Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất trong công cuộc đổi mới kinh tế ở tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.12 KB, 25 trang )

TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH NGHỆ AN

TIỂU LUẬN HẾT MƠN HỌC
Mơn: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN

HỌ VÀ TÊN: ĐỖ MAI TRANG
ĐƠN VỊ CÔNG TÁC: TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LỚP: K51.7

Nghệ An, ngày 16 tháng 8 năm 2021


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – XÍT VỀ QUY LUẬT
QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT ................................................... 4
1.1 PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT .................................................................................................... 4
1.2 LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT ........................................................................................................ 5
1.3 QUAN HỆ SẢN XUẤT ............................................................................................................. 6
1.4 QUY LUẬT VỀ SỰ PHÙ HỢP GIỮA QUAN HỆ SẢN XUẤT VỚI TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT
TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT .......................................................................................................... 8

1.4.1

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực

lượng sản xuất 8
1.4.2

Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành và phát triển quan hệ sản xuất........... 9

1.5 QUAN HỆ SẢN XUẤT TÁC ĐỘNG TRỞ LẠI LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT ....................................... 10


1.6 MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤ VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT .............. 11
1.7 KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 12
CHƯƠNG 2. SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở TỈNH NGHỆ AN TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ........................................................................................................................ 14
2.1 KẾT QUẢ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ VĂN HĨA THEO BÁO CÁO CHÍNH TRỊ TẠI ĐẠI HỘI
ĐẢNG BỘ TỈNH NGHỆ AN LẦN THỨ XIX, NHIỆM KỲ 2020 - 2025......................................................... 14
2.1.1

Về kết quả phát triển kinh tế .................................................................................. 15

2.1.2

Về kết quả thực hiện các mũi trọng điểm trong phát triển..................................... 16

2.1.3

Về kết quả phát triển các vùng trọng điểm ............................................................ 16

2.1.4

Về kết quả phát triển văn hóa, xã hội .................................................................... 17

2.2 HẠN CHẾ, KHUYẾT ĐIỂM VÀ NGUYÊN NHÂN CHƯA THỰC HIỆN THÀNH CÔNG TRIỆT ĐỂ
NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XVIII, GIAI ĐOẠN 2016-2020 ............................................................................. 17
2.2.1

Hạn chế, khuyết điểm ............................................................................................. 17

2.2.2


Nguyên nhân hạn chế, khuyết điểm........................................................................ 19

2.3 ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT ....................................................................................................... 20
2.3.3

Lực lượng sản xuất còn thấp, chưa đồng đều ........................................................ 21

2.3.4

Quan hệ sản xuất còn chưa phát triển ổn định ...................................................... 22

KẾT LUẬN ................................................................................................................................. 24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 25

2


LỜI GIỚI THIỆU
Nền văn minh nhân loại, suy cho cùng, chính là sự phát triển đúng hướng
mà lực lượng sản suất là yếu tố quyết định. Trải qua quá trình lịch sử phát triển
lâu dài, xã hội loài người đã trải qua nhiều nhiều hình thái kinh tế ở đó xã hội
trong mỗi hình thái ln gắn liền với quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với tinh chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất cũng đóng vai trị là nền tảng hình thành tất cả các quan hệ
xã hội và đời sống tinh thần xã hội.
Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là sự giải thích
khoa học nhất cho sự tồn tài và phát triển của một xã hội, thu nhỏ hơn là xã hội
trong một phạm vi địa lý cụ thể như một quốc gia, một vùng miền, một tỉnh hay
một vùng đô thị kinh tế. Việc làm rõ sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực

lượng sản xuất cùng với ảnh hưởng của nó tới quá trình phát triển kinh tế của
vùng địa lý chính là địi hỏi cấp thiết cả về mặt lí luận, thực tiễn quản lí cũng
như cơng cuộc cải cách nền hành chính quốc gia hay vùng lãnh thổ trải qua hình
thái kinh tế mà nó quy định. Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách
kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm
tàng của vùng địa lý và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất
XHCN.
Đối với những vấn đề xã hội chính là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với lực lượng sản xuất là vấn đề cần được quan tâm, để tìm ra được những biện
pháp thích hợp. Chính vì lí do đó, đề tài “Quy luật về sự phù hợp giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất với việc phát triển lực lượng sản xuất
tại địa phương” đi sâu làm rõ các cơ sở lý luận về sự phù hợp giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản suất trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Leenin, từ đó vận dụng
vào phân tích về sự phát triển lực lượng sản xuất tại địa bàn tỉnh Nghệ An.
3


Chương 1. QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – XÍT
VỀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT
Một trong những cống hiến vĩ đại của C.Mác là phát hiện Chủ nghĩa duy
vật lịch sử - đây là bước ngoặt có tính cách mạng trong lịch sử triết học của nhân
loại. Bằng phương pháp biện chứng và lập trường duy vật về lịch sử, Mác đã tìm
ra quy luật phát triển của xã hội lồi người qua các thời kỳ lịch sử. Với cống hiến
này, lần đầu tiên lịch sử được nhận thức và lý giải đúng như bản thân nó, khách
quan và chân thực.
Theo C.Mác, xã hội phát triển qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp
đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn nhất định là một hình thái kinh tế - xã hội;
sự vận động thay thế các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử do các quy luật

khách quan chi phối - đó là một q trình lịch sử tự nhiên, mà nguồn gốc sâu xa
của sự vận động phát triển đó là do sự phát triển của lực lượng sản xuất, C.Mác
khẳng định: “Chỉ có đem những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và
đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của lực lượng sản xuất thì người ta
mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của các hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên” [1].
Trong chương này chúng tôi đưa ra cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-xít
về quy luật tồn diện về quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, từ đó
làm căn cứ để vận dụng giải thích những chiến lược phát triển kinh tế của địa
phương trong giai đoạn hiện nay.
1.1 Phương thức sản xuất

Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất
vật chất ở những giai đoạn nhất định trong lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội
loài người. Phương thức sản xuất đóng vai trị nhất định đối với tất cả mọi mặt
trong đời sống kinh tế xã hội. Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa
4


lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. Xã
hội loài người trải qua các hình thái kinh tế xã hội và mỗi hình thái có một
phương thức sản xuất riêng, đó là cách thức con người thực hiện quá trình sản
xuất vật chất ở một giai đoạn lịch sử nhất định trong lịch sử tồn tại và phát triển
của xã hội. Phương thức sản xuất đóng vai trị nhất định đối với tất cả mọi mặt
trong đời sống kinh tế xã hội của loài người.
1.2 Lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
trong quá trình sản xuất. Nghĩa là trong quá trình thực hiện sản xuất giá trị cho xã
hội, con người chinh phục tự nhiên bằng tổng hợp các sức mạnh hiện thực của

mình nhằm khống chế tự nhiên. Đó là kết quả năng lực thực tiễn của con người
tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đảm bảo sự tồn tại và phát triển
của loài người. lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người trong
quá trình sản xuất tạo ra của cải xã hội.
Tư liệu sản xuất được cấu thành từ hai bộ phận đó là đối tượng lao động
và tư liệu lao động. Thơng thường trong q trình sản xuất phương tiện lao động
còn được gọi là cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. Trong bất kỳ một nền sản xuất nào
công cụ sản xuất bao giờ cũng đóng vai trị là then chốt và là chỉ tiêu quan trọng
nhất. Hiện nay công cụ sản xuất của con người khơng ngừng được cải thiện và
dẫn đến hồn thiện, nhờ thành tựu của khoa học kỹ thuật đã tạo ra cơng cụ lao
động cơng nghiệp máy móc hiện đại thay thế dần lao động của con người. Do đó
cơng cụ lao động luôn là độc nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất.
Bất kỳ một thời đại lịch sử nào, công cụ sản xuất bao giờ cũng là sản
phẩm tổng hợp, đa dạng của toàn bộ những phức hợp kỹ thuật được hình thành và
gắn liền với quá trình sản xuất và phát triển của nền kinh tế. Nó là sự kết hợp của
nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất và trực tiếp nhất là trí tuệ con người được
nhân lên trên cơ sở kế thừa nền văn minh vật chất trước đó.
5


Tư liệu lao động dù có tinh sảo và hiện đại đến đâu nhưng tách khỏi con
người thì nó cũng khơng phát huy tác dụng của chính bản thân. Chính vậy mà Lê
Nin đã viết: “ lực lượng sản xuất hàng đầu của tồn thể nhân loại là cơng nhân, là
người lao động “. Người lao động với những kinh nghiệm, thói quen lao động, sử
dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Tư liệu sản xuất với tư cách là
khách thể của lực lượng sản xuất, và nó chỉ phát huy tác dụng khi nó được kết
hợp với lao động sống của con người . Đại hội VII của Đảng đã khẳng định: “ Sự
nghiệp phát triển kinh tế đặt con người lên vị trí hàng đầu, vị trí trung tâm thống
nhất tăng trưởng kinh tế với công bằng khoa học và tiến bộ xã hội”.
Người lao động với tư cách là một bộ phận của lực lượng sản xuất xã hội

phải là người có thể lực, có tri thức văn hố, có trình độ chun mơn nghiệp vụ
cao, có kinh nghiệm và thói quen tốt, phẩm chất tư cách lành mạnh, lương tâm
nghề nghiệp và trách nhiệm cao trong công việc. Trước đây do chưa chú trọng
đúng mức đến vị trí của người lao động, chúng ta chưa biết khai thác phát huy
mọi sức mạnh của nhân tố con người. Đành rằng năng lực và kinh nghiệm sản
xuất của con người còn phụ thuộc vào những tư liệu sản xuất hiện có mà họ đang
sử dụng. Nhưng tích cực sáng tạo của họ đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.3 Quan hệ sản xuất

Quan hệ sản xuất là phạm trù triết học chỉ mối quan hệ giữa con người với
con người trong quá trình sản xuất vật chất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Cũng
như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất xã hội.
Tính vật chất của quan hệ sản xuất được biểu hiện ở chỗ chúng tồn tại khách quan
độc lập với ý thức con người. Mỗi loại quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất
kinh tế của một phương thức sản xuất nhất định.
Quan hệ sản xuất bao gồm (1) Quan hệ giữa người với người trong việc
chiếm hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu (gọi tắt là quan hệ sở hữu), (2) Quan hệ
giữa người với người trong việc tổ chức, quản lý xã hội và trao đổi hoạt động cho
6


nhau (gọi tắt là quan hệ tổ chức, quản lý) và (3) Quan hệ giữa người với người
trong phân phối, lưu thông sản phẩm làm ra (gọi tắt là quan hệ phân phối lưu
thông). Mặc dù quan hệ sản xuất do con người tạo ra nhưng sự hình thành và phát
triển có tính chất cách khách quan mà khơng phụ thuộc vào ý chí con người.
Ba yếu tố của quan hệ sản xuất nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau,
trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả
những quan hệ khác. Bản chất của bất kì quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ
thuộc vào việc những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội thuộc về sở hữu của
ai.

