Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Chứng minh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.43 KB, 19 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN MƠN HỌC -TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài: Chứng minh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
là sợi chỉ đỏ xuyên suốt sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh.

Hà Nội, Ngày 5 Tháng 2 Năm 2022

1


MỤC LỤC

2


PHẦN MỞ ĐẦU
Trên hành trình tìm đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đã đến với chủ
nghĩa Mác-lênin, đến với con đường cứu nước trong thời đại mới và khẳng định: “Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản”.
Đối với tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, sự kiện Bác Hồ quyết tâm đi tìm đường
cứu nước là một dấu son mở đầu trang sử mới trong lịch sử dân tộc ta. Thông qua bài viết này,
sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn rằng sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
cách mạng Việt Nam: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên
suốt của cách mạng Việt Nam” và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa
học của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng: “chỉ có chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập dân tộc, mới có thể
đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc.”


3


PHẦN NỘI DUNG
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc. Đã
có nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập đến nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc, nhấn mạnh sự kết hợp vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình,
đồng thời tơn trọng độc lập của các dân tộc khác. Nhưng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc có những nội dung cần được nhấn mạnh hơn, đặc biệt là mối quan hệ không
thể tách rời giữa độ lập dân tộc và thống nhất đất nước.
a. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.

-

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, về cơng tác dân tộc đã khẳng định: “ Việt Nam
là một quốc gia thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc ở nước ta có một q trình lịch
sử cư trú lâu đời, sớm hình thành truyền thống yêu nước đấu tranh chống giặc ngoại xâm,
truyền thống lao động sán tạo của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, phát huy giá trị
truyền thống của dân tộc Việt Nam luôn gắn bó đồng tâm đồng lịng chống giặc ngoại xâm,
chống thiên tai địch họa,...
Tư tưởng về một quốc gia đa dân tộc với truyền thống đoàn kết trong một cộng đồng
thống nhất tạo nên một sức mạnh vô song để vượt qua các cơn phong ba, những lúc nguy
nan của đất nước. Tư tưởng đó của Người thể hiện nhận thức phù hợp với thực tiễn khách
quan của lịch sử dân tộc đã trải qua thử thách qua ngàn năm. Đó là “tài sản vơ giá” để phát
huy trong thời đại của cách mạng vô sản, Người viết: “Đồng bào, các dân tộc không phân
biệt lớn nhỏ, phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, phải đoàn kết chặt chẽ như anh em một nhà,

để cùng nhau xây dựng Tổ quốc chung, xây dựng chủ nghĩa xã hội làm cho tất cả các dân
tộc được hạnh phúc, ấm no”.
Không chỉ kế thừa, mà ở Người “tài sản lịch sử vô giá” đó đã được phát huy thành một
sức mạnh tinh thần và vật chất to lớn, để đánh tan mọi âm mưu xâm lược của các thế lực
thực dân, đế quốc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người đã chỉ rõ:” Việt Nam độc
lập đồng minh (Việt Minh) có hàng chục triệu hội viên, gồm đủ các tầng lớp sĩ, nông, công,
thương, binh, gồm đủ các dân tộc Việt, Thổ, Nùng, Mường, Mán. Trong Việt Minh đồng bào
ta bắt tay nhau chặt chẽ, không phân biệt trai, gái, già, trẻ, lương, giáo, giàu, nghèo”.
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu
chính của Đảng là:
Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến.
Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.

4


Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong Tuyên ngơn Độc lập, Hồ Chí Minh
thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới rằng:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và
độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của
cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Ý chí và quyết tâm trên cịn được thể hiện qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ. Khi thực dân Pháp tiến hành xâ, lược Việt Nam lần thức hai, trong Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946, Người ra lời hiệu triệu, thể hiện quyết tâm sắt
đá, bảo vệ cho bằng được nền độc lập dân tộc- giá trị thiêng liêng mà nhân dân Việt Nam
mới giành được: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhấ định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ”. Năm 1965, đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh ở
Việt Nam: ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ, chư hầu vào Nam tiến hành chiến lược “Chiến
tranh cục bộ” và gây chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trong lúc khó khăn, Hồ chí Minh đã
nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên ngôn bất hủ của các dân tộc khao khát nền độc lập,

