Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

TIỂU LUẬN: TÌNH HÌNH SỬ DỤNG LAO ĐỘNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2010 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (753.31 KB, 37 trang )

Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ……







TIỂU LUẬN

TÌNH HÌNH SỬ DỤNG LAO ĐỘNG Ở
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2010


















Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
2



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam chúng ta đang có nguồn nhân lực dồi dào với dân số cả nước gần 86
triệu người (Tính đến ngày ngày 1/4/2009, dân số của Việt Nam: 85.789.573 người),
nước đông dân thứ 13 trên thế giới và thứ 3 trong khu vực. Trong đó số người trong độ
tuổi lao động tăng nhanh và chiếm một tỉ lệ cao khoảng 67% dân số cả nước. Trong nhiều
năm nay ,vấn đề lao động trong cả nước nói chung và ờ Thành Phố Hồ Chí Minh nói
riêng luôn là một bài toán khó và cũng không thể một sớm một chiều mà chúng ta giải
quyết ngay được. Đặc biệt, năm 2010 được xem là năm không nhiều biến động và có xu
hướng phát triển tốt hơn năm 2009, nhưng thị trường lao động Thành Phố Hồ Chí Minh
vẫn tồn tại nhiều nghịch lý khi độ chênh lệch giữa cung và cầu còn khá lớn, tình trạng
vừa thừa vừa thiếu lao động luôn được xem là một bài toán cần phải giải quyết một cách
triệt để. Để các bạn hiểu rõ hơn về những biến động lao động tại Thành Phố Hổ Chí
Minh cũng như biết được xã hội cần gì và các bạn phải làm gì để ra trường có việc lảm
tốt đó là lý do nhóm chúng tôi đã chọn đề tài “ TÌNH HÌNH SỬ DỤNG LAO ĐỘNG Ở
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2010”.
2. Mục đích
Qua bài tiều luận, chúng ta có thể đánh giá được thực trạng lao động – việc làm và
sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh , phát hiện các vấn đề kinh tế xã hội nảy
sinh từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu để giải quyết việc làm, sử dụng lao động một
cách đầy đủ và hợp lý.
3. Yêu cầu
Hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về lao động – việc làm và sử dụng lao động ở

Thành Phố Hồ Chí Minh làm cơ sở khoa học cho các nghiên cứu của đề tài. . Đánh giá
thực trạng lao động, việc làm, giải quyết việc làm cho lao động ở Thành Phố Hồ Chí
Minh làm rõ kết quả đạt được đồng thời nhận định đúng những tồn tại và khó khăn hiện
Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
3

nay. . Đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao
động trên địa bàn ở Thành Phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tiểu luận tập trung nghiên cứu và phân tích các đối tượng lao động ở Thành
Phố Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được tiến hành dựa trên các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp
duy vật biện chứng, phương pháp logic _ lịch sử, phương pháp trừu trượng hóa khoa học,
liên ngành, phương pháp phân tích, tổng hợp số liệu…
6. Phạm vi nghiên cứu:
Lao động trên toàn địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh trong năm 2010.
7. Kết quả nghiên cứu
Giúp các bạn hiểu rõ hơn về những biến động lao động tại Thành Phố Hổ Chí
Minh cũng như biết được xã hội cần gì và các bạn phải làm gì để ra trường có việc lảm
tốt .













Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
4




LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cảm ơn trường Đại học Công nghiệp Hồ Chí Minh và Khoa
Quản Trị Kinh Doanh đã tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật,
tài liệu tham khảo… một cách tốt nhất.
Xin chân thành đặc biệt cảm ơn Giáo Viên ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa đã tận
tình giúp đỡ chúng tôi thực hiện thành công bài tiểu luận này. Trong quá trình
thực hiện bài tiểu luận, chúng tôi không thể tránh những sai sót, mong sẽ nhận
được sự góp ý của cô và mọi người.
Xin chân thành cảm ơn!


Thành Phố Hồ Chí Minh, ngày 8 tháng 6 năm 2011.










Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
5

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Khái niệm Người lao động
Người lao động là những người trong độ tuổi lao động theo pháp luật quy định – là
điểm chung của nhiều định nghĩa. Họ có cam kết lao động với chủ sử dụng lao động,
thường là nhận yêu cầu công việc, nhận lương và chịu sự quản lý của chủ lao động trong
thời gian làm việc cam kết. Kết quả lao động của họ là sản phẩm dành cho người khác sử
dụng và được trao đổi trên thị trường hàng hóa, sản phẩm chân tay thì giá trị trao đổi
thấp, sản phẩm trí óc thì giá trị trao đổi cao.
- Theo nghĩa rộng, người lao động là người làm công ăn lương. Công việc của
người lao động là theo thỏa thuận, xác lập giữa người lao động và chủ thuê lao động.
Thông qua kết quả lao động như sản phẩm vật chất, sản phẩm tinh thần cung cấp mà
người lao động được hưởng lương từ người chủ thuê lao động. Ở nghĩa hẹp hơn, người
lao động còn là người làm các việc mang tính thể chất, thường trong nông nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp (cách hiểu này ảnh hưởng từ quan niệm cũ: phân biệt người lao động với
người trí thức).
- Theo Bộ Luật Lao động nước ta, người lao động là người đến tuổi lao động, có
khả năng lao động, đang có giao kết và thực hiện hợp đồng lao động với chủ sử dụng lao
động. Luật Lao động cũng quy định rõ ràng, cụ thể về các quyền và nghĩa vụ của người
lao động khi tham gia lao động, quy định về hợp đồng lao động, xử lý tranh chấp hợp
đồng lao động, các chế độ chính sách đãi ngộ, phúc lợi xã hội bắt buộc. (Link sang Luật
lao động)
- Từ góc độ kinh tế học, người lao động là những người trực tiếp cung cấp sức lao
động – một yếu tố sản xuất mang tính người và cũng là một dạng dịch vụ/ hàng hóa cơ
bản của nền kinh tế. Những người đang lao động là những người có cam kết lao động,
sản phẩm lao động đối với tổ chức, người khác.
Như vậy, để hiểu rõ về người lao động chúng ta phải xem xét các yếu tố gắn với
lao động của người lao động như: sự chuẩn bị năng lực lao động, cam kết và thực thi cam

kết lao động (bao gồm tiếp nhận yêu cầu lao động, phương pháp và phương tiện lao động,
Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
6

