân dân. Định kỳ cấp ủy Đảng tổ chức
giao ban khối dân vận để chỉ đạo thực hiện công tác vận động quần chúng, tháo gỡ những khó khăn
vướng mắc, định hướng chỉ đạo hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể và các hội quần chúng. Tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân. Chỉ đạo các cấp các ngành chú trọng việc xây dựng nhân rộng mô
hình, điển hình “dân vận khéo”, lực lượng cách mạng, phát triển đội ngũ cốt cán, nòng cốt, trung kiên
trong các tầng lớp nhân dân để thực hiện chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước.
Hai là: Tăng cường công tác dân vận chính quyền, cơ quan Nhà nước, lức lượng vũ trang.
Các cấp chính quyền cơ quan Nhà nước, lực lượng vũ trang tiếp tục chỉ đạo làm tốt công tác dân
vận, tiếp tục đôn đốc thực hiện chỉ thị 01/CT-UBND của UBND huyện về quản lý bảo vệ rừng, phải
thường xuyên xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang thực sự “Trung
thành, sáng tạo, tận tụy, gương mẫu”; vì nhân dân phục vụ. Tăng cường kiểm tra, kịp thời phát hiện, xữ
lý nghiêm những hành vi, thái độ vi phạm dân chủ, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tăng cường đi cơ sở
để sâu sát với nhân dân, kịp thời nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân để có chủ trương đúng đắn
hợp lòng dân, gắn chặt giữa xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân. Thực
hiện tốt quy chế phối hợp giữa các tổ chức chính trị xã hội với chính quyền các cấp để làm tốt công tác

15
vận động quần chúng và xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh, bảo đảm sự phù hợp với thực tế và
gắn với lợi ích của nhân dân. Tăng cường công tác Dân vận chính quyền, tạo bước chuyển biến tích cực,
hiệu quả, phối hợp với Phòng Nội vụ và Văn phòng HĐND& UBND, trực tiếp tổng kết Chỉ thị
18/2000/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác dân vận hệ thống dân vận các cấp,
tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt trong việc xây dựng và nhân rộng mô hình, điển hình “Dân vận khéo”
thực sự lan tỏa trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, tạo ra sức sống mạnh mẽ của phong trào từ huyện đến
cơ sở.
Ba là: Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng của Ban Dân vận cấp ủy, Mặt trận,
đoàn thể nhân dân. Cụ thể:
- Đối với Ban Dân vận các cấp.
Phải thường xuyên thể hiện rõ vai trò tham mưu, đề xuất giúp cấp ủy đôn đốc, kiểm tra, sơ kết,
tổng kết việc triển khai thực hiện chỉ thị, nghi quyết của Đảng về công tác dân vận, phối hợp tham mưu
giúp cấp ủy chỉ đạo thực hiện tốt công tác dân tộc, tôn giáo trên địa bàn và chương trình phối hợp với các
đơn vị lực lượng vũ trang, nhất là công tác dã ngoại giúp dân ở những vùng đặt biệt khó khăn. Phối hợp
với các ban, ngành, Mặt trận- đoàn thể trong công tác xây dựng và tổng kết thực tiễn các chuyên đề về
công tác dân vận, hướng dẫn xây dựng các mô hình, điển hình dân vận khéo, kịp thời sơ kết rút kinh
nghiệm, đề xuất biểu dương những cách làm hay. Phối hợp nghiên cứu, tham mưu giúp cấp ủy xây dựng,
bồi dưỡng lực lượng cốt cán trong các tầng lớp nhân dân. Phối hợp với ban, ngành, Mặt trận và các đoàn
thể tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
coi đây là việc làm thường xuyên, liên tục. Tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, động viên
toàn dân thi đua lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, góp phần thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ
kinh tế-xã hội.
- Đối với Mặt trận và các đoàn thể. `
Mặt trận các đoàn thể nâng cao hiệu quả hoạt động, cùng thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn
dân tộc, chính sách đối với người có công với nước, chính sách đối với giai cấp và nhân dân, chính sách
dân tộc, tôn giáo trên tinh thân mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân để tăng cường
khối đại đoàn kết và tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, xây dựng các điển hình tiên tiến
các hình thức thu hút, để tập hợp nhân dân, đồng thời có biện pháp tuyên truyền giáo dục chính trị tư
tưởng, pháp luật cho đoàn viên, hội viên và nhân dân.

