Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Tieu luan nghiep vụ KTGS phân tích những phát triển mới của đảng về nhiệm vụ, nội dung kiểm tra vận dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.95 KB, 40 trang )

MỞ ĐẦU
*
1. Lý do chọn đề tài
Công tác kiểm tra của Đảng có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt trong công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Do vậy, Đảng ta xác định kiểm tra là một trong
những chức năng lãnh đạo quan trọng của Đảng; góp phần quan trọng, giúp
Đảng ta thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng; đồng
thời, đưa công tác xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức,
đạo đức và cán bộ đi vào nền nếp, có chất lượng. Nhất là trong thời kỳ đổi mới,
cơng tác kiểm tra của Đảng đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ đường lối,
quan điểm, các nguyên tắc của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng; xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Thực tiễn qua 91 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng và 35 năm tiến hành công
cuộc đổi mới, Đảng ta đã khẳng định vai trò to lớn của cơng tác kiểm tra theo tư
tưởng Hồ Chí Minh. Cơng tác kiểm tra thực hiện đúng nguyên tắc, quy trình sẽ
góp phần thiết thực cho cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, các nghị
quyết được tổ chức thực hiện tốt, qua đó khắc phục được tình trạng mất đồn
kết, tình trạng suy thối về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống của một bộ
phận cán bộ đảng viên đang diễn ra nghiêm trọng ở nhiều tổ chức đảng, góp
phần giáo dục, bảo vệ đội ngũ đảng viên, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch,
vững mạnh. Trong những năm qua, các cấp ủy đảng từ Trung ương đến tận cơ sở
đã quán triệt, thực hiện nghiêm túc Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, các quy chế, quy
định của Đảng về công tác kiểm tra. Đã tập trung lãnh đạo và tổ chức thực hiện
công tác kiểm tra trong các đảng bộ đạt kết quả tích cực, qua đó nắm vững tình
hình đội ngũ cán bộ, đảng viên, kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ, đấu tranh phịng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, quan
liêu. Cơng tác lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn công tác kiểm tra của các cấp ủy, tổ
chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp có chuyển biến mới, chủ động, kịp thời,
bám sát thực tiễn và công tác xây dựng Đảng. Công tác kiểm tra, giám sát của



cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp được tiến hành chủ động, đồng bộ,
toàn diện, đúng Điều lệ và các quy định của Đảng, tập trung vào những lĩnh vực
nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực, những vấn đề bức xúc mà cán bộ, đảng viên và
nhân dân quan tâm. Cơ quan kiểm tra của Đảng đã phối hợp chặt chẽ hơn với
các cơ quan chức năng phòng, chống tham nhũng của Nhà nước để kiểm tra phát
hiện và xử lý kịp thời những tổ chức, cán bộ, đảng viên vi phạm.
Đánh giá về công tác kiểm tra của Đảng nhiệm kỳ vừa qua, Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nhận định: “Công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng và xây dựng hệ thống chính trị được đặc biệt chú trọng, triển
khai tồn diện, đồng bộ, hiệu quả. Cơng tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chuyển biến mạnh mẽ,
có bước đột phá gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, có hiệu quả, ngày
càng đi vào chiều sâu. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không
ngừng được củng cố vững mạnh”
Tuy nhiên, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế
đó là: Một số cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ,
toàn diện, sâu sắc về tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
trong tình hình mới; việc quán triệt các nghị quyết của Đảng ở một số nơi chưa
kịp thời, sâu sắc. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của một số cấp
uỷ, tổ chức đảng chưa chủ động, sâu sát, thiếu quyết liệt; chưa coi trọng việc tự
kiểm tra, xử lý vi phạm. Một số nơi, người đứng đầu chưa phát huy hết trách
nhiệm, thiếu bản lĩnh, chưa gương mẫu, còn thụ động, né tránh, trông chờ vào
chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên. Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức của
Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí
cịn vi phạm, mất đồn kết nội bộ, có nơi cịn biểu hiện cục bộ, lợi ích nhóm.
Kiểm sốt quyền lực cịn lúng túng, hiệu quả thấp.
Kiểm tra là công việc hệ trọng, phải được tiến hành thường xun, liên tục,
kiên quyết, kiên trì, khơng tự thỏa mãn, bằng lòng với những kết quả đạt được.
Bước sang nhiệm kỳ XIII, trong bối cảnh “tình hình thế giới và trong nước có cả



thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu
cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Xuất phát từ vai trò quan trọng như trên, đồng thời để hoàn thành nhiệm vụ
học tập, vì vậy, qua việc học tập mơn Cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng
trong giai đoạn hiện nay, người viết lựa chọn đề tài “Phân tích những phát
triển mới của Đảng về nhiệm vụ, nội dung kiểm tra. Vận dụng theo tinh thần
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng” để làm bài tiểu luận hết mơn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về nhiệm vụ và nội dung công tác kiểm
tra của Đảng.
- Vận dụng nhiệm vụ và nội dung của công tác kiểm tra theo tinh thân Văn
kiện Đại hội XIII của Đảng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nhiệm vụ và nội dung công tác kiểm
tra của Đảng.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hệ thống cơ sở lý luận về nhiệm vụ và
nội dung công tác kiểm tra của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Vận dụng theo
tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài khoá luận được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bên cạnh đó là dựa trên quan điểm,
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong cơng
tác kiểm tra của Đảng.
Ngồi ra đề tài cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phân
tích, thống kê, so sánh, tổng hợp….
5. Ý nghĩa của đề tài
Nghiên cứu đề tài giúp người học nắm được được sâu sắc nhiệm vụ và nội
dung của của công tác kiểm tra của Đảng trong giai đoạn hiện nay.

6. Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận được kết cấu thành 2 chương.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHŨNG PHÁT TRIỂN MỚI CỦA ĐẢNG VỀ NHIỆM
VỤ, NỘI DUNG KIỂM TRA
1.1. VỀ KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÔNG
TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG
1.1.1. Khái niệm kiểm tra của Đảng
Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đề cập đến một số khía cạnh của cơng tác kiểm tra nói chung, kiểm tra của Đảng
nói riêng, nhưng chưa đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh.
Qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, Đảng Cộng sản Việt
Nam trên cơ sở vận dụng các quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, qua các kỳ đại hội đã ngày càng làm phong phú nội hàm của khái
niệm kiểm tra của Đảng.
Đến Đại hội XI của Đảng, lần đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra
khái niệm Kiểm tra của Đảng. Theo đó: Kiểm tra của Đảng là việc các tổ chức
đảng xem xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của đối
tượng kiểm tra trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ
trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Chủ thể kiểm tra bao gồm: chi bộ, đảng uỷ bộ phận, đảng uỷ cơ sở; cấp uỷ,
ban thường vụ cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở lên; uỷ ban kiểm tra, các ban đảng,
văn phòng cấp uỷ, cơ quan uỷ ban kiểm tra (gọi chung là các cơ quan tham mưu,
giúp việc của cấp uỷ); ban cán sự đảng, đảng đoàn.


Đối tượng kiểm tra bao gồm: chi bộ, đảng uỷ bộ phận, đảng uỷ cơ sở; cấp
uỷ, ban thường vụ cấp ủy, thường trực cấp uỷ từ cấp trên cơ sở trở lên; uỷ ban

kiểm tra, các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ; ban cán sự đảng, đảng
đoàn; đảng viên.
Giữa kiểm tra và giám sát của Đảng về cơ bản có nhiều điểm giống nhau và
có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Do đó, muốn thực hiện tốt việc giám
sát thì phải có theo dõi, xem xét tình hình hoạt động thực tế của đối tượng bị
giám sát. Ngược lại, muốn thực hiện tốt việc kiểm tra thì phải giám sát. Càng
làm tốt việc giám sát, thì giúp cho việc kiểm tra càng trúng, càng đúng và chất
lượng, hiệu quả của kiểm tra càng cao.
Những căn cứ và điều kiện đảm bảo thực hiện công tác kiểm tra của Đảng:
Thứ nhất, căn cứ vào mục đích, yêu cầu của sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội thông qua Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội. Đảng lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị
của Đảng, bằng hệ thống tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, bằng
công tác tư tưởng, công tác tổ chức, cán bộ và công tác kiểm tra, giám sát… Các


tổ chức đảng ở các cấp, các ngành không những có trách nhiệm trong việc lãnh
đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị
của Đảng mà cịn có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện, bảo đảm cho
chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng được chấp hành nghiêm
chỉnh, giành thắng lợi trong thực tiễn. Nghị quyết, chỉ thị của Đảng dù được
xác định đúng, có sức hấp dẫn, có tính khả thi nhưng nếu cấp uỷ, tổ chức đảng
thiếu lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc thực hiện, nhất là không kiểm tra, giám sát
hoặc kiểm tra, giám sát khơng đến nơi đến chốn thì kết quả thực hiện sẽ bị hạn
chế, thậm chí có khi khơng có kết quả hoặc phạm sai lầm.
Ngay từ khi mới thành lập và trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng của Đảng và dân tộc ta, Đảng luôn coi trọng cơng tác kiểm tra, giám sát và
giữ gìn kỷ luật. Đảng ta luôn khẳng định, kiểm tra là một trong những chức năng
lãnh đạo, là một bộ phận quan trọng trong tồn bộ cơng tác xây dựng Đảng.