giá thành lao động, đãi ngộ lao động, thái độ lao động, động lực lao động), kết quả và
chất lượng lao động, sự hài lòng và không hài lòng của các bên tham gia hợp đồng lao
động.
1.2 Phân Loại Nguồn Lao Động:
1.2.1 Căn cứ việc quản lý lao động và trả lương
Lao động trong doanh nghiệp được chia làm hai loại: lao động trong danh sách và
lao động ngoài danh sách
 Lao động trong danh sách là lao động do đơn vị trực tiếp quản lý và trả lương
trong kỳ, được đăng ký trong sổ lao động của đơn vị và là đối tượng nghiên cứu
của thống kê lao động.
 Lao động ngoài danh sách là những lao động không thuộc quyền quản lý hoặc trả
lương của đơn vị. Như :thực tập sinh, thợ học nghề của đơn vị khác gởi đến mà
đơn vị không trả lương, lao động gia đình gia công cho đơn vị, những người làm
công tác đảng, đoàn thanh niên, công đoàn do quĩ lương của đoàn thể trả lương…
1.2.2 Căn cứ mục đích tuyển dụng và thời gian sử dụng
Số công nhân viên trong danh sách của đơn vị được chia làm hai loại:
 Công nhân viên lâu dài: Là lực lượng lao động chủ yếu của đơn vị, bao gồm
những người được tuyển dụng chính thức để làm việc lau dài và những người chưa
có quyết định chính thức nhưng thực tế đã làm việc liên tục tại đơn vị từ 6 tháng
trở lên
 Công nhân viên tạm thời: là những người làm việc theo hợp đồng tạm tuyển để
thực hiện những việc đột xuất hoặc có tính thời vụ tại đơn vị.
1.2.3 Căn cứ vào ngành hoạt động
Công nhân viên trong danh sách được chia thành: công nhân viên thuộc ngành
công nghiệp, xây dựng cơ bản, nông nghiệp…
1.2.4 Căn cứ vào mối quan hệ đối với quá trình sản xuất

Công nhân viên trong danh sách được chia thành ba loại:
 Lao động quản lý sản xuất kinh doanh
Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
7

 Lao động trực tiếp sản xuất kinh doanh
 Lao động phục vụ sản xuất kinh doanh
1.2.5 Căn cứ vào chức năng của người lao động
Công nhân viên được chia thành các bộ phận sau: Công nhân, Thợ học nghề, Nhân
viên kỹ thuật, Nhân viên quản lý kinh tế, Nhân viên hành chính.
1.3 Độ tuổi lao động
Lứa tuổi có khả năng lao động, do nhà nước quy định, được thống kê để tính ra
nguồn lao động. Giới hạn tuổi lao động khác nhau ở mỗi quốc gia, được quy định theo
điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục, tập quán, tâm lí, sinh lí con người. Ở Việt Nam:
 Nam 16 - 60 tuổi
 Nữ 16 - 55 tuổi.
Số người trong độ tuổi lao động thay đổi hàng năm tuỳ các yếu tố sinh, tử, di cư.
Độ tuổi lao động có thể chia ra thành các nhóm:
 Thanh niên (16 - 30 tuổi),
 Trung niên (31 - 45 tuổi)
 Già (trên 45 tuổi).
1.4 Đặc điểm của nguồn lao động Việt Nam trong nền Kinh Tế Thị
Trường
Trong nền kinh tế thị trường, nguồn nhân lực Việt nam có 6 đặc điểm nổi bật chủ
yếu sau:
- Nguồn nhân lực có quy mô lớn, tăng nhanh hàng năm.
- Nguồn nhân lực trẻ, tỷ lệ nam- nữ khá cân cân bằng.
- Cơ cấu nguồn nhân lực phân bổ chưa hợp lý giữa thành thị, nông thôn, giữa
vùng, miền lãnh thổ; giữa các ngành kinh tế và các thành phần kinh tế.
- Nguồn nhân lực có trình độ văn hoá, chuyên môn, kỹ thuật còn thấp, bố trí không

đều, sức khoẻ chưa đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường.
- Nguồn nhân lực có tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị cao và thời gian lao
động ở khu vực nông thôn không thấp.
Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
8

- Nguồn nhân lực có năng suất lao động và thu nhập thấp.
Nguồn nhân lực có quy mô lớn, tăng nhanh hàng năm là đặc trưng cơ bản về số
lượng nguồn nhân lực của Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
1.5 Các nhân tố ảnh hưởng tới người lao động:
1.5.1 Các yếu tố quyết định cung lao động
Mức thu nhập: Một người có việc làm hay không trước hết phụ thuộc vào quyết
định của họ có đi làm hay là không. Quyết định này lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong
đó một yếu tố quan trọng là mức thu nhập mà một người muốn đi làm, hay là một mức
thu nhập tối thiểu để người đó chấp nhận hy sinh thời gian nghỉ ngơi, học tập, làm nội
trợ, chăm sóc con cái để đi làm.
Mức lương tối thiểu không quan sát được nên được thay thế bởi các nhân tố tác
động tới nó như: kinh nghiệm, trình độ của người lao động, các đặc tính gia đình (có con
nhỏ hay không, có sống chung cùng ông bà hay không, mức thu nhập trung bình của mỗi
cá nhân trong gia đình, tình trạng có việc làm của các thành viên trong gia đình, mức thu
nhập bình quân của hộ gia đình ).
Như vậy, khi mức lương trên thị trường lao động lớn hơn mức lương tối thiểu thì
người lao động quyết định tìm kiếm việc làm. Tuy nhiên, muốn có được việc làm còn cần
tính tới các yếu tố khác mà chúng ta sẽ lần lượt xem xét sau đây.
Các đặc tính của hộ gia đình: Các đặc tính của hộ gia đình như qui mô, cơ cấu
gia đình, như: tình trạng hôn nhân, số con, gia đình hạt nhân hay gia đình nhiều thế hệ.
Các đặc tính nhân khẩu học: Các đặc tính nhân khẩu học như tuổi, giới tính của
người lao động.
Các biến khả năng và động lực: Khả năng của người lao động quyết định phần
lớn cơ hội có việc làm của họ. Nhưng rất tiếc, việc đo lường những biến này rất khó, nếu

có thì không chính xác vì nhiều nguyên nhân. Ví dụ, biến trình độ học vấn là một biến
phản ánh không chính xác khả năng có thể đảm nhận được công việc của người lao động.
Thứ nhất, nó chỉ phản ánh hình thức đào tạo mà chưa đề cập tới những loại hình khác
như đạo tạo trong công việc, đào tạo ngắn hạn; Thứ hai, chất lượng giáo dục ở các
Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
9

