lOMoARcPSD|15963670
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
BÀI TẬP LỚN
MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI – QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC
NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM
LỚP: L21 - NHÓM: 07
HK 212
Giảng viên hướng dẫn: TS. Đào Thị Bích Hồng
Sinh viên thực hiện
Mã số sinh viên
Phan Tuấn Kiệt
1913880
Lê Nguyễn Hoài Linh
1913942
Trần Mậu Lợi
1914049
Lê Xuân Long
1913994
Trần Xuân Lợi
1914050
Thành phố Hồ Chí Minh – 2022
Điểm số
lOMoARcPSD|15963670
BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 07
STT
Mã số
SV
1
Nhiệm vụ được phân
công
Chương 2, phần 1 và
phần 2
Tổng hợp, chương 3
phần 1
Họ
Tên
Kết quả
1913880
Phan Tuấn
Kiệt
2
1913942
Lê Nguyễn Hoài
Linh
3
1914049
Trần Mậu
Lợi
Phần mở đầu, phần kết
luận, chương 1
100%
4
1913994
Lê Xuân
Long
Chương 3 phần 2
100%
5
1914050
Trần Xuân
Lợi
Chương 2 phần 3
100%
100%
100%
NHÓM TRƯỞNG
(ký, ghi rõ họ tên)
Ký tên
lOMoARcPSD|15963670
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................................ 3
Chương 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀO CUỐI THẾ KỶ XIX,
ĐẦU THẾ KỶ XX ...................................................................................................3
1.1. Bối cảnh thế giới .............................................................................................3
1.2. Bối cảnh trong nước .......................................................................................4
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1........................................................................................8
Chương 2: QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI
VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ...................................9
2.1. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến .....................................9
2.1.1. Phong trào yêu nước của giai cấp phong kiến........................................9
2.1.2. Phong trào yêu nước của giai cấp nông dân ........................................17
2.2. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản ............................................20
2.2.1. Đầu thế kỷ XX .........................................................................................20
2.2.2. Sau chiến tranh thế giới lần thứ Nhất...................................................22
2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vơ sản ...........................................23
2.3.1 Q trình Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng vô sản
(1911-1920)............................................................................................................23
2.3.2 Phân tích được sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác-Lênin để xây dựng
lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc cho Việt Nam của Hồ Chí Minh. .....26
2.3.3 Sự phát triển của khuynh hướng cách mạng vô sản ở Việt Nam: ........29
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2......................................................................................29
Chương 3: SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ CƯƠNG
LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN ...........................................................................30
3.1. Hội nghị thành lập Đảng và nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên......30
3.1.1. Bối cảnh tổ chức Hội nghị thành lập Đảng ..........................................30
3.1.2 . Nội dung của Cương lĩnh chính trị đầu tiên ........................................31
lOMoARcPSD|15963670
3.2. Giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương
lĩnh chính trị đầu tiên ..............................................................................................35
3.2.1. Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc (1930-1975)
................................................................................................................................35
3.2.2. Đối với sự phát triển của đất nước hiện nay (1975 đến nay) ...............39
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3......................................................................................41
PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................................... 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 44
lOMoARcPSD|15963670
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành Cách mạng
Tháng Tám 1945 thành cơng, xố bỏ hoàn toàn chế độ thực dân phong kiến, lập nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, hồn thành sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam bên cạnh những thành tựu vẫn còn
những hạn chế cần tiếp tục khắc phục để đạt những thành công hơn nữa. Cuộc cách mạng
khoa học công nghệ 4.0 và xu hướng tồn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, thế giới đã
“phẳng” hơn, thông tin không còn chủ yếu đến từ giấy mực nữa mà đến từ khơng gian
internet. Bối cảnh đó là sự thuận lợi, đồng thời cũng đặt ra những vấn đề mới của thời đại
yêu cầu chúng ta phải nghiên cứu, có giải pháp phù hợp. Internet, với tính mở của nó,
giúp mọi người tiếp cận thông tin rất nhanh từ nhiều nguồn khác nhau. Lợi dụng điểm đó,
thơng qua các nền tảng mạng xã hội, các thế lực thù địch ngày càng có những thủ đoạn
tinh vi nhằm chống phá, mục đích hạ thấp uy tín của Đảng hoặc nhằm xóa bỏ vai trị lãnh
đạo của Đảng, như việc liên tục có những bài viết có vẻ ngồi rất bình thường như một
bài báo, bài nghiên cứu, nhưng đã cố ý cài cắm những thông tin sai trái, luận điệu xuyên
tạc, xét lại lịch sử hòng tiêm nhiễm sự hoang mang, nghi ngờ, làm một bộ phận dân
chúng thiếu hiểu biết dao động, lung lay lòng tin vào sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đó là những bước đầu tiên của chúng nhằm đạt được âm mưu chính
trị cao hơn là xóa bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tế như vậy yêu cầu mỗi người
chúng ta tìm hiểu về lịch sử Đảng, để thấy rằng Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng ra đời trải qua thực tiễn đã chứng minh việc Đảng Cộng sản
Việt Nam trở thành Đảng lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam là kết quả của
quá trình sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và dân tộc Việt Nam.
Đó chính lý do nhóm chúng em chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời – quá
trình sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và dân tộc Việt Nam” làm bài tập lớn kết thúc
môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhiệm vụ của đề tài
1
lOMoARcPSD|15963670
Một là, làm rõ đặc điểm kinh tế, xã hội Việt Nam dưới chính sách thống trị, khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp.
Hai là, làm rõ những nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam
theo khuynh hướng chính trị phong kiến và tư sản cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.
Ba là, làm rõ q trình lựa chọn con đường cách mạng vơ sản của Nguyễn Ái Quốc
(1911-1920) và sự chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc về tư tưởng – chính trị và tổ chức cho
việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam.