tự do trên thế giới “Không có gì q hơn độc lập tự do”. Với tư tưởng trên của Hồ Chí
Minh, nhân dân Việt Nam đã anh dũng chiến đấu, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
b. Độc lập dân tộc phải gắn liền tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử đã minh
chứng: Giá trị độc lập, tự do, ấm no, hành phúc là giá trị bao trùm, là khát vọng to lớn nhất,
là mục tiêu cao cả nhất của quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Vì khát vọng độc lập, tự do nên dân tộc Việt Nam đã sớm khẳng định chủ quyền quốc
gia, lãnh thổ trong buổi bình minh của lồi người và bao thế hệ người Việt Nam đã cống
hiến, hy sinh để bảo vệ quyền độc lập, tự do của Tổ quốc, của dân tộc. Và cũng hơn tất cả
các dân tộc trên thế giới, dân tộc Việt Nam hiểu sâu sắc các giá trị của độc lập, tự do, ấm no,
hạnh phúc. Bởi, trong suốt hàng ngàn năm Bắc thuộc, dân tộc Việt Nam ln bùng lên ngọn
lửa và ý chí đấu tranh giành tự do, độc lập. Trong giai đoạn này, đã có hàng trăm cuộc khởi
nghĩa nổ ra, đã làm lung lay và sụp đổ chế độ cai trị của phong kiến phương Bắc để giành tự
do, độc lập cho dân tộc.
Suốt một nghìn năm tiếp theo là những cuộc đấu tranh chống các thế lực Tống, Nguyên
Mông, Minh, Thanh để bảo vệ tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, trang sử vẻ
vang của dân tộc Việt Nam đã được tô thắm thêm trong thế kỷ XX là đã đập tan ách xiềng
xích, xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành tự do cho dân tộc, độc lập cho đất
nước; làm cho non sông liền một dải và nhân dân được sống và được hưởng quyền tự do,
độc lập như ngày nay.
Để có kết quả đó, ngay từ khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đặt mục tiêu lớn nhất đó là giành độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam,
5


làm mục tiêu phấn đấu của Đảng. Mục tiêu đó, đã thơi thúc tồn Đảng, tồn dân vượt qua
mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh để giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác; đã làm cho
nhân dân Việt Nam từ thân phận nơ lệ “một cổ, hai trịng” trở thành người dân tự do của một
quốc gia độc lập.

Trải quả 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành tự do, độc lập
của dân tộc càng chứng tỏ giá trị bất hủ của Tuyên ngơn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Tồn thể nhân dân Việt Nam quyết đem
tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”,
khẳng định đối với dân tộc Việt Nam, chân lý thời đại “Không có gì q hơn độc lập, tự do”
là chân lý vĩnh hằng, trở thành khát vọng, lương tri của nhân loại. Việt Nam đã trở thành
ngọn cờ tiên phong dẫn đường cho các dân tộc trên thế giới đấu tranh giành tự do, độc lập,
làm cho chủ nghĩa thực dân, đế quốc phải khiếp sợ, phải trả tự do, độc lập cho các dân tộc
trên thế giới.
c. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
trên tất cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: độc lập mà dân khơng có quyền tự quyế về ngoại
giao, khơng có qn đội riêng, khơng có nền tảng tài chính riêng..., thì độc lập đó chẳng có ý
nghĩa gì. Trên tinh thần đó và trong hồn cảnh đất nước ta sau Cách mạng Tháng Tám còn
gặp nhiều khó khăn, nhất là nạn thù trong giặc ngồi bao vây tứ phía, để bảo vệ nền độc lập
dân tộc, Người thay mặt Chính phủ ký với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ ngày 63-1946.
d. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ

Thực dân Pháp xâm lược nước ta đã cjoa nước ta thành ba kì, mỗi kì có chế độ cai trị
riêng. Sau Cách mạng Tháng Tám, cả hai miền nam bắc bị xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định: “Đồng bào nam bộ là dân nước Việt Nam, sơng có thể cạn, núi có thể mịn.
Song, chân lý đó khơng bao giờ thay đổi”. Hiệp định Gionevơ năm 1954 được ký kết, đất
nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt hai miền, Hồ Chí minh tiếp tục kiên trì đấu tranh để
thống nhất Tổ quốc. Tháng 2 năm 1958, Người khẳng định: “ Nước Việt Nam là một, dân
tộc Việt Nam là một”. Trong di chúc, Người cũng đã thể hiện niềm tin tuyệt đôú vào sự
thắng lợi của cách mạng, vào sự thống nhất của nước nhà: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy,
nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta.
Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc là sự kế thừa và phát triển chủ

nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam, góp phần bổ sung làm phong phú kho tàng lí luận, là cơ sở
nền tảng để Đảng ta xây dựng chủ trương đường lối đúng đắn cho cách mạng, quan điểm về
độc lập dân tộc của Người khơng chỉ có ý nghĩa về chính trị mà cịn gắn vào sự phát triển
toàn diện của đất nước.
6


1.2. Quan điểm cùa Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
a. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt

Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội có nguồn gốc sâu xa từ chủ nghĩa yêu nước,
truyền thống nhân ái và tinh thần cộng đồng làng xã Việt Nam. Hồ Chí Minh đã từng biết
đến tư tưởng xã hội chủ nghĩa sơ khai ở phương đông qua “Thuyết đại đồng” của Nho
giáo,... Sau khi ra nước ngoài khảo sát các cuộc cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh đã tìm
thấy trong chủ nghĩa Mác-Lênin lý tưởng về một xã hội nhân đạo trong đó “sự phát triển tự
do của mỗi người là điều kiện tự do cho tất cả mọi người”. Từ một người yêu nước đi tìm
đường giải phóng dân tộc để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp. Người tiếp thu quan điểm
của những nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học, đồng thời có sự bổ sung cách tiếp cận
mới của chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học của lý luận Mác-Lênin trước
hết là từ yêu cầu tất yếu của công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam. Người tìm thấy trong
lý luận Mác-Lênin sự thống nhất biện chứng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải
phóng con người. Đó cũng chính là mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản theo đúng
bản chất của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội ở một phương diện khác là đạo đức, hướng tới giá
trị nhân đạo, nhân văn macxit, giải quyết tốt mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội theo quan
điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Sự phát triển tự
do của mỗi người là sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
Bao trùm lên tất cả là Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ văn hóa. Văn hóa trong

chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có quan hệ biện chứng với chính trị, kinh tế. Quá trình xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa pử Việt Nam cũng là quá trình xây dựng một nền văn hóa mà
trong đó kết tinh, kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp hàng ngàn
năm của dân tộc Việt Nam, tiếp rhu tinh hoa văn hóa thế giới, kết hợp truyền thống với hiện
đại, dân tộc và quốc tế.
b. Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Hồ Chí Minh bày tỏ quan điểm của mình về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, vẫn là theo
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội, nhưng với cách
diễn đạt ngơn ngữ nói và viết của Hồ Chí Minh thì những vấn đề đấy chất lý luận chính trị
phong phú, phức tạp được biểu đạt bằng ngôn ngữ của cuộc sống, của nhân dân Việt Nam,
rất mộc mạc, dung dị, dễ hiểu.
Hồ Chí Minh có quan điểm tổng quát khi coi chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội như
là một chế độ xã hội bao gồm các mặt rất phong phú, hồn chỉnh, trơng đó con người được
7


phát triển toàn diện, tự do. Trong một xã hội như thế, mọi người thiết chế, cơ cấu xã hội
đều nhắm tới mục tiêu giải phóng con người.
Đặc trưng bản chất tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, theo Hồ Chí Minh trên
những mặt về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Về cụ thể, chúng ra thấy Hồ Chí Minh
nhấn mạnh chủ yếu trên những điểm sau đây:
Thứ nhất, về chính trị: Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có chế độ dân chủ. Đó là một
chế độ chính trị do nhân dân làm chủ. Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ, nhân
dân lao động là chủ và nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân,
dựa trên khối đại đồn kết tồn dân mà nịng cốt là liên minh cơng- nơng- trí thức, do Đảng
Cộng sản lãnh đạo. Mọi quyền lực trong xã hội đều tập trung trong tay nhân dân. Nhân dân
thống nhất thành một khố để làm chủ nước nhà. Nhân dân là người quyết định vận mệnh
cũng như sự phát triển của nước nhà dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh coi nhân
dân có vị trí tối thượng trong mọi cấu tạo quyền lực.

Thứ hai, về kinh tế: Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao,
gắn liền với sự phát triển của khoa học- kỹ thuật. Đó là xã hội có một nền kinh tế phát
triển dựa trên cơ sở năng xuất lao động xã hội cao, sức sản xuất luôn luôn phát triển với
nền tảng phát triển khoa học- kỹ thuật, ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa họckỹ thuật của nhân loại.
Thức ba, về các quan hệ xã hội. Chủ nghĩa xã hội là chế độ khơng cịn người bóc lột
người. Chủ nghĩa xã hội được hiểu như một xã hội hoàn chỉnh, đạt đến độ chín muồi.
Trong chủ nghĩa xã hội, khơng cịn bóc lột, áp bức, bất cơng, thực hiện chế độ sở hữu xã
hội về tư liệu sản xuất và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động
Thứ tư, về văn hóa, đạo đức. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa,
đạo đức. Đó là một xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, cơng bằng, bình đẳng,
khơng cịn áp bức, bóc lột, bất cơng, khơng cịn sự đối lập giữa lao động chân tay và lao
động trí óc, giữa thành thị và nông thôn,...
Thứ năm, về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội là cơng trình tập thể
cìa nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Các đặc trưng nêu trên là hình thức thể hiện một hệ thống giá trị vừa kế thừa di sản của
quá khứ, vừa được sáng tạo mới trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh
nêu ra quan điểm chủ nghĩa xã hội là một hệ thống giá trị làm nền tảng điều chỉnh các quan
hệ, đó là độc lập, tự do, bình đẳng, dân chủ, công bằng, đảm bảo quyền con người, bác ái,
đồn kết, hữu nghị,...
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

8


a. Độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Lịch sử phát triển loài người chứng tỏ, độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ
biến. Với dân tộc Việt Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và gìn giữ bởi
xương máu, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu lịch sử, là sự lựa chọn

đúng đắn mà Bác Hồ, Đảng ta, nhân dân ta lựa chọn. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc
lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc và dân chủ; độc lập phải gắn liền với thống
nhất; chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ... Vậy nên khi nêu lên mục tiêu giải phóng dân tộc,
Người cũng đã định hướng đến mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
Khi đề cao mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh coi đó là mục tiêu cuối cùng của
cách mạng, là tiền đề cho một cuộc cách mạng tiếp theo- cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để, càng sâu sắc thì càng tạo ra những tiền
đề thuận lợi, sức mạnh to lớn cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, cách mạng giải
phóng dân tộc Việt Nam là con đường cách mạng vơ sản, vì vậy ngay từ đầu cách mạng
này phải mang định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy độc lập dân tộc khơng những là tiền
đề mà còn là nguồn sức mạng to lớn cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.
b. Chủ nghĩa xã hội là điều kiện để đảm bảo nền độc lập vững chắc