trường, vùng miền khác nhau là khác nhau; Thứ ba, những kiến thức học được ở trường
cũng chưa chắc đã phù hợp đối với công việc trong thực tế.
Biến kinh nghiệm làm việc, cũng là biến không được quan tâm trong một số cuộc
điều tra, vì vậy người ta phải sử dụng biến tuổi để thay thế, nhưng khi sử dụng biến này
chúng ta đã chấp nhận một giả định rằng người càng nhiều tuổi thì càng có kinh nghiệm,
nhưng điều này không đúng cho mọi trường hợp. Trong nghiên cứu đã sử dụng các biến
như trình độ học vấn để đánh giá khả năng của người lao động.
Những động lực khuyến khích một người đi làm cũng sẽ làm tăng khả năng tham gia thị
trường lao động của họ và do vậy ảnh hưởng tới khả năng có việc làm. Những nhân tố
thường cũng khó đo lường như: Thái độ của gia đình, cha mẹ, vợ, chồng đối với việc đi
làm của một cá nhân, mức thu nhập bình quân của những thành viên trong gia đình, hoặc
sống trong cảnh nghèo sẽ ít cơ hội mặc dù họ mong muốn điều này. Người nghèo sẽ ít có
cơ hội được học tập, đào tạo nghề, họ thiếu thông tin, khó có điều kiện di chuyển để tìm
việc làm cũng như dễ bị kỳ thị trên thị trường lao động.
Đối với người nghèo, các chương trình hỗ trợ tạo việc làm và dạy nghề có tác
động quan trọng tới khả năng có việc làm. Tuy nhiên, trong những hộ gia đình nghèo,
không có đất đai, vốn để sản xuất, cũng là động lực để tìm kiếm việc làm, nhưng phần
lớn họ chỉ tập trung vào những loại công việc lao động giản đơn.
1.5.2 Các biến quyết định cầu lao động:
Cơ hội một người có thể có việc làm hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào tình
hình cầu lao động trên thị trường. Thị trường có nhiều cơ hội việc làm hay không? Người
lao động có thể dễ dàng di chuyển xa từ nơi này sang nơi khác để tìm kiếm việc làm
không? Người lao động có dễ dàng tiếp cận được với thông tin về việc làm hay không?

Vùng nơi họ sinh sống. Cơ cầu ngành nghề ở địa phương. Trong nghiên cứu này, một số
biến sau được sử dụng: (1) Thành thị/nông thôn, (2) Vùng kinh tế,
Thành thị/nông thôn: đây là biến rời rạc. Người lao động sống ở thành thị, biến
nhận giá trị là 1, nếu ở vùng nông thôn là 0. Biến này được sử dụng thay thế cho một số
biến không quan sát được hoặc khó lượng hoá như ở thành thị dường như có nhiều công
việc làm công ăn lương hơn ở nông thôn, hệ thống thông tin về việc làm ở thành thị cũng
Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
10

dễ tiếp cận hơn, việc di chuyển từ nơi này sang nơi khác để tìm kiếm việc làm cũng dễ
dàng hơn, cơ cấu ngành nghề ở thành thị cũng phong phú hơn.
Vùng kinh tế: biến này xác định hộ gia đình thuộc vùng nào: 1.Đồng bằng sông
Hồng, 2.Đông Bắc, 3.Tây Bắc, 4.Bắc Trung Bộ, 5.Duyên hải Nam Trung Bộ, 6.Tây
Nguyên, 7.Đông Nam Bộ, 8.Đồng bằng sông Cửu Long. Vùng kinh tế với những đặc
điểm và trình độ phát triển khác nhau sẽ khác nhau về cơ hội tìm kiếm việc làm.
Một số đặc tính của cung và cầu lao động:
1. Các đặc tính của người lao động:
- Kinh nghiệm của người lao động.
- Tuổi của người lao động.
- Trình độ văn hoá, nghề nghiệp.
2. Các đặc tính của hộ gia đình:
- Quy mô hộ gia đình.
- Giới tính của chủ hộ.
- Khả năng kinh tế hộ gia đình.
- Tình trạng hôn nhân.
3. Một số kết quả
- Kết quả còn cho thấy, trình độ phải đạt tới mức cao đẳng, đại học, trung học cơ
sở và dạy nghề trở lên mới tăng khả năng có được việc làm trên thị trường của người lao
động, yêu cầu về trình độ này làm tăng khả năng có việc làm của nữ cao hơn so với nam.
- Thành viên các gia đình nghèo trong nghiên cứu này lại có khả năng có được

việc làm cao hơn ở những hộ gia đình không nghèo. Điều này có thể là do gia đình nghèo
thì động lực thúc đẩy các thành viên đi làm lớn hơn, mặt khác cũng phản ánh cơ cấu việc
làm hiện nay cũng phù hợp đối với người nghèo, phổ biến nhiều công việc lao động chân
tay, và việc làm trong khu vực phi kết cấu. Đối với nữ trong các gia đình nghèo, xác suất
có việc làm cao hơn một chút so với nam giới.
- Mức thu nhập bình quân đầu người hàng tháng của hộ gia đình càng tăng thì
càng làm giảm xác suất có việc làm của các thành viên, mức độ ảnh hưởng đối với nữ cao
hơn đối với nam, có thể do động lực phải tìm kiếm việc làm và đóng góp thu nhập giảm.
Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
11

- Ở thành thị dễ kiếm việc làm hơn ở nông thôn, nam giới dễ kiếm việc làm ở
thành thị hơn là nữ giới.
- So sánh giữa các vùng kinh tế cho chúng ta thấy, so với vùng Đồng Bằng Sông
Hồng thì các vùng Đông Bắc, Tây Bắc, và Bắc Trung Bộ khả năng kiếm được công việc
được trả lương thấp hơn, trong khi đó các vùng như Duyên Hải Nam Trung Bộ, Tây
Nguyên, Đông Nam bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long lại cung cấp nhiều công việc làm
công ăn lương hơn, nhất là ở vùng Đông Nam Bộ. Cơ hội về việc làm ở các vùng giữa
nam và nữ có sự khác biệt đôi chút.
- So với vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng Đông Bắc và Bắc Trung Bộ phụ nữ
khó kiếm việc làm hơn so với nam giới, nhưng ở vùng Tây Bắc nam giới lại khó kiếm
việc hơn. Cũng so với vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng Đông Nam bộ và Đồng bằng
sông Cửu Long lại cung cấp nhiều việc làm hơn cho phụ nữ. Riêng vùng Tây Nguyên, so
với Đồng bằng sông Hồng, nam giới ít có khả năng trong khi nữ giới lại có nhiều khả
năng kiếm được việc làm hơn.















Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
12


CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH SỬ DỤNG LAO ĐỘNG Ở THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2010
2.1 Sơ lược về tình hình sử dụng lao động ở Thành phố Hồ Chí Minh
năm 2008, 2009
Năm 2008
Lực lượng lao động Thành phố tăng dần qua các năm, năm 2001 số người trong độ
tuổi lao động là 3,6 triệu người, chiếm tỷ trọng 66,14% dân số. Năm 2008 lực lượng lao
động là 4,6 triệu người, chiếm tỷ trọng 67,67% dân số
Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật năm 2001 chiếm tỷ trọng 33,17%, năm
2008 chiếm tỷ trọng 49,11% trong tổng số lao động đang làm việc
Số người có việc làm tăng dần qua các năm, năm 2008 có trên 3,2 triệu người,
chiếm tỷ trọng 67,75% nguồn lao động
Tỷ lệ thất nghiệp năm 2001 là 6,8% giảm dần dưới 6% năm 2008.
Năm 2009
Sự bùng nổ dân số trong những thập niên vừa qua đã tạo nhiều áp lực lớn đối với
thị trường lao động Việt Nam.Năm 2009,lực lượng lao động tăng đáng kể với nhóm tuổi
30 – 39 có tỷ lệ tăng cao nhất. Đối với người dân Việt Nam, tài sản tạo ra thu nhập chủ

yếu là sức lao động; do đó việc tham gia vào thị trường lao động là tất yếu đối với nhiều
người để tồn tại. Việc làm giúp nhiều người có thu nhập để đáp ứng những nhu cầu cơ
bản như ăn, ở và nhiều nhu cầu khác.Năm 2009,lực lượng lao động tăng nhanh 49,3 triệu
người , chủ yếu là do sự gia tăng dân số trong thời kỳ này. Tuy nhiên, tỷ lệ tham gia lực
lượng lao động được xác định bằng lực lượng lao động so với dân số trong độ tuổi lao
động (từ 15 tuổi trở lên), cũng tăng 2,1 điểm phần trăm. Tỷ lệ này ở mức 76,5% năm
2009, đây là mức cao nếu xem xét ở góc độ quốc tế (tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là
65,1% năm 2009.


Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
13

2.2 Thực trạng lao động ở Thành phố Hồ Chí Minh năm 2010
2.2.1 Đặc điểm lao động ở Thành phố Hồ Chí Minh năm 2010
Năm 2010: 275.000 lao động Thành phố Hồ Chí Minh có việc làm ổn định Trong
số này có khoảng 271.000 lao động được giải quyết việc làm và hơn 120.000 lượt người
có việc làm mới, là số liệu tổng kết của Trung tâm Dự báo và thông tin thị trường lao
động Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tổng hợp cơ sở dữ liệu của 18.036 doanh nghiệp
tại Thành phố
Những ngành nghề được liệt kê hút lao động nhất năm 2010 bao gồm: dệt may -
da giày, nhựa - bao bì, dịch vụ - phục vụ, điện tử - viễn thông , marketing, bán hàng
Các ngành này sử dụng lao động phổ thông trong tổng nhu cầu tuyển dụng với cơ cấu
trình độ chuyên môn đạt hơn 56%. Riêng trình độ cao đẳng - đại học chiếm tỉ lệ hơn
19%, chủ yếu rơi vào lĩnh vực: công nghệ thông tin, xây dựng - kiến trúc, quản lý kinh
doanh - nhân sự, kiểm toán - kế toán; còn lại là đội ngũ lao động sơ cấp, trung cấp nghề.
Mặc dù được xem là năm không nhiều biến động và có xu hướng phát triển tốt
hơn năm 2009, thị trường lao động Thành phố Hồ Chí Minh năm 2010 vẫn tồn tại nhiều
nghịch lý khi độ chênh lệch giữa cung và cầu còn khá lớn, tình trạng vừa thừa vừa thiếu
lao động luôn được xem là một bài toán cần phải giải quyết một cách triệt để.

Theo đó, quý 1/2010, thị trường lao động diễn ra mất cân bằng, giữa nhu cầu
tuyển dụng theo cơ cấu trình độ chuyên môn và ngành nghề. Nhu cầu lao động phổ thông
trong khoảng thời gian này rất lớn, chiếm 71,16% so với tổng nhu cầu chỗ làm việc
trống; trong khi đó, nhu cầu lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên chỉ chiếm
30%. Các ngành nghề có nhu cầu tuyển dụng cao trong quý này chủ yếu là những ngành
nghề thâm dụng lao động, như: nhựa - bao bì, dệt may – giày da, chế biến, vệ sinh công
nghiệp, mộc - mỹ nghệ.
Bước sang quý 2/2010, từ những tác động chính sách quản lý nhà nước và chính
sách sử dụng nhân lực của doanh nghiệp, đặc biệt việc cải tiến quy trình sản xuất, tăng
năng suất lao động, ổn định sản xuất kinh doanh, nâng cao tiền lương, thu nhập, đời sống
lao động được cải thiện, thị trường lao động phát triển xu hướng tương đối cân bằng cung
Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
14

– cầu. Nhu cầu lao động phổ thông chiếm từ 71,76% xuống còn 56,42% so với tổng nhu
cầu.
Đến quý 3, tình hình đã có sự ổn định hơn. Nguồn cung và nguồn cầu đáp ứng
được 80%; nhu cầu tuyển dụng lao động phổ thông đã giảm hẳn so với trước đó (40% so
với tổng nhu cầu). Các doanh nghiệp tăng cường việc tuyển dụng nhân sự có trình độ
chuyên môn cao, lao động có tay nghề và nhu cầu việc làm thời vụ, việc làm bán thời
gian trong lĩnh vực gia công sản xuất, chế biến.
Năm 2010 cũng là năm các hoạt động hỗ trợ thị trường lao động và hình thức
tuyển dụng lao động trên hệ thống điện tử, trực tuyến phát triển mạnh cùng với các chính
sách của doanh nghiệp về tuyển dụng linh hoạt, cụ thể thông tin chính sách sử dụng lao
động đã hỗ trợ sinh viên học sinh, người lao động tìm việc thuận lợi hơn.
11 tháng qua, các kênh giới thiệu việc làm đã tổ chức giới thiệu và giải quyết việc
làm được 271.061 lao động, đạt 100,39% kế hoạch; trong đó có 120.641 chỗ làm việc
mới. Ước cả năm 2010, giải quyết việc làm được trên 275.000 lao động. Trong tổng số
người được giải quyết việc làm, tại các khu chế xuất, khu công nghiệp đã thu hút trên
30.000 lao động.

