Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận môn tư tưởng HCM Tư tưởng hồ chí minh về đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.12 KB, 22 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong di sản tư tưởng mà Hồ Chí Minh để lại, những luận điểm của
Người về Đảng Cộng sản là một phần cực kỳ quan trọng. Đại hội lần thứ IX
của Đảng đã khẳng định: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn
diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả
của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam…". Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam là sự
kế thừa học thuyết của Mác, Ăngghen, Lênnin về chính đảng của giai cấp vơ
sản, đồng thời có sự phát triển và bổ sung trong điều kiện Đảng Cộng sản Việt
Nam được xây dựng và ra đời ở một nước thuộc địa nửa phong kiến nhưng lại
là một dân tộc giàu lòng yêu nước.
Kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho đến nay, tư tưởng của
Người về Đảng Cộng sản Việt Nam, đã được thực tiễn kiểm nghiệm và được
toàn Đảng và tồn dân ta thừa nhận. Vì vậy, Đảng ta đã lấy học thuyết MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam soi rọi cho hành động của
Đảng, của toàn dân tộc trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay khi đất nước ta đang trên đường đổi mới, hịa nhịp cùng tồn
thế giới, hơn bao giờ hết đòi hỏi sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, việc học tập,
nghiên cứu, quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người nhằm đổi
mới và chính đốn Đảng, làm cho Đảng thật trong sạch, vững mạnh, xứng
đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo toàn xã hội, là một trong những nhiệm vụ
chủ yếu nhất của toàn Đảng, toàn dân ta. Từ lý do trên, bản thân chọn đề tài
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam” để nghiên cứu viết
bài tiểu luận điều kiện học phần môn Tư tưởng Hồ Chí Minh và Quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước
qua các tác phẩm và văn kiện.


2
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu


Vấn đề về lý luận của Đảng, nội dung cơ bản, quan điểm của Đảng về
định hướng đường lối, chủ trương và các giải pháp, phương hướng xây dựng
đảng và nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu thực tiễn về Đảng lãnh đạo, việc vận dụng tư
tưởng của Hồ Chí Minh về đổi mới.
Phạm vi nghiên cứu là những vấn đề thực tiễn vận dụng trong giai đoạn
hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: vận dụng cơ sở thực tiễn, lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về công tác xây dựng Đảng.
Phương pháp nghiên cứu: tìm hiểu các tài liệu liên quan, phân tích đánh
giá nhận định so sánh, đối chiếu nhằm rút ra bài học kinh nghiệm trên thực
tiễn công tác xây dựng nội dung và giải pháp cơ bản về vấn đề đặt ra hiện nay.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Tiểu luận góp phần đánh giá, phản ánh vấn đề chung của công tác lãnh
đạo trong giai đoạn hiện nay, những vấn đề thực tiễn, việc vận dụng trong thời
kỳ hội nhập.
Kết quả nghiên cứu của tiểu luận có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo cho việc vận dụng trong giai đoạn hiện nay
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung tiểu luận gồm 2 chương, 6 tiết.


3
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: SỰ RA ĐỜI, VAI TRÒ
VÀ BẢN CHẤT CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đề cập các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản, xuất phát từ hoàn

cảnh cụ thể của nước Nga và của phong trào cơng nhân châu Âu, khi nói đến
sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam, bên cạnh hai yếu tố chủ nghĩa Mác–
Lênin và phong trào cơng nhân, Hồ Chí Minh cịn kể đến yếu tố thứ ba, đó là
phong trào yêu nước.
Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước dẫn tới việc thành lập của Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu
năm 1930. Đây cũng chính là một điểm của Hồ Chí Minh về sự hình thành
Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trên
cơ sở tổng kết thực tiễn Việt Nam.
Vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện Việt Nam, Hồ Chí Minh
cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trên cơ sở kết hợp giữa chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam với chủ nghĩa Mác-Lênin và phong trào cơng nhân Việt
nam. Trong 3 yếu tố đó Hồ Chí Minh cho rằng, Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ
sở, nền tảng lý luận, là cái cẩm nang thần kỳ và là yếu tố tự giác dẫn đường
cho phong trào công nhân phát triển từ tự phát đến tự giác.
Đối với quá trình hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam vị trí, vai trị
lãnh đạo của giai cấp cơng nhân cũng có vai trị to lớn. Đặc điểm của giai cấp
công nhân Việt Nam là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại
là giai cấp tiên tiến nhất trong sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chủ nghĩa
tư bản và đế quốc. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo
dục đến các tầng lớp khác. Giai cấp công nhân Việt Nam giữ vai trị lãnh đạo
cách mạng Việt Nam cịn vì: giai cấp cơng nhân có chủ nghĩa Mác-Lênin…
Đảng đề ra chủ trương, đường lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp


4
nông dân và tiểu tư sản vào đấu tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử tiên
tiến.
Việc thành lập Đảng có yếu tố quan trọng là phong trào yêu nước. Đó
cũng có thể coi là yếu tố cần thiết nhất cho sự ra đời của Đảng vì: phong trào

yêu nước có vị trí, vai trị cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển của dân tộc
Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn trong lịch sử dân
tộc Việt Nam và là nhân tố chủ đạo quyết định sự nghiệp chống ngoại xâm
của dân tộc ta; phong trào công nhân kết hợp với phong trào u nước bởi vì
hai phong trào đó đều có mục tiêu chung. Khi giai cấp công nhân Việt Nam ra
đời và có phong trào đấu tranh, kể cả đấu tranh lúc đầu và đấu tranh kinh tế,
và sau này là đấu tranh chính trị, thì phong trào cơng nhân được kết hợp ngay
từ đầu và kết hợp liên tục với phong trào yêu nước. Vì vậy, giữa hai phong
trào này có mục tiêu chung, yêu cầu chung: giải phóng dân tộc, làm cho việt
nam hoàn toàn độc lập, xây dựng đất nước hùng cường; phong trào nông dân
kết hợp với phong trào cơng nhân, nói đến phong trào u nước Việt Nam
phải kể đến phong trào nông dân. Giai cấp nông dân là bạn đồng minh tự
nhiên của giai cấp công nhân, giữa phong trào công nhân và phong trào yêu
nước mối quan hệ chặt chẽ với nhau, giai cấp công nhân và giai cấp nông dân
hợp thành quân chủ lực của cách mạng; phong trào yêu nước của trí thức Việt
Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam, một trong những nét nổi bật nhất là sự bùng phát
của các tổ chức yêu nước mà thành viên là những người lãnh đạo tuyệt đại đa
số là tri thức, với một bầu nhiệt huyết, yêu nước, thương nịi, họ rất nhạy cảm
với thời cuộc. Vì vậy, họ chủ động và có cơ hội đón nhận những “luồng gió
mới” về tư tưởng của tất cảc các trào lưu trên thế giới dội về Việt Nam.
2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam
Sức mạnh của nhân dân chỉ phát huy khi được tập hợp, đoàn kết và
lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam. Lực lượng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng vô tận.


5
Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi, giai cấp
mà khơng có Đảng lãnh đạo thì khơng làm cách mạng được.

Đảng là hạt nhân, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận
rõ tình hình, đường lối và địng hướng phương châm cho đúng.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp
với quy luật phát triển của xã hội, vì Đảng khơng có mục đích tư thâm, ngồi
lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, lợi ích của tồn dân tộc
Việt Nam, lợi ích của nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tính quyết định hàng đầu
từ sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam đã được thực tế lịch sử
chứng minh, khơng có một tổ chức chính trị nào có thể thay thế được.
3. Ý nghĩa lịch sử sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam ra là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh, sự
khẳng định vai trị lãnh đạo của giai cấp cơng nhân Việt Nam và hệ tư tưởng
Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam ta.
Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa MácLênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt
Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là
tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của phông trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ
được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạng dân tộc với
sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng


6
Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hồ bình, độc lập đân tộc, dân chủ và tiấn bộ xã hội.

4. Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân. Điều này được Hồ Chí Minh
khẳng định trong nhiều tác phẩm. Đồng thời Người cũng luôn khẳng định
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân, của
dân tộc Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiên
phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân. quyền lợi
của giai cấp công nhân - nhân dân lao động - dân tộc thống nhất là một. Chính
vì Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam. Đảng là đảng của giai cấp
lao động, mà cũng là Đảng của toàn dân.
Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đảng
tiên phong của dân tộc. Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ tham mưu
của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Tuy giai cấp
cơng nhân số lượng ít so với dân số nhưng nó có đủ phẩm chất và năng lực
lãnh đạo các giai tầng khác làm cách mạng để xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế
độ mới. Các giai tầng khác tuy đông đảo nhưng không đảm đương được vai
trò lãnh đạo xã hội, mà chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong cuộc
cách mạng giải phóng mình.
Mục tiêu của Đảng cần đạt tới là chủ nghĩa cộng sản; Đảng tuân thủ một
cách nghiêm túc, chặt chẽ những nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của giai
cấp vô sản. Bản chất của Đảng là bản chất của giai cấp công nhân nhưng quan
niệm Đảng không những là Đảng của giai cấp cơng nhân mà cịn là Đảng của
nhân dân lao động và của cả dân tộc có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt
Nam. Đảng đại diện cho lợi ích của tồn dân tộc cho nên nhân dân Việt Nam
coi Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của chính mình.


7
Đảng ln gắn bó mật thiết với giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động