Trong từng nhiệm kỳ đại hội Đảng toàn quốc, để đáp ứng u cầu nhiệm vụ
chính trị và cơng tác xây dựng Đảng trong từng thời kỳ, Đảng ta đã đề ra mục
tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ công tác kiểm tra cụ thể, sát hợp và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện có kết quả.


Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đến nay, Đảng ta bổ sung một
chương (chương VII) quy định rõ về nhiệm vụ công tác kiểm của các cấp uỷ, tổ
chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương (khố VII) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã nêu:
Cơng tác kiểm tra có vị trí cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo
của Đảng, kiểm tra và giữ gìn kỷ luật của Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng. Các
tổ chức đảng, trước hết là các cấp ủy đảng, Bộ Chính trị và ban thường vụ cấp
ủy, cần tự mình tiến hành kiểm ta và sử dụng các ban để tổ chức thường xuyên
việc kiểm tra.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Báo cáo của Ban Chấp hành Trung
ương khoá IX về công tác xây dựng Đảng chỉ rõ: "Công tác kiểm tra trong Đảng
còn yếu, chất lượng và hiệu quả kiểm tra chưa cao; nhiều khuyết điểm, sai lầm
của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện và khắc phục; chưa coi
trọng kiểm tra phòng ngừa, phát huy nhân tố tích cực. Nhiều cấp uỷ, tổ chức
đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng. Công tác
giám sát trong Đảng và giám sát của nhân dân đối với các hoạt động của Đảng,
Nhà nước, cán bộ, đảng viên chưa được quan tâm, chưa đáp ứng yêu cầu công


tác xây dựng Đảng trong tình hình mới”.
Để đáp ứng mục tiêu, yêu cầu: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc
đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, Đảng ta yêu cầu
phải đổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, gắn công tác kiểm tra với công

tác giám sát; đổi mới phương pháp kiểm tra; kiện toàn hệ thống uỷ ban kiểm
tra các cấp; kiện toàn tổ chức, tăng cường cán bộ có chất lượng, cải thiện điều
kiện, phương tiện làm việc của uỷ ban kiểm tra các cấp. Hoàn thiện quy chế
bảo đảm quyền kiểm tra của tập thể đối với cá nhân, của tổ chức đối với tổ
chức, của cá nhân đối với cá nhân và tổ chức, kể cả đối với người lãnh đạo chủ
chốt và tổ chức cấp trên.
Thứ hai, căn cứ vào các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp phải nắm vững những vấn đề
cơ bản trong lãnh đạo, chỉ đạo, tiến hành công tác kiểm tra của Đảng đã được
qui định trong các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ủy ban Kiểm tra Trung ương, của cấp uỷ cấp trên và
của cấp mình để đề ra phương hướng, nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch, chỉ đạo


và tổ chức thực hiện có kết quả cơng tác kiểm tra trong từng thời gian.
Điều lệ Đảng quy định: Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật. Pháp luật là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực xã hội có tính bắt buộc,
thể hiện ý chí của chế độ chính trị. Trong Nhà nước ta, pháp luật thể hiện ý chí
của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động, xác lập và bảo vệ các quyền của
nhân dân, là cơng cụ sắc bén và có hiệu quả của nhân dân trong công cuộc xây
dựng xã hội mới. Vì vậy, cơng tác kiểm tra ngồi việc phải nắm vững Cương
lĩnh chính trị, các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng còn phải nắm vững
các quy định của pháp luật để việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác
kiểm tra của Đảng bảo đảm đúng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thứ ba, căn cứ tình hình thực tiễn của cơng tác xây dựng Đảng của toàn
Đảng và của từng địa phương, đơn vị trong từng thời gian.
Công tác kiểm tra của Đảng phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị và cơng
tác xây dựng Đảng từng thời kỳ của tồn Đảng và của từng địa phương, đơn vị
trong từng thời gian; phải lấy việc thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ và công
tác ấy làm mục tiêu, phương hướng, nội dung của kiểm tra. Sự lãnh đạo của