Diễn biến nhu cầu nhân lực tại Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, trong 6 tháng
đầu năm 2010 là thời điểm kinh tế phục hồi và phát triển sau thời gian doanh nghiệp cắt
giảm nhiều lao động. Đây cũng là thời điểm vào dịp lễ và Tết nên sau Tết, nhu cầu của
các doanh nghiệp tập trung nhiều vào nguồn lao động phổ thông cho các hoạt động sản
xuất, dịch vụ thời vụ rất lớn.
Trong 6 tháng cuối năm, thị trường lao động thay đổi theo chiều hướng tích cực.
Các doanh nghiệp thiếu lao động phổ thông đã cải thiện chính sách tổ chức sản xuất kinh
doanh, tiền lương cùng nhiều chính sách phúc lợi khác, vì vậy nhu cầu lao động phổ
thông giảm dần, thay vào đó là nhu cầu về nguồn lao động có tay nghề và có trình độ
cao. Những ngành nghề có nhu cầu tuyển dụng cao vẫn là những ngành nghề của 6 tháng
đầu năm nhưng với yêu cầu về tay nghề và trình độ chuyên môn cao hơn.
Trong khi đó, nguồn cung nhân lực trong năm 2010 cũng diễn biến theo những
nghịch lý. Khi nguồn lao động phổ thông thiếu thì nguồn lao động có trình độ từ trung
Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
15

cấp, cao đẳng, đại học trong một số ngành nghề lại chưa đáp ứng số lượng, chất lượng so
với nguồn cầu. Do đó, vẫn có hiện tượng thừa lao động có trình độ nhưng chưa đáp ứng
yêu cầu tuyển dụng và làm việc của doanh nghiệp.

Nhu cầu nhân lực về cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật
Thành phố Hồ Chí Minh năm 2010

Trình độ chuyên môn Tỷ lệ (%)
Tổng số nhu cầu nhân lực 100,00
- Trên Đại học 1,06
- Đại học 7,48
- Cao đẳng chuyên nghiệp, Cao đẳng nghề 5,35
- Trung cấp chuyên nghiệp, Trung cấp nghề 10,27
- Công nhân kỹ thuật lành nghề 30,67

- Sơ cấp nghề 17,55
- Lao động chưa qua đào tạo 27,62

Năm 2010 cũng là năm diễn ra sự dịch chuyển lao động khá lớn (trên 30%), phần
lớn lao động có nhu cầu tìm việc tại các sàn giao dịch việc làm, các phương tiện truyền
thông , mạng việc làm, các trung tâm giới thiệu việc làm là những lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật và có tay nghề. Trên 50% người tìm việc làm có kinh nghiệm từ 1
năm trở lên, và với mức lương mong muốn trên 5 triệu đồng/tháng, đã tạo ra sự cạnh
tranh gay gắt giữa những người tìm việc làm có trình độ chuyên môn.
Theo chương trình việc làm của Thành phố Hồ Chí Minh năm 2011, nhu cầu việc
làm cho năm tới được dự báo là trên 265.000 lao động, kể cả nhu cầu về lao động thay
thế và lao động tuyển mới (khoảng 120.000 chỗ làm việc mới). Trong đó lao động phổ
thông chiếm trên 45%, cao đẳng, đại học khoảng 20%, lao động có trình độ từ sơ cấp
nghề đến trung cấp chiếm khoảng 35%.
Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
16


36.91
14.4
10.14
6.4
5
0
5
10
15
20
25
30

35
40
Kế toán - Kiểm
toán
Quản lý nhân sự -
Hành chính văn
phòng
Marketing- Nhân
viên kinh doanh
Kho bãi - Vật tư -
Xuất nhập khẩu
Quản lý điếu hành
Chỉ số nguồn cung nhân lực ở Tp HCM
năm 2010 (%)



7.82
6.79
4.13
9
13.75
0
2
4
6
8
10
12
14

16
Cơ khí - luyện
kim
Dệt - may - giày da Công nghệ thông
tin
Giao thông vận tải
- thuỷ lợi
Marketing - Nhân
viên kinh doanh
Nhu cầu tuyển dụng ở Tp HCM
năm 2010 (%)


Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
17

2.2.2 Sự phân bố lao động ở Thành phố Hồ Chí Minh theo từng ngành
nghề:
Trong tháng 10, Trung tâm Dự báo Nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao
động Thành phố Hồ Chí Minh đã khảo sát, cập nhật tại các sàn giao dịch việc làm, ngày
hội nghề nghiệp việc làm; hệ thống hoạt động giới thiệu việc làm và hệ thống thông tin
của các doanh nghiệp thường xuyên có nhu cầu tuyển dụng lao động trên địa bàn thành
phố với tổng số 1.144 doanh nghiệp và 13.379 nhu cầu chỗ làm việc, 7479 người có nhu
cầu tìm việc làm. Từ kết quả khảo sát trên, Trung tâm đưa ra phân tích tình hình thị
trường lao động thành phố như sau.
Về cơ cấu ngành nghề: Nhu cầu tuyển dụng lao động tháng 10/2010 tăng nhẹ
(1,47%) so với tháng 9. Marketing - Nhân viên Kinh doanh vẫn là ngành nghề có nhu cầu
tuyển dụng cao nhất (20,04%) trong tháng, kế đến là một số ngành nghề như dịch vụ và
phục vụ (9,45%), Dệt - May - Giày da (8,57%), Tư vấn - Bảo hiểm (7,94%), Bán hàng
(7,59%), Kế toán - Kiểm toán (7,21%).