Trong cải tạo và củng cố quan hệ sản xuất vấn đề quan trọng mà Đại hội
VI nhấn mạnh là phải tiến hành cả ba mặt đồng bộ: chế độ sở hữu, chế độ quản lý
và chế độ phân phối mà không nên coi trọng một mặt nào cả về mặt lý luận,
khơng nghi ngờ gì rằng: chế độ sở hữu là nền tảng quan hệ sản xuất. Nó là đặc
trưng để phân biệt chẳng những các quan hệ sản xuất khác nhau mà còn các thời
đại kinh tế khác nhau trong lịch sử như Mác đã nói.
− Thực tế lịch sử cho thấy rõ bất cứ một cuộc cách mạng xã hội nào đều
mang một mục đích kinh tế là nhằm bảo đảm cho lực lượng sản xuất có
điều kiện tiếp tục phát triển thuận lợi và đời sống vật chất của con người
cũng được cải thiện. Đó là tính lịch sử tự nhiên của các quá trình chuyển
biến giữa các hình thái kinh tế – xã hội trong quá khứ và cũng là tính lịch
sử tự nhiên của thời kỳ quá độ từ hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ
nghĩa sang hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa.
− Xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất định thì tính chất của sở
hữu cũng quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt khác trong
mỗi hình thái kinh tế – xã hội nhất định quan hệ sản xuất thống trị bao giờ
cũng giữ vai trị chi phối các quan hệ sản xuất khác ít nhiều cải biến chúng
để chẳng những chúng khong đối lập mà còn phục vụ đắc lực cho sự tồn tại
và phát triển của chế độ kinh tế – xã hội mới.
7


Nếu suốt trong q khứ, đã khơng có một cuộc chuyển biến nào từ hình
thái kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác mà hồn tồn là một
q trình tiến hố êm ả, thì thời kỳ quá độ từ hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ
nghĩa hoặc trước tư bản chủ nghĩa sang hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa trong
thời đại ngày nay càng không thể là một quá trình êm ả. Chủ nghĩa Mác – Lênin
chưa bao giờ coi hình thái kinh tế – xã hội nào đã tồn tại kể từ trước đến nay là
chuẩn nhất.
1.4 Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát

triển của lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau, hình
thành quy luật phổ biến của tồn bộ lịch sử loài người : quy luật về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật
này vạch rõ sự phụ thuộc của quan hệ sản xuất vào sự phát triển của lực lượng
sản xuất, đồng thời quan hệ sản xuất cũng tác động trở lại lực lượng sản xuất.
1.4.1 Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt hợp thành của phương
thức sản xuất và có tác động qua lại biện chứng với nhau. Việc đẩy quan hệ sản
xuất lên quá xa so với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
một hiện tượng tương đối phổ biến ở nhiều nước xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Nguồn gốc của tư tưởng sai lầm này là bệnh chủ quan, duy ý chí, muốn “thần
tốc” đạt được chủ nghĩa xã hội mà bất chấp qui luật khách quan của sự vận động
biện chứng khách quan. Về mặt phương pháp luận, đó là chủ nghĩa duy vật siêu
hình, quá lạm dụng mối quan hệ tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự lạm dụng này biểu hiện ở “Nhà nước

8


chun chính vơ sản có khả năng chủ động tạo ra quan hệ sản xuất mới để mở
đường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất”.
Nhưng khi thực hiện người ta đã quên rằng sự “chủ động” không đồng
nghĩa với sự chủ quan tuỳ tiện, con người không thể tự do tạo ra bất cứ hình thức
nào của quan hệ sản xuất mà mình mong muốn. Ngược lại quan hệ sản xuất luôn
luôn bị qui định một cách nghiêm ngặt bởi trạng thái của lực lượng sản xuất, bởi
quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan

hệ sản xuất chỉ có thể mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển khi mà nó
được hồn thiện tất cả về nội dung của nó, nhằm giải quyết kịp thời những mâu
thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
1.4.2 Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành và phát triển quan hệ sản
xuất
Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển, sự biến đổi bao
giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi của lực lượng sản xuất. Trong quá trình sản
xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người ln ln
tìm cách cải biến cơng cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động tinh
xảo hơn. Lực lượng lao động qui định sự hình thành và biến đổi quan hệ sản xuất
khi quan hệ sản xuất. Khi quan hệ sản xuất khơng thích ứng với trình độ, tính chất
của lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất thì nó
kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất và ngược lại.
Bên cạnh sự phát triển của công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất,
thói quen lao động, kĩ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng song
hành tiến bộ. lực lượng sản xuất trở thành yếu tố động nhất, cách mạng nhất. Còn
quan hệ sản xuất tương đối ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn sự phát triển
của lực lượng sản xuất. lực lượng sản xuất là nội dung còn quan hệ sản xuất là
hình thức xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội
dung quyết định hình thức, hình thức phụ thuộc vào nội dung, nội dung thay đổi
trước cịn hình thức thay đổi theo. Tất nhiên trong quan hệ với nội dung thì hình
9


thức khơng phải là mặt thụ động, nó cũng tác động trở lại đối với sự phát
triển của nội dung.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng
hình thành và biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Sự phù hợp đó là động lực làm cho lực lượng sản xuất phát triển
mạnh mẽ. Nhưng lực lượng sản xuất thường phát triển nhanh còn quan hệ sản

xuất có xu hướng ổn định. Khi lực lượng sản xuất đã phát triển lên một trình độ
mới, quan hệ sản xuất cũ khơng cịn phù hợp nữa sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt
giữa hai mặt của phương thức sản xuất. Sự phát triển khách quan đó tất yếu dẫn
đến việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng
sản xuất phát triển
1.5 Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất

Quan hệ sản xuất khi đã được xác lập thì nó độc lập tương đối với lực
lượng sản xuất và trở thành những cơ sở và những thể chế xã hội và nó khơng thể
biến đổi đồng thời đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất thường lạc hậu so
với lực lượng sản xuất vì thế nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ sản xuất
và tính chất của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Bằng khơng, nếu nó lạc hậu so với lực lượng sản xuất thì nó cũng vẫn kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Song sự kìm hãm đó chỉ có tính chất
tạm thời, theo quy luật khách quan thì lực lượng sản xuất sẽ phá vỡ quan hệ sản
xuất đã lỗi thời để xác lập quan hệ sản xuất mới để phù hợp với sự phát triển của
lực lượng sản xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng
sản xuất vì nó qui định mục đích của sản xuất qui định hệ thống tổ chức quản lý
sản xuất và quản lý xã hội, qui định phương thức phân phối và phần của cải ít hay
nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng tới thái độ tất cả quần
10


chúng lao động. Nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát
triển cơng cụ sản xuất, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất hợp tác
phân công lao động quốc tế.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất là quy luật chung nhất của sự phát triển của xã hội, sự

tác động của quy luật này đã đưa xã hội lồi người trải qua 4 giai đoạn theo đó là
sự ra đời của 4 phương thức sản xuất.
Để chống lại thiên nhiên con người hợp nhau lại theo đó là cộng đồng
xã hội nguyên thuỷ. Công cụ bằng kim loại thay thế đồ đá, lực lượng sản xuất
phát triển sẽ mở ra sản phẩm thặng dư sẽ dẫn đến sự ra đời chế độ chiếm hữu
nô lệ. Mâu thuẫn gay gắt giữa nô lệ và chủ nô cho ra đời giai cấp phong kiến.
lực lượng sản xuất dần mang nhiều yếu tố xã hội, tô tiền thay thế cho tô hiện vật,
tô lao dịch, quan hệ sản xuất phong kiến chật hẹp đã bị thay thế bằng quan hệ sản
xuất TBCN. Sự tiến bộ về khoa học kĩ thuật, người dân có trí tuệ và chun
mơn hố cao dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao
của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX. Để giải
quyết mâu thuẫn này địi hỏi phải có một quan hệ sản xuất mới ra đời đó là quan
hệ sản xuất XHCN. Đó chính là phương thức sản xuất thứ năm mà loài người sẽ
tiến tới.
Như vậy, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất là
quy luật chung của sự phát triển xã hội qua sự thay thế kế tiếp nhau từ thấp đến
cao của phương thức sản xuất.
1.6 Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi. Sự biến đổi
đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất
mà trước hết là công cụ lao động. Công cụ phát triển đến mâu thuẫn gay gắt
với quan hệ sản xuất hiện có và xuất hiện địi hỏi khách quan phải xố bỏ quan
11


hệ sản xuất cũ thay thế bằng quan hệ sản xuất mới. Như vậy quan hệ sản xuất vốn
là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất (phù hợp), quan hệ sản xuất trở
thành xiềng xích trói buộc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất (không
phù hợp). Phù hợp và không phù hợp là biểu hiện của mâu thuẫn biện chứng của

lực lượng sản xuất. Tức là sự phù hợp trong mâu thuẫn và bao hàm mâu thuẫn.
Khi phù hợp cũng như lúc không phù hợp với lực lượng sản xuất, quan
hệ sản xuất ln có tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất, thể hiện trong
nội dung sự tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất, quy định mục đích của
sản xuất. Xu hướng phát triển của quan hệ lợi ích, từ đó hình thành các yếu tố
hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
1.7 Kết luận

Như vậy, trong chương này chúng ta đã thấy Chủ nghĩa Mác-xit nêu rõ, trong
phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt có mối quan
hệ biện chứng với nhau làm cho sản xuất phát triển. Lực lượng sản xuất là sự thống
nhất hữu cơ giữa người lao động với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Con người khơng thể sản xuất có hiệu quả nếu tiến hành riêng lẻ, mà phải liên kết,
phối hợp với nhau, quan hệ tác động với nhau. Bởi vậy, thiếu một trong hai mối quan
hệ này thì khơng thể có sản xuất vật chất.
Trong đó, vai trị quyết định thuộc về lực lượng sản xuất. Mỗi loại hình quan
hệ sản xuất được xác lập trên cơ sở thích ứng với một trạng thái, trình độ phát triển
nhất định của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất biến đổi thì quan hệ sản xuất
cũng biến đổi theo, sự phát triển của lực lượng sản xuất là nguyên nhân sâu xa và là
động lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.
Mặc dù lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất nhưng do quan hệ sản
xuất quy định mục đích của sản xuất, quy định cách thức tổ chức, quản lý, phân công
sản xuất, quy định sự phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ và cơ chế thực hiện
lợi ích của con người vì vậy, tác động đến thái độ của con người trong sản xuất ... từ
12


đó hình thành những yếu tố, khuynh hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất.
Có thể thấy rằng, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực

lượng sản xuất là quy luật kinh tế cơ bản, phổ biến, chi phối mọi phương thức sản
xuất, không loại trừ một quốc gia dân tộc nào. Điều đó, địi hỏi chúng ta muốn phát
triển kinh tế đất nước hay kinh tế địa phương thì lãnh đạo và nhân dân cần phải nhận
thức đúng để hành động phù hợp với quy luật khách quan.