và tồn thể dân tộc trơng tất cả các thời kỳ của cách mạng. Sức mạnh của
Đảng không chỉ bắt nguồn từ giai cấp công nhân mà còn bắt nguồn từ các
tầng lớp nhân dân lao động khác.Quan niệm Đảng Cộng sản Việt nam không
chỉ của giai cấp cơng nhân mà cịn của nhân dân lao động và của cả dân tộc
Việt Nam có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Trong Đảng ngồi
thành phần giai cấp cơng nhân cịn có các thành phần khác, nhưng tính chất
giai cấp cơng nhân phải được tăng cường để bảo đảm sự thống nhất giữa yếu
tố giai cấp và dân tộc. Sức mạnh của Đảng không chỉ bắt nguồn từ giai cấp
cơng nhân mà cịn từ các giai tầng khác, làm cho Đảng ngày càng lớn mạnh
và nhân dân coi Đảng là Đảng của mình.
CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CẨM
QUYỀN VÀ XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH VỮNG MẠNH
1. Quan niệm về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử
dụng trong các bài viết, bài nói của mình các khái niệm “Đảng lãnh đạo”,
“Đảng cầm quyền”. Việc nhận thức rõ các vấn đề đó trong tư tưởng của
Người trong giai đoạn hiện nay là vấn đề hết sức cần thiết, làm cơ sở cho
Đảng ta tiếp tục đổi mới về phương thức lãnh đạo. Trong phương hướng, giải
pháp xây dựng Đảng của nhiệm kỳ Đại hội X, Đảng ta đã xác định: “Nghiên
cứu, tổng kết, tiếp tục làm rõ quan điểm về Đảng lãnh đạo và Đảng cầm
quyền làm cơ sở đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng một cách cơ bản,
toàn diện. Tại Đại hội XI, trong phương hướng, giải pháp xây dựng Đảng
những năm tới, Đảng ta tiếp tục xác định: “Tăng cường nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền.
1.1. Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, trở thành Đảng cầm
quyền
Đảng lãnh đạo là một khái niệm được các nhà kinh điển Mác-Lênin nêu
ra vào những năm cuối của thế kỷ XIX, đánh dấu sự trưởng thành về mặt tổ



8
chức với sự ra đời các đảng của giai cấp công nhân, lực lượng tiên phong thực
hiện sứ mệnh lịch sử lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động thủ tiêu chế độ
bóc lột, xây dựng một xã hội mới tiến bộ vì con người, khơng cịn bóc lột, áp
bức, bất cơng. Từ những phân tích của Lênin về vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Nga đối với quần chúng nhân dân lao động trong cách mạng vô sản
đã cho thấy, nội hàm khái niệm “Đảng lãnh đạo” được hiểu là một hình thức
của cuộc đấu tranh giai cấp, là giai cấp cơng nhân - thực hiện vai trị tiên
phong, gương mẫu, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân để làm sao có được
sự đồng tình, ủng hộ một cách tự nguyện của đại đa số nhân dân lao động đối
với đảng, kể cả khi đảng chưa giành được chính quyền, nhằm xây dựng một
xã hội tiến bộ theo mục tiêu của đảng. Lênin viết rằng: “Khơng có sự đồng
tình và ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiên phong của
mình, tức đối với giai cấp vơ sản, thì cách mạng vơ sản khơng thể thực hiện
được. Nhưng sự đồng tình và ủng hộ đó khơng thể có ngay được và khơng
phải do những cuộc bỏ phiếu quyết định, mà phải trải qua một cuộc đấu tranh
giai cấp lâu dài, khó khăn, gian khổ mới giành được. Cuộc đấu tranh giai cấp
của giai cấp vơ sản để giành lấy sự đồng tình, để giành lấy sự ủng hộ của đa
số nhân dân lao động không phải kết thúc khi giai cấp vô sản đã cướp được
chính quyền. Sau khi giành được chính quyền, cuộc đấu tranh đó vẫn tiếp tục
như trước, có điều là với hình thức khác mà thơi”. Trên cơ sở quan điểm của
Lênin về đảng lãnh đạo, Hồ Chí Minh không chỉ bằng hành động thực tiễn là
sáng lập ra một đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc
để lãnh đạo toàn dân trong cơng cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam mà đã góp phần làm rõ cả nhận thức khái niệm về
Đảng lãnh đạo. Theo Người: “Lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và làm cho
tốt”; “Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến
tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ cấp nào và ngành nào - đều phải là người đày
tớ trung thành của nhân dân”.



9
Với các luận điểm trên, nội hàm khái niệm “Đảng lãnh đạo” trong quan
điểm của Hồ Chí Minh đã được làm rõ qua các nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, “Đảng lãnh đạo” là một khái niệm chỉ sự tác động, ảnh hưởng
của Đảng (qua các tổ chức đảng và đảng viên) đối với quần chúng nhân dân.
Tức chủ yếu chỉ nói đến sự lãnh đạo của Đảng đối với quần chúng nhân dân.
Hồ Chí Minh khơng bao giờ sử dụng các khái niệm “Đảng lãnh đạo Nhà
nước” hay “Đảng lãnh đạo Chính quyền”, kể cả sau khi Đảng đã lãnh đạo
nhân dân giành được chính quyền. Đảng lãnh đạo quần chúng nhân dân có
nghĩa là Đảng phải làm sao trở thành lực lượng tiên phong trong dân chúng,
vạch hướng, xác định được mục tiêu đúng đắn đáp ứng được lợi ích và
nguyện vọng cơ bản của đơng đảo quần chúng nhân dân; đồng thời phải có
được uy tín cao do làm tốt sứ mệnh “người đày tớ trung thành của nhân dân”
từ đó mà vận động, thuyết phục được quần chúng nhân dân ủng hộ, đi theo
Đảng.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo là một khái niệm không gắn với quyền lực. Tức
Đảng không dựa vào quyền lực (quyền lực được hiểu theo nghĩa có sự cưỡng
bức, ép buộc) trong sự ảnh hưởng, trong quá trình tác động của chủ thể lãnh
đạo là Đảng đến đối tượng lãnh đạo là quần chúng nhân dân. Sự lãnh đạo của
Đảng đối với quần chúng nhân dân có đặc điểm là sự vận động mang tính
thuyết phục. Đảng lấy uy tín của mình là một Đảng có “đạo đức và văn minh”
để thuyết phục quần chúng nhân dân đi theo, ủng hộ, thực hiện các cương
lĩnh, đường lối, nghị quyết của Đảng. Điều đó diễn ra cả trước và sau khi
Đảng lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền.
Thứ ba, khái niệm Đảng lãnh đạo được hiểu như một hình thức của cuộc
đấu tranh giai cấp cả trong cách mạng giải phóng dân tộc và trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Chính từ trong cuộc đấu tranh đó, Đảng đã tỏ ra là lực
lượng “có sức hấp dẫn lớn”, được quần chúng nhân dân tin yêu, ca ngợi, tự
nguyện suy tôn là lực lượng giữ địa vị lãnh đạo. Sau khi Đảng lãnh đạo nhân