Đảng, trước hết là của cấp ủy các cấp là nhân tố quyết định việc thực hiện thắng


lợi nhiệm vụ chính trị, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức là nhiệm vụ then chốt. Phải nắm vững yêu cầu, mục tiêu công tác xây dựng
Đảng và thi hành Điều lệ Đảng không có mục tiêu nào khác hơn là bảo đảm
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng. Đi lệch vấn đề có tính ngun
tắc này, cơng tác kiểm tra sẽ mất phương hướng, chệch mục tiêu, không mang
lại hiệu quả. Trong điều kiện hiện nay, công tác kiểm tra của Đảng phải nhằm
mục tiêu góp phần thực hiện thắng lợi cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hố, hiện
đại hố đất nước là sự nghiệp rất to lớn, phức tạp trong giai đoạn cách mạng
hiện nay do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo.
Trong điều kiện cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, mở cửa và hội
nhập với bên ngoài, cán bộ, đảng viên hằng ngày, hằng giờ chịu sự tác động của
nhiều nhân tố rất phức tạp, kể cả những hành động chống phá Đảng, vấn đề giữ
vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng đang đứng trước thách thức mới;
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, với những biểu hiện khác nhau về phai nhạt lý tưởng, cơ hội thực
dụng, chạy theo danh lơi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí,
tuỳ tiện, vơ ngun tắc. Nhiều tổ chức cơ sở đảng bị tê liệt, thiếu sức chiến đấu


và không đủ năng lực lãnh đạo và chỉ đạo để giải quyết những vấn đề phức tạp
nảy sinh. Công tác tư tưởng cịn nhiều bất cập và thiếu tính thuyết phục, tính
chiến đấu... Cơng tác tổ chức và cán bộ còn bộc lộ nhiều mặt yếu kém. Chất
lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao.
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hố, hiện đại hoá
đất nước, Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa sức
chiến đấu và năng lực lãnh đạo. Muốn vậy, bên cạnh việc phải giữ vững và tăng
cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm

chất và năng lực của cán bộ, đảng viên, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung
dân chủ, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo thì phải đổi mới và tăng cường
cơng tác kiểm tra của Đảng, đặc biệt là kiểm tra việc chấp hành Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quyết định, qui định của Đảng.
Những điều kiện đảm bảo thực hiện công tác kiểm tra của Đảng:
Một là, nhận thức và bản lĩnh chính trị của các cấp ủy nhất là các đồng chí
bí thư, thường trực cấp ủy trong việc quán triệt và thực hiện tốt nhiệm vụ công
tác kiểm tra. Những nơi cấp ủy quan tâm xây dựng tổ chức bộ máy, cán bộ, coi
trọng và thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cấp ủy


cấp dưới và ủy ban kiểm tra hoạt động có hiệu quả và chất lượng. Qua đó, làm
chuyển biến tình hình, tạo sự đồn kết thống nhất, tăng cường kỷ cương, kỷ luật,
ngăn ngừa, hạn chế xảy ra khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên.
Hai là, đảm bảo vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và ủy ban kiểm tra cấp
trên, việc lãnh đạo, chỉ đạo kiểm tra, đôn đốc của cấp ủy cấp trên đối với cấp ủy
cấp dưới.
Để công tác kiểm tra và hoạt động của cấp ủy có hiệu quả, ngồi nỗ lực của
bản thân cấp ủy, sự quan tâm lãnh đạo của ban thường vụ cấp ủy, thường trực
cấp ủy, trong đó có vai trị của đồng chí bí thư cấp uỷ, cịn rất cần có sự chỉ đạo,
hướng dẫn, kiểm tra của tổ chức đảng cấp trên trực tiếp. Chỉ khi nào công tác
kiểm tra được cấp ủy chấp hành và thực hiện nghiêm túc, gắn liền với sự
lãnh, chỉ đạo của cấp ủy, thường trực cấp ủy và thực sự chủ động, có tính chiến
đấu phối hợp chặt chẽ, khẩn trương, dứt điểm, kịp thời thì mới có sức mạnh và
đạt hiệu quả cao.
Ba là, chủ động xây dựng quy chế phối hợp, kết hợp với các ban đảng và
cơ quan liên quan trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra trong Đảng.
Đây là yêu cầu tất yếu đảm bảo việc lãnh đạo và thực hiện công tác kiểm



