Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

QUÁ TRÌNH SƯU TẦM VÀ NHẬN THỨC LÝ LUẬN ĐỐI VỚI SỬ THI Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.66 KB, 9 trang )

QUÁ TRÌNH SƯU TẦM VÀ NHẬN THỨC LÝ LUẬN ĐỐI VỚI SỬ THI Ở VIỆT NAM GS.
TS. Nguyễn Xuân Kính
Viện Nghiên cứu văn hoá

Sưu tầm và nhận thức lý luận là hai cơng việc có tác động lẫn nhau. Cơng tác sưu tầm sẽ đạt được kết quả tốt nếu có sự soi
đường của nhận thức lý luận, sự hiểu biết về lý luận. Ngược lại, tài liệu sưu tầm sẽ là cơ sở để người làm lý luận bổ sung, điều
chỉnh, thậm chí có trường hợp thay đổi cả nhận thức lý luận vốn có.

Sử thi là một thể loại văn học tự sự dân gian. "Các áng sử thi của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam qua sự khúc xạ của tư duy huyền thoại, của óc tưởng tượng chất phác nhưng đầy tính chất lãng mạn đã
phản ánh lịch sử và không hiếm khi dựng lên được những bức tranh xã hội hoành tráng.
Nhưng giá trị của các áng sử thi ấy không phải chỉ là ở chỗ đó. Giá trị lớn nhất ở các áng sử thi ấy là ở
chỗ qua sự nghiệp của các vị thần và các vị anh hùng thể hiện được phẩm chất của nhân dân lao động với tính
cách hồn nhiên chất phác, với đầu óc năng động thơng minh, với niềm gắn bó cùng nhau trong cộng đồng, với
niềm tin tưởng ở khả năng vô cùng to lớn của cộng đồng v.v...".
(1)

Dưới thời quân chủ, ở nước ta chưa ra đời khoa nghiên cứu văn học dân gian. Nhưng sự quan tâm của
các nhà nho (đồng thời là những quan chức) đối với văn hoá, văn học dân gian đã thể hiện khá sớm với sách
Việt điện u linh do Lý Tế Xuyên biên soạn (lời tựa viết năm 1329); với sách Lĩnh Nam chích quái do Vũ Quỳnh
và Kiều Phú biên soạn thế kỷ XV. Lĩnh Nam chích quái là một sưu tập truyện cổ dân gian. Theo lời các soạn
giả, sách này vốn được các bậc tài cao, học rộng thời Lý - Trần làm ra. Trong tập sách này, có "Truyện Dạ
Thoa vương". Truyện này chính là sự tóm tắt sơ lược bản sử thi ấn Độ Ramayana (vốn dài 10.500 khổ thơ viết
trên lá cọ, in thành sách dày 6.000 trang). Theo sự phân tích của GS. Phan Đăng Nhật, "Truyện Dạ Thoa
vương" tuy chỉ có 140 tiếng (bản dịch tiếng Việt) nhưng đã ghi đúng nhân vật chính và các sự kiện chính của
sử thi Ramayana.
(2)

Sự việc trên là rất đáng chú ý; nhưng chưa thể nói "Truyện Dạ Thoa vương" là một tác phẩm sử thi.
Việc công bố và nghiên cứu sử thi Việt Nam bắt đầu từ năm 1927. Quá trình sưu tầm và nhận thức lý
luận đối với sử thi nước ta có thể chia thành bốn giai đoạn.


I. Giai đoạn từ năm 1927 đến năm 1955
Những người đầu tiên sưu tầm, biên dịch và công bố sử thi Việt Nam chính là người Pháp.
Năm 1927, sử thi Đăm Xăn được Lêơpơn Xabachiê (Léopold Sabatier) sưu tập, chú thích, dịch từ tiếng
Ê Đê ra tiếng Pháp, do Toàn quyền P. Patxkiê (P. Pasquier) và nhà văn Rôlăng Đoocgiơlét (Roland Dorgelès)
viết lời tựa, xuất bản tại Pari. Sách được in trang trọng với nhiều tranh vẽ khá đặc sắc. Trong lời tựa, nhà văn
Rôlăng Đoocgiơlét cho rằng đây là tác phẩm văn học cuối cùng của người Ê Đê: "Nhưng cay đắng thay, bằng
chứng đầu tiên về văn chương của người Mọi cũng là cái cuối cùng" . Bên cạnh nhận định khơng chính xác đó,
những người viết lời tựa đã đánh giá cao Đăm Xăn. Đặc biệt đã hơn một lần họ dùng từ sử thi (épopée) khi nói
về tác phẩm này. Đúng như GS. Phan Đăng Nhật nhận xét, "trong ý thức, họ đã xếp Đăm Xăn cùng loại hình
với các tác phẩm anh hùng ca quen biết đương thời của châu Âu như Iliát (Iliade) Ôđixê (Odyssée) của người
Hy Lạp và Bài ca chàng Rôlăng (Chanson de Roland) của người Pháp".
Năm 1933, L. Xabachiê công bố lần thứ hai tác phẩm Đăm Xăn, in ở tạp chí của Viện Viễn đông bác cổ.
Trong lần công bố này, "có in tiếng Ê Đê, dịch từng từ, dịch tồn bộ chú thích và giới thiệu. Đây là một cơng
trình nghiên cứu công phu" mà theo GS. Phan Đăng Nhật, các sử thi khác ở Việt Nam ít có trường hợp được
công bố với sự làm việc kỹ lưỡng như vậy.
(3)

(4)

(5)

Năm 1955, trên tạp chí của Viện Viễn đơng bác cổ, sử thi Đăm Di do Đôminich Ăngtômacki (Dominique
Antomarchi) sưu tầm, Giócgiơ Cơngđơminát (Georges Condominas) cơng bố và viết giới thiệu. G.
Côngđôminát cũng đánh giá cao sử thi Đăm Xăn. Đặc biệt ông dùng từ anh hùng ca - sử thi (chant épique) để
định danh thể loại cho Đăm Xăn và Đăm Di. Như vậy, với những việc sưu tầm và công bố sử thi của người
Pháp, người ta biết được rằng nhiều dân tộc Tây Nguyên có sử thi.
(6)

Hiện nay trong giới nghiên cứu văn học Việt Nam, các từ sử thi, anh hùng ca là những thuật ngữ tương
đương.

Thuật ngữ anh hùng ca ít được sử dụng hơn, nhưng lại xuất hiện sớm hơn.


Năm 1943, trên tạp chí Tri tân, nhà nghiên cứu Hồng Thiếu Sơn có những ý kiến rất đáng chú ý về anh
hùng ca, một loại văn học "mà người Pháp gọi là épopée".
(7)

Tiếp thu tư tưởng của N. Boalô (N. Boileau) (1636 - 1711), của các nhà phê bình văn học Pháp đầu thế
kỷ XX, GS. Hoàng Thiếu Sơn đã xác định các đặc điểm của loại hình anh hùng ca như sau:
1. Anh hùng ca là "loại thơ xuất hiện đầu tiên trong lịch sử văn học".