Ngành nghề có nhu cầu tuyển dụng tăng cao trong tháng 10 là: Nông nghiệp - Lâm
nghiệp - Thủy sản tăng 5 lần, Điện tử - Viễn thông tăng 3 lần, Tài chính - Ngân hàng tăng
1,92 lần.
Chỉ số nguồn cung nhân lực so với tháng 9, cho thấy một phần người tìm việc của
các tháng trước đã tìm được việc làm. Chỉ số cung, cầu tháng 10 thể hiện sự cân bằng
hơn. Những ngành nghề có chỉ số cung cao nhất vẫn là Kế toán - Kiểm toán (36,91%),
Quản lý nhân sự - Hành chính văn phòng (14,40%), Marketing - Nhân viên kinh doanh
(10,14%), Kho bãi - Vật tư - Xuất nhập khẩu (6,40%), Quản lý điều hành (5,00%).
Thị trường lao động bình ổn do các doanh nghiệp đang trong giai đoạn ổn định sản
xuất kinh doanh. Tuy vậy, các doanh nghiệp đang rất cần những nhà quản lý có trình độ,
kinh nghiệm và chuyên môn cao, trong khi đó trên 40% sinh viên mới tốt nghiệp năm
2010 vất vả tìm việc làm do chỗ làm việc chưa phù hợp, thiếu thông tin mặc dù các ngày
hội việc làm, các sàn giao dịch việc làm diễn ra thường xuyên và đa dạng . Riêng ngành
nghề Dệt - May - Giày da tình hình thiếu hụt lao động cho hoạt động sản xuất kinh doanh
cuối năm vẫn tiếp diễn, một số doanh nghiệp đăng tin tuyển dụng rất lâu và tình hình tiền
Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
18

lương đã được cải thiện nhưng vẫn không tuyển đủ số lao động cần tuyển, đặc biệt là các
doanh nghiệp dệt may tư nhân trong nước. Người lao động có xu hướng chuyển sang làm
cho các doanh nghiệp dệt may của Nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
với mức lương trên 2.000.000 đồng/tháng và chế độ chính sách lao động ổn định.
Về cơ cấu trình độ nghề: Chỉ số nhu cầu tuyển dụng về trình độ lao động phổ thông
là 30,96% trong tháng 10/2010, giảm 29% so với nhu cầu tuyển dụng của tháng trước.
Các ngành có nhu cầu tuyển lao động phổ thông chủ yếu là các ngành cần nhiều lao động
thời vụ như: Bán hàng, Dịch vụ - Phục vụ, Mộc – Mỹ nghệ, Tư vấn – Bảo hiểm,
Marketing - Nhân viên Kinh doanh. Lao động có trình độ Đại học 17,29%, Cao đẳng –
Cao đẳng nghề 11,66%, Trung cấp – Trung cấp nghề 24,83%, Sơ cấp nghề 11,04%, Công
nhân kỹ thuật lành nghề 3,37%. Nguồn lao động chủ yếu mà doanh nghiệp cần tuyển là
lao động có trình độ và tay nghề. Đặc biệt, trình độ đại học và trên đại học lĩnh vực quản

lý có nhu cầu tuyển cao nhất như: Quản lý điều hành, Kế toán - Kiểm toán, Marketing -
Nhân viên Kinh doanh, Xây dựng - Kiến trúc, Quản lý nhân sự - Hành chánh văn phòng.
Nhìn chung, thị trường lao động tháng 10/2010 có sự ổn định. Các doanh nghiệp đã
thực sự chú trọng tuyển dụng nguồn lao động có tay nghề và trình độ cao. Nhu cầu tuyển
lao động phổ thông cũng tương đối ổn định và chủ yếu là tuyển lao động làm việc thời
vụ, bán thời gian.











Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
19

Sự phân bố lao động theo từng ngành nghề năm 2010
Thành Phố Hồ Chí Minh




























STT

Ngành nghề Tỷ trọng
(%)
1
Công nghệ Thông tin – Viễn thông 7,75
2
Điện – Điện tử - Điện công nghiệp – Điện lạnh 6,82
3
Hóa – Hóa thực phẩm – Hóa chất – Hóa dầu 3,15
4

Cơ khí – Xây dựng – Giao thông vận tải – Hàng hải 7,36
5
Sản xuất đồ gỗ, trang trí nội thất 2,07
6
Kiến trúc – Thiết kế - Giấy bao bì – Xuất bản 6,42
7
Giáo dục – Đào tạo 3,08
8
Tài chính – Ngân hàng – Kiểm toán – Bảo hiểm 6,83
9
Y khoa – Y tế - Mỹ phẩm – Dược 4,56
10
Du lịch – Môi trường – Nhà hàng – Khách sạn 6,45
11
Marketing – Dịch vụ tư vấn 6,16
12
Quản lý – Quản trị - Hành chánh - Văn phòng 7,6
13
Phục vụ và bán hàng 5,18
14
Nông – Lâm – Ngư – Thủy sản 1,55
15
May dệt – giày da – Thủ công mỹ nghệ 18,79
16
Các ngành nghề khác 6,23
Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
20

2.2.3 Chất lượng nguồn lao động ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
Thị trường lao động Thành phố Hồ Chí Minh : Thiếu hụt lao động có trình độ

chuyên môn cao
Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị có nguồn nhân lực lớn nhất nước với khoảng 4,7
triệu người trong độ tuổi lao động, tổng số người có việc làm hiện vào khoảng 3,2 triệu
người. Ðội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao trên địa bàn
chiếm tới 30% so với cả nước. Số lao động đã qua đào tạo tăng từ 40% năm 2005 lên
55% năm 2010.
Thực hiện chương trình phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2006-2010 do Ðại hội
Ðảng bộ Thành phố lần thứ 8 đề ra, đến nay nguồn nhân lực Thành phố đã có bước phát
triển đáng kể. Ðội ngũ cán bộ công chức, khối hành chính sự nghiệp các cấp, các ngành
đã có hơn 138.000 lượt người được đào tạo, bồi dưỡng trong nước và gần 2.500 lượt
người được đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài.
Sở hữu nhiều thuận lợi để phát triển mạnh nguồn nhân lực, tuy vậy nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn thiếu và chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội của Thành phố . Dự báo trong những năm tới, tình trạng thiếu hụt
lao động chất lượng có thể sẽ càng trở nên trầm trọng hơn nếu không đưa ra được những
giải pháp hợp lý, nhất là giải pháp gắn kết giữa tuyển dụng và đào tạo.
Từ nhiều năm qua, vấn đề thiếu hụt lao động đã được đặt ra, tuy nhiên chưa bao
giờ Thành phố Hồ Chí Minh phải đối mặt với tình trạng thiếu lao động có trình độ
chuyên môn một cách nghiêm trọng như những năm gần đây do chỉ có 50% lao động mới
qua đào tạo. Đặc biệt lực lượng lao động có trình độ từ trung cấp, cao đẳng, đại học trong
một số ngành nghề còn rất ít ỏi, chất lượng chưa đạt so với yêu cầu. Tình trạng này xảy ra
nhiều nhất ở các ngành: quản lý điều hành, tin học, kế toán, nhân sự - hành chính văn
phòng, tài chính - ngân hàng
Bên cạnh khu vực trung tâm, tại các vùng ngoại ô Thành phố , tình trạng khan
hiếm lao động chất lượng càng trầm trọng hơn. Theo thống kê của Sở Nội vụ Thành phố
Hồ Chí Minh, tại 5 huyện ngoại thành của Thành phố bao gồm Hóc Môn, Củ Chi, Cần
Giờ, Bình Chánh và Nhà Bè đang thiếu hụt nguồn lao động chất lượng cao trên nhiều lĩnh
Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
21