tra của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp có hiệu quả. Hiện nay, cịn khơng
ít tổ chức đảng chưa xây dựng được quy chế phối hợp; một số cấp ủy tuy đã xây
dựng và ban hành được quy chế phối hợp nhưng khi chỉ đạo thực hiện còn lúng
túng, vướng mắc, hoặc chưa trực tiếp điều hành sự phối hợp, chưa tổng kết,
đánh giá, rút kinh nghiệm.
Bốn là, các cấp ủy đảng cần xây dựng tổ chức bộ máy ủy ban kiểm tra, bố
trí cán bộ và điều kiện làm việc nhằm phục vụ tốt nhiệm vụ kiểm tra.
1.1.2. Vị trí, tầm quan trọng của cơng tác kiểm tra
Trong điều kiện đảng cầm quyền, cùng với công tác cán bộ, công tác kiểm
tra, giám sát trở thành công việc then chốt, trọng tâm nhất. V.I.Lênin đã viết:
“Theo ý tôi, điều chủ yếu là chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc lệnh và
mệnh lệnh (đấy là chúng ta u mê đến ngu xuẩn) sang việc lựa chọn người và
kiểm tra sự thực hiện. Đó là vấn đề then chốt nhất” . “Tìm người, kiểm tra cơng
việc, - tất cả là ở đó”. Nếu khơng làm như thế, “tất cả mọi mệnh lệnh và quyết
định sẽ chỉ là mới giấy lộn”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã bổ sung, khẳng định
rõ hơn vị trí, tầm quan trọng của cơng tác kiểm tra, đánh giá rất cao vai trò của


công tác kiểm tra, coi đây là công tác không thể thiếu và có tính quyết định đối
với hiệu quả lãnh đạo. Hồ Chí Minh khẳng định: “Khi đã có chính sách đúng, thì
sự thành cơng hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức cơng việc,
nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách
đúng mấy cũng vơ ích”.
Kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng. Lãnh đạo cũng
có nghĩa là kiểm tra, giám sát. Nếu buông lỏng việc kiểm tra, giám sát thì cũng
bằng khơng, coi như khơng có lãnh đạo. Báo cáo sửa đổi Điều lệ Đảng tại Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960) đã xác định: Phải tăng cường kiểm tra
và giám sát của Đảng đối với cán bộ và cơ quan nhà nước, giữ gìn kỷ luật
nghiêm minh, xử lý thích đáng đối với những phần tử quan liêu gây tác hại

nghiêm trọng cho Đảng và Nhà nước. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VIII đã xác định: Cơng tác kiểm tra có vị trí cực kỳ quan trọng trong tồn bộ
hoạt động lãnh đạo của Đảng. Kiểm tra và giữ gìn kỷ luật của Đảng là nhiệm vụ
của toàn Đảng.
Trong xây dựng nội bộ đảng, cùng với công tác tư tưởng và cơng tác tổ
chức, cơng tác kiểm tra, giám sát có vai trò và ý nghĩa to lớn. Kiểm tra được tiến


hành thường xuyên, đúng nguyên tắc sẽ góp phần bảo vệ Cương lĩnh chính trị,
đường lối, chiến lược, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng được xác định đúng,
quán triệt đầy đủ và được tổ chức thực hiện tốt. Kiểm tra vừa góp phần nâng
cao chất lượng lãnh đạo, vừa làm cho sự lãnh đạo của Đảng gắn với thực tiễn
hơn; đảm bảo tính thống nhất tuyệt đối giữa nghị quyết và sự chấp hành, giữa lời
nói và việc làm; giúp cho các cấp lãnh đạo của Đảng khắc phục có hiệu quả
bệnh quan liêu, chủ quan, duy ý chí, thiếu trách nhiệm ... Đồng thời, công tác
kiểm tra được tiến hành có nền nếp, đúng quy trình sẽ góp phần ngăn ngừa
các biểu hiện mất đồn kết, vơ kỷ luật; đảm bảo cho nguyên tắc tập trung dân
chủ được thực hiện nghiêm túc; khắc phục tình trạng suy thối về phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Hiện nay Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền, nắm giữ vận mệnh của
đất nước, dân tộc. Nhưng ở trong Đảng và bộ máy nhà nước tình trạng suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá
nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công
chức diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu sức chiến đấu và
không đủ năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh. Nguyên tắc tập


trung dân chủ của Đảng bị vi phạm nghiêm trọng; tự phê bình và phê bình
yếu kém, hình thức; quan hệ nội bộ, có lúc bị đồng tiền và quyền lực chi
phối.