13


Chương 2. SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ
HỢP VỚI LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
KINH TẾ Ở TỈNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Trong công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh phát triển sản xuất, cải tạo
và xây dựng quan hệ sản xuất nhất thiết phải gắn liền với việc nhận thức và vận
dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
Ở các địa phương, những chính sách phát triển kinh tế, mặc dù có sự định
hướng của Nhà nước, lãnh đạo và nhân dân vẫn cần có những nhận thức sâu sắc về
quy luật quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản suất, từ đó kết hợp
với các yếu tố chủ quan, khách quan, nguồn lực và những thông số tác động khác mà
có những hành động phù hợp, thúc đẩy sự phát triển bền vững của địa phương mình.
Nghệ An là một tỉnh đồng bằng và trung du Bắc trung bộ, có nhiều đặc điểm
thuận lợi và khó khăn, mà khó khăn thì nhiều hơn. Xác định đi lên từ khó khăn do
những ảnh hưởng xấu về đặc điểm khí hậu, địa lý, từ sau thời kỳ cải cách, đổi mới đất
nước, Nghệ An từng bước khắc phục, đi lên, phát triển đồng thời nhiều mặt về văn
hóa, xã hội và kinh tế. Trong mọi hoạt động, Đảng Bộ Tỉnh Nghệ An đều đưa ra
những chiến lược trung và dài hạn, đưa vào nghị quyết các giai đoạn của các kỳ Đại
hội Đảng và kiên quyết thực hiện và báo cáo chi tiết [2].
2.1 Kết quả phát triển kinh tế và văn hóa theo Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng
bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025


Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XIX diễn ra từ ngày
16/10/2020 đến ngày 18/10/2020, tại thành phố Vinh, về cơ bản Nghệ An đã toàn
diện đạt được những chỉ tiêu mong muốn. Trong đó đáng nhấn mạnh, trong giai
đoạn 5 năm kể từ năm 2016 đến 2020, Nghệ An đã đạt được những phát triển khá
toàn diện như sau [2]:
14


2.1.1 Về kết quả phát triển kinh tế
+ Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) bình quân giai đoạn
2016 - 2020 ước đạt 7,84% và GRDP bình quân đầu người đến cuối năm 2020
ước đạt 44,34 triệu đồng.
+ Về vấn đề tái cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới đạt
nhiều kết quả quan trọng như tốc độ tăng trưởng khu vực nông, lâm, ngư nghiệp
bình quân giai đoạn 2016 - 2020 ước đạt 4,47%/năm. Số xã, huyện đạt tiêu chí
nơng thơn mới vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội và cao hơn mức bình qn cả
nước.
+ Về cơng nghiệp - xây dựng, Nghệ An tiếp tục phát triển và là động lực
chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016 2020 ước đạt 12,8%, trong đó: Ngành cơng nghiệp tăng bình qn 14,74%, xây
dựng tăng bình quân 10,57%.
+ Các dịch vụ phát triển nhanh, đồng đều, đa dạng, rộng khắp trên các lĩnh
vực, vùng miền với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế.
+ Kinh tế biển và vùng ven biển phát triển nhanh, khá toàn diện.
+ Hệ thống kết cấu hạ tầng tiếp tục được tập trung đầu tư xây dựng, nâng
cấp ngày càng đồng bộ. Hệ thống hạ tầng giao thông được ưu tiên đầu tư; Hạ tầng
đô thị được xây dựng, cải tạo, nâng cấp theo hướng văn minh, hiện đại; Hệ thống
thủy lợi tiếp tục được đầu tư xây dựng, nâng cấp, tu bổ nâng cao năng lực phục
vụ sản xuất; Hệ thống cung cấp nước sạch được quan tâm đầu tư; Hạ tầng cung
cấp điện được đầu tư xây dựng, cải tạo nâng cấp bảo đảm phục vụ tốt các hoạt
động trên địa bàn; Hạ tầng thương mại ngày càng phát triển và hồn thiện, bảo

đảm cung ứng hàng hóa phục vụ sản xuất, đời sống; Hạ tầng bưu chính, viễn
thông được đầu tư phát triển nhanh, đồng bộ, hiện đại.

15


2.1.2 Về kết quả thực hiện các mũi trọng điểm trong phát triển
+ Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ứng dụng công nghệ sinh học, công
nghệ mới, gắn với công nghiệp chế biến có nhiều chuyển biến tích
cực.
+ Cơng nghiệp công nghệ cao và công nghiệp chế biến gắn với khai thác
tiềm năng, lợi thế của tỉnh tiếp tục được đẩy mạnh.
+ Tập trung phát triển du lịch, dịch vụ trên cơ sở khai thác có hiệu quả
các loại hình du lịch có thế mạnh.
+ Hệ thống kết cấu hạ tầng và mạng lưới đô thị được tập trung đầu tư.
+ Cải cách thể chế kinh tế, trọng tâm là cải cách hành chính, tạo mơi
trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng tiếp tục được quan tâm, đẩy
mạnh.
+ Chương trình phát triển nguồn nhân lực đạt nhiều kết quả quan trọng.
2.1.3 Về kết quả phát triển các vùng trọng điểm
+ Kinh tế - xã hội của thành phố Vinh, thị xã Cửa Lị, các huyện Đơng
Nam của tỉnh gắn với vùng Nam Nghệ An - Bắc Hà Tĩnh có bước
phát triển khá tích cực. Tốc độ tăng trưởng bình qn giai đoạn 2016 2020 của thành phố Vinh ước đạt 8,62%, thu ngân sách bình qn
tăng 12,78%/năm, đóng góp khoảng 33,75% thu ngân sách toàn tỉnh
và là đầu tàu tăng trưởng kinh tế của tỉnh; Thị xã Cửa Lị có tốc độ
tăng trưởng bình qn đạt khoảng 13,8%/năm, trong đó du lịch, dịch
vụ là ngành kinh tế mũi nhọn.
+ Kinh tế - xã hội vùng Hoàng Mai - Quỳnh Lưu gắn với vùng Nam
Thanh Hóa - Bắc Nghệ An phát triển khá nhanh. Tốc độ tăng trưởng
của thị xã Hoàng Mai bình quân giai đoạn 2016 - 2020 ước đạt