vực, trong đó sư phạm và y tế là những ngành hiện đang có nhu cầu bức thiết về nguồn
nhân lực. Tình trạng trên đã gây ra nhiều tác động tiêu cực cho hoạt động của doanh
nghiệp cũng như môi trường đầu tư của Thành phố
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên, trong đó nguyên nhân chính là do
việc hoạch định chính sách đầu tư của Thành phố còn chậm chuyển đổi, chủ yếu vẫn là
các ngành thâm dụng lao động, công nghệ lạc hậu, giá trị gia tăng thấp. Mặt khác chính
sách đãi ngộ của Thành phố chưa thực sự hợp lý, do vậy hiện tượng chảy máu chất xám
vẫn đang diễn ra. Những lao động được đào tạo bài bản thường tìm việc ở các công ty
nước ngoài, nhiều du học sinh sau khi học xong cũng thường tìm cách ở lại nước ngoài
do chính sách lương bổng và đãi ngộ cao hơn. Quan trọng hơn, vấn đề đào tạo và sử dụng
lao động bị “lệch pha”, giữa các trung tâm đào tạo nhân lực và nơi sử dụng nhân lực chưa
có sự tương thích hoàn toàn. Ðộ chênh giữa nhà trường và doanh nghiệp còn khá lớn, hơn
nữa doanh nghiệp cũng chưa có chiến lược, kế hoạch dài hạn về nhu cầu nhân lực của
mình đồng thời chưa thật sự chủ động tham gia, góp sức vào quá trình đào tạo nhân lực.
Đặc điểm lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh:
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, thị trường lao động có đặc điểm như sau:
1. Quá trình đô thị hóa, nhập cư và chuyển dịch lao động dẫn đến tình trạng
phân bố nhân lực không đồng đều giữa các khu vực kinh tế; ngành kinh tế, tạo mất cân
đối nhu cầu nhân lực và nhu cầu việc làm.
2. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang phát triển năng động, quan tâm hơn đến
chính sách phát triển nguồn nhân lực. Đây là môi trường phù hợp đối với đa số lao động
là sinh viên, học sinh ra trường còn thiếu kinh nghiệm và kỹ năng nghề.
3. Sự gắn kết giữa người sử dụng lao động và người lao động vẫn chưa đồng
nhất. Đối với người sử dụng lao động (doanh nghiệp) yếu tố cơ bản về vấn đề tuyển chọn,
sử dụng lao động là năng lực chuyên môn và năng suất lao động. Đối với người lao động
yếu tố cơ bản về vấn đề việc làm là tiền lương, địa điểm cư trú và địa điểm việc làm,
chính sách sử dụng lao động tạo động lực ổn định.
4. Nhân lực luôn được đào tạo, đào tạo bổ sung, đào tạo lại để thay thế các vị
trí không còn phù hợp hoặc chỗ làm việc mới yêu cầu trình độ, chất lượng lao động,
Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010

22

ngành nghề chuyên môn với các tiêu chuẩn quốc tế và khu vực. Vì vậy yêu cầu người lao
động phải tự học tập trang bị, nâng cao trình độ nghề và các kỹ năng nghề.
5. Sự thay đổi tích cực về nhận thức và biện pháp đào tạo gắn liền với sử dụng
lao động và cân đối theo trình độ chuyên môn, cân đối ngành nghề để thực hiện việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
6. Mức độ dịch chuyển lao động, thay đổi chỗ làm việc của Thành phố vẫn ở
mức độ cao từ 25% đến 30% tổng nguồn nhân lực đang làm việc. Hình thức việc làm bán
thời gian phát triển nhanh, đa dạng ngành nghề
7. Hạn chế về công tác quản lý nguồn nhân lực và Thành phố vẫn chưa tổ chức
được hệ thống dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động một cách đầy đủ
và chuẩn xác. Chính từ việc chưa thực hiện được tốt công tác cụ thể về số lượng ngành
nghề, trình độ, kỹ năng của lực lượng lao động và chưa thực hiện được việc thống kê,
phân tích nhu cầu nhân lực của nhà tuyển dụng nên đào tạo chưa định hướng và chưa gắn
với nhu cầu của thị trường lao động; người lao động tìm việc làm thiếu thông tin về việc
làm, người sử dụng lao động thiếu thông tin về cung - cầu lao động ảnh hưởng đến đầu
tư sản xuất – kinh doanh và phát triển nguồn nhân lực Thành phố
Sự mất cân đối trong việc đào tạo nguồn nhân lực và nhu cầu thực tế của xã Hội .
Bởi hiện có trên 60% sinh viên theo học các ngành kinh tế trong khi định hướng phát
triển kinh tế-xã hội của Thành phố (năm 2011 đến 2015) tập trung vào các nhóm ngành
kỹ thuật (cơ khí, điện tử, tin học; hóa chất và chế biến lương thực-thực phẩm), cùng với
đó là các nhóm dịch vụ (tài chính-tín dụng-ngân hàng-bảo hiểm; thương mại; vận tải; kho
bãi; bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin-truyền thông ; kinh doanh tài sản-bất
động sản; dịch vụ tư vấn; khoa học-công nghệ; du lịch; y tế; giáo dục-đào tạo). Điều này
cũng đồng nghĩa với việc Thành phố đang cần một nguồn nhân lực dồi dào về các ngành
nghề kỹ thuật, sản xuất
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, tổng số sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng
tốt nghiệp ra trường hàng năm tại Thành phố có 55.000 – 60.000 người bao gồm các
ngành nghề chuyên môn kỹ thuật chiếm 40%, các ngành nghề chuyên môn quản lý -

nghiệp vụ chiếm 60% tổng số ngành nghề được đào tạo.
Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
23