Chủ nghĩa xã hội là xu hướng tất yếu của thời đại và phù hợp với lợi ích của nhân
dân Việt Nam. Vì vậy, cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải mang tính định
hướng xã hội chủ nghĩa thì mới giàng đượng thắng lợi hồn tồn triệt để. Năm 1960,
Người khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áo bức và những người lao động trên thế giới khỏi nơ lệ. Ở Việt Nam theo Hồ
Chí Minh, chủ nghĩa xã hội trước hết là một chế độ dân chủ, do nhân dân làm chủ, dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Chế độ dân chủ thể hiện trong mọi mặt của đời sống xã hội và
được thể chế hóa bằng pháp luật, đây là điều kiện quan trọng nhấ để đảm bảo nền
ddooncj lập dân rộc, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu thơn tính, đe dọa nền
độc lập, tự do của dân tộc.
Chủ nghĩa xã hội không chỉ bảo vệ vững chắc thành quả của độc lập dân tộc, mà về
cơ bản tạo nên sự phát triển mới về chất của nó, hồn tồn có cơ sở để nói rằng độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là chân lý không thể nào bác bỏ. Khơng có độc lập
dân tộc khơng thể có chủ nghĩa xã hội. Khơng có chủ nghĩa xã hội khơng thể có độc lập
dân tộc bền vững. Chủ nghĩa xã hội là sự bảo đảm chắc chắn nhất, bền vững nhất cho
nền độc lập dân tộc.
c. Điều kiện để bảo đảm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội


9


Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Nhưng để
thực hiện hóa tính tất yếu này, theo Hồ Chí Munh cần phải có những điều kiện cơ bản
sau:
Trước hết, Hồ Chí Minh khảng định., xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng Cộng sản là điều kiện cơ bản để độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Khơng có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt Nam không
thể vận động theo cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp dân tộc sẽ đi theo vết xe đổ
của các phong trào cứu nước trước đó. Một khi Đảng Cộng sản đánh mất vai trị lãnh
đạo thì thể chế xã hội chủ nghĩa sẽ sụp đổ, cách mạng bị phản bộ và hoàn toàn chệch
hướng. Thức tiễn ở Liên Xô và các nước Đông Âu vào những năm 90 của thế kỷ XX đã
chứng tỏ điều đó.
Hai là, xây dựng, củng cố và tăng cường khối liên minh giai cấp cơng nhân, nơng dân
và trí thức làm nền tảng khối đại đoàn kết dân tộc. Quan niệm của Hồ Chí Minh về lực
lượng cách mạng Việt Nam trong quá trình thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân tiến lên chủ nghĩa xã hội là hết sức sáng tạo. Người xác định: công- nông là gốc, là
chủ lực của cách mạng, các giai cấp, cá nhân yêu nước là bầu bạn của cách mạng. Khi
đất nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội Người đòi hỏi cơng nơng trí thức đồn kết
lại. Tất cả được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
Ba là, Hồ Chí Minh chỉ rõ Việt Nam là một bộ phận của thế giới, cách mạng Việt
Nam và cách mạng thế giới liên hệ chặt chẽ với nhau. Suốt cuộc đời hoatrj động cách
mạng của mình, Hồ Chí Minh ln có những chủ trương, đường lối và biện pháp phù
hợp để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hịa bình dân chủ trên
thế giới. Thắng lợi cách mạng Tháng Tám 1945, trong những năm chống Pháp, chống
Mỹ, trong thời kỳ hịa bình, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều không tách rời sự ủng hộ,
giúp đỡ quốc tế.
Ba nhân tố nêu trên gắn bó chặt chẽ với nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp quyết định

mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh kết luận: “Đó kaf ba bài học lớn
mà mỗi cán bộ và đảng viên ta cần ghi sâu trong lòng và phát huy thêm mãi”.
2. Quan điểm về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được Hồ Chí Minh áp

dụng vào Cách mạng Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ra đời và phát
triển ở thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Tư
tưởng đó hình thành ở Hồ Chí Minh từ đầu những năm 20 đến mùa xuân năm 1930 với
sự kiện Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam thì con đường cách mạng độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã thành ngọn cờ dẫn dắt giai cấp cơng nhân và
tồn thể dân rộc Việt Nam liên tịc giành thắn lợi lịch sử suốt hơn 70 năm qua. Tư tưởng

10


Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện trên thực tế
và chia làm ba thời kỳ:
2.1.

Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền 1930-1945

Ở thời kỳ này tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện
qua những hoạt động lý luận và thực tế chủ yếu say đây của Hồ Chí Minh:
-

Xác định tính chất cách mạng Việt Nam: Giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng
vơ sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, nhân dân lao động, với tồn thể
dân tộc bị nơ lệ dướu ách đế quốc Pháp và tay sai của chúng; xác định nhiệm vụ, mục tiêu
của cách mạng Việt Nam “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản”. Con đường cách mạng Việt Nam được Hồ Chí Minh thể hiện rã nét

trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

-

Xác định rõ lực lượng cách mạng Việt Nam là toàn thể nhân dân, bao gồn công dân, nông
dân, tầng lớp tiểu tư sản, tư sản dân tộc, trung, tiểu địa chủ, các cá nhân u nước, trong
đó nịng cố là liên minh cơng- nơng. Lực lượng cách mạng hùng hậu này được tập hợp
dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc do Đảng cuat giai cấp công nhân lãnh đạo.