Một Đảng lãnh đạo cả hệ thống chính trị nếu không được kiểm tra và giám
sát chặt chẽ rất dễ lộng quyền, lạm quyền, quan liêu, tham nhũng. Đây cũng là
một trong những nguyên nhân chủ yếu làm suy yếu và tan rã Đảng. Vì vậy, tăng
cường kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên hiện nay trở
nên vơ cùng bức thiết, nó xuất phát từ địi hỏi khách quan của cơng tác xây dựng
Đảng và yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, từ vị trí, vai trị của Đảng ta
trước dân tộc và tiến bộ xã hội.
Từ sự phân tích trên có thể khẳng định: Công tác kiểm tra là một khâu quan
trọng của quy trình lãnh đạo; là một chức năng, nội dung lãnh đạo chủ yếu của
Đảng; là một bộ phận quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Công tác kiểm
tra là một tất yếu khách quan, cần thiết đối với mọi tổ chức đảng và cá nhân cán
bộ, đảng viên.
1.2. CÁC QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ
CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG


Từ ngày thành lập đến nay, trong nhiều văn kiện của Đảng đã đưa ra một số
quan điểm về công tác kiểm tra. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, khóa X đã khẳng định rõ 5 quan điểm về công tác kiểm tra,
gồm:
Kiểm tra là nội dung rất quan trọng trong quá trình lãnh đạo của Đảng, là
chức năng lãnh đạo, nhiệm vụ thường xuyên của toàn Đảng, trước hết là nhiệm
vụ của cấp uỷ và người đứng đầu cấp uỷ, do cấp uỷ trực tiếp tiến hành. Công tác
kiểm tra phải được tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng và chặt
chẽ theo đúng nguyên tắc, phương pháp công tác đảng. Tổ chức đảng và đảng
viên phải chịu sự kiểm tra của Đảng và chịu sự giám sát của nhân dân. Tăng
cường công tác kiểm tra phải gắn chặt với công tác tư tưởng, công tác tổ chức và
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; phải thực hiện toàn diện, đồng bộ, có
hiệu lực, hiệu quả, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức; thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng.

Thực hiện đồng bộ giữa công tác kiểm tra và công tác giám sát; “giám sát
phải mở rộng”, “kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm” để chủ động phịng
ngừa vi phạm, kịp thời phát hiện những nhân tố mới để phát huy, khắc phục


thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm ngay từ lúc mới manh nha.
Công tác kiểm tra phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, lấy xây là
chính. Khi các vụ việc vi phạm được phát hiện, phải kiên quyết xử lý nghiêm
minh để răn đe và giáo dục.
Đề cao trách nhiệm của tổ chức đảng và đảng viên; phát huy vai trò, trách
nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân trong cơng tác
kiểm tra.
1.3. NHIỆM VỤ VÀ NỘI DUNG KIỂM TRA CỦA ĐẢNG
1.3.1. Nhiệm vụ của công tác kiểm tra
1.3.1.1. Nhiệm vụ chung
Một là, cấp ủy các cấp tiến hành công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng
cao chất lượng nghiên cứu các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng để các tổ
chức đảng và cán bộ, đảng viên nắm vững và tự giác chấp hành; đấu tranh chống
những biểu hiện tiêu cực, suy thoái trong Đảng, cấp ủy các cấp, nhất là chi bộ,
cần tăng cường quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để chủ động
phòng ngừa, ngăn chặn xảy ra vi phạm hoặc không để tái phạm, góp phần chủ
động thực hiện có hiệu quả cơng tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
Hai là, đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra trong Đảng và trong
cả hệ thống chính trị. Chú trọng kiểm tra người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng,
tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp trong
việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Tập trung kiểm tra việc chấp
hành các đường lối, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng về các
nội dung, lĩnh vực sau:
Trong lĩnh vực tư tưởng chính trị, quản lý báo chí: kiểm tra việc thực hiện
quan điểm, đường lối của Đảng, việc thi hành Điều lệ Đảng, các quy định của