(8)

2. "Một thiên anh hùng ca không phải là sản phẩm riêng biệt của một thi nhân, do trí tưởng tượng của
thi nhân ấy sáng tạo nên, nó phải có một cái tích, tích ấy phần nhiều là những việc quan trọng đã xảy ra trong
lịch sử: một cuộc ngoại xâm, một trận chiến thắng, một cái chết bi thảm của một vị anh hùng, cuộc phiêu lưu
mạo hiểm của một đấng vua chúa..." . Chung quanh sự tích ấy, đầu tiên tác giả dân gian sẽ sáng tác những
bài hát truyền khẩu, vô danh. Về sau, "một bậc thiên tài, một Hơme (Homère) xuất hiện và bị cảm xúc vì những
lời thơ truyền khẩu kia, nhà thơ sẽ thâu nhập tất cả những câu hát ngây thơ, góp chúng nó lại, cho chúng nó
một linh hồn bi tráng, tơ điểm rất nhiều nghệ thuật để lưu lại cho hậu thế một thiên anh hùng ca bất hủ".
(9)

(10)

Theo Hồng Thiếu Sơn, khơng phải dân tộc nào cũng có anh hùng ca. Dân tộc Việt Nam khơng có anh
hùng ca, bởi vì dân tộc ta "là một dân tộc đứng đắn, không ưa những lối nói ra ngồi sự thật, khơng muốn
thêm hoa hoè vào những sự thật hiển nhiên"; là vì "đời sống của người Đông á vẫn là đời sống bên trong,
thâm trầm khơng bộc lộ". Theo Hồng Thiếu Sơn, Đại Nam quốc sử diễn ca không phải là anh hùng ca bởi nó
"thiếu vẻ hùng tráng vì thiếu hẳn lịng tin. Thi nhân không tin ở những sự hoang đường, ở những thần tích dầu
những thần tích ấy có ni sống tinh thần quốc gia".

(11)

Nếu hiểu dân tộc Việt Nam là người Việt (Kinh) thì ý kiến cho rằng ở người Việt khơng có anh hùng ca
do Hồng Thiếu Sơn nhận định cách đây 62 năm là ý kiến đáng chú ý . Đáng tiếc, lúc đó ơng khơng bàn đến
Đăm Xăn, thiên anh hùng ca đã được Xabachiê công bố.
(12)

Như vậy, trong giai đoạn từ năm 1927 đến năm 1955, hai tác phẩm sử thi Tây Nguyên đã được người
Pháp sưu tầm và công bố bằng tiếng Pháp và tiếng dân tộc. Các tác giả người Pháp chưa quan tâm nhiều đối
với việc xác định thể loại. Sử thi chưa được dịch ra tiếng Việt. Có một tác giả Việt Nam đã có những ý kiến khá
chính xác về thể loại sử thi (mà ông gọi là anh hùng ca) nhưng lại khơng phân tích sử thi Tây Ngun.
II. Giai đoạn từ năm 1957 đến năm 1976
Năm 1957, tại Hà Nội, tác phẩm Đăm Xăn được Đào Tử Chí dịch từ tiếng Pháp ra tiếng Việt, công bố
trên tạp chí Văn nghệ với tên gọi Bài ca chàng Đam San. Sau đó năm 1959, tác phẩm này được Nhà xuất bản
Văn hoá in thành sách.
Năm 1960, trên tập san Nghiên cứu văn học, PGS. Chu Xuân Diên viết một bài nghiên cứu công phu về
tác phẩm này. Chu Xuân Diên là người định danh bằng tiếng Việt sớm nhất về tên gọi thể loại cho Đăm Xăn,
khi ông viết: "Đam San là một nhân vật anh hùng, và Bài ca chàng Đam San là một bản anh hùng ca, một sử
thi của dân tộc Ê Đê".
Năm 1963 tại Hà Nội, sách Trường ca Tây Nguyên được xuất bản, gồm 5 tác phẩm, chủ yếu của đồng
bào Ê Đê: "Xing Nhã", "Đăm Di", "Khinh Dú", "Đăm Đơroan", "Y Prao". Do đất nước cịn chia cắt, lại đang có
chiến tranh, bản chất thể loại của các tác phẩm chưa được nhận thức đầy đủ, việc sưu tầm chưa thật hoàn
chỉnh, khi cơng bố chưa có bản phiên âm tiếng dân tộc.
(13)

(14)

Năm 1964, tại Hà Nội, Nhà xuất bản Văn hoá - Nghệ thuật cơng bố cơng trình Nghệ thuật thơ ca của
Arixtốt, do Lê Đăng Bảng, Thành Thế Thái Bình, Đỗ Xuân Hà và Thành Thế Yên Bái dịch. Trong bản dịch này,
danh từ sử thi được dùng để chỉ Iliát và Ôđixê, được dùng để chỉ một thể loại văn học.

(15)

Năm 1969, sách Thuật ngữ văn học - mỹ học Nga Pháp Việt (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội) chỉ ghi: "?
noc, épopée, sử thi".
Năm 1969, trong sách Người anh hùng làng Dóng, Cao Huy Đỉnh cho rằng anh hùng ca và sử thi dân
gian là những từ có ý nghĩa tương đương. Ơng có nhiều nhận xét tuy có phần tản mạn nhưng khá chính xác
về thể loại sử thi.
(16)

Năm 1972, sử thi ẳm ệt luông của người Thái do Khà Văn Tiến dịch ra tiếng Việt và được xuất bản tại
Hồ Bình.
Năm 1973, trong sách Văn học dân gian (tập II, cùng viết với Chu Xuân Diên), GS. Đinh Gia Khánh
nhận xét: "Sử thi không phải là thơ chép sử. Sử thi là một thuật ngữ văn học, đặc biệt là văn học dân gian, (...).
Sử thi cũng như anh hùng ca, tráng sĩ ca, trường ca, thường được dùng để gọi những thể loại tự sự dân gian
của thời kỳ lịch sử khi loài người bắt đầu bước vào xã hội văn minh. Bốn danh từ ấy được dùng với cùng một ý
nghĩa. Thiết tưởng cũng cần chú ý phân biệt chúng với nhau. Danh từ trường ca với ý nghĩa là bài ca không
phản ánh một đặc điểm gì của thể loại văn học cả, vì dài hay ngắn khơng nên coi là tiêu chuẩn xác định thể
loại. Trường ca là một danh từ chung để gọi bất cứ tác phẩm thơ ca nào mang ý nghĩa ca ngợi và có độ dài nào
đó, chứ không phải là một thuật ngữ trỏ một thể loại riêng biệt trong văn học dân gian. Các danh từ sử thi, anh
hùng ca, tráng sĩ ca có màu sắc rõ rệt hơn. Sử thi là những áng thơ ca thuật lại lịch sử kỳ vĩ của sự hình thành
đất nước, dân tộc. Đó là những áng thơ ca đúc kết những điều truyền thuyết và những mẩu thần thoại ở nhiều
địa phương, của nhiều thị tộc, nhiều bộ lạc thành hệ thống rộng lớn để miêu tả nguồn gốc dân tộc và sự nghiệp


xây dựng, bảo vệ quốc gia trong buổi bình minh của lịch sử. Anh hùng ca trùng hợp với sử thi ở chỗ cũng thuật
lại những kỳ cơng vĩ tích, những sự nghiệp anh hùng. Nhưng có lẽ nên dùng thuật ngữ này để gọi những áng
thơ ca liên quan đến từng vị anh hùng nhất định".
(17)