15%/năm.
+ Kinh tế - xã hội vùng miền Tây Nghệ An, trọng điểm vùng là Tân Kỳ
- Con Cuông - Nghĩa Đàn – TX. Thái Hịa - Quỳ Hợp có bước phát
16


triển khá. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2016 - 2020
ước đạt 6,56%; giá trị tăng thêm bình qn đầu người bằng 70% so
với tồn tỉnh, tốc độ tăng thu ngân sách bình quân hàng năm ước đạt
20,6%.
2.1.4 Về kết quả phát triển văn hóa, xã hội
+ Giáo dục, giáo dục nghề nghiệp, giải quyết việc làm có nhiều chuyển
biến.
+ Văn hóa, thể thao, thơng tin và truyền thông tiếp tục phát triển, từng
bước kết hợp hài hịa với phát triển kinh tế.
+ Cơng tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được tăng cường.
+ Chính sách xã hội và bảo đảm an sinh xã hội tiếp tục thực hiện có
hiệu quả.
+ Lĩnh vực khoa học và cơng nghệ có nhiều khởi sắc, đóng góp hiệu
quả vào sự phát triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh những mặt về kinh tế, xã hội như đã đề cập chi tiết ở trên, Tỉnh
Nghệ An cũng có những bước phát triển về Công tác quản lý tài nguyên và bảo
vệ mơi trường, cơng tác cải cách hành chính, cơng tác xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị. Trong đó công tác xây dựng Đảng đạt nhiều kết quả quan trọng,
nổi bật, bao gồm nhiều đổi mới cả nội dung và hình thức.
Tuy nhiên, những mặt tồn tại, hạn chế cũng là những điểm mà Đại hội đã
nghiêm khắc chỉ ra, như được đề cạp sau đây.
2.2 Hạn chế, khuyết điểm và nguyên nhân chưa thực hiện thành công triệt để Nghị
quyết Đại hội XVIII, giai đoạn 2016-2020


2.2.1 Hạn chế, khuyết điểm
− Thực hiện cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực chuyển biến còn chậm; chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và
yêu cầu phát triển của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng GRDP, thu ngân sách chưa
17


đạt mục tiêu và yêu cầu cân đối ngân sách. Sản xuất nông nghiệp chưa thật
sự bền vững; quy mô sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông
nghiệp hữu cơ còn nhỏ; đổi mới tổ chức sản xuất cịn chậm. Phát triển cơng
nghiệp cịn khó khăn, nhất là việc thu hút đầu tư phát triển các dự án cơng
nghiệp có tính động lực, tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và thu ngân sách. Sản phẩm du lịch đã có bước cải thiện nhưng chưa tạo
được sự đột phá, chưa có nhiều cơ sở dịch vụ quy mơ lớn, chất lượng cao.
− Văn hóa - xã hội còn nhiều bất cập. Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Chất
lượng khám, chữa bệnh ở một số nơi còn thấp, nhất là tuyến huyện và cơ
sở; quản lý hoạt động hành nghề y, dược tư nhân, vệ sinh an tồn thực
phẩm cịn hạn chế nhất định.
− Công tác quản lý tài nguyên, môi trường, xây dựng, đô thị ở một số nơi
chưa đáp ứng yêu cầu. Cơng tác quản lý đất đai cịn nhiều bất cập, hiệu quả
sử dụng đất chưa cao. Khai thác khoáng sản trái phép vẫn tái diễn ở một số
địa phương. Vi phạm trật tự xây dựng, nhất là vi phạm tại các khu chung
cư, nhà cao tầng vẫn còn xảy ra
− An ninh, trật tự xã hội, khiếu kiện trong nội bộ nhân dân còn tiềm ẩn phức
tạp, nhất là ở các vùng đặc thù. Hoạt động của các tổ chức, đối tượng phản
động, cực đoan chống đối Nhà nước và tình hình tội phạm, tệ nạn ma túy
cịn phức tạp. Vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế, mơi trường, trật tự,
an tồn giao thơng vẫn cịn xảy ra. Công tác giải quyết đơn, thư khiếu nại,
tố cáo có lúc, có nơi chưa kịp thời, triệt để.

− Cơng tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị còn một số hạn chế.
Việc học tập, quán triệt và thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và
pháp luật của Nhà nước có lúc, có nơi cịn hình thức. Việc học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị
18


quyết TW 4 (khóa XI, XII) và các quy định nêu gương ở một số địa
phương, đơn vị hiệu quả chưa cao.
− Cải cách hành chính tuy có chuyển biến nhưng chưa đáp ứng yêu cầu đặt
ra. Quy trình xử lý cơng việc ở một số lĩnh vực cịn rườm rà, phức tạp,
chồng chéo. Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức ý thức, trách
nhiệm, tinh thần phục vụ, trình độ chun mơn, nghiệp vụ cịn yếu, hiệu
quả cơng việc thấp; tinh thần, thái độ trong giải quyết công việc thiếu
chuẩn mực, cịn có biểu hiện gây phiền hà, nhũng nhiễu.
− Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể nhân dân có lúc, có nơi
cịn mang tính hành chính hóa. Cơng tác tun truyền, vận động, phổ biến,
giáo dục pháp luật cho đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân có lúc,
có nơi chưa tốt. Chất lượng tham gia góp ý văn bản, giám sát, phản biện xã
hội cịn có mặt hạn chế.
2.2.2 Ngun nhân hạn chế, khuyết điểm
Những hạn chế, khuyết điểm trong q trình thực hiện Nghị quyết Đại hội
XVIII có ngun nhân khách quan, song trực tiếp và quyết định nhất là các
nguyên nhân chủ quan như [2]:
− Việc lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng một số chương trình, đề án thực hiện Nghị
quyết Đại hội còn chậm, chưa gắn với cơ chế, kế hoạch bố trí nguồn lực
thực hiện, tính khả thi, hiệu quả khơng cao. Đầu tư cơng cịn dàn trải, chưa
tập trung vào các cơng trình trọng điểm.
− Công tác quản lý, điều hành trên các lĩnh vực, nhất là việc thực hiện các
chương trình, đề án trọng điểm có lúc chưa quyết liệt, thường xuyên, liên