Hệ thống dân vận tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động trong tình hình mới, góp phần thực
hiện đồng bộ các biện pháp suy giảm kinh tế, chủ động phòng ngừa lạm phát ổn định kinh tế, tạo thuận
lợi cho sản xuất kinh doanh và tăng cường kinh tế hợp lý, cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu, tạo việc làm xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, củng
cố và tăng cường quốc phòng an ninh. Các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận đoàn thể, Ban Dân vận từ
huyện đến cơ sở chăm lo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở gắn với đấu tranh phòng chống
tội phạm, tham nhũng lãng phí, quan liêu, mất dân chủ, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, xây dựng
Đảng Nhà nước trong sạch vững mạnh, chăm lo xây dựng, bồi dưỡng lực lượng cốt cán của từng tổ chức.
Tích cực phát huy các già làng trưởng bản, lão thành cách mạng, người có uy tín nhất trong cộng đồng
tham gia công tác vận động quần chúng.
2.5. Liên hệ thực tế công tác dân vận tại địa phương, đơn vị:
Dân vận, Mặt trận và các đoàn thể phải tập trung hướng mạnh về cơ sở, tuyên truyền các chủ
trương, nghị quyết của Đảng chính sách, pháp luật của Nhà nước và thường xuyên tuyên truyền trong
nhân dân những “âm mưu diễn biến hòa bình”; “bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù địch, phát huy tinh
thần yêu nước trong nhân dân. Tiếp tục phát động và tổ chức thực hiện có hiệu quả trong các hội đoàn thể
nhân dân, các phong trào hành động cách mạng, thi đua sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói
giảm nghèo, vươn lên làm giàu, trong gia đình và xã hội. Thực hiện công tác “đền ơn đáp nghĩa”, chăm
sóc người có công, ủng hộ “bát cháo tình thương”, hưởng ứng ngày “Vì người nghèo”, Xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đẩy lùi các tệ nạn, biểu hiện tiêu cực, đấu tranh
ngăn chặng việc lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm phương hại đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
3. Phần kết luận:
Công tác dân vận là chiến lược và đường lối cách mạng của Đảng. Ngày nay, công tác dân vận trở
thành nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội, gắn bó mật
16
thiết với chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới hệ thống
chính trị, góp phần tạo động lực cho phát triển đất nước.
17
Câu hỏi 6: Nêu những lý do mà cán bộ, đảng viên phải học tập và làm theo tấm gương đạo
đức HCM?
1. Phần đặt vấn đề:

Chúng ta đều biết, Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài, là người thầy vĩ đại của Cách mạng
Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Người đã trải qua một cuộc đời rất
oanh liệt, đầy gian khổ, hy sinh, vô cùng phong phú và cao đẹp. Người không chỉ là nhà tư tưởng lỗi lạc,
nhà chiến lược tài ba, mà còn là nhà hoạt động thực tiễn kiệt xuất. Người đã để lại cho chúng ta một gia
tài đồ sộ, một di sản hết sức quý báu. Đó là tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức Hồ Chí Minh, phong cách Hồ
Chí Minh và thời đại Hồ Chí Minh. Thời đại Hồ Chí Minh là gia tài vô cùng đồ sộ, là thực tiễn đang hiển
hiện trước mắt chúng ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng để toàn
Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới
giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Vì vậy, có thể nói, đạo đức là
một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng.
2. Phần nội dung:
2.1. Khái niệm về tư tưởng HCM:
Tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một tập hợp đơn giản những ý tưởng, những suy nghĩ cụ thể
của Hồ Chí Minh trong những hoàn cảnh cụ thể mà là một hệ thống những quan điểm, quan niệm về con
đường cách mạng Việt Nam, được hình thành trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, vì vậy Tư tưởng Hồ
Chí Minh là một khái niệm khoa học và phải được trình bày cô đọng, chặt chẽ và mang tính lý luận cao.
Trên cơ sở nghiên cứu hiện có, Tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa như sau: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một
hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và
trí tuệ của thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
2.2. Nguồn gốc hình thành tư tưởng HCM về đạo đức:
- Tư tưởng HCM về đạo đức: xuất phát từ truyền thống đạo đức của dân tộc. Được xây dựng trên
nền tảng chủ nghĩa yêu nước như: Đối với đất nước thì yêu nước, thương dân; trong gia đình đó là sự
thuỷ chung, sự hiếu thảo với cha mẹ, tình làng nghĩa xóm. Nó đã tác động đến HCM từ thời còn nhỏ qua
lời ru của mẹ và đã thôi thúc HCM ra đi tìm đường cứu nước, là cơ sơ HCM kế thừa tinh hoa đạo đức
nhân loại nhất là khi Bác bắt gặp chủ nghĩa Mác- Lê nin.
- Tư tưởng HCM về đạo đức: Bác đã kế thừa văn hoá nhân loại đặt biệt nhất là tinh hoa đạo đức
nhân loại đồng thời Bác phê phán, xoá bỏ những tư tưởng lạc hậu.

- Tư tưởng HCM về đạo đức: Xuất phát từ đạo đức cộng sản được thể hiện trong học thuyết Mác -
Lênin và phong trào cộng sản quốc tế. Chủ nghĩa Mác-Lênin và phong trào Cộng sản quốc tế đây là
nguồn gốc mà HCM kế thừa và vận dụng nhiều nhất cả về thế giớ quan và phương pháp luận. Tinh hoa
của người cộng sản được thể hiện trong các phạm trù và các tiêu chuẩn đạo đức được hình thành trên
nền tảng cách mạng vô sản với mục đích là mình vì mọi người, mọi người vì mình.
- Tư tưởng HCM về đạo đức là sự rèn luyện đạo đức không mệt mỏi của HCM. Cả cuộc đời người
là một tấm gương vĩ đại về tu dưỡng, rèn luyện đạo đức. Quá trình rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của HCM
đã nâng người lên thành bậc đại nhân, đại trí, đại dũng, đại liêm… của thể kỷ XX, khiến kẻ thù cũng phải
kính phục, bị cảm hoá và nhân loại tin tưởng nôi theo.
Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh coi đạo đức cách mạng là
gốc của người cách mạng. Người viết “ cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo
đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Người cách mạng phải có đạo đức cách
mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Do đó, đạo đức trở thành nhân tố
quyết định sự thành bại của mỗi công việc và là phẩm chất mỗi con người.
Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao cả hai mặt đức và tài ở mỗi con người. Trong mỗi quan hệ giữa
đạo đức với tài năng. Người khẳng định đạo đức là gốc, nó quyết định sức mạnh tinh thần to lớn của con
người, sức mạnh của đoàn kết dân tộc, nhờ đó mà đạo đức góp phần to lớn vào việc quyết định sự thành
18
bại của cách mạng nước ta. Chính vì vậy HCM luôn coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cho con người,
trước hết là cho cán bộ đảng viên.
2.3. Những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức CMVN theo quan niệm của Bác:
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái
gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì
mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân” Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng
lợi của mọi công việc: “Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy
đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng

có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho
nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng Việt Nam gồm
những điểm sau:
- Một là, trung với nước hiếu với dân.
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác. Từ khái niệm cũ
"trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí
Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu
với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã
hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói
đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị-đạo đức cho mỗi người Việt Nam
không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
- Hai là, yêu thương con người.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Hồ Chí Minh đã xác định tình
yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương
rộng lớn cho những người cùng khổ. Những người lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: "Tôi chỉ có
một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Hồ Chí Minh yêu thương đồng
bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái
không phân biệt một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng
nhân ái của Người. Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm.
Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng ta: "Mỗi con người đều có thiện và ác ở
trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị
mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người
phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con
người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời". Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng:
Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm
chất yêu thương con người.
- Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.

+ Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao
động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động
là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".
+ Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của
bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ,
không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm phạm một đồng xu,
hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không tham lam". "Không tham địa vị. Không
tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính
đại, không bao giờ hủ hoá".
19
Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu
khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình. Đối
với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm
tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc. Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc
nhà.
+ Chí công vô tư, người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc". “Khi làm bất
cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ,
vui sau thiên hạ".
- Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng.
Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương
vô sản đều là anh em"; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước,
mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự
nghiệp cách mạng của cả dân tộc; là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người
tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội, vì những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị
với tất cả các nước, các dân tộc
2.4. Sự cần thiết phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM:
Trong công cuộc đổi mới đất nước, đa số cán bộ, đảng viên và dân ta đã luôn ghi nhớ và thực hiện
lời dạy của HCM về xây dựng con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa mà yếu tố hàng đầu là nâng cao

đạo đức cách mạng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định: “Đa số cán bộ, đảng viên
phát huy vai trò tiên phong, năng động, sáng tạo, giữ gìn phẩm chất đạo đức”. Tuy nhiên, nước ta cúng
đứng trước nhiều thách thức, yếu kém cần phải vượt qua. Một trong những thách thức đó là “Tình trạng
suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ, chủ nghĩa cá
nhân và tệ quan liêu, tham nhũng lãng phí trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức còn diễn ra
nghiêm trọng”. Những suy thoái này còn kéo theo những suy thoái về đạo đức trong gia đình, nhà trường
và trong xã hội. Những suy thoái đó đang là “nguy có lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng của chế
độ”.
Tình trạng suy thoái về đạo đức là do nhiều nguyên nhân. Về khách quan, chủ yếu là những
nguyên nhân thuộc mặt trái của nền kinh tế thị trường; là sự bùng nổ thiếu kiểm soát thông tin trên mạng
internet và giao lưu quốc tế đã tạo điều kiện cho những mặt tiêu cực của văn hóa và lối sống bên ngoài du
nhập vào nước ta; là trong xã hội ta hiện nay vẫn còn những tàn dư của đạo đức phong kiến, thực dân và
âm mưu “diễn biến hòa bình” của kẻ thù. Về nguyên nhân chủ quan, trước hết là có biểu hiện buôn lỏng
việc giáo dục đạo đức, lối ống cách mạng theo tư tưởng HCM trong một thời gian khá dài do nhận thức
chưa đầy đủ về vai trò của đạo đức cách mạng. Thêm vào đó là những hiện tượng không nghiêm minh đối
với những cán bộ xa rời đạo đức cách mạng. Từ những nguyên nhân trên mà chúng ta cần phải học tập và
làm theo tấm gương đạo đức HCM.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Chúng ta cần phải có giáo dục đạo đức công dân để mọi
người hiểu rõ: Lợi ích chung của nước nhà và lợi ích riêng của người dân là nhất trí". Người viết về
nguyên tắc kế thừa và đổi mới khi xây dựng một nền đạo đức mới: "Đời sống mới không phải cái gì cũ
cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ… Cái gì cũ mà tốt, thì phải
phát triển thêm… Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm". Người nói về tác dụng của việc nêu gương sáng
đạo đức: "Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền". “Người cách
mạng chúng ta nếu không tu dưỡng thì cũng có phen có cái đuôi ấy, dù nhỏ sẽ có ngày gây hậu quả khôn
lường”… Bác nhắc nhở mọi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng, rèn luyện. Nếu không chịu khó
học tập, rèn luyện, nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, thì có ngày "cái đuôi dốt nát" sẽ lòi ra; vì
không ai trên đời này chỉ cần học một lần là xong xuôi hết cả. Mặt khác, nếu không chịu khó tu dưỡng
đạo đức, thì "cái đuôi cá nhân chủ nghĩa" cũng sẽ được mọc dần lên, vì trong mỗi người đều tồn tại cả cái
tốt và cái xấu.
Học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta thấm nhuần những nguyên tắc xây dựng