Năm 1975, sử thi Đẻ đất đẻ nước do Vương Anh, Hoàng Anh Nhân sưu tầm ở Thanh Hoá được xuất

bản. Năm 1976 Đẻ đất đẻ nước do Bùi Thiện, Thương Diễm, Quách Dao sưu tầm ở Hồ Bình được cơng bố.
Như vậy, trong giai đoạn từ năm 1957 đến năm 1976, sử thi các dân tộc Tây Nguyên tiếp tục được công
bố. Lần đầu tiên, các tác phẩm đó được xuất bản bằng tiếng Việt. Sử thi của các dân tộc ít người ở miền Bắc
(Mường, Thái) cũng được công bố. Mới chỉ có một dị bản Đẻ đất đẻ nước xuất bản ở Thanh Hoá in cả phần
tiếng dân tộc. Để chỉ thể loại văn học này, có ba từ trường ca, bài ca và sử thi. Trong giáo trình của Trường Đại
học tổng hợp Hà Nội, đã có sự phân biệt xác đáng giữa các từ trường ca, anh hùng ca và sử thi.
III. Giai đoạn từ năm 1977 đến năm 2000
Sau khi đất nước thống nhất (30 tháng 4 năm 1975), công việc sưu tầm, biên dịch và xuất bản sử thi
được tiến hành khoa học hơn, thuận lợi hơn và thu được nhiều kết quả hơn trước.
Trong khoảng thời gian từ 1977 đến trước tháng 12 năm 1979, theo trí nhớ của chúng tơi, GS. Phan
Đăng Nhật (lúc đó với cương vị là Phó Trưởng ban Ban Văn học dân gian của Viện Văn học) đã cùng Nông
Quốc Thắng đi nghiên cứu một đợt tại Tây Nguyên trong hoàn cảnh đầy khó khăn, chưa ổn định tại vùng đất
mới giải phóng lúc bấy giờ.
Năm 1980, Nhà xuất bản Khoa học xã hội công bố Lịch sử văn học Việt Nam, tập I. Đây là tập sách
được viết dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam. Phần văn học các dân tộc ít người
do nhà thơ Nông Quốc Chấn và GS. Phan Đăng Nhật viết. Để chỉ Đăm Xăn và các áng sử thi
khác, các ơng dùng từ trường ca. (Lúc đó, vẫn ngự trị một định kiến: ở Việt Nam không thể có Iliát, Ơđixê).
Trong các năm 1980 - 1981, đồn cán bộ của Viện Nghiên cứu nghệ thuật (thuộc Bộ Văn hố) do GS.
Tơ Ngọc Thanh phụ trách đã sưu tầm được nhiều sử thi (hơmon) của đồng bào Ba Na ở huyện An Khê, tỉnh
Gia Lai. Một năm sau, một trong các áng sử thi này là Đăm Noi được dịch ra tiếng Việt có kèm bản tiếng dân
tộc được công bố tại Hà Nội.
Năm 1981, trong cuốn sách Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945,
GS. Phan Đăng Nhật sử dụng các thuật ngữ "sử thi", "sử thi anh hùng", "sử thi - mo".
(18)

Năm 1981, PGS. Võ Quang Nhơn bảo vệ luận án tiến sĩ ngữ văn với đề tài Về thể loại sử thi anh hùng
của các dân tộc Tây Nguyên. Nội dung của luận án và việc sử dụng có ý thức thuật ngữ sử thi anh hùng với tư
cách là một thể loại văn học dân gian tiếp tục được thể hiện trong giáo trình đại học của tác giả: Văn học dân
gian các dân tộc ít người ở Việt Nam (xuất bản năm 1983).
(19)


Năm 1982, trên tạp chí Văn học số 6, GS. Mã Giang Lân đề nghị gọi Đăm Xăn là sử thi anh hùng.
Năm 1984, trên tạp chí Văn hố dân gian số 2, GS. Phan Đăng Nhật công bố hai bài. Một bài là "Sử thi
Tây Nguyên với hiện thực lịch sử Tây Nguyên" (với tên thật); một bài là "Sử thi - mo" (với bút danh Trịnh Ngọc
Loan).
Năm 1986, PGS. Phan Ngọc công bố bài "Đẻ đất đẻ nước, bản sử thi đầu tiên của nền văn học Việt Mường". Ông khẳng định: "Thể loại sử thi đã tồn tại trong văn học Việt Nam, cũng như trong văn học Thái, văn
học Ê Đê và các nền văn học khác ở vùng này. Đẻ đất đẻ nước có đủ bốn yếu tố mà người ta yêu cầu ở một
sử thi".
(20)

Trong các năm 1984 - 1987, Viện Văn hoá dân gian và Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Đắc Lắc phối hợp tổ
chức các đợt sưu tầm sử thi. Với cương vị Phó Viện trưởng, GS. Phan Đăng Nhật đã phối hợp chỉ đạo công
tác sưu tầm với sự giúp sức của nhiều cộng sự như TS. Đỗ Hồng Kỳ, ThS. Tô Đông Hải, ông Bùi Khắc
Trường, ơng Nguyễn Đại Lượng,... ơng đã có trong tay nhiều dị bản của tác phẩm Đăm Xăn. Đây chính là
những tư liệu rất quan trọng giúp cho ơng viết và bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khoa học vào năm 1988 tại
Bungari.
Năm 1988, Nguyễn Văn Hoàn chứng minh một cách kỹ lưỡng: Đăm Xăn là sử thi ; và Đặng Văn Lung
cũng tiến hành công việc tương tự đối với Đẻ đất đẻ nước .
(21)

(22)

Cuối năm 1988 - đầu năm 1989, một đoàn sưu tầm, nghiên cứu do Viện Nghiên cứu văn hoá dân gian
phối hợp với Sở Văn hố thơng tin tỉnh Đắc Lắc bao gồm GS. Ngô Đức Thịnh, TS. Đỗ Hồng Kỳ, ThS. Tô Đông
Hải, GS. Nguyễn Tấn Đắc, các ThS. Khương Học Hải, Trần Tấn Vịnh, các cử nhân Y Dung, Nguyễn Khắc Ngữ
khi tiến hành khảo sát ở bon Bu Dốp, xã Dak Môn, huyện Dak Min, tỉnh Đắc Lắc, đã phát hiện được sử thi (ot
ndrong) của người Mơ Nông .
(23)

Trên tạp chí Văn hố dân gian, số 4 năm 1989 và số 1 năm 1990, Phan Đăng Nhật công bố bài Những

đặc điểm cơ bản của sử thi - khan ở Việt Nam. Đến đây, chúng ta thấy từ năm 1981 đến năm 1990, GS. Phan
Đăng Nhật có cách cấu tạo thuật ngữ đáng chú ý: sử thi - mo, sử thi - khan. Theo ông, cách tạo thuật ngữ này
do ơng học từ nước ngồi: một thuật ngữ có hai bộ phận, một chỉ tính chất chung (sử thi), một là định ngữ của
bộ phận chỉ tính chất chung ("mo" hoặc "khan").


Năm 1990, trên tạp chí Văn hố dân gian số 3, TS. Đỗ Hồng Kỳ công bố bài "Ot nrông - sử thi cổ sơ Mơ
Nông".
Năm 1991, cuốn sách Sử thi Ê Đê của Phan Đăng Nhật được xuất bản. Về cơ bản, nội dung cuốn sách
là nội dung của bài viết được in trên Tạp chí Văn hố dân gian cuối năm 1989, đầu năm 1990. Cái mới của
sách này là ở chỗ, tiếp thu Mêlêtinxki, tác giả đã phân biệt sử thi cổ sơ và sử thi cổ đại: "Sự hình thành nhà
nước là một mốc lịch sử tạo nên những đặc điểm cơ bản của sử thi. Do đó, người ta phân loại hai loại sử thi:
sử thi cổ sơ (épopée archaùque) là sử thi ra đời trước khi hình thành nhà nước mà như (...) Prốp đã chỉ ra sự
phong phú của nó; và sử thi cổ đại (épopée antique) hoặc là sử thi cổ điển (épopée classique) ra đời sau khi
hình thành nhà nước" . Theo Phan Đăng Nhật, Đăm Xăn là sử thi cổ sơ, cịn Iliát, Ơđixê, Ramayana,
Mahabharata là những sử thi cổ đại (còn gọi là sử thi cổ điển). Như vậy, giữa
Nguyễn Văn Hoàn (1988) và Phan Đăng Nhật (1988 - 1991) có sự khác nhau cơ bản khi Nguyễn Văn Hồn
xếp Iliát và Ơđixê vào loại sử thi cổ sơ, khi Nguyễn Văn Hồn có xu hướng đồng nhất sử thi Iliát, Ôđixê với sử
thi Đăm Xăn trong "một đơn vị loại hình học".
(24)

Năm 1991, trong sách Văn học dân gian Việt Nam, tập I, trong khi phân loại văn học dân gian, PGS. Đỗ
Bình Trị đã xếp sử thi vào khung hệ thống các thể loại văn học dân gian. Trong khi khảo sát tiến trình lịch sử
của văn học dân gian Việt Nam, Đỗ Bình Trị nghiêng về câu trả lời khẳng định là người Việt cổ có "một hình
thức nào đó của sử thi anh hùng" . Theo ơng sở dĩ cha ơng ta khơng có Iliát vì thiếu Hơme . (Cách giải thích
này có phần gặp gỡ ý kiến của Hồng Thiếu Sơn, ý kiến cơng bố vào năm 1943).
(25)

(26)


(27)

Khi phân tích tác phẩm Đam Xăn, Đỗ Bình Trị đã làm rõ đặc trưng của thể loại sử thi.