tục; thiếu kiểm tra, đôn đốc và bổ sung kịp thời các giải pháp chỉ đạo nâng
cao hiệu quả thực hiện.
− Sự phối hợp giữa các cấp, ngành có mặt chưa đồng bộ, thiếu chặt chẽ, nhất
là xử lý những vấn đề vướng mắc liên quan đến các dự án đầu tư, các vụ
việc tồn đọng, phức tạp.
19


− Tinh thần trách nhiệm, sự tâm huyết, tính năng động, sáng tạo, chuyên
nghiệp trong thực thi nhiệm vụ của một bộ phận cán bộ chưa cao. Việc xử
lý trách nhiệm tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu về những yếu kém,
sai phạm của địa phương, đơn vị có nơi chưa nghiêm túc, khơng kịp thời.
2.3 Đánh giá tổng quát

Thông qua báo cáo về các kết quả đạt được của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
thứ XIX, chúng ta có thể thấy mặc dù Đảng bộ và Nhân dân tỉnh Nghệ An đã
đoàn kết, nỗ lực, cố gắng, đạt được nhiều kết quả quan trọng, khá toàn diện trên
các lĩnh vực: Kinh tế tiếp tục tăng trưởng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng
hướng; cơ chế, chính sách, môi trường đầu tư kinh doanh, hệ thống kết cấu hạ
tầng và nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội từng bước được cải
thiện. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có tiến bộ, một số lĩnh vực khẳng định được
vai trò trung tâm vùng Bắc Trung Bộ, đời sống của người dân ngày càng được
nâng cao. Quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự, an tồn xã hội được bảo
đảm và có nhiều mặt chuyển biến tốt. Công tác xây dựng Đảng được tăng cường,
hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở ngày càng được củng cố và phát triển. Tuy
nhiên, Nghệ An vẫn là một tỉnh cịn nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế chưa bền
vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm; năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả,
sức cạnh tranh, tích lũy từ nội bộ nền kinh tế cịn thấp, một số chỉ tiêu chủ yếu khó
đạt mục tiêu đề ra; công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực chưa được thực
hiện tốt; tội phạm và tệ nạn ma túy còn tiềm ẩn phức tạp; đời sống của một bộ phận

nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa vẫn cịn nhiều khó khăn; một số nơi thuộc vùng
đặc thù còn tiềm ẩn những yếu tố dễ mất ổn định về an ninh, trật tự. Công tác cải
cách hành chính và năng lực chỉ đạo, điều hành, phối hợp của một số cấp, ngành
chưa thực sự quyết liệt, hiệu quả; trình độ năng lực, trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ
luật của một phận cán bộ, công chức, viên chức chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác
xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị có mặt còn hạn chế.
20


Phan tích sâu hơn về nguyên nhân dẫn đến những thành cơng và hạn chế,
xét theo quan điểm Mác-Xít về quy luật quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất, chúng ta có thể rút ra những nhận xét sau đây.
2.3.3 Lực lượng sản xuất còn thấp, chưa đồng đều
Như đã đề cập, Lực lượng sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao
động với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Theo thống kê của Cục
thống kê Nghệ An năm 2019, lực lượng lao động ở Nghệ An đạt 1.926.086
người, và tỉ lệ tham gia lao động 78,67%, trong đó, tỉ lệ lao động nữ tham gia
nhiều hơn so với nam (nữ là 50,2% và nam 49,8%) và tỉ lệ tham gia lực lượng
lao động của dân số khu vực nông thôn cao hơn khu vực thành thị (87,8% so với
12,2%). Lực lượng lao động của Nghệ An chủ yếu tập trung ở khu vực nông
thôn [3].
Về cơ cấu lực lượng lao động, nếu xét theo thành phần kinh tế, Năm
2019, Nghệ An có 1904,4 nghìn lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm, chiếm
98,85% tổng số lực lượng lao động của cả tỉnh. Trong đó, lao động đã qua đào
tạo chiếm 20,5%, phần lớn lao động đang làm việc trong nền kinh tế là lao động
nông, lâm, ngư nghiệp và lao động làm nghề giản đơn. Điều này chứng tỏ Nghệ
An vẫn là một tỉnh nông nghiệp, thị trường lao động đang ở mức thấp, vấn đề
đào tạo nguồn lao động có trình độ chun môn kỹ thuật được đặt ra hết sức cấp
bách.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế, cơ cấu lao động của Nghệ An đang

có sự chuyển dịch đúng hướng nhưng cịn chậm.
Về mặt chun mơn kỹ thuật, trình độ chun mơn kỹ thuật của lao động
Nghệ An cịn thấp, gây khó khăn khơng nhỏ cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa của tỉnh. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2019, trong tổng số
1.904,4 nghìn lao động có việc làm, chỉ có 20,5% đã qua đào tạo [3]. Trong đó,
số lao động có trình độ tay nghề và chun mơn kỹ thuật, trình độ đại học trở lên
chiếm tỉ lệ thấp. Tỉ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo ở khu vực thành thị cao
21