-

Xác định đúng đắn cách mạng giải phóng dân rộc ở Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng vơ sản thế giới, có mối quan hệ khăng khít với cách mạng vơ sản “chính quốc”,
cách mạng giải phóng dân tộc có tính chủ động, có thể giành thắng lợi trước cách mạng
vơ sản “chính quốc”, tác dộng tích cực tới cách mạng “chính quốc”.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã
giành thắng lợi. Đó là thắn lợi lịch sử đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường
cách mạng giải phóng dân tộc thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Thắng lợi này đã mở ra
kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

2.2.

Thời kỳ bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng những cơ sở đầu tiên của chủ nghĩa xã
hội, thực hiện “Kháng chiến, kiến quốc” 1945-1954
Ở thời kỳ này, Hồ Chí Minh tiếp tục bổ sung, phát triển những quan điểm lý luận về
con đường Cách mạng Việt Nam. Nội hàm khái niệm cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, chế độ dân chủ mới đã được Hồ Chí Minh làm rõ bằng cách xác định mục tiêu, động
lực, các điều kiện đảm bảo thắng lợi của từng giai đoạn cách mạng, trong mỗi giai đoạn
đều kết hợp giải quyế các nhiệm vụ dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tạo tiền đề để
đẩy cách mạng phát triển lên giai đoạn cao hơn nhưng cũng khó khăn phức tạp hơn. Để

thực hiện mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh kiên trì quan điểm phát huy cao độ ý thức
độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đi đôi với ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế.

11


Nét độc đáo, đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam
ở thời kỳ này là Người đã đề ra và thực thi nhấ quán đường lối “vừa kháng chiến, vừa
kiến quốc”. Đường lối đó phù hợp với quy luật phát triển lịch sử dân tộc: dựng nước đi
đôi với giữ nước, bảo vệ độc lập của Tổ quốc và xây dựng từng bước chế độ đổi mới.
Trong hồn cảnh hiểm nguy, Hồ Chí Minh vận dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo
phương pháp: “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc, phân hóa, cơ
lập kẻ thù, tăng cường sức mạnh đoàn kết toàn dân, tranh thủ được sự giúp đỡ, ủng hộ
của quốc tế. Tài thao lược, bản lĩnh kiên cường, khả năng quyết đoán của Hồ Chí Minh
dựa trên sự hiểu biết thấu đáo thực tiễn đất nước, quy luật và xu thế phát triển của dân
tộc, thời đại, vững vàng lái con thuyền cách mạng Việt Nam đến bến bờ thắng lợi huy
hoàng.
2.3.

Thời kỳ Hồ Chí Minh tiếp tục hồn thiện, bổ sung, phát triển tư tưởng về độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới 1954-1975
Ở thời kỳ này sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh thể hiện tập trung trong việc xây
dựng và chỉ đạo đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thống
nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa ã hội. Quan điểm, tư tưởng nêu trên được
thể hiện ở các nội dung chính sau đây:
Trung thành với chủ nghĩa Mác-lênin, Hồ Chí Munh đã giải quyết đynfs đắn thành
cơng mối quan hệ giữa cách mạng hai miền. Trong mối quan hệ này, Hồ Chí Minh xác
định rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ cách mạng từng miền và tác động lẫn nhau của chúng.
Về thực chất, đât là sự cụ thể hóa nội dung con đường cách mạng vơ sản, sự gắn bó chặt

chẽ giữ nhiệm vụ dân tộc, dân chủ với chủ nghĩa xã hội- con đường mà Hồ Chí Minh đã
đề xuất và kiên trì bảo vệ.

-

Hồ Chí Minh tiếp tục hồn chỉnh và phát triển lý luận về cách mạng giải phóng
dân tộc, xác định rõ kẻ thù số một mà dân tộc ta cần tập trung mọi lực lượng để đánh đổ
là đế quốc Mỹ. Hồ Chí Minh nêu tư tưởng “khơng có gì q hơn độc lập tự do” thể hiện
ý chí, quyết tâm lớn lao của cả dân tộc trong việc bảo vệ giá trị thiêng liêng, bất khả
xâm phạm. Về tập hợp lực lượng, Hồ Chí Minh có nhữn quan niệm và các làm sáng tạo,
trên cơ sở đánh giá đúng vị trí, vai trị của chiến lược đại đồn kết trong chiến tranh
cách mạng. Hồ Chí Minh đã xây dựng cho cách mạng Việt Nam cái nền sức mạng của
“ba tầng mặ trận”. Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam chống Mỹ, cứu nước; Mặt trận
ba nước Đông Dương cùng chống Mỹ; Mặt trận nhân dân Việt Nam chống Mỹ. Sức
mạnh đó đã tạo cho cách mạng Việt Nam trở thành vơ địch.