(28)

Như vậy, đến năm 1991, khoa Ngữ văn các trường đại học sư phạm ở nước ta đã chính thức sử dụng
thuật ngữ sử thi. Đây là cái mốc quan trọng, bởi vì từ năm 1961 đến năm 1978, trong năm lần xuất bản, trong
sách Lịch sử văn học Việt Nam, Tập I. Văn học dân gian của các tác giả các trường đại học sư phạm (Bùi Văn
Nguyên, Đỗ Bình Trị,...) trong đại đa số các trường hợp người viết đều dùng từ trường ca khi phân tích Đam
Xăn . Cũng từ sau cái mốc này trở đi, trong sách giáo khoa về văn học ở bậc học phổ thơng, PGS. Đỗ Bình Trị
đã có thể xếp sử thi vào một trong số hơn mười thể loại chính của văn học dân gian. Ơng định nghĩa: "Sử thi là
những truyện kể bao quát một phạm vi rộng lớn đời sống toàn dân, mà trung tâm là những sự kiện có ý nghĩa
trọng đại đối với tồn cộng đồng, thời cộng đồng tộc người mới hình thành.
(29)

(30)

Năm 1992, thuật ngữ sử thi có mặt và được giải thích khá cặn kẽ trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học
của nhiều tác giả, do Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử đồng chủ biên.
(31)

Năm 1992, tại Hà Nội, Nhà xuất bản Văn hố dân tộc cơng bố cuốn sách Sử thi thần thoại Mường của
TS. Trương Sĩ Hùng.
Năm 1994, tác giả Đỗ Hồng Kỳ bảo vệ luận án tiến sĩ với đề tài "Sử thi thần thoại Mơ Nơng". Năm 1996,
cơng trình này được xuất bản. Tác giả viết rằng, năm 1990, trong bài "Ot nrông - sử thi cổ sơ Mơ Nơng", "lúc
đó vì tư liệu cịn ít" nên tác giả "chưa dám khẳng định dứt khốt ot nrơng là sử thi thần thoại" . Đến đây, tác giả
chứng minh ot nrông là sử thi thần thoại. Trong đoạn văn sau đây của Đồ Hồng Kỳ, có thể thấy quan niệm của
tác giả về cách phân loại sử thi: "Về phương diện thể loại cần chỉ ra được bước chuyển biến từ sử thi thần
thoại đến sử thi anh hùng. Thực hiện được nhiệm vụ này, không những giải quyết được vấn đề lịch sử thể loại

- một vấn đề được coi là một trong những vấn đề khó khăn nhất trong ngành phơnclo học, mà còn làm tăng
thêm sức thuyết phục về nội hàm sử thi ở Tây Nguyên, tránh được cách hiểu phiến diện gò ép" .
(32)

(33)

Từ năm 1993 đến năm 1997, nhiều tác phẩm sử thi khác được công bố: Chilơkok (dân tộc Ê Đê), Nxb
Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1993; Deva Mưno (dân tộc Chăm), (bản tiếng Pháp công bố tại Malayxia, 1989, bản
tiếng Việt công bố tại Hà Nội, 1994, trong sách Văn học Chăm khái luận - văn tuyển, tập I, của Inrasara); Mùa
rẫy bon Tiăng (dân tộc Mơ Nông), do Điểu Kâu, Tấn Vịnh sưu tầm và biên soạn, Sở Văn hố - Thơng tin Đắc
Lắc xb, 1996; Giông nghèo tám vợ; Tre Vắt ghen ghét Giông (dân tộc Ba Na), do Phan Thị Hồng sưu tầm, biên
soạn, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1996; Sử thi thần thoại Mơ Nông do Đỗ Hồng Kỳ, Điểu Kâu, Nơ Yu, Đăm
Pơ Tiêu sưu tầm, biên dịch, kèm theo bản phiên âm tiếng Mơ Nông được công bố tại Hà Nội. Trong những
sách này, điều cần nói là những soạn giả là nhà nghiên cứu của Viện Văn hoá dân gian dùng thuật ngữ sử thi
để định danh tác phẩm, cịn các tác giả khơng phải là những nhà nghiên cứu thuộc chuyên ngành văn học dân
gian như Ka Sô Liễng, Phan Thị Hồng lại dùng từ trường ca để định danh tác phẩm; như nhà thơ Chăm
Inrasara thì lại dùng các từ truyện thơ, tráng ca.
Ngày 20 tháng 5 năm 1997, tại Đắc Lắc, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (nay là Viện
Khoa học xã hội Việt Nam) phối hợp với Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắc Lắc tổ chức hội thảo Sử thi Tây Nguyên Việt Nam. Tham gia hội thảo này, có các bản báo cáo: "Sử thi ở Việt Nam" của GS. Đinh Gia Khánh ; "Nhìn lại
quá trình sưu tầm, nghiên cứu sử thi Tây Nguyên trong bối cảnh sử thi Việt Nam" của GS. TSKH. Phan Đăng
Nhật ; "Vùng sử thi Tây Nguyên (một số quan điểm cơ bản)" của GS. TS. Ngô Đức Thịnh ; "Sử thi thần thoại
của người Mơ Nông" của TS. Đỗ Hồng Kỳ ; "Hơmon, một thể loại diễn xướng dân gian của người Ba Na ở An
Khê, Gia Lai" của GS. TSKH. Tơ Ngọc Thanh ; "Q trình sử
dụng thuật ngữ sử thi ở Việt Nam" của GS. TS. Nguyễn Xuân Kính ; "Cuộc cầu hôn anh hùng trong sử thi Ê Đê
và Mã Lai" của GS. TSKH. Niculin ; ... Năm 1998, kỷ yếu hội thảo này được Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà
Nội công bố với tên sách Sử thi Tây Nguyên.