hơn so với khu vực nông thôn. Năm 2019, tỉ lệ lao động có trình độ chun mơn
kỹ thuật của khu vực thành thị chiếm 49,04% lực lượng lao động của thành thị,
trong đó trình độ cao đẳng và đại học trở lên chiếm 31,59%, cịn lại là lao động
có trình độ sơ cấp và trung cấp. Trong khi đó, lực lượng lao động nông thôn đã
được đào tạo chỉ chiếm tỉ trọng 10,32% và chủ yếu là trình độ sơ cấp và trung
cấp (5,41% tổng lực lượng lao động), số lao động khu vực nơng thơn đạt trình
độ cao đẳng trở lên chiếm 4,91% tổng lực lượng lao động nông thôn.
Nhận xét chung, Nguồn lao động ở Nghệ An nhìn chung năng lực tiếp
nhận, xử lý những kỹ năng và phong cách làm việc theo u cầu cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa cịn thấp, hạn chế kể cả về nhận thức, cơ sở vật chất - kỹ thuật,
phương pháp và cách thức tổ chức. Khoảng cách tụt hậu về cơ sở vật chất và
công nghệ của nền kinh tế cũng như của hệ thống đào tạo nguồn nhân lực còn
thiếu và lạc hậu.
Sự yếu kém về chất lượng nguồn nhân lực lao động là nguyên nhân chính
của sự chậm phát triển kinh tế so với các tỉnh trong cả nước và ngay cả các tỉnh
láng giềng (Thanh Hóa, Hà Tĩnh). Như quan điểm của chủ nghĩa Mác-xít, “vai
trị quyết định thuộc về lực lượng sản xuất”, sẽ hạn chế về kết quả lao động, hay
tài sản tạo ra của quá trình lao động nếu lực lượng sản xuất yếu kém. Lực lượng
sản xuất yếu kém sẽ dẫn đến sự chậm biến đổi về quan hệ sản xuất, và là nguyên
nhân sâu xa làm cho sản xuất chậm phát triển. Đây chính là nguyên nhân cơ bản

tác động đến sự chậm phát triển kinh kế của tỉnh nhà.
2.3.4 Quan hệ sản xuất còn chưa phát triển ổn định
Mặc dù lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất nhưng do quan hệ
sản xuất quy định mục đích của sản xuất, quy định cách thức tổ chức, quản lý,
phân công sản xuất, quy định sự phát triển và ứng dụng khoa học cơng nghệ và
cơ chế thực hiện lợi ích của con người vì vậy, tác động đến thái độ của con người

22


trong sản xuất…từ đó hình thành những yếu tố, khuynh hướng thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Có thể thấy rằng, mục đích của sản xuất trong các đường lối về mặt chính
sách của Nghệ An chưa thực sự rõ ràng, điều đó thể hiện ra trong Nghị quyết Đại
hội XVIII – Nghệ An chưa tập trung vào các cơng trình trọng điểm, đầu tư còn
dàn trải. Điều này chứng tỏ các cấp lãnh đạo trong việc điều hành dự án còn chưa
nhận thức sâu sắc và đầy đủ về mục tiêu sản xuất, chưa xác định được các mũi
nhọn trọng điểm phát triển kinh tế phù hợp với tình hình địa phương, phù hợp với
chất lượng nguồn lao động và đặc điểm giới tính, độ tuổi trung bình, trình độ
chun mơn kỹ thuật. Tất cả những điều này dẫn đến việc đầu tư đạt hiệu quả
chưa cao về mặt kinh tế. Còn một số khía cạnh khác, chẳng hạn như đầu tư thất
thốt, sai phạm…cũng ảnh hưởng rất nhiều đến phát triển kinh tế và văn hóa, tuy
nhiên vượt ra ngồi phạm vi bàn đến của tiểu luận này, vì vậy tơi xin phép không
bàn đến.

23


KẾT LUẬN
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của

lực lượng sản xuất là quy luật chung phổ biến đối với sự phát triển của xã hội,
chính quy luật này đã đưa xã hội lồi người trải qua 5 phương thức: cơng xã
nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, chủ nghĩa tư bản và xã hội chủ nghĩa.
Quy luật này chi phối tồn bộ tiến trình phát triển của lịch sử. Trong đó lực
lượng sản xuất là nội dung, là quá trình sản xuất. quan hệ sản xuất là hình thức
của quá trình sản xuất, hình thức của sản xuất bao giờ cũng ổn định hơn. Song sự
ổn định đó chỉ có tính chất tạm thời sớm muộn nó cũng thay đổi cho phù hợp.
Quan hệ sản xuất ra đời từ lực lượng sản xuất, nhưng khi ra đời nó có vai trị tác
động trở lại rất tích cực theo hai khuynh hướng. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, nó thúc đẩy sản xuất phát triển
nhanh. Nếu ngược lại nó sẽ kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Khi ra đời quan
hệ sản xuất quy định mục đích tính chất, khuynh hướng phát triển của sản xuất,
quy định hệ thống quản lí sản xuất, quản lí phân phối và quy định phân phối ít
hay nhiều mà người lao động được hưởng.
Việc vận dụng đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng
sản xuất ở quy mô quốc gia dân tộc hay ở vùng lãnh thổ, địa phương chính là cơ
sở cho việc hoạch định các đường lối đúng và phê phán các chủ trương, những
việc làm sai lầm trong việc xây dựng phương thức sản xuất mới. Đây là điều
kiện tiên quyết dẫn tới thành cơng. Ở Nghệ An, như đã phân tích, điều này còn
một số hạn chế, đáng chú ý là lực lượng sản xuất còn thiếu đồng bộ, chất lượng
lao động còn thấp.

24


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] V.I.Lênin Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Macxcova, 1978, t1, tr.163
[2] Tài liệu Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An khóa XVIII, XIX
[3] Cục Thống kê Nghệ An, Niên giám thống kê Nghệ An năm 2010.
Nxb Thống kê, 2019


25


×