Đảng, pháp luật của Nhà nước trong công tác tư tưởng chính trị nói chung và
hoạt động báo chí nói riêng.
Về chấp hành nguyên tắc tổ chúc và hoạt động của Đảng: kiểm tra việc
chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách; chấp hành quy chế làm việc, chế độ công tác; thực hiện dân chủ trong
Đảng, giữ gìn đồn kết nội bộ; về mối quan hệ giữa tổ chức đảng và đảng viên
với quần chúng; việc giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức cách
mạng của cán bộ, đảng viên.
Trong lĩnh vực kinh tế - tài chính: kiểm tra, giám sát việc thực hành tiết
kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong các khâu cấp và sử dụng nguồn
vốn thuộc ngân sách nhà nước, vốn ODA, tài trợ của nước ngoài; trong xây
dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị; quản lý và sử dụng đất đai, tài nguyên,
công sản; triển khai thực hiện các dự án trọng điểm.
Trong lĩnh vực hành chính, tư pháp: kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính liên quan
đến giải quyết công việc của các tổ chức và cá nhân, đặc biệt là trong các hoạt
động đầu tư, sản xuất, kinh doanh. Kiểm tra việc thực hiện các chủ trương, quan
điểm của Đảng về cải cách tư pháp trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án,
nhất là những vụ án nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư luận.
Trong công tác tổ chức và cán bộ: kiểm tra về tuyển dụng, quy hoạch, luân
chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng, khen thưởng và thực hiện
chính sách cán bộ; về phẩm chất đạo đức, lối sống và thực hiện chức trách,
nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên; việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh; về nội dung và chất lượng sinh hoạt của các cấp ủy, tổ
chức đảng.
Kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo và giải quyết khiếu nại, tố cáo của đảng
viên và nhân dân; việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra của Đảng gắn với vai trò, trách nhiệm

của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân trong đấu tranh phịng,
chống tham nhũng, lãng phí.


Bốn là, đổi mới phương pháp kiểm tra của Đảng theo hướng đồng bộ,
nghiêm minh, có hiệu lực, hiệu quả. Kết hợp kiểm tra trong Đảng với giám sát
của Nhà nước và giám sát của nhân dân.
Năm là, củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy, tăng cường cán bộ đủ số
lượng, bảo đảm chất lượng; bảo đảm chế độ, chính sách theo quy định; cải thiện
điều kiện, phương tiện làm việc của ủy ban kiểm tra các cấp.
1.3.1.2. Thẩm quyền kiểm tra
* Các cấp uỷ đảng:
Lãnh đạo công tác kiểm tra và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra các tổ
chức đảng và đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng.
- Lãnh đạo công tác kiểm tra:
Triển khai, quán triệt Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, của cấp
uỷ cấp trên và cấp mình về cơng tác kiểm tra.
Xây dựng và chỉ đạo các cơ quan tham mưu, giúp việc cấp uỷ cùng cấp và
cấp uỷ thuộc phạm vi quản lý xây dựng phương hướng nhiệm vụ; phân công cấp
uỷ viên, các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ cùng cấp thực hiện công
tác kiểm tra. Chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc cấp uỷ cấp dưới thực hiện chương trình,
kế hoạch kiểm tra.
Ban hành các văn bản theo thẩm quyền để các tổ chức đảng thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra và để các đồn thể chính trị - xã hội, nhân dân tham gia kiểm


tra.
Ban hành và chỉ đạo thực hiện các quy định phối hợp giữa ủy ban kiểm tra
với các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ, giữa các cơ quan tham mưu,

giúp việc của cấp uỷ với ban cán sự đảng, đảng đoàn hoặc phối hợp với các cơ
quan liên quan.
Nghe báo cáo và chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra; giải quyết kiến
nghị của các tổ chức đảng cấp dưới và định kỳ sơ kết, tổng kết về công tác kiểm
tra.
Lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức, hoạt động của uỷ ban kiểm tra, cơ quan uỷ
ban kiểm tra về xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra.
Ban hành hoặc đề xuất với cấp có thẩm quyền về những vấn đề cần bổ
sung, sửa đổi hoặc ban hành các văn bản về công tác kiểm tra của Đảng.
- Tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra:
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp uỷ, ban thường
vụ cấp uỷ xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện kiểm tra.
Nội dung kiểm tra: Kiểm tra việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, của cấp uỷ cấp trên và cấp