dân giành được chính quyền, sự suy tơn đó được kiểm chứng chủ yếu qua các


10
đợt bầu cử dân chủ và khi mà có đa số đảng viên của Đảng được bầu vào các
cơ quan quyền lực nhà nước các cấp. Tuy nhiên, nhân dân tự nguyện suy tôn
địa vị lãnh đạo của Đảng không có nghĩa là Đảng có thể giữ mãi địa vị đó nếu
Đảng đánh mất niềm tin của nhân dân, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay nếu
Đảng không chiến thắng được trong cuộc đấu tranh gian khổ chống chủ nghĩa
cá nhân. Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ rằng: “Đảng khơng thể địi hỏi Mặt trận
thừa nhận quyền lãnh đạo của mình mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành
nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng
ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực
lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”; rằng: “Một dân
tộc, một đảng và mỗi con người ngày hơm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca
ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền
“Đảng cầm quyền” là một khái niệm được sử dụng rộng rãi ở các nước
phương Tây ngay khi xã hội bắt đầu hình thành các đảng chính trị. Ở nước
Nga Xô-viết trước đây, Lênin cũng đã đề cập nhiều các vấn đề liên quan đến
đảng cầm quyền. Theo Lênin, đảng cầm quyền được hiểu là “đảng nắm chính
quyền” bằng những người đại diện của đảng trực tiếp thực hiện công việc
quản lý trong bộ máy nhà nước. Theo Lênin, những cán bộ, đảng viên trong
bộ máy nhà nước phải hoạt động làm sao bảo đảm vừa với tư cách là người
đại diện cho đảng thực hiện việc tuyên truyền, vận động nhân dân đi theo
đảng, tức là hoạt động “lãnh đạo”, vừa với tư cách là người đại diện cho đảng,
đồng thời là đại biểu của nhân dân thực hiện công việc quản lý nhà nước, tức
là hoạt động “cầm quyền”. Trong diễn văn tại Hội nghị II toàn Nga các cán bộ
tổ chức (6-1920), Lênin cho rằng: “Người cán bộ ấy phải nhớ rằng anh ta

không những là người tun truyền bằng lời nói, khơng những phải giúp đỡ
những tầng lớp nhân dân mê muội nhất; đó là nhiệm vụ chủ yếu của anh ta và
không làm như vậy anh ta khơng thể tự coi mình là người cộng sản được.


11
Nhưng ngoài ra, anh ta phải là người đại diện Chính quyền Xơ-viết… người
đại diện cho đảng nắm chính quyền hiện đang thông qua một bộ phận giai cấp
vô sản mà điều khiển tồn bộ nước Nga”. Điều đó cho thấy, đảng cầm quyền
là một khái niệm gắn với quyền lực. Tức đảng có quyền lực chính trị mà cụ
thể là ở việc “nắm chính quyền” hay “nắm quyền lực nhà nước”. Không
những thế, theo Lênin, khi đảng nắm được chính quyền thì đảng khơng chỉ có
quyền lực chính trị, mà “với tư cách nhà nước, cịn có thêm được quyền lực
kinh tế”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “Đảng cầm quyền” là khái niệm có
những điểm khác với “Đảng lãnh đạo”. Đảng cầm quyền là một khái niệm
gắn với quyền lực. Theo Người, Đảng cầm quyền cũng tức là Đảng nắm chính
quyền, nghĩa là Đảng có quyền lực trong thực tế. Tuy nhiên, Đảng ta là đội
tiên phong không chỉ của giai cấp công nhân mà là của cả dân tộc, “Đảng là
đảng của giai cấp lao động, mà cũng là đảng của toàn dân”; đồng thời, những
cán bộ, đảng viên của Đảng trực tiếp thi hành những nhiệm vụ quản lý trong
bộ máy nhà nước đều chỉ là những người được nhân dân “ủy thác”, bầu ra để
phục vụ nhân dân. Do vậy, ở nước ta, Đảng nắm chính quyền cũng tức là nhân
dân nắm chính quyền, bởi Đảng chỉ là lực lượng tiêu biểu, đại diện cho tồn
dân nắm chính quyền. Cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước có quyền lực
nhưng quyền lực đó là thuộc về nhân dân. Người viết: “Nhân dân là ông chủ
nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính
quyền ấy”. Có thể thấy, đây là một nét đặc thù của Đảng cầm quyền ở Việt
Nam hiện nay. Điều này khơng có được đối với các đảng cầm quyền ở nhiều
nước trên thế giới, khi mà đảng cầm quyền chỉ là đảng đại diện cho một lực

lượng trong nhiều lực lượng khác nhau của các giai cấp, tầng lớp dân chúng
trong xã hội.
Trước hết, trong mối quan hệ, tác động của Đảng đối với Nhà nước mà
từ trước đến nay chúng ta coi là quan hệ “lãnh đạo”, “Đảng lãnh đạo Nhà
nước” cần phải có sự nhận thức lại rõ hơn. Đây phải được coi là quan hệ gắn