Trong nhiều phát hiện được trình bày tại hội thảo, chúng tôi chú ý đến việc phân loại sử thi ở Việt Nam.
Theo PGS. Võ Quang Nhơn cùng với một số nhà khoa học khác thì ở nước ta có hai loại sử thi là sử thi anh

hùng và sử thi thần thoại. Theo GS. Phan Đăng Nhật, nếu lấy tiêu chí đặc điểm lịch sử - xã hội để phân loại thì
trên thế giới có hai loại sử thi là sử thi cổ sơ và sử thi cổ đại. Tất cả sử thi nước ta đều thuộc phạm trù sử thi cổ
sơ. Trong sách Văn hoá dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hố Đơng Nam á, (Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1993, tr. 250), GS. Đinh Gia Khánh cũng phân biệt sử thi cổ sơ và sử thi cổ đại. Cũng theo ông Phan Đăng
Nhật, nếu lấy tiêu chí chức năng, nhiệm vụ của nhân vật trung tâm của tác phẩm để phân loại thì có hai loại: sử
thi sáng tạo thế giới (gọi tắt là sử thi sáng thế) và sử thi thiết chế xã hội (gọi tắt là sử thi thiết chế). Thuật ngữ
sử thi sáng thế được tiếp thu từ các tác giả Trung Quốc, cụ thể là từ Nông Quán Phẩm, tác giả sách Luận tập
văn hoá dân tộc, Nxb Giáo dục, Quảng Tây, 1993 . Sử thi sáng thế được quan niệm như sau: Sử thi sáng thế
ghi lại quan điểm cơ bản của mỗi dân tộc đối với sự hình thành của trời đất và sự sinh sôi nảy nở của muôn
vật. ở Trung Quốc, các nhà khoa học xếp các sử thi sau đây vào loại sử thi sáng thế: Lang Chính bắn mặt trời,
Đặc Lộc bắn mặt trời, Đính Lạc, Mật Lạc đà, Bố Bá, Bàn Cổ ca, Khai thiên lập địa ca. Sau khi thỉnh giáo và tiếp
thu gợi ý của GS. Đinh Gia Khánh, GS. Phan Đăng Nhật viết rằng: Sử thi thiết chế xã hội khu biệt với sử thi
sáng thế ở nhiệm vụ đấu tranh và chiến đấu để ổn định cộng đồng người, chủ yếu là chiến đấu để thốt khỏi
tình trạng chiến tranh liên miên (nguy cơ gây sự suy thoái của toàn thể cộng đồng), thống nhất lực lượng, hợp
nhất lãnh thổ đưa xã hội từ bộ lạc thị tộc đến liên minh bộ lạc để sau đó tiến tới dân tộc.
(34)

(35)

Theo GS. Phan Đăng Nhật, ở Việt Nam ẳm ệt luông (Thái), Đẻ đất đẻ nước (Mường - Việt) thuộc loại sử
thi sáng thế; Chương Han (Thái), Đam Xăn, Đăm Di, Chilơkok, Khinh Dú, Đăm Đơroăn, Y Prao, Mhiêng (Ê Đê),
Hđiêu, Chin chiêng, Jông (Gia Rai), Đăm Noi, Xing Chi Ôn, Diôông (Ba Na) là những áng sử thi thiết chế xã
hội. Đối với sử thi của dân tộc Mơ Nơng, vào thời điểm năm 1997, ơng cịn dè dặt chưa xếp loại. Tác giả dự
báo: "Rất có khả năng là trong các sử thi các dân tộc Việt Nam có loại sử thi cổ sơ đồng thời chứa đựng hai
nội dung: sáng tạo thế giới và thiết chế xã hội giống như Kalêvala".
(36)

Trong các năm 1996 - 1998, GS. TSKH. Phan Đăng Nhật thực hiện đề tài cấp bộ Vùng sử thi Tây
Nguyên. Đề tài được nghiệm thu, xếp loại xuất sắc và cuối năm 1998, cơng trình nhận được giải cao (nhì B)
của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. Năm 1999, cơng trình được Nhà xuất bản Khoa học xã hội công bố với

tên gọi Vùng sử thi Tây Nguyên.
Năm 1999, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, Hà Nội công bố Đăm Xăn thời thơ ấu, do Linh Nga Niê
Kdăm, Y Khem sưu tầm và dịch.
Năm 2000, Sở Văn hố - Thơng tin Gia Lai xuất bản cuốn sách Dyông Dư, hơmon Ba Na do Vũ Ngọc
Bình, Nguyễn Quang Tuệ, Văn Cơng Hùng, Trần Phong sưu tầm, biên dịch.
Năm 2000, GS. Đặng Nghiêm Vạn (một nhà dân tộc học) quan niệm sử thi là văn học viết (không phải
văn học dân gian) và đã đưa các áng sử thi Đẻ đất đẻ nước, Đăm Xăn, Xing Nhã vào Tổng tập văn học Việt
Nam. Đây là quan niệm chưa đúng. Trong giới nghiên cứu văn học dân gian, khơng có ai quan niệm như vậy.
(37)

Như vậy là, trong thời gian từ năm 1977 đến hết năm 2000, chúng ta đã làm được nhiều việc. Có thêm
sử thi của dân tộc Chăm được công bố. Khá nhiều sử thi bên cạnh bản tiếng Việt, có cả bản tiếng dân tộc.
Công tác nghiên cứu, lý luận được đẩy mạnh hơn trước. Nhiều người bảo vệ luận án tiến sĩ, tiến sĩ khoa học
với đề tài về sử thi nước nhà. Tuy về công tác sưu tầm, biên dịch, xuất bản cịn có những hạn chế, trong việc
nhận thức lý luận, phân loại định danh tác phẩm cịn có những vấn đề cần tiếp tục thảo luận, nhưng với tất cả
các nỗ lực của các cơ quan trung ương và địa phương, của các nhà nghiên cứu chuyên sâu và những đồng chí
làm cơng tác văn hố ở cơ sở, sự đóng góp lớn lao của các nghệ nhân người dân tộc thiểu số, giai đoạn này
đã tạo tiền đề vững chắc để mở ra một giai đoạn mới của quá trình sưu tầm, nghiên cứu sử thi ở nước ta.
IV. Giai đoạn từ năm 2001 đến nay
Tháng 3 năm 2001, Chính phủ thơng qua Dự án Điều tra sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho
tàng sử thi Tây Nguyên, giao cho Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (nay là Viện Khoa học xã
hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với các tỉnh Tây Nguyên và phụ cận cùng thực hiện. Đến tháng 11 cùng năm,
Dự án được cấp kinh phí để triển khai. Ngày 8 tháng 7 năm 2004, Dự án được phê duyệt với thời gian thực
hiện là từ năm 2001 đến năm 2007, kinh phí thực hiện là 17.325.000.000 đồng. GS. TS. Đỗ Hoài Nam, Chủ tịch
Viện Khoa học xã hội Việt Nam là Trưởng ban Ban Chỉ đạo Dự án. GS. TS. Ngô Đức Thịnh, Viện trưởng Viện
Nghiên cứu văn hoá là Giám đốc điều hành Dự án. Từ ngày 25 tháng 4 năm 2005, GS. TS. Nguyễn Xn Kính,
Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hố được cử giữ chức Giám đốc điều hành Dự án.
Mục tiêu, đối tượng điều tra, sưu tầm của Dự án là:
1. Tiến hành điều tra cơ bản vốn sử thi của 8 dân tộc: Ê Đê, Mơ Nông, Ra Glai, Ba Na, Xê Đăng, Xtiêng,
Gia Rai, Chăm Hroi, tại các tỉnh Đắc Lắc, Đắc Nơng, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng, Bình Phước, Phú Yên, Ninh

Thuận, Khánh Hoà; xác định danh mục tên các sử thi và danh sách các nghệ nhân tiêu biểu.
2. Sưu tầm về cơ bản các tác phẩm sử thi (cùng các dị bản), lập hồ sơ về nghệ nhân, xây dựng phim tư
liệu về những nghệ nhân tiêu biểu.
3. Lưu giữ sử thi trong băng ghi âm.
4. Tiến hành văn bản hoá (phiên âm tiếng dân tộc, dịch ra tiếng Việt), chú giải sử thi Tây Nguyên một


cách khoa học.
5. Biên tập văn học và xuất bản những tác phẩm tiêu biểu .
(38)

