Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời nói đầu
V.I Lênin đã viết : Chỉ có đem quy luật những quan hệ sản xuất xã hội
vào những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lợng sản xuất thì ngời ta
mới có đợc một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái
xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên . Thật vậy, sự tác động của quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của lực lợng sản xuất đã đợc
loài ngời qua những giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử thừa nhận. Nó
chính là quy luật vận động và phát triển của xã hội qua sự thay đổi kế tiếp từ thấp
đến cao của các phơng thức sản xuất. Vậy quan hệ sản xuất là gì? Lực lợng sản
xuất là gì? Quan hệ giữa chúng ra sao? Các nớc có nền kinh tế phát triển phải
chăng là nhờ quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lợng sản xuất, còn các nớc có
nền kinh tế kém phát triển lại không thấy có vấn đề này. Quy luật này đợc vận
dụng nh thế nào trên thế giới và ở nớc ta? Đó là những câu hỏi mang tính triết học
đã đợc đặt ra và cần phải giải quyết những câu hỏi đó.
Vì vậy, em đã chọn đề tài Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp tính chất,
trình độ của lực lợng sản xuất với việc phân tích tính tất yếu của nền kinh tế
nhiều thành phần trong thời kì qúa độ ở Việt Nam cho bài viết của mình. Do
thời gian và hiểu biết còn hạn chế nên bài viết không thể tránh đợc những sai sót.
Em rất mong có đợc những ý kiến đóng góp nhiệt tình của thầy cô để bài viết của
em đợc hoàn thiện hơn.
Nội dung triển khai
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
I-Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ
phát triển của lực lợng sản xuất.
Muốn tồn tại, phát triển, xã hội phải không ngừng hoạt động để sản xuất,
hay nói cách khác, sản xuất là đặc trng của con ngời và xã hội loài ngời. Sản xuất
bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất chính bản thân con ng-
ời, mà giữa chúng luôn có sự tác động qua lại.
Nền sản xuất xã hội là một thể thống nhất gồm nhiều mặt, nhiều mối liên
hệ, trong đó có hai loại quan hệ cơ bản : quan hệ giữa con ngời với tự nhiên, giữa
ngời với ngời trong quá trình sản xuất, trao đổi, tiêu dùng.
Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất không phải là hai bộ phận tách biệt
mà là hai loại quan hệ trong cùng một thực thể thống nhất cấu thành nên phơng
thức sản xuất. Trong quá trình sản xuất vật chất, con ngời không ngừng làm biến
đổi tự nhiên,biến đổi xã hội và biến đổi chính mình. Một trong những hiện tợng
xã hội đợc tìm thấy trong nền sản xuất vật chất là quan hệ sản xuất phải phù hợp
với tính chất, trình độ phát triển của lực lợng sản xuất vật chất. Đây cũng chính là
một nội dung cơ bản chi phối toàn bộ đời sống sản xuất xã hội .
Phơng thức sản xuất là cách thức con ngời thực hiện quá trình sản xuất vật chất
ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài ngời..Mỗi hình thái kinh tế xã
hội đợc đặc trng bởi một phơng thức sản xuất riêng đóng vai trò quyết định mọi
mặt của đời sống xã hội. Phơng thức sản xuất là sự thống nhất biện chứng giữa
lực lợng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tơng ứng. Nh vậy,
lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt đối lập nhng thống nhất trong
một phơng thức sản xuất.
Lực lợng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con ngời với tự nhiên trong
quá trình sản xuất. Lực lợng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con ngời
trong quá trình sản xuất vật chất. Lực lợng sản xuất bao gồm ngời lao động với kĩ
năng lao động của họ và t liệu sản xuất mà trớc hết là công cụ lao động. Trong
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
quá trình sản xuất, sức lao động của con ngời và t liệu sản xuất, trớc hết là công
cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lợng sản xuất. Trong các yếu tố của
lực lợng sản xuất, yếu tố ngời lao động đóng vai trò là chủ thể tác động vào đối t-
ợng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản
xuất, sức mạnh và kĩ năng lao động của con ngời ngày càng đợc nâng cao, đặc
biệt là trí tuệ của con ngời không ngừng phát triển, hàm lợng trí tuệ của lao động
ngày càng cao. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động
trí tuệ ngày càng đóng vai trò chính yếu.Cùng với ngời lao động, công cụ lao
động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lợng sản xuất, đóng vai trò quyết định
trong t liệu sản xuất. Công cụ lao động do con ngời tạo ra là sức mạnh tri thức
đã đợc vật thể hóa , nó là yếu tố động nhất của lực lợng sản xuất. Cùng với quá
trình tích lũy kinh nghiệm, với những phát minh sáng chế kỹ thuật, công cụ lao
động không ngừng đợc cải tiến và hoàn thiện, làm biến đổi toàn bộ t liệu sản xuất.
Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát
triển của công cụ lao động là thớc đo trình độ chinh phục tự nhiên của con ngời,
là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa ngời với ngời trong quá trình sản xuất ( sản
xuất và tái sản xuất xã hội ). Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt : quan hệ về sở hữu đối
với t liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân
phối sản phẩm làm ra.Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất
giữ vai trò quy định các quan hệ khác. Quan hệ sở hữu do con ngời tạo ra nhng
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con ngời. Quan hệ tổ chức và quản lý
sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển
quá trình sản xuất, nó có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy quá trình sản xuất. Quan hệ
trong phân phối sản phẩm lao động tuy do quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất và
quan hệ tổ chức quản lý chi phối, nhng nó kích thích trực tiếp đến lợi ích của con
ngời,tác động đến thái độ của con ngời trong lao động sản xuất và do đó co thể
thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, không có lực lợng sản xuất nào lại
không gắn bó với những quan hệ sản xuất nhất định. Nếu sản xuất với t cách là
mối liên hệ kỹ thuật giữa con ngời với tự nhiên chỉ đợc thực hiện thông qua các
quan hệ kinh tế xã hội, giữa ngời với ngời thì ngợc lại, những mối quan hệ kinh tế
xã hội đó cũng chỉ tồn tại đợc là nhờ có quan hệ giữa con ngời với tự nhiên trong
xã hội. Đây không phải là những mối liên hệ giản đơn, bất biến, không mâu thuẫn
mà là những mối quan hệ biện chứng phức tạp và không ngừng phát triển. Nh vậy,
giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng.
Khi trình độ lực lợng sản xuất còn thủ công thì nó mang tính chất cá nhân
thể hiện ở chỗ, chỉ một ngời có thể sử dụng đợc rất nhiều công cụ khác nhau
trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. Nh vậy tất yếu dẫn đến quan hệ sản
xuất sở hữu t nhân về t liệu sản xuất. Do đó quan hệ giữa ngời với ngời trong sản
xuất vật chất và đời sống xã hội là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột.
Khi công cụ cơ khí ra đời, trình độ sản xuất công nghiệp thì một ngời không
thể sử dụng đợc nhiều mà chỉ một công cụ lao động, hoặc một bộ phận, chức
năng của công cụ lao động ấy. Nh vậy, quá trình sản xuất phải nhiều ngời tham
gia, sản phẩm làm ra là thành quả của nhiều ngời. ở đây, lực lợng sản xuất đã
mang tính xã hội hóa và tất yếu dẫn đến quan hệ sản xuất sở hữu xã hội về t liệu
sản xuất. Nhờ đó, quan hệ giữa ngời với ngời trong mỗi cộng đồng là quan hệ
bình đẳng, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau.
Quan hệ sản xuất với t cách là hình thức xã hội của sản xuất, bao giờ cũng
thích ứng với một trình độ phát triển nhất định của lực lợng sản xuất. Trình độ
phát triển của lực lợng sản xuất quy định trình độ của quan hệ sản xuất. Chúng
tác động lẫn nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau, biểu hiện trong quá trình sản xuất
và tái sản xuất ra đời sống xã hội. Trong mối liên hệ này,quan hệ sản xuất khi nó
phù hợp với trình độ của lực lợng sản xuất thì tạo địa bàn cho lực lợng sản xuất
phát triển.ở đâu, lúc nào quan hệ sản xuất không còn tác dụng tạo địa bàn cho lực
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lợng sản xuất phát triển thì lúc đó quan hệ sản xuất không còn phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lợng sản xuất. Đây đợc xem là một nguyên lý rất cơ bản
của chủ nghĩa Mác Lênin và đã đợc toàn bộ sự phát triển của lịch sử loài ngời
chứng minh là đúng.
Khuynh hớng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát
triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lợng sản
xuất,trớc hết là công cụ lao động.Chính sự vận động, phát triển của lực lợng sản
xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. ở trạng thái
đó, quan hệ sản xuất là hình thức phát triển và tạo địa bàn đầy đủ cho lực l-
ợng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp
tối u giữa ngời lao động với t liệu sản xuất, do đó lực lợng sản xuất có cơ sở để
phát triển hết khả năng của nó. Sự phát triển của lực lợng sản xuất đến một trình
độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp.
Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích , kìm hãm sự phát triển của lực
lợng sản xuất. Tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản
xuất mới phù hợp với trình độ của lực lợng sản xuất, để thúc đẩy lực lợng sản xuất
tiếp tục phát triển. Điều này cũng có nghĩa là phơng thức sản xuất cũ mất đi, ph-
ơng thức sản xuất mới ra đời thay thế.
Tuy vậy, khi phù hợp cũng nh lúc không phù hợp, quan hệ sản xuất luôn có
tính độc lập tơng đối và tác động trở lại sự phát triển lực lợng sản xuất. Quan hệ
sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con ngời trong
lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng
dụng khoa học công nghệ, .do đó tác động đến sự phát triển của lực l ợng sản
xuất. Khi nào quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản
xuất thì nó phát huy tính tích cực đối với sự phát triển của lực lợng sản xuất.
Trong xã hội có giai cấp, mỗi phơng thức sản xuất khác nhau và mỗi giai đoạn
phát triển khác nhau, quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất
khi nào nó sản sinh ra giai cấp, mà vì lợi ích của mình, các giai cấp ấy sử dụng
5