12
với quyền lực, do sự “cầm quyền” của Đảng. Tức Đảng có quyền lực, “Đảng
cầm quyền”, nắm quyền lực nhà nước bằng cách “Đảng hóa thân sự lãnh đạo
của mình trong sự quản lý của Nhà nước, trên từng phương diện của đời sống
kinh tế-xã hội”. Do vậy, hoạt động của Đảng hiện nay vừa có sự lãnh đạo, vừa
có sự cầm quyền với các phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền
của Đảng.
Phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng có những
điểm giống nhau và khác nhau. Điểm giống nhau chủ yếu ở chỗ: Sự tác động,
ảnh hưởng của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội đều nhằm hướng tới
thực hiện các cương lĩnh, mục tiêu do Đảng đề ra; Đảng phải tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật. Điểm khác nhau chủ yếu ở chỗ: Phương thức lãnh đạo của
Đảng tập trung ở việc xác định đúng đắn đường lối, mục tiêu thể hiện trong
các cương lĩnh, nghị quyết của Đảng; ở tính thuyết phục của công tác tư
tưởng, tuyên truyền, giáo dục của Đảng; ở việc tồn Đảng, mỗi đảng viên
ln tự rèn luyện, nêu cao tính tiên phong, gương mẫu về mọi mặt, hết lòng
hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, thực sự là “người đày tớ trung
thành của nhân dân”, trở thành ngọn cờ dẫn đường, vận động, thuyết phục
nhân dân tự nguyện đi theo, ủng hộ Đảng, phấn đấu thực hiện thắng lợi đường
lối, mục tiêu của Đảng. Phương thức cầm quyền của Đảng tập trung ở việc
thực hiện công tác cán bộ, cắt cử và nắm chắc, kiểm tra, giám sát những cán
bộ ưu tú của Đảng giữ những vị trí chủ chốt của bộ máy nhà nước để trực tiếp
và độc lập với những thẩm quyền nhất định trong việc điều hành quá trình

hoạch định và thực thi các quyết định, chính sách của chính quyền nhà nước
các cấp trên cơ sở pháp luật và các cơ chế đã được thể chế hóa nhằm thực
hiện các định hướng mục tiêu của Đảng.
Sự lãnh đạo và cầm quyền của Đảng là hai mặt hoạt động có quan hệ
gắn bó chặt chẽ với nhau. Một mặt, để có và giữ vững địa vị cầm quyền, địi
hỏi Đảng phải có và giữ vững địa vị lãnh đạo, tức Đảng phải ln có được vị
trí tiên phong trong tồn xã hội, ln được nhân dân tin u, đồng tình ủng


13
hộ. Mặt khác, để có và giữ vững địa vị lãnh đạo, thì ngồi việc Đảng phải
thường xun nâng cao năng lực lãnh đạo, tức nâng cao năng lực hoạch định
đường lối, chính sách đảm bảo đúng đắn, hợp lịng dân; làm tốt công tác tư
tưởng tạo sự đồng thuận cao trong Đảng và toàn xã hội; làm tốt sứ mệnh
“người đầy tớ trung thành của nhân dân”, Đảng còn phải thường xuyên nâng
cao năng lực cầm quyền của mình, tức làm tốt công tác tổ chức cán bộ, bảo
đảm hiệu quả cao trong quản lý của Nhà nước bởi đội ngũ cán bộ, đảng viên
của Đảng ở các cơ quan quyền lực nhà nước và trên mọi lĩnh vực của đời
sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại...
Chính từ việc thực hiện tốt các mặt hoạt động nêu trên sẽ là điều kiện tiên
quyết để Đảng ln giữ vững được lịng tin yêu của nhân dân đối với Đảng.
2.Tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam trong sạch vững mạnh
2.1. Xây dựng Đảng
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh chiếm một
vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ di sản tư tưởng của Người. Xây dựng
Đảng là một nhiệm vụ tất yếu, thường xun để Đảng hồn thành vai trị tiên
phong trước giai cấp, dân tộc và nhân dân. Xây dựng Đảng được Hồ Chí
Minh đặt ra như một nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Ngay cả khi cách
mạng đang trên đà thắng lợi cũng cần đến xây dựng Đảng để xây dựng những

quan điểm, tư tưởng cách mạng khoa học, ngăn ngừa chủ quan, tự mãn, lạc
quan tếu rơi vào căn bệnh “kêu ngạo cộng sản”.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn liền với sự tồn tại của Đảng; còn Đảng,
còn hoạt động, còn cần phải tổ chức xây dựng, chỉnh đốn.
2.2. Quy luật tồn tại và phát triển của Đảng
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng bị chế định bởi quá trình phát triển liên tục
của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Đảng lãnh đạo giai cấp và nhân
dân đánh đổ đế quốc, phong kiến, xây dựng chế độ dân chủ mới, tạo điều kiện