Sản phẩm của Dự án là:
1. Danh mục các tác phẩm sử thi của các dân tộc Tây Nguyên và phụ cận.
2. Danh sách các nghệ nhân còn khả năng diễn xướng sử thi.
3. Sưu tầm về cơ bản các tác phẩm sử thi truyền miệng của các dân tộc, ghi âm thành băng và đĩa CD ROM để lưu giữ lâu dài. Dự kiến khoảng 200 tác phẩm sử thi của 8 dân tộc được sưu tầm, trong đó có các dân
tộc Ê Đê, Mơ Nông, Ba Na, Gia Rai, Xê Đăng.
4. Phiên âm và biên dịch 100 tác phẩm sử thi.
5. Biên tập văn học 80 tác phẩm sử thi và xuất bản 75 tác phẩm sử thi, dưới dạng song ngữ tiếng dân
tộc và tiếng phổ thơng.
6. Hình thành kho tư liệu bảo quản kho tàng sử thi Tây Nguyên dưới dạng băng hình, băng tiếng, video,
CD - ROM .
(39)

Sau ba năm thực hiện, Dự án Điều tra sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây
Nguyên đã đạt được những kết quả dưới đây.
- Về công tác điều tra khảo sát, với lực lượng hàng trăm lượt cán bộ khoa học từ trung ương và cán bộ
văn hoá, nghệ nhân địa phương đã tiến hành tổng điều tra sử thi trên địa bàn 8 tỉnh Tây Nguyên và phụ cận:
Đắc Lắc, Lâm Đồng, Gia Lai, Kon Tum, Đắc Nơng, Bình Phước, Ninh Thuận, Phú n. Tổng cộng các đồn
cơng tác đã điều tra, khảo sát hàng ngàn buôn, bon, plây thuộc 530 xã, phường, thị trấn của 56 huyện, thành
phố. Đã lập danh sách hàng trăm tên tác phẩm sử thi, đã gặp gỡ, thống kê và lập hồ sơ về 363 nghệ nhân còn

nhớ, hát kể các tác phẩm sử thi ở những mức độ khác nhau thuộc các dân tộc Ê Đê, Gia Rai, Ba Na, Xê Đăng,
Mơ Nông, Xtiêng, Mạ, Ra Glai, Chăm Hơroi.
- Về kết quả sưu tầm, cho đến tháng 3 năm 2005, Văn phòng Dự án đã tiếp nhận 3.321 băng ghi âm
(độ dài 90 phút, tương đương với 4.981 giờ hát kể của nghệ nhân), thuộc 513 tác phẩm đăng ký.
- Về công tác phiên âm, biên dịch và xuất bản, tính đến tháng 3 năm 2005, đã có 59 tác phẩm được
phiên âm, trong đó 32 tác phẩm được biên dịch, 21 tác phẩm đã và đang được biên tập văn học. Đặc biệt là
cuối năm 2004, ba tác phẩm sử thi đầu tiên của bộ Kho tàng sử thi Tây Nguyên được xuất
bản với hình thức trang trọng (hai tác phẩm của người Mơ Nông, một tác phẩm của người Ra Glai). ở mỗi tác
phẩm đều có chân dung nghệ nhân, bài giới thiệu tác phẩm của người biên tập văn học, phần phiên âm tiếng
dân tộc, bản dịch tiếng Việt và phần chú thích. Theo kế hoạch, năm 2005 sẽ xuất bản 15 tác phẩm .
(40)

Cho đến nay, công tác điều tra, sưu tầm về cơ bản đã hồn thành. Khó khăn lớn nhất nằm ở khâu phiên
âm, phiên dịch và biên tập văn học. Chỉ xin nêu một vài thí dụ: Hiện nay đã sưu tầm được trên 100 tác phẩm
sử thi của người Mơ Nơng nhưng chỉ có một mình ơng Điểu Kâu (đã trên 70 tuổi) có thể phiên âm và phiên
dịch, đặc biệt đối với hơn 60 tác phẩm sử thi của người Gia Rai đã sưu tầm được, chưa có ai có thể đảm
nhiệm được việc phiên âm và phiên dịch.
- Về công tác bảo tồn, bảo quản, song song với công tác điều tra, sưu tầm, công tác bảo quản các tư
liệu hiện vật liên quan đến sử thi cũng đã và đang được tiến hành. Trước hết, hơn 3.000 băng ghi âm đang
được chuyển sang đĩa từ để bảo quản lâu dài. Để bảo đảm công tác điều tra, sưu tầm, phiên âm, biên dịch và
xuất bản có kết quả, Dự án đã triển khai công tác đào tạo cán bộ, đã tổ chức hai lớp về phương pháp điều tra,
sưu tầm tại Buôn Ma Thuột (Đắc Lắc) và Plây Ku (Gia Lai), với gần hai trăm người tham dự.
Bên cạnh Dự án sử thi Tây Nguyên do Chính phủ cấp kinh phí, Viện Nghiên cứu văn hố đã xin tài trợ
từ Quỹ Ford tiến hành ba công việc sau:
1. Tổ chức hai lớp đào tạo về phương pháp phiên âm và phiên dịch (năm 2002) với hơn 40 học viên,
chủ yếu là người dân tộc, có sự tham gia của hai chuyên gia nước ngoài (Mỹ và Hungary).
2. Đặc biệt là để chuẩn bị cán bộ trình độ cao và lâu dài, Viện Nghiên cứu văn hoá đã tổ chức lớp đào
tạo trình độ cao học cho 12 em là người dân tộc thiểu số bản địa Tây Nguyên khoá 2003 - 2005, với nguồn tài
trợ của nước ngoài. Các em vừa học vừa tham gia Dự án sử thi và sau này sẽ là người tiếp tục công tác bảo
tồn và phát huy di sản sử thi nói riêng và văn hố nói chung ở địa bàn các tỉnh Tây Nguyên.

3. Thử nghiệm mở các lớp truyền dạy sử thi, để các nghệ nhân cao tuổi truyền dạy cách hát kể sử thi
cho các thanh niên. Đã triển khai 5 lớp với tổng số học viên là 40 thanh niên nam nữ các dân tộc Ra Glai, Mơ
Nông, Ê Đê, Ba Na, Xê Đăng .
(41)

Năm 2003, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian cho ba nghệ
nhân Điểu Kâu, Điểu K'lứt, Điểu K'lung, những người có cơng lưu giữ, hát kể, truyền dạy sử thi.
Bên cạnh các hoạt động của Dự án sử thi Tây Ngun, cịn có những hoạt động khác đối với những sử
thi khác ở những địa bàn khác. Năm 2003, Nhà xuất bản Khoa học xã hội công bố Chương Han sử thi Thái, do


Phan Đăng Nhật, Nguyễn Ngọc Tuấn đồng chủ biên. Năm 2005, Nhà xuất bản Khoa học xã hội công bố Khủn
Chưởng anh hùng ca Thái. Đây là tác phẩm sử thi sưu tầm ở miền tây Nghệ An do GS. TSKH. Phan Đăng
Nhật làm chủ biên và ông Vi Văn Kỳ làm cố vấn.
Tuy giai đoạn từ năm 2001 đến nay chỉ mới được gần 5 năm nhưng số lượng sử thi sưu tầm, biên dịch, xuất
bản nhiều hơn các giai đoạn trước. Đặc biệt đối với kho tàng sử thi Tây Nguyên, chúng ta đã thực hiện một
cuộc điều tra, sưu tầm rộng khắp và khá cơ bản. Bên cạnh kinh phí của nhà nước, cơng cuộc sưu tầm, nghiên
cứu sử thi còn nhận được tài trợ của nước ngồi. Vai trị nghệ nhân được chú trọng hơn trước. Khơng chỉ sưu
tầm, xuất bản, chúng ta cịn tạo điều kiện để các nghệ nhân truyền dạy hát kể sử thi cho thế hệ trẻ. Khái niệm
sử thi càng ngày càng trở nên quen thuộc trong giới học thuật và trong đời sống văn hoá - xã hội.
V. Một số nhận xét
1. Cho đến nay, quá trình sưu tầm và nhận thức lý luận đối với sử thi ở Việt Nam đã diễn ra gần tám
thập kỷ. Công lao đầu tiên thuộc về những người Pháp. Họ đã làm cho giới khoa học Pháp và những người
muốn tìm hiểu văn hoá Việt Nam biết đến những áng sử thi Đăm Xăn và Đăm Di.
2. Nhà nước ta đã có những chính sách hết sức đúng đắn đối với tài sản văn hố, văn nghệ dân gian
các dân tộc ít người. Càng ngày, sự đầu tư cho công tác sưu tầm, xuất bản sử thi càng được chú ý hơn.
3. Trên cơ sở các tác phẩm đã được sưu tầm, công bố, trên cơ sở tiếp thu thành tựu của nước ngoài về
lý luận sử thi, các nhà khoa học Việt Nam đúc kết lý luận trên thực tế Việt Nam, đã đưa những tri thức về sử thi
vào trong sách giáo khoa phổ thơng, vào giáo trình đại học, đã chứng minh một cách thuyết phục để thế giới
biết đến kho tàng sử thi Việt Nam. Việc xếp các sử thi Ê Đê vào hệ thống sử thi cổ sơ của nhân loại do GS.