-

Hồ Chí Minh tiếp tục hồn thiện lý luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã xây dựng một quan niệm tương đối hoàn chỉnh,
thống nhất về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quan

-

12


niệm của Hồ Chí Minh chủ nfhiax xã hội mang tính hệ thống, có nhiều nội dung phát
triển sáng tạo, nhưng vẫn trung thành với chủ nghĩa Mác-lênin. Hồ Chí Minh đã làm rõ
đặc điểm lớn nhất của Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mối

quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong phạm vi một nước.
Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Biến đau thương thành hành động
cách mạng, toàn Đảng, toàn dân toàn quân ta quán triệt sâu sắc quan điểm của Người
tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải phóng dân tộc ở miền Nam thống
nhất tổ quốc. Thông qua chiến dịch mang tên Hồ Chí Mung, sự nghiệp cách mạng đó đã
giành thắn lợi trọn vẹn vào ngày 30-4-1975.
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dâ tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

trong sự nghiệp đổi mới
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở vận dụng sáng tạo
và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin. Tư tưởng đó đã trở thành tài sản vô giá, cơ sở lý luận
và kim chỉ nam cho việc kiên trì, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta,
đồng thời gợi mở nhiều vấn đề về xác định hình thức, biện pháp và bước đi lên chủ nghĩa
xã hội phù hợp với những đặc điểm dan tộc và xu thế vận động của thời đại ngày nay.
3.1.

Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV- đại hội thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội đã khẳng định: “Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, khi cả nước làm một
nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai nhiệm vụ chiến lượng, Đảng ta từ khi ra đời đến nay
vẫn luôn luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là đường lối,
là sức mạnh, là nguồn gốc mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghiax xã hội do Đại hội VII thông qua đã
khẳng định trong thời kỳ đổi mới: “Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ
vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thê hệ hôm nay và thế hệ mai sau”.
Hiện nay, cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã
khẳng đinh: “Trong giai đoạn đổi mới, phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội”. Trong bất kỳ tình huống nào cũng phải thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ
chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong quan hệ quốc tế phức tạp, chằng chéo như hiện nay, để thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta, địi hỏi phải có nhận thức sâu sắc các yếu
tố tác động đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
13


Chiến tranh lạnh trên thế giới kết thúc, hịa hình, hợp tác phát triển là xu thế chung,
nhưng cuộc chiến tranh dân tộc và giai cấp vẫn diễn biến phức tạp, gay gắt. Nguy cơ
xung đột vũ trang và chiến tranh cục bộ vẫn chưa bị loại trừ; mâu thuẫn dân tộc, sâu sắc,
tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ nổ ra ở nhiều nơi và gây mất ổn định nhiều khu vực. Chủ
nghĩa đế quốc đang lợi dụng ưu thế về kinh tế và kỹ thuật, nhân danh chống khủng bố,
để thực hiện chiến lược “diễn biến hịa bình” can thiệp vào công việc nội bộ các nước,
buộc các nước xã hội chủ nghĩa, các nước đang phát triển đi vào quỹ đạo của chúng.
Hiện nay giao lưu kinh tế, giao lưu văn hóa giữa các dân tộc tăng lên. Trong khi giao
lưu văn hóa phát triển mạnh mẽ, thì các nước đang phát triển cũng đứng trước sự “xâm
lăng văn hóa” từ phía các nước đế quốc. Trong bối cảnh hiện nay, quan niệm về độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội phải được chú ý toàn diện độc lập về lãnh thổ, về chủ quyền
an ninh quốc gia, đến độc lập, tự do về kinh tế, chính trị, văn hóa, lối sống cà đạo đức xã
hội. Để thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược hiện nay cần chú ý một số ngun tắc có
tính chất phương pháp luận lệ thuộc vào bên ngoài, nhưng phải biết tranh thủ các điều
kiện quốc tế thuận lợi để quốc gia tăng nguồn lực phát triển quốc gia. Kết hợp sức mạnh
dân tộc và sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh để thực hiện thành cơng hai
nhiệm vụ chiến lược.
Trên cơ sơ nhận thức tồn cầu hóa, khu vực hóa và kinh tế là một tất yếu khách
quan, từ đó xẫ định rõ các bước đi và chủ động hội nhập phù hợp với năng lực của đất
nước và làm giàu bản sắc dân tộc.
Độc lập dân tộc gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa xã hội phải được thể hiện trong suốt

quá trình cách mạng trên mọi lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3.2.

Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình đổi mới

Ngày nay, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chỉ có thể có được nếu Đảng và
nhân dân ta giải quyết thành công hàng loạt vấn đề trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, đối nội và đối ngoại theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trung
thành với con đường Hồ Chí Minh đã vạch ra. Đảng ta khẳng định trong bất kỳ tình
huống nào, cũng phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đề phòng và
chống nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, đang xuất hiện nhiều vấn đề lý luận nằm trong tổng thể quan niệm chung
về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhu cầu phát triển đất nước đang đặt ra, đòi lại phải
nhận diện và hiểu biết về chủ nghĩa xã hội vừa mang tính tổng thể, vừa trong những chi
tiết, đường nét cụ thể. Do vậy, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, trước hết cần làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản sau:
-

Cả trong lý luận và thực tiễn cần khẳng định vấn đề định hướng đưa đất nước đi lên chủ
nghĩa xã hội là duy nhất đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của dân tộc và xu thế thời
đại.
14


-

Làm rõ và cụ thể hóa mục tiêu của đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã
hội, trước hết là ở mục tiêu mang đậm bản chất nhân văn này.
-


-

Xác định rõ bản chất đặc trưng và mơ hình cấu trúc của chủ nghĩa xã hỗi ở Việt
Nam

Làm rõ các động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội, trong đó động lực con người với
nhu cầu và lợi ích của họ giữ vị trí trung tâm. Mặt khác việc phát hiện động lực, có
chính sách phát huy và kết hợp động lực, có chính sách phát huy và kết hợp các động
lực phát triển sẽ làm cho chủ nghĩa xã hội sinh động, năng động và mang tính thực tiễn.
-

Xác định rõ bước đi và cách làm chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Trong công cuộc đâqổi mới hiện nay con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội đang bị chi ohoois, tác động mạnh mẽ của rất nhiều yếu tố
khách quan và chủ quan; thách thức rất lớn, nhưng cũng rất nhiều thời cơ, vận hội. Trên
cơ sở quan niệm đúng đắn của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lại
có kinh nghiệm thực tiễn hơn 70 năm qua, đặc biệt là thực tiễn gần 20 năm đổi mới, cho
phép chúng ta hiểu được thực chất con đường độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội
trong bối cảnh hiện nay. Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội là nhu cầu sống còn,
là sự lựa chọn duy nhất đúng của Việt Nam.
4. Liên hệ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc góp phần xây dựng và bảo bệ

tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghiaxax hội, tiếp tục
con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã
lựa chọn. Bản thân mỗi tổ chức, cá nhân cũng là một phần quan trọng góp phần vận dụng
và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên, khi bước vào nền kinh tế thị trường, chủ động hội nhập quốc tws, chúng ta
phải tận dụng các mặt tích cực của nóm đồng thời phải biết cách ngăn chặn, phịng tránh
các mặt tiêu cực, bảo đảm nhịp độ phát triển nhanh, bền vững trên tất cả mọi mặt.
Cơng nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là con người tất yếu
phải đi của đất nước ta. Chúng ta phải tranh thủ thành tựu của cách mạng khoa học và
công nghệ, hội nhập quốc tế nhanh chóng để biến nước ta thành một nước cơng nghiệp
hóa đi theo hướng hiện đại, sánh vai với các cường quốc năm châu như mong muốn của
Hồ Chí Minh.

15


Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của toàn dân, do
Đảng lãnh đạo, phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân, nghĩa là phải biết phát
huy mọi nguồn lực vốn có trong dân để xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho dân.
Theo tinh thần đó, ngày nay, cơng nghiệp hố, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức phải dựa vào nguồn lực trong nước là chính, có phát huy mạnh mẽ nội lực
mới có thể tranh thủ sử dụng hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Trong nội lực., nguồn lực
con người là vốn quý nhất.
Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng biết rằng tuổi trẻ là một thành phần, yếu tố quan
trọng, ảnh hưởng đến tương lai đất nước, vì thế mà Bác đã căn dặn: “Non sơng Việt Nam
có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước đến đài vinh quang để sánh vai
với các cường quốc năm châu được hay khơng, chính là nhờ một phần ở công học tập của
các em”. Chúng ta cùng tìm hiểu vai trị, trách nhiệm của thế hệ trẻ ngay nay với tương
lai đất nước dân tộc.
Tương lai đất nước là vận mệnh, là số phận của đất nước mà mỗi cơng dân sẽ góp
phần xây dựng, phát triển, trong đó quan trọng nhất là thế hệ trẻ. Thế kỉ 21, thế kỉ của sự
phát triển, không ngừng nâng cao trình độ văn hố kinh tế, đất nước. Để có thể bắt kịp đà
phát triển của những nước lớn mạnh thì địi hỏi sự chung sức đồng lịng của tất cả mọi
người mà lực lượng chủ yếu là tuổi trẻ. Bởi đó là lực lượng nịng cốt, là chủ nhân tương