14
tiến dần lên chủ nghĩa xã hội nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và
giải phóng con người. Sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo là một quá
trình, bao gồm nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn; mỗi thời kỳ, giai đoạn có
những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể và những yêu cầu riêng.
Hồ Chí Minh bao giờ cũng chủ trương trước hết phải xây dựng chỉnh
đốn Đảng. Chủ trương đó vừa khẳng định đúng vị trí, vai trò lãnh đạo của
Đảng, vừa thể hiện khả năng nhạy bén làm chủ thời cuộc của người đứng đầu
tổ chức Đảng. Đảng lớn lên, trưởng thành gắn liền với sự phát triển của đất
nước và dân tộc, Đảng thực sự là một “cơ thể sống” ln tự hồn thiện và
vượt lên.
Đảng sống trong xã hội là hợp thành cơ cấu trong xã hội, là một bộ phần
hợp thành cơ cấu trong xã hội; mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu ảnh hưởng, tác
động của môi trường xà hội, các quan hệ xã hội, cả cái tốt và cái xấu, cái tích
cực, tiến bộ và cái tiêu cực, lạc hậu. Trong hoàn cảnh xã hội nửa thuộc địa
nửa phong kiến, kinh tế nơng nghiệp là chủ yếu, trình độ sản xuất lạc hậu mà
tiến hành lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam, việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng
càng phải được chú ý quan tâm đặc biệt.
Để mọi cán bộ, đảng viên ln giữ trọn phẩm chất tốt đẹp của mình,
giác ngộ lý tưởng cách mạng, vững vàng về mọi mặt trong mọi điều kiện, mơi

trường xã hội khác nhau thì cùng với sự tự giác rèn luyện, phấn đấu, họ cịn
cần đến sự giúp đỡ, kiểm sốt, quản lý từ phía Đảng. Xây dựng, chỉnh đốn
Đảng nếu khơng đặt đúng vị trí, ngang tầm mà lại bng lỏng kiểm sốt, quản
lý thì rất dễ làm cho một số bộ phận cán bộ, đảng viên bị thoái hoá, biến chất
về đạo đức và lối sống, dẫn đến tha hoá cả về chính trị. Vì vậy, Đảng phải đặc
biệt quan tâm đến việc chỉnh đốn và đổi mới để hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi và
tẩy trừ mọi tệ nạn do thoái hoá, biến chất gây ra trong điều kiện Đảng lãnh
đạo chính quyền nhà nước.
Nhận thức đúng sự tác động qua lại giữa mơi trường xã hội và vai trị
lãnh đạo của Đảng, đặc điểm phát triển tâm lý, nhân cách của cán bộ, đảng


15
viên, Hồ Chí Minh đã đi đến một nhận định mang tính triết lý và thực tiễn sâu
sắc, có giá trị phổ quát trong vấn đề xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng:
“Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hơm qua là vĩ đại, có sức hấp
dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến
và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng mang tính quy luật và là nhu cầu tồn tại,
phát triển của bản thân Đảng. Chỉnh đốn và đổi mới Đảng là nhằm làm cho
Đảng thực sự trong sạch, vững vàng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; làm cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước
những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao, càng phức tạp của nhiệm vụ cách
mạng. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng sẽ làm cho toàn Đảng trở thành một khối
thống nhất về nhận thức và tư tưởng, làm cơ sở cho sự thống nhất về hành
động, đủ sức lái con thuyền cách mạng Việt Nam tiến về phía trước, vượt qua
những khúc quanh đầy thử thách.
2.3. Nội dung công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận
Để đạt được mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải dựa vào lý

luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lenin.
Trong việc tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác-Lenin, Hồ Chí Minh
lưu ý những điểm sau đây:
Một là, việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lenin
phải luôn phù hợp với từng đối tượng.
Hai là, việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lenin phải ln phù hợp với từng
hồn cảnh
Ba là, trong q trình hoạt động, Đảng ta phải chú ý học tập kế thừa
những kinh nghiệm tốt của các đảng cộng sản khác, đồng thời phải tổng kết
kinh nghiệm của mình để bổ sung vào chủ nghĩa Mác-Lenin.


16
Bốn là, Đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của
chủ nghĩa Mác-Lenin, đặc biệt là chống giáo điều, cơ hội, xét lại chủ nghĩa
Mác-Lenin...
Xây dựng đảng về chính trị
Tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Đảng về chính trị có nhiều
nội dung, bao gồm: xây dựng đường lối chính trị, xây dựng và thực hiện nghị
quyết, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập trường chính
trị, nâng cao bản lĩnh chính trị,… trong đó, theo Hồ Chí Minh, đường lối
chính trị là một vấn đề cốt tử trong sự tồn tại và phát triển của Đảng.
Đảng thực hiện vai trị lãnh đạo chính trị của mình chủ yếu bằng việc đề
ra cương lĩnh, đường lối chiến lược, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội
cũng như sách lược và quy định những mục tiêu phát triển của xã hội theo
hướng lâu dài cũng như từng giai đoạn.
Hồ Chí Minh lưu ý cần phải giáo dục đường lối, chính sách của Đảng,
thơng tin thời sự cho cán bộ, đảng viên để họ luôn luôn kiên định lập trường,
giữ vững bản lĩnh chính trị trong mọi hồn cảnh.
Xây dựng đảng về mặt tổ chức, bộ máy, công tác cán bộ