Phan Đăng Nhật tiến hành đã được các nhà folklore học Bungari công nhận vào năm 1988. Về cuốn sách Sử
thi Ê Đê của Phan Đăng Nhật, năm 1997, GS. TSKH. N. I. Niculin, một chuyên gia về văn học Việt Nam của
Liên Xô cũ và của nước Nga hiện nay cho rằng "cơng trình khảo cứu nổi tiếng Sử thi Ê Đê của Phan Đăng
Nhật có ý nghĩa khó có thể đánh giá được hết" . GS. Niculin cũng nhấn mạnh đến "ý nghĩa lớn lao" của bản
luận án tiến sĩ ngữ văn về sử thi Tây Nguyên do PGS. Võ Quang Nhơn bảo vệ năm 1981. Những đóng góp
của hai chuyên gia hàng đầu về sử thi của Việt Nam được đồng nghiệp trân trọng và Nhà nước ghi nhận xứng
đáng. Năm 2001, Chủ tịch Nước tặng Giải thưởng Nhà nước cho cụm công trình Văn học dân gian các dân tộc
ít người Việt Nam (1983) và Sử thi anh hùng Tây Nguyên (1997) của PGS. TS. Võ Quang Nhơn (1929 - 1995).
Năm 2005, Chủ tịch Nước tặng Giải thưởng Nhà nước cho cụm cơng trình Sử thi Ê Đê (1991) và Vùng sử thi
Tây Nguyên (1999) của GS. TSKH. Phan Đăng Nhật (sinh năm 1931).
(42)

4. Những nhận thức lý luận (trên cơ sở cập nhật những thành tựu lý luận của thế giới) đã giúp cho công tác
sưu tầm sử thi trong mấy năm vừa qua đạt được kết quả tốt hơn các giai đoạn trước. Đồng thời, những kết
quả sưu tầm sẽ điều chỉnh những nhận thức lý luận và là những cơ sở vững chắc để các nhà nghiên cứu đề
xuất những vấn đề lý luận mới. Chẳng hạn, khi chúng ta chưa sưu tầm và phiên dịch ở mức độ đáng kể sử thi
của người Mơ Nông, năm 1997, GS. Phan Đăng Nhật cho rằng sử thi của chúng ta tuy có nhiều tác phẩm,
nhưng độ dài của tác phẩm lại ngắn (so với sử thi thế giới). Nhưng thực tế tài liệu sưu tầm được hiện nay đã
giúp cho tác giả có những suy nghĩ khác trước. Cũng như vậy, chỉ sau khi sưu tầm, dịch nghĩa được hầu hết
(chưa dám nói là tồn bộ) kho tàng sử thi Tây Ngun thì giới nghiên cứu mới có thể trả lời được một cách
chính xác hơn là có bao nhiêu tác phẩm sử thi. Một thí dụ khác, nhận thức của PGS. Chu Xuân Diên về chủ đề
của sử thi Đăm Xăn là một quá trình 43 năm: từ năm 1960 (Nghiên cứu văn học, 1960), qua mốc năm 1983
(Từ điển văn học, tập I) đến năm 2003 (sách giáo khoa Ngữ văn 10). Nhận thức ấy được điều chỉnh, hồn
thiện dần theo thời gian.
5. Dù cịn nhiều việc phải làm, dù chúng ta cịn có hạn chế này hay hạn chế khác, nhưng trong việc sưu
tầm, xuất bản, nhận thức lý luận đối với sử thi nước nhà, trong đó có sử thi Tây Nguyên, các nghệ nhân, các
nhà khoa học và các đồng chí làm cơng tác văn hố ở địa phương đã có những đóng góp khơng nhỏ.
N.X.K

Chú thích:

* Đối với tác phẩm Đăm Xăn, có nhiều cách viết, cách phiên âm khác nhau. Khi cần trích dẫn nguyên
văn, chúng tôi sẽ theo đúng nguyên bản. Hiện nay có nhiều cách phiên âm tên các dân tộc thiểu số. ở
đây, chúng tôi dựa theo cuốn Từ điển tiếng Việt của Viện Ngơn ngữ học, GS. Hồng Phê chủ biên,
Nxb Đà Nẵng, 2002. Về học vị, chúng tôi dùng theo cách gọi hiện nay.
(1) Đinh Gia Khánh (1998) bài "Sử thi ở Việt Nam", trong tập sách nhiều tác giả Sử thi Tây Nguyên, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 45 - 46.
(2) Phan Đăng Nhật (1998) bài "Nhìn lại quá trình sưu tầm, nghiên cứu sử thi Tây Nguyên trong bối cảnh
sử thi Việt Nam", trong tập sách Sử thi Tây Nguyên, tr. 61.
Về Truyện Dạ Thoa vương, xin xem: Vũ Quỳnh, Kiều Phú (thế kỷ XV), Lĩnh Nam chích quái, Đinh Gia
Khánh chủ biên, Nguyễn Ngọc San biên khảo, giới thiệu, Nxb Văn học, Hà Nội, 1990, tr. 113.


(3) Dẫn theo Phan Đăng Nhật (1998), bài đã dẫn, tr. 63.
(4) Phan Đăng Nhật (1998), bài đã dẫn, tr. 64.
(5) Phan Đăng Nhật (1998), bài đã dẫn, tr. 65.
(6) Phan Đăng Nhật (1998), bài đã dẫn, tr. 65 - 66.
(7) Hoàng Thiếu Sơn (1943), "Anh hùng ca Việt Nam", Tri tân, Hà Nội, số 123, tr. 14. (8)
Hoàng Thiếu Sơn (1943), bài đã dẫn, tr. 14.
(9) Hoàng Thiếu Sơn (1943), bài đã dẫn, tr. 14.
(10)Hoàng Thiếu Sơn (1943), bài đã dẫn, tr. 14.
(11) Hoàng Thiếu Sơn (1943), bài đã dẫn, tr. 15.
(12) ở ta, có một cách hiểu ước lệ: Khi nói văn học Việt Nam là nói đến văn học của người Việt (Kinh). Thí
dụ cuốn sách Văn học Việt Nam thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XVIII (Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai
Cao Chương, xuất bản năm 1978, tập I) chỉ đề cập đến văn học viết của người Việt. Để chỉ văn học
các dân tộc ít người, người ta dùng cụm từ "các dân tộc ít người", hoặc "các dân tộc thiểu số", thí
dụ tên cuốn sách sau của Võ Quang Nhơn: Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam (xuất
bản năm 1983).
Năm 1991, GS. Phan Đăng Nhật hiểu chưa đúng bài viết này của GS. Hoàng Thiếu Sơn.
(13) Chu Xuân Diên (1960), "Tìm hiểu giá trị Bài ca chàng Đam San", Nghiên cứu văn học, Hà Nội, số 3,
tr. 48.