lai, là nhân vật chính góp phần tạo nên cái thế, cái dáng đứng cho non sông Tổ quốc.
Tuổi trẻ hôm nay là tôi, là bạn, là những anh chị đang có mặt trên giảng đường đại học,
đang hoạt động bằng cả tâm huyết để cống hiến sức trẻ với những đam mê cùng lịng
nhiệt tình bốc lửa. Tuổi trẻ tốt thì xã hội tốt, cịn xã hội tốt sẽ tạo điều kiện cho tầng lớp
trẻ phát triển tồn diện, sinh ra những người con có ích cho đất nước, đó là điều tất yếu,
hiển nhiên mà ai cũng biết.
Việc xây dựng đất nước là trách nhiệm của mọi người, mọi công dân chứ không phải
của riêng ai. Nhưng với số lượng đông đảo hàng chục triệu người thì lẽ nào tuổi trẻ lại
khơng thể xây dựng đất nước. Chẳng lẽ chúng ta để cho những cụ già đi khuân vác, lao
động nặng, những phụ nữ phải ngày đêm làm việc trong các nhà xưởng đầy khói bụi,
những trẻ em phải phụ giúp gia đình ngay cịn nhỏ mà “quên” đi việc học hành, lúc đó
chúng ta sẽ “làm” gì? Chẳng lẽ ngồi khơng như một “người bị liệt”. Vì vậy chúng ta phải
cố gắng xây dựng đất nước như lời dặn của Bác: “Các vua Hùng đã có cơng dựng nước,
thì Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Và thời nào cũng vậy, thế hệ trẻ luôn là lực lượng tiên phong, xông pha vào những nơi
gian khổ mà khơng ngại khó. Điều đó đã được thể hiện rất rõ trong thời kì kháng chiến.
Những người con đất nước như: Kim Đồng, Võ Thị Sáu, Lê Văn Tám… đã hiến dâng cả
tuổi trẻ của mình cho Tổ quốc. Đây là những thanh niên của hơn 40 năm trước cịn lớp
thanh niên ngày nay thì sao?

16


Vâng. Chúng ta nên biết một điều: những thế hệ trước đã dâng hiến xương máu để
ngày sau độc lập thì chúng ta phải biết “cùng nhau giữ nước” và nối tiếp, kế thừa truyền
thống cao đẹp đó. Và một điều quan trọng là các bạn đừng nghĩ đó là nghĩa vụ để rồi
miễn cưỡng thực hiện. Chúng ta phải hiểu rằng: được sinh ra là một hạnh phúc và sống tự
do, no đủ là một món quà quý báu, vô giá mà quê hương xã hội đã ban tặng. Hạnh phúc
khơng tự nhiên mà có mà đó xương máu, tâm huyết của biết bao người con của đất nước.
Mỗi thời đại, mỗi hoàn cảnh lịch sử mà thanh niên nuôi dưỡng những ước vọng, suy nghĩ

riêng. Chúng ta không được bác bỏ, phũ nhận quá khứ hay công sức của những anh hùng
dân tộc. Đơn giản là vì mỗi thế hệ đều có sứ mệnh riêng, nhận thức riêng mà chúng ta
khơng nên so bì, tính tốn. Vì vậy: “Khơng có chuyện lớp trẻ ngày nay quay lưng với q
khứ” (như tổng bí thư Đỗ Mười nói).
Nhưng tuổi trẻ chúng ta có điều kiện gì để xây dựng đất nước? Vâng, đó chính là học
tập. Nói đến tuổi trẻ hơm nay là nói đến việc học hành... Trong cuộc sống ta gặp khơng ít
trường hợp xem việc học là việc khổ sai chỉ do cha mẹ, thầy cô thúc ép, chứ không ham
học. Họ xem đi học như một hình thức giải khy cho vui nên khơng cần học tập, coi học
tập là một nỗi nhọc nhằn. Có người lại coi việc học là để ứng phó với đời, để khơng xấu
hổ với mọi người, để có “bằng cấp” mà hãnh diện với đời, dù đó chỉ là “hàng giả” mà
thực lực không làm được. Chúng chẳng những không đưa nước ta “sánh kịp với cường
quốc năm châu” mà còn đưa nước ta về lạc hậu, lụn bại.
Cách duy nhất là phải học chân chính, học bằng khả năng của mình. Bước vào thời đại
cơng nghiệp hố, hiện đại hố thì ai nắm được tri thức thì mới có thể xây dựng đất nước,
lèo lái chiếc thuyền số phận của non sông Tổ quốc. Và nhiệm vụ của chúng ta phải học,
học nữa, học mãi. Nhà nước phải tạo mọi điều kiện để chúng ta dễ dàng tiếp cận tri thức
thì tương lai dân tộc mới sáng lạn, lấp lánh hào quang.
Tóm lại, tuổi trẻ là người sẽ quyết định tương lai đất nước sau này. Tuổi trẻ nước ta đầy
rẫy nhân tài sẽ góp phần cho dáng hình sứ sở. Ngay từ hôm nay, tôi, bạn và tất cả mọi
người phải cố gắng học tập để sau này có thể giúp nước ta tiến nhanh trên con đường xây
dựng và phát triển nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh.

17


PHẦN KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn kiệt xuất. Người đã để lại
cho Đảng ta, dân tộc ta một di sản tư tưởng, đạo đức, phong cách vô cùng quý giá; là ngọn
đuốc soi đường, chỉ lối cho cách mạng Việt Nam vượt qua mn vàn khó khăn, thử thách
trong q trình đấu tranh giành độc lập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Biệt Nam xã hội chủ

nghĩa, tiến hành công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, làm
cho vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nân cao
Đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh là yêu cầu, trách
nhiệm, nhưng đồng thời cũng là tình cảm, là nguyện vọng tha thiết của mỗi cán bộ, đản viên
và người dân Việt Nam yêu nước, để xây dựng một đất nước Việt Nam giàu đẹp, dân chủ; dân
tộc Việt Nam độc lập, tự do; nhân dân Việt Nam ấm no, hạnh phúc.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà Nội.
2. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.

19



×