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân là một trong những di sản lý luận quan trọng nhất mà Người để lại cho
tồn Đảng, tồn dân và tồn qn ta. Đó là một hệ thống lý luận, nguyên tắc
với những nội dung phong phú, từ việc xác định vai trò lãnh đạo của Đảng
đến quy luật ra đời; từ tư cách đảng viên cho đến những yêu cầu xây dựng
đảng ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, kinh tế chậm phát triển nhưng có
nền văn hiến và truyền thống văn hóa đặc sắc.
Một trong những nguyên tắc hàng đầu mà Người đề cập đến đó là
nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây là nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản
của Đảng Cộng sản, nhằm làm cho Đảng Cộng sản trở thành Đảng có sức
mạnh chiến đấu to lớn trong một tổ chức chặt chẽ. Theo Người, tập trung và


17
dân chủ là “hai vế của một nguyên tắc” có mối quan hệ khăng khít với nhau.
Tập trung trên nền tảng dân chủ; dân chủ phải dưới sự chỉ đạo tập trung.
Tập trung trong Đảng là: thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng
cấp trên, bộ phận phải phục tùng toàn thể, tất cả các đảng viên phải chấp hành
vơ điều kiện nghị quyết của Đảng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng tuy nhiều
người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”. Tức là đề cao vai trò của
tập trung, thực hiện tập trung trong Đảng để tạo sự thống nhất ý chí và hành
động, tạo thành sức mạnh lãnh đạo to lớn trong tiến trình cách mạng. Đây là
biểu hiện cụ thể tính tiên phong, tính chiến đấu của giai cấp công nhân. Cùng
với tập trung phải chú ý thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng. Dân chủ là
làm cho mọi người mạnh dạn có ý kiến, làm cho Đảng tập trung được trí tuệ,
tăng cường sức mạnh lãnh đạo của Đảng. Người khẳng định: “Chế độ ta là
chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do, bày tỏ ý kiến của mình, góp phần
tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi, cũng là một nghĩa vụ của mỗi người”.
Nguyên tắc thứ hai Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh là nguyên tắc tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách phải luôn

đi đôi với nhau. Chỉ có tập thể lãnh đạo mới phát huy được tồn bộ trí tuệ đội
tiên phong của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động vì sự nghiệp cách
mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Người lý
giải một cách vắn tắt: “Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo? Vì một người dù
khôn ngoan tài giỏi mấy, dù kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy được
một hoặc nhiều mặt của vấn đề, không thể thấy hết tất cả mọi mặt của một
vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người, nhiều người thì nhiều kinh nghiệm.
Người thì thấy rõ mặt này, người thì trơng thấy rõ mặt khác của vấn đề đó.
Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người thì vấn đề đó được thấy rõ
khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt thì vấn đề ấy được giải quyết chu
đáo, khỏi sai lầm.
Nguyên tắc thứ ba được Hồ Chí Minh đề cập trong xây dựng Đảng là
nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Có lúc, Hồ Chí Minh coi ngun tắc tự


18
phê bình và phê bình là quy luật phát triển Đảng. Cũng có khi Người coi đó là
nguyên tắc trong sinh hoạt Đảng, là vũ khí sắc bén để làm cho Đảng ta trong
sạch vững mạnh. Hồ Chí Minh nói: “Mỗi người đều có thiện, có ác ở trong
lịng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở mỗi con người nảy nở như hoa mùa
xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”; vì vậy,
“thang thuốc hay nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình”.
Nguyên tắc thứ tư được Người nhắc đến trong xây dựng Đảng kiểu mới
là kỷ luật tự giác, nghiêm minh. Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng là đòi
hỏi tất cả mọi tổ chức đảng, mọi đảng viên đều phải bình đẳng trước Điều lệ
Đảng, trước pháp luật Nhà nước, Nghị quyết của Đảng. Đảng ta là một tổ
chức gồm những người tự nguyện phấn đấu cho lý tưởng Cộng sản chủ nghĩa,
cho nên tự giác là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi tổ chức đảng và đảng
viên. Theo đó, Hồ Chí Minh u cầu mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, làm
bất cứ việc gì cũng phải chấp hành nghiêm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước.

Việc coi thường kỷ luật Đảng, không tự giác chấp hành kỷ luật Đảng sẽ làm
suy yếu và tan rã Đảng.
Trong hệ thống các nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới, Hồ Chí Minh
khơng qn đề cao nguyên tắc đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đoàn kết,
thống nhất là một thuộc tính cơ bản, một nguyên tắc hoạt động quan trọng của
Đảng, quyết định sức mạnh của Đảng. Trong Di chúc, Người viết: “Đoàn kết
là một truyền thống cực kỳ quý báu của đảng và nhân dân ta. Các đồng chí từ
trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí trong đảng
như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Việc nắm vững và vận dụng sáng tạo
những nguyên tắc trong xây dựng Đảng kiểu mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
là vấn đề có tính quy luật nhằm xây dựng các tổ chức cơ sở đảng trong sạch
vững mạnh, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Xây dựng Đảng về đạo đức


19
Hồ Chí Minh khẳng định: Một Đảng chân chính cách mạng phải có đạo
đức, đạo đức đó mang bản chất giai cấp công nhân, cũng là đạo đức MácLênin mà nội dung là Chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu. Vì thế Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ: Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư.
Giáo dục cách mạng là một nội dung vơ cùng quan trọng, nó gắn chặt
với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân nhằm làm cho Đảng ln ln
thật sự trong sạch. Hồ Chí Minh đã góp phần bổ sung, mở rộng, phát triển
quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin về công tác xây dựng Đảng phù hợp với
truyền thống văn hóa, lịch sử của các nước phương Đơng, và trong đó có Việt
Nam.