mình, pháp luật của Nhà nước.
Việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, chế độ
công tác, thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đồn kết nội bộ.
Việc thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, rèn luyện
phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
Việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, nhất là những vụ án nghiêm
trọng gây bức xúc trong dư luận.
Việc tuyển dụng, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, đề bạt, bố trí, sử dụng
cán bộ.
Việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao của người đứng đầu tổ chức
đảng, nhà nước, mặt trận và các đoàn thể nhân dân các cấp.
Cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ căn cứ u cầu, nhiệm vụ chính trị, cơng tác
xây dựng Đảng và tình hình thực tế ở đảng bộ để chọn nội dung kiểm tra phù

hợp.
Đối tượng kiểm tra: tổ chức đảng và đảng viên thuộc phạm vi quản lý,
trước hết là tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp, cấp uỷ viên cùng cấp, cán bộ
thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp uỷ quản lý và cán bộ giữ
cương vị chủ chốt hoặc được giao các nhiệm vụ quan trọng. Tập trung kiểm


tra các tổ chức đảng ở những lĩnh vực, địa bàn trọng điểm, trọng yếu, dễ phát
sinh vi phạm.
Đảng ủy cơ sở xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện công
tác kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên theo chức năng, nhiệm vụ thuộc
phạm vi quản lý. Nội dung, đối tượng kiểm tra như của đảng ủy cấp trên cơ sở
và những nội dung do cấp ủy cấp trên giao.
Đảng ủy bộ phận xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch
kiểm tra chức năng, nhiệm vụ và những nội dung do đảng ủy cơ sở giao.
Chi bộ xây dựng kế hoạch và tiến hành kiểm tra đảng viên trong việc thực
hiện nhiệm vụ đảng viên. Tập trung kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của chi
bộ, nhiệm vụ do chi bộ phân công và quy định về những điều đảng viên không
được làm.
Thực hiện giải quyết tố cáo, giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng và tiến
hành các nhiệm vụ kiểm tra khi cần thiết.
* Ủy ban kiểm tra các cấp:
Căn cứ điều 32, nhiệm vụ của Uỷ ban kiểm tra các cấp gồm:
Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp uỷ viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi
phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp uỷ viên và trong việc thực hiện
nhiệm vụ đảng viên.
Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong việc
chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các
nguyên tắc tổ chức của Đảng; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám
sát và thi hành kỷ luật trong Đảng.

Giám sát cấp uỷ viên cùng cấp, cán bộ diện cấp uỷ cùng cấp quản lý và tổ


chức đảng cấp dưới về việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, nghị quyết của cấp uỷ và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp
hành Trung ương.
Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định hoặc đề
nghị cấp uỷ thi hành kỷ luật.
Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết khiếu nại về
kỷ luật Đảng.
Kiểm tra tài chính của cấp uỷ cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp uỷ
cùng cấp.
Ngồi ra, ủy ban kiểm tra các cấp còn được xử lý kỷ luật theo thẩm quyền;
làm các nhiệm vụ cấp uỷ giao và tham mưu cho cấp uỷ; phối hợp với các ban
của cấp ủy, giúp cấp ủy xây dựng phương hướng nhiệm vụ, chương trình, kế
hoạch kiểm tra, giám sát, tổ chức lực lượng để tiến hành kiểm tra, giám sát ...
* Các cơ quan tham mưu của cấp uỷ:
Có trách nhiệm kiểm tra, tổ chức thực hiện kiểm tra do cấp uỷ giao nhưng
khơng có thẩm quyền xử lý kỷ luật trong khi tiến hành công tác kiểm tra.
1.3.2. Nội dung công tác kiểm tra của Đảng


Từ nhiệm vụ và thẩm quyền thực hiện nhiệm vụ của cơng tác kiểm tra, có
thể thấy nội dung của công tác kiểm tra của Đảng như sau:
Một là, xác định đường lối, quan điểm, nguyên tắc, quy chế, quy định về
công tác kiểm tra.
Hai là, xây dựng tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra; xác định chức
năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động, các mối quan hệ của ủy ban kiểm tra các cấp
từ Trung ương đến cơ sở.
Ba là, lãnh đạo các tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị thực

hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết, quy chế, quy định của Đảng về công
tác kiểm tra.
Bốn là, phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính
trị và của nhân dân trong cơng tác kiểm tra.
Năm là, phối hợp thực hiện công tác cán bộ của ủy ban kiểm tra các cấp.
Sáu là, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về công tác kiểm tra.

CHƯƠNG 2. CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG VẬN DỤNG THEO
TINH THẦN VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII
2.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA THEO
TINH THẦN VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII
Kiểm tra vừa là phương thức lãnh đạo của Đảng, vừa là nhiệm vụ quan


×