đạo đức mới mà Người nêu lên và đã suốt đời không mệt mỏi tự rèn mình; giáo dục, động viên, cán bộ,
đảng viên và nhân dân cùng thực hiện. Đó là: Nói phải đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức; Xây đi
đôi với chống; Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng
20
không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong"". Thực vậy, cái ác, cái xấu là kẻ thù của
đạo đức, nhưng nó thường ẩn giấu bên trong con người, thậm chí đội lốt ngay trong cái vỏ đạo đức. Hơn
nữa, nó là "giặc nội xâm", là kẻ thù bên trong nên vừa nguy hiểm, vừa khó phát hiện. Phương thuốc đặc
hiệu nhất để phòng và chống kẻ thù vô hình này là phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức. Bởi vậy, mỗi
người chúng ta phải tự ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức trong suốt cuộc đời; coi tu dưỡng đạo đức là
một việc làm như rửa mặt hằng ngày. Trong cuộc sống hôm nay, đã có nhiều bài học về sự mất mát do
thiếu tu dưỡng đạo đức. Có những cán bộ, đảng viên, trong gian khổ, tranh đấu thì hăng hái, trung thành,
không sợ hy sinh, cực khổ, quyết chiến đấu đến cùng, nghĩa là có công với cách mạng. Nhưng khi có ít
quyền hạn trong tay thì kiêu ngạo, xa xỉ, tham ô, lãng phí, quan liêu, tự biến mình thành những "ông quan
cách mạng". Những người này thậm chí đã kiên trì phấn đấu gần hết cuộc đời, có nhiều công lao, nhưng
cuối đời đã không giữ được tấm lòng trong sáng, nên sự nghiệp đã đổ vỡ, thậm chí đã phải vào vòng lao
lý. Đó chính là những người đã không thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng đạo đức; sớm bằng lòng, tự mãn
với bản thân và dần dần biến chất. Họ bị chính kẻ thù bên trong quật ngã.
Theo HCM thì mọi người Việt Nam đặc biệt là cán bộ, đảng viên cần phải có những chuẩn mực
đạo đức đó là: Trung với nước, hiếu với dân; yêu thương và giúp đỡ con người, sống có tình có nghĩa, có
tình; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và có tinh thần quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa
các dân tộc trong điều kiện toàn cầu hóa, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Từ những chuẩn
mực này Bác yêu cầu từng ngành, từng giới có những chuẩn mực cụ thể như: Ngành Y, Công an nhân
dân, ngành giáo dục,….
* Có thể liên hệ thực tiễn bản thân anh /chị đã làm gì để rèn luyện, tu dưỡng đạo đức
3. Phần kết luận:
Quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh nhất là phong cách làm việc
quần chúng, là bổn phận, danh dự của người cán bộ, đảng viên tâm huyết với Đảng, với dân. Đó là giải
pháp hữu hiệu nhất để xây dựng người cán bộ cách mạng “vừa hồng, vừa chuyên” góp phần củng cố niềm
tin của nhân dân đối với Đảng, làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi

của nhiệm vụ cách mạng, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo toàn xã hội, là một trong những nhiệm vụ
trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân ta. Đây thực sự là vấn đề rất quan trọng bảo đảm cho công cuộc đổi
mới đang được triển khai rộng khắp trên cả nước ta hiện nay giành được thắng lợi. Học tập phong cách
Hồ Chí Minh là điều kiện thực hiện có hiệu quả những nội dung quan trọng của Nghị quyết Hội nghị lần
thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá XI: “Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay”
Học tập tư tưởng trong đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước tiếp tục cổ động phong trào thi
đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới, biểu dương các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc, dấy lên phong
trào “người tốt việc tốt”, nêu gương sáng đạo đức cách mạng để mọi người tôn vinh và noi theo
21
Câu hỏi 7: Vì sao chúng ta phải học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo anh (chị) tư
tưởng nào của Người là quan trọng nhất mà toàn thể cán bộ, đảng viên phải quán triệt ?
1. Đặt vấn đề:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều
kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại….
Tại Văn kiện Đại hội XI đề cập: “Toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh”. Quan điểm trên đây của Đảng không chỉ khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là nhân tố quyết
định mọi thắng lợi của Cách mạng Việt Nam trong thời gian qua, mà còn chứng tỏ rằng bước sang thế kỷ
21, tư tưởng Hồ Chí Minh càng trở nên quan trọng cần thiết hơn bao giờ hết. Trong hành trang của mỗi
người Việt Nam đi tới tương lai không thể thiếu tư tưởng Hồ Chí Minh. Nói một cách khác học tập, vận
dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn là một nhân tố quyết định thắng lợi của toàn bộ sự
nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.
2. Phần nội dung:
2.1 Nhận thức của Đảng ta về tư tưởng Hồ Chí Minh:
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam không thể tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh. Thông qua thực
tiễn cách mạng nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước đi đến kết luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và dân tộc. Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ II (tháng 2-1951), đã khẳng định đường lối chính trị, đạo đức, tác phong HCM là đường lối

chính trị, nền nếp làm việc và đạo đức cách mạng của Đảng. Để đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi,
toàn đảng phải ra sức học tập đường lối, tác phong đạo đức HCM. Từ đó trở đi, trong các văn kiện của
Đảng (từ đại hội lần thứ VI đến ĐH lần thứ XI), nhận thức của Đảng ta về tư tưởng Hồ Chí Minh ngày
càng toàn diện, sâu sắc hơn.
Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh là bước phát triển mới của Chủ nghĩa Mác-Lênin trong thế kỷ
XX. Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ ngày có đảng đã chứng tỏ, trong khi giải quyết những vấn đề của
cách mạng Việt Nam, HCM đã góp phần phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng,
đặc biệt là lý luận về cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân tiến lên CNXH ở các nước thuộc địa và phụ
thuộc. Do đó, cùng với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là lý luận cách mạng và khoa học,
là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Nói một cách khác, cùng với
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng
và cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn. Điều đó phù hợp
với những đóng góp vĩ đại và tấm gương đạo đức trong sáng tuyệt vời của HCM. Việc làm đó đáp ứng
đòi hỏi chính đáng, tình cảm vô cùng thân thiết, gần gũi mà nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế dành
cho Hồ Chí Minh. Thực tế cho thấy tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động của đảng và cách mạng Việt Nam mà nó trở thành giái trị bền vững, đã, đang và sẽ lan tỏa
ngày càng rộng rãi, sâu sắc trên thế giới.
2.2. Hiện nay tư tưởng về đạo đức của HCM được quán triệt nhiều nhất, bởi vì:
- Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chăm lo xây dựng Đảng ta trong sạch vững mạnh để
thật sự xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Người từng căn dặn, cán bộ,
đảng viên phải tự mình xung phong làm gương mẫu và Bác là tấm gương đạo đức sáng ngời luôn nêu cao
danh hiệu đảng viên, sống, chiến đấu, lao động, học tập phấn đấu cho công cuộc giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng con người.
- Với lòng yêu nước, thương dân vô hạn mà ngay khi ở tuổi đôi mươi Bác đã bất chấp mọi hiểm
nguy, gian nan, khổ cực quyết chí ra nước ngoài tìm con đường cứu nước, cứu dân. Yêu nước, thương
dân, thương nhân loại bị áp bức, bóc lột nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây dựng, rèn luyện đạo
đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tiêu chí “trung với nước, hiếu với dân”. Người coi đó
là nội dung cơ bản nhất của đạo đức cách mạng, yêu cầu cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nhà
nước từ Chủ tịch nước đến người phục vụ đều là công bộc của dân, phải tận tụy phục vụ nhân dân.

- Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, thấy rõ đạo đức là gốc của người cách mạng cho nên
tâm huyết của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chăm lo xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng
22
viên. Theo Người, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên là suốt đời phấn đấu, hy sinh vì Đảng, vì lợi
ích của nhân dân. Người cán bộ, đảng viên tốt muốn trở thành người cách mạng chân chính, chỉ biết vì
Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào mình thì sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường
chân thành khuyên bảo cán bộ, đảng viên trau dồi đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
Trước hết, cán bộ, đảng viên không được nói trái, làm trái nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Người cho rằng, đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên là bất kỳ khó khăn đến mức
nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, làm gương cho quần chúng. Mọi cán
bộ, đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng.
- Hồ Chí Minh coi việc rèn luyện đạo đức của người cách mạng như “ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong”, vì đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống mà do đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ hàng ngày mà có. Việc bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức phải gắn liền chống chủ nghĩa cá nhân
vì chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội và đạo đức cách mạng. Nhưng đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân không phải là giày xéo lên lợi ích cá nhân mà phải chăm lo đến quyền lợi chính đáng, hợp
pháp của mỗi cán bộ, đảng viên. Người cũng đưa ra các nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng là tu
dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời, nói và làm đi đôi, nêu gương đạo đức cách mạng, xây dựng đạo đức
mới đi liền với chống đạo đức thủ cựu, lạc hậu, chăm lo lợi ích chính đáng của cán bộ, đảng viên và gia
đình họ. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta là đạo đức, là văn minh, muốn Đảng trong sạch, vững
mạnh thì mỗi đảng viên, cán bộ của Đảng phải là tấm gương về đạo đức cách mạng.
- Trong công cuộc đổi mới, Trung ương Đảng ta đã xác định nhiệm vụ then chốt là xây dựng
Đảng và phát động Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đó là các bước
phát triển trong nhận thức và chỉ đạo của Đảng ta trong việc thấm nhuần và thực hiện tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong thời kỳ đổi mới.
- Thực hiện Nghị quyết hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, một yêu cầu lớn mà
Trung ương Đảng đề ra là gắn liền xây dựng chỉnh đốn Đảng với học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh. Theo đó, các cấp ủy, tổ chức đảng cần thực hiện nghiêm túc chỉ thị và kế hoạch của Bộ
Chính trị về tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng trên

cơ sở giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa Mác - Lênin, về lý tưởng cách mạng
và đạo đức tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngăn chặn suy thoái về tư tưởng chính trị và chống suy
thoái đạo đức. Năm 2012 và các năm tiếp theo, thực hiện nghị quyết hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) về
xây dựng Đảng gắn với làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có nội dung quan trọng là tự phê bình
và phê bình để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, người cán bộ, đảng viên kiểm điểm về tư cách
đảng viên và việc thực hiện các nhiệm vụ được giao. Theo đó, các cấp ủy đảng cần có các biện pháp đưa
đảng viên tham gia các hoạt động cụ thể để phát huy tính tiên phong, gương mẫu; nói đi đôi với làm; tăng
cường sự đối thoại, tiếp xúc giữa cán bộ lãnh đạo ở các cấp với nhân dân để khắc phục tệ quan liêu, tăng
thêm chức năng giám sát cho ngành kiểm tra và vai trò của nhân dân trong việc giám sát hoạt động của
cán bộ, đảng viên, nhất là ngăn ngừa, chống tham nhũng, lãng phí. Từ những đảng viên giữ chức vụ cao
nhất trong Đảng đến từng chi ủy viên, từng đảng viên phải là tấm gương cho quần chúng thì mới củng cố
được niềm tin trong nhân dân. Đảng viên giữ cương vị càng cao càng phải là những tấm gương tiêu biểu
nhất của Đảng về đạo đức, lối sống, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất của Đảng, thật sự cần kiệm liêm
chính chí công vô tư theo lời dạy của Bác Hồ.
3. Phần kết luận:
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh giành thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại và
tính thời đại sâu sắc, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân dân Việt Nam
trong mọi thời đại.

×