(14) Y Điêng, Y Yung, Kơxo Blêu, Ngọc Anh dịch, Y Ngông Niê Kđăm giới thiệu (1963), Trường ca Tây
Ngun, Nxb Văn học, Hà Nội. Sách này cịn có tác phẩm "Y Ban". Theo GS. Phan Đăng Nhật, nó
khơng phải là sử thi.
(15) Nghệ thuật thơ ca, bản dịch của nhóm Lê Đăng Bảng, cơng bố lần đầu năm 1964. Tạp chí Văn học
nước ngồi, cơ quan của Hội Nhà văn Việt Nam, năm 1997, số 1 đã tái bản bản dịch này, với sự
hiệu đính của Đồn Tử Huyến. Trong bản in năm 1964, tr. 32 có cụm từ và từ: nghệ thuật bắt
chước, "sự bắt chước", "môi giới". ở bản in năm 1997, các cụm từ, từ đó được thay bằng nghệ
thuật mơ phỏng, "sự mơ phỏng", "phương tiện", Tạp chí đã dẫn, tr. 182.
(16) Cao Huy Đỉnh (1969), Người anh hùng làng Dóng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 144 - 161.
(17) Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên (1973), Văn học dân gian, tập 2, Nxb Đại học và trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội. Tập sách này in lần thứ hai vào năm 1977 không sửa chữa, giữ đúng như lần in
đầu. ở đây chúng tơi trích theo bản in lần thứ hai, tr. 53 - 54.
(18) Phan Đăng Nhật (1981) Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám 1945,
Nxb Văn hoá, Hà Nội, tr. 220 - 222, 227.
(19) Võ Quang Nhơn (1983), Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam, Nxb Đại học và trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
(20) Phan Ngọc (1986), "Đẻ đất đẻ nước, bản sử thi đầu tiên của nền văn học Việt - Mường", Văn hoá dân
gian, Hà Nội, số 4, tr. 27.
Xem thêm bài "Quá trình sử dụng thuật ngữ sử thi ở Việt Nam" của Nguyễn Xuân Kính, trong tập
sách Sử thi Tây Nguyên (1988).
(21) Nguyễn Văn Hồn chủ biên, Nguyễn Hữu Thấu, Hà Cơng Tài (1988), Đăm Săn sử thi Ê Đê, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, tr. 57.
(22) Đặng Văn Lung, Vương Anh, Hoàng Anh Nhân (1988), Đẻ đất đẻ nước sử thi Mường, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
(23) Đỗ Hồng Kỳ (2000), "Sử thi Mơ Nơng", Văn hố dân gian, Hà Nội, số 4, tr. 21.
Theo tác giả Đỗ Hồng Kỳ, nhóm sưu tầm phát hiện được sử thi Mơ Nông vào cuối năm 1988. Cịn theo ThS.
Tơ Đơng Hải, đồn sưu tầm phát hiện được sử thi Mơ Nông vào đầu năm 1989. Xin xem: Tô Đông Hải (2002),
"Những phát hiện mới xung quanh sử thi nrong", Văn hoá dân gian, Hà Nội, số 4, tr. 31.
(24) Phan Đăng Nhật (1991), Sử thi Ê Đê, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 240 - 241. (25)
Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam, tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 46.

(26) Đỗ Bình Trị (1991), sách đã dẫn, tr. 103.
(27) Đỗ Bình Trị (1991), sách đã dẫn, tr. 106.
(28) Đỗ Bình Trị (1991), sách đã dẫn, tr. 195 - 205.
(29) Sách này in lần đầu năm 1961, với tên gọi Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, Tập I: Văn học dân
gian.
(30) Nguyễn Đình Chú chủ biên, Đỗ Bình Trị (1994), Văn học 10, tập I, Ban Khoa học xã hội, Nxb Giáo
dục, Hà Nội, in lần thứ hai, tr. 21.


(31) Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 192 - 193.
Các tác giả chưa thoả đáng khi xếp Thánh Gióng, Sơn Tinh và Thuỷ Tinh vào cùng loại với Đăm
Xăn, khi cho rằng đó là những tác phẩm "mang đặc trưng khá rõ nét của thể loại sử thi".
(32) Đỗ Hồng Kỳ (1996), Sử thi thần thoại Mơ Nông, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 12. (33)
Đỗ Hồng Kỳ (1996), sách đã dẫn, tr. 159.
(34) Cuối năm 1994, trong chuyến đi công tác Quảng Tây cùng với GS. Kiều Thu Hoạch, ThS. Tô Đông
Hải, tôi được tặng cuốn sách này. Khi về nước, tôi đã biếu tặng GS. Phan Đăng Nhật.
(35) Phan Đăng Nhật (1998), bài đã dẫn, tr. 74.
(36) Phan Đăng Nhật (1998), bài đã dẫn, tr. 76.
(37) Trong bộ Tổng tập văn học Việt Nam (42 tập, Nhà xuất bản Khoa học xã hội tái bản trọn bộ, có sửa
chữa, chỉnh lý, năm 2000, do GS. Đinh Gia Khánh làm Chủ tịch Hội đồng biên soạn) có ba tập do
GS. Đặng Nghiêm Vạn chủ trì: tập 39, tập 40, tập 41. Tổng tập văn học Việt Nam chỉ giới thiệu văn
học viết, nhưng ở ba tập này các soạn giả đưa vào cả luật tục Ê Đê, luật tục Mơ Nông, "Tiễn dặn
người yêu" (dân tộc Thái), "Vượt biển" (Tày), những bài hát đám cưới Tày, các sử thi "Đẻ đất đẻ
nước", "Đăm Xăn", "Đăm Noi", "Xing Nhã",...
Năm 2002, trong bộ sách Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (Nxb Đà Nẵng, bốn tập,
sáu quyển, GS. Đặng Nghiêm Vạn chủ biên), GS. Đặng Nghiêm Vạn vẫn tiếp tục khẳng định rằng:
Quan niệm các tác phẩm sử thi là văn chương truyền miệng có giá trị như một thể loại văn học "bác
học" (không phải dân gian) là một điều mới mẻ.
Chúng tôi đã nhiều lần trao đổi về vấn đề này: Trên tạp chí Văn hố dân gian số 1 năm 2002 (bài

"Những vấn đề đặt ra trong việc biên soạn Tổng tập văn học dân gian người Việt"), trên tạp chí
Nguồn sáng dân gian số 1 năm 2002 (bài "Sử thi Việt Nam"), tại Hội nghị Thơng báo Văn hố dân
gian năm 2003 (bài "Trở lại vấn đề dân gian hay không dân gian").
Trong sách Khủn Chưởng anh hùng ca Thái (xuất bản năm 2005, tr. 23 - 26), GS. Phan Đăng Nhật
đồng tình với chúng tơi và khơng chia sẻ quan niệm của GS. Đặng Nghiêm Vạn.
(38) Viện Nghiên cứu văn hoá (Viện Khoa học xã hội Việt Nam) (2005), Dự án tổng thể điều tra, sưu tầm,
bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên (2001 - 2007), tr. 9.
(39) Viện Nghiên cứu văn hoá (Viện Khoa học xã hội Việt Nam) (2005), tài liệu đã dẫn, tr. 17.
(40) Ngô Đức Thịnh (2005), Báo cáo sơ kết ba năm thực hiện Dự án điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên
dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên.
(41) Ngô Đức Thịnh (2005), tài liệu đã dẫn.
(42) N. I. Niculin (1998), "Cuộc cầu hôn anh hùng trong sử thi Ê Đê và Ma Lai", trong tập sách nhiều tác
giả Sử thi Tây Nguyên, sách đã dẫn, tr. 143.

Nguồn: ncvanhoa.org.vn



×