Tuy nhiên thực trạng chung là phần lớn sinh viên tốt nghiệp ra trường vẫn còn gặp
nhiều khó khăn trong tìm kiếm việc làm phù hợp và ổn định, do chưa định hướng đúng
mức về nghề nghiệp – việc làm, vì một số sinh viên chọn ngành học chưa phù hợp năng
lực, sở trường và xu hướng phát triển thị trường lao động. Mặt khác các doanh nghiệp rất
quan tâm tuyển chọn đối với sinh viên tốt nghiệp về kiến thức ngoại ngữ, khả năng hợp
tác, kỹ năng làm việc, kỹ năng giao tiếp, những hiểu biết về môi trường văn hóa doanh
nghiệp và tác phong làm việc công nghiệp. Sự hạn chế lớn của sinh viên khi ra trường, đa
số chưa định hướng được cụ thể để chọn một ngành chuyên môn phù hợp với khả năng,
đồng thời do hệ thống thông tin thị trường lao động; hoạt động tư vấn giới thiệu việc làm
Thành phố chưa cập nhật kịp thời để gắn kết sinh viên và doanh nghiệp đạt hiệu quả cao.
Theo khảo sát của Trung tâm Dự báo Nhu cầu nhân lực và Thông tin Thị trường Lao
động Thành phố Hồ Chí Minh thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Thành phố
Hồ Chí Minh chỉ có khoảng 80% sinh viên sau khi tốt nghiệp là tìm được việc làm, còn
20% tìm việc rất khó khăn hoặc không tìm được việc làm phải chuyển đổi ngành học
hoặc làm những công việc thấp hơn trình độ đào tạo. Trong tổng số sinh viên tìm được
việc làm chỉ có 50% là có việc làm phù hợp năng lực và phát triển tốt, 50% vẫn phải làm
việc trái ngành nghề, thu nhập thấp; việc làm chưa thật sự ổn định và có thể phải chuyển
việc làm khác.
Hiện nay và những năm tới, thị trường lao động Thành phố Hồ Chí Minh (về nhu
cầu việc làm) tiếp tục phát triển theo chiều hướng đổi mới công nghệ, nâng cao quản lý;
phát triển quy mô sản xuất kinh doanh, quy mô doanh nghiệp tạo nhiều chỗ làm mới thu
hút lao động với nhiều ngành nghề đa dạng, đặc biệt nhu cầu việc làm chất lượng cao.
Thực tế về thị trường lao động không có ngành nghề nào sẽ là “hot” hoặc lên
“ngôi”. Năm 2011 và những năm sắp tới do nền kinh tế phục hồi và phát triển, nhiều
doanh nghiệp sẽ tăng nhu cầu thường xuyên tuyển lao động bao gồm lao động quản lý;
chuyên môn kỹ thuật và lao động phổ thông để đào tạo nghề gắn bố trí việc làm. Đối với

các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ phát triển năng động, tăng quy mô, quan tâm đến chính
sách phát triển nhân lực, đây là môi trường phù hợp với đa số người lao động là sinh
viên, học sinh mới ra trường còn thiếu kinh nghiệm và kỹ năng nghề. Các trường đào tạo
Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
24

nghề cũng trong quá trình chuyển đổi, tạo gắn kết đào tạo với doanh nghiệp đào tạo theo
nhu cầu xã hội và hoàn thiện các tiêu chuẩn đào tạo nghề là điều kiện thuận lợi để người
lao động học nghề, tìm việc mới hoặc tái đào tạo nghề gắn nhu cầu việc làm.
2.3 Các chính sách đãi ngộ của Thành phố về việc sử dụng lao động
Chương trình phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Nhằm đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập
sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, giai đoạn tới Thành phố sẽ tập trung đầu tư vào các
nhóm đối tượng đặc biệt, có vai trò quyết định và tạo sự đột phá trong phát triển nhân lực
và phát triển kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn 2010 đến 2015 sẽ ưu tiên phát triển nhân
lực đủ để cung cấp cho những ngành có hàm lượng công nghệ, giá trị gia tăng cao.
Xuất phát từ thực tiễn, nhu cầu đào tạo nhân lực kỹ thuật nghiệp vụ trung cấp phải đạt
đến nửa triệu người vào năm 2020. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo phải đạt 70% vào năm
2015 và 80% vào năm 2020 trong đó lao động ở bốn ngành công nghiệp và chín ngành
dịch vụ trọng điểm phải đạt 100%.
Ông Nguyễn Thành Tài - Phó Chủ tịch Thường trực UBND Thành phố Hồ Chí
Minh cho biết để đạt được mục tiêu trên, Thành phố sẽ có những chính sách ưu đãi riêng
để thu hút nhân tài, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để người lao động phát huy năng
lực của mình. Chính sách đãi ngộ đối với người tài là một chính sách lâu dài, cần có lộ
trình cụ thể, từng bước để họ gắn bó lâu dài với Thành phố và ra sức cống hiến. Một giải
pháp quan trọng trong công tác đào tạo nhân lực có trình độ, chuyên môn là phải tăng
cường hợp tác, liên kết giữa các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và
các trung tâm dạy nghề với các đơn vị sản xuất, tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn Thành
phố nhằm nâng dần tính tương thích giữa đào tạo và sử dụng lao động. Để tăng cường sự
hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp, Thành phố Hồ Chí Minh sẽ xem xét và tiến tới

tổ chức hội chợ đào tạo. Đây sẽ là cầu nối để các doanh nghiệp gặp gỡ trực tiếp với
trường, nhằm hướng tới chương trình đào tạo mà xã hội cần chứ không đào tạo cái các
trường có.
Phó Giám đốc Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao
động Thành phố Hồ Chí Minh Trần Anh Tuấn cho rằng, để hạn chế tình trạng thiếu hụt
Tiểu luận: Tình hình sử dụng lao động ở Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2010
25

lao động và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp yêu cầu phát triển Thành
phố, cần tiếp tục phát triển chương trình tái cấu trúc kinh tế gắn tái cấu trúc nhân lực phù
hợp với yêu cầu phát triển. Đối với công tác đào tạo cần chú trọng định hướng các trường
dạy nghề xây dựng và tổ chức thực hiện chuẩn đầu ra chung cho từng ngành đáp ứng
được yêu cầu xã hội. Tăng cường sự liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa công tác hướng
nghiệp, tuyển sinh, đào tạo, thực tập với nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp và xã
hội. Quan trọng hơn, trong chiến lược phát triển bền vững và lâu dài nguồn nhân lực chất
lượng cao, Thành phố Hồ Chí Minh phải nhanh chóng cải cách hệ thống giáo dục đào
tạo từ cấp quận cho tới cơ sở, nhất là về mặt nội dung phương pháp đào tạo. Nhận thức
được tầm quan trọng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đã trở thành một trong
sáu chương trình đột phá đã được Ðại hội Ðảng bộ Thành phố lần thứ 9 thông qua nhằm
đưa Thành phố Hồ Chí Minh phát triển lên một tầm cao mới, xứng đáng là đầu tàu mạnh
mẽ cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cũng như cả nước.












×