KẾT LUẬN



20
Hồ Chí Minh là người sáng lập, đồng thời là người giáo dục và rèn
luyện Đảng Cộng sản Việt Nam trong gần 40 năm. Từ nhu cầu giải phóng dân
tộc theo con đường cách mệnh vô sản. Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác–Lênin, Hồ Chí Minh đã kết hợp chặt chẽ giữa nhận thức lý luận và
hoạt động, tổn kết thực tiễn, xác lập nên một hệ thống các quan điểm, tư
tưởng về Đảng Cộng sản trông điều kiện một nước thuộc địa nữa phong kiến,
kinh tế nơng nghiệp lạc hậu với các đặc điểm văn hóa truyền thống phương
Đông. Trong các hệ thống các quan điểm đó , Hồ Chí Minh có những phát
kiến đặc biệt sáng tạo, phản hồi mối quan hệ biện chứng giữa tính phổ biến và
tính đặc thù của quy luật hình thành Đảng vô sản kiếu mới trong điều kiện
từng nước; quan điểm về sự thống nhất biện chứng giữa bản chất giai cấp
cơng nhân với tính dân tộc và tính nhân dân của Đảng; quan niệm về Đảng
cầm quyền và các yếu tố bảo đảm vai trò cầm quyền của Đảng. Những quan
điểm này thật sự là sáng tạo riêng của Hồ Chí Minh, góp phần cụ thể hóa và
phát triển lý luận Mác – Lênin về Đảng cộng sản.
Trong giai đoạn cách mạng mới, đẩy mạng cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, dân tộc ta đang trước nhiều thời
cơ, vận hội, những cũng khơng ít khó khăn, thách thức. Vai trò lãnh đạo của
Đảng càng phải được khẳng định, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng cần được nâng cao hơn bao giờ hết để ngang tầm với các yêu cầu,
nhiệm vụ mà lịch sử nhân dân giao phó. Trong bối cảnh mới, xây dựng Đảng
là nhiệm vụ then chốt gắn chặt với xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, tạo nền tảng tinh thần cho sự phát triển xã hội. Đảng
ta đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng trên tất cả các mặt: tư tưởng – lý luận,
chính trị, tổ chức và cán bộ, đạo đức, làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững
mạnh, đạt đến tầm cao về đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh chính trị, vững vàng trước
mọi thách thức của lịch sử.



21
Về chính trị, đó là đường lối chính trị đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững
vàng trong mọi tình huống phức tạp, mọi bước ngoặt hiểm nghèo, mọi giai
đoạn cách mạng khác nhau. Trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, Đảng biết tập trung giành thắng lợi cho từng bước đi lên của
cách mạng.
Về tư tưởng, đó là tư tưởng cách mạng triệt để, tư tưởng cách mạng tiến
công, chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại, giáo điều, bảo thủ. Trên nền tảng chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng phải biết làm giàu trí tuệ
của mình bằng việc kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, thâu thái những tinh hoa văn hóa của nhân loại, để giành thắng lợi cho
cách mạng.
Về tổ chức, đó là một tổ chức chính trị trong sạch, vững mạnh; một tổ
chức chiến đấu kiên cường với các nguyên tắc nền móng được tuân thủ
nghiêm ngặt để khi hành động thì mn người như một.
Về đạo đức, lối sống, cán bộ, đảng viên của Đảng coi trọng việc tu
dưỡng đạo đức, cần, kiệm,liêm, chính, chí cơng vơ tư, nâng cao năng lực, gắn
bó máu thịt với nhân dân, dám hy sinh xả thân vì sự nghiệp cách mạng và của
cả dân tộc. Trong mọi mối quan hệ, cán bộ, đảng viênkhông ngừng học tập và
làm theo tám gương đạo đức Hồ Chí Minh để khơng ngừng hồn thiện nhân
cách, giành được niềm tin yêu trọn vẹn của nhân dân.
Chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tựu trong công tác xây dựng Đảng
cầm quyền, những bất cập, yếu kém, hạn chế cũng khơng phải ít, nhất là sự
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ,
đảng viên chưa được ngăn chặn và đẩy lùi. Vì thế, việc tiếp tục đẩy mạnh
nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh phải được quán triệt đến từng tổ chức cơ
sở đảng, từng cán bộ, đảng viên.



22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh.
2. Giáo trình Đường Lối Cách Mạng Của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh tồn tập (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia)
3.Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam (Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia)
3. Tạp chí Đảng Cộng sản
4. Các báo điện tử



×