Bốn là, là rõ sự phát triển của phong trào cách mạng vô sản, sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
2
lOMoARcPSD|15963670
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀO CUỐI THẾ KỶ XIX, ĐẦU THẾ KỶ XX
1.1.
Bối cảnh thế giới
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh
tranh sang giai đoạn độc quyền. Các đế quốc đua nhau xâm lược các nước châu Á, châu
Phi và Mỹ la tinh. Sự xâm lược và bóc lột thực dân làm cho nhân dân các thuộc địa rất
khổ cực. Mâu thuẫn giữa các đế quốc với các dân tộc thuộc địa và mâu thuẫn giữa các đế
quốc với nhau rất gay gắt.
Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc đã dẫn đến chiến tranh thế giới thứ nhất (19141918); để lại cho nhân dân thế giới những hậu quả rất nặng nề. Thực dân Pháp trút gánh
nặng, tăng cường bóc lột, đàn áp cách mạng các nước thuộc địa.
Đầu thế kỷ XX, V.I. Lênin (1870 - 1924) đã bảo vệ và phát triển học thuyết Mác,
đưa ra lý luận về đảng vô sản kiểu mới của giai cấp công nhân, về cách mạng vô sản
trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc; về nhiệm vụ kinh tế và chính trị trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội... Sự phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã thúc đẩy phong trào cách
mạng thế giới phát triển.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 làm rung chuyển thế giới,
thức tỉnh hàng triệu người, mở ra thời đại cách mạng chống đế quốc và giải phóng dân
tộc.
Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản, trung tâm lãnh đạo phong trào cách mạng thế
giới được thành lập, thúc đẩy sự ra đời các đảng cộng sản và dẫn đến cao trào cách mạng
thế giới (1919 - 1923). Tháng 7/1920. V.I Lênin gửi tới tới các Đảng Cộng sản Sơ thảo
lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Tại Pháp, Nguyễn
Ái Quốc được đọc và tìm thấy ở bàn Luận cương của Lênin con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc Việt Nam.
Cuộc cách mạng Tân Hợi (10/1911) ở Trung Quốc, công cuộc Canh tân đất nước
của Nhật Bản cuối thế kỷ XIX; phong trào “bất bạo động” của Đảng Quốc Đại ở Ấn Độ
lãnh đạo những năm đầu thế kỷ XX đã ảnh hưởng đến tư tưởng, thu hút sự quan tâm của
nhiều người yêu nước Việt Nam.
3
lOMoARcPSD|15963670
1.2.
Bối cảnh trong nước
Trong trào lưu xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây, từ năm 1858
thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm Việt Nam. Sau khi đánh chiếm được
nước ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành những cuộc khai
thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân cơng rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ
hàng hóa.
Từ năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ
nhất và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), chúng tiến hành chương trình khai
thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương với số vốn đầu tư trên quy mô lớn, tốc độ
nhanh.
Do sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình kinh tế Việt
Nam có sự biến đổi: quan hệ kinh tế nơng thơn bị phá vỡ, hình thành nên những đơ thị
mới, những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới. Nhưng thực dân Pháp khơng du
nhập một cách hồn chỉnh phương thức tư bản chủ nghĩa vào nước ta, mà vẫn duy trì
quan hệ kinh tế phong kiến. Chúng kết hợp hai phương thức bóc lột tư bản và phong kiến
để thu lợi nhuận siêu ngạch. Chính vì thế, nước Việt Nam không thể phát triển lên chủ
nghĩa tư bản một cách bình thường được, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vịng
lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp.
Về chính trị, chúng tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp
nặng nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp, từ tồn
quyền Đơng Dương, thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, thống sứ Bắc Kỳ, công sứ
các tỉnh, đến các bộ máy quân đội, cảnh sát, toà án...; biến vua quan Nam triều thành bù
nhìn, tay sai. Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc
đấu tranh của dân ta trong biển máu. Chúng tiếp tục thi hành chính sách chia để trị rất
thâm độc, chia nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng và nhập ba kỳ đó
với nước Lào và nước Campuchia để lập ra liên bang Đơng Dương thuộc Pháp, xóa tên
nước ta trên bản đồ thế giới. Chúng gây chia rẽ và thù hận giữa Bắc, Trung, Nam, giữa
các tôn giáo, các dân tộc, các địa phương, thậm chí là giữa các dịng họ; giữa dân tộc Việt
Nam với các dân tộc trên bán đảo Đơng Dương.
Về văn hóa, chúng thi hành triệt để chính sách văn hóa nơ dịch, gây tâm lý tự ti,
vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong bại tục. Mọi hoạt động
4
lOMoARcPSD|15963670
yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn
ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu
dân để dễ bề thống trị.
Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình
xã hội Việt Nam. Sự phân hoá giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc hơn.
Giai cấp địa chủ phong kiến đã tồn tại hơn ngàn năm. Chủ nghĩa tư bản thực dân
được đưa vào Việt Nam và trở thành yếu tố bao trùm, song vẫn khơng xóa bỏ mà vẫn bảo
tồn và duy trì giai cấp địa chủ để làm cơ sở cho chế độ thuộc địa. Tuy nhiên, do chính
sách kinh tế và chính trị phản động của thực dân Pháp, giai cấp địa chủ càng bị phân hóa
thành ba bộ phận khá rõ rệt: tiểu, trung và đại địa chủ. Có một số địa chủ bị phá sản. Vốn
sinh ra và lớn lên trong một quốc gia dân tộc có truyền thống u nước chống ngoại xâm,
lại bị chính sách thống trị tàn bạo về chính trị, chèn ép về kinh tế, nên một bộ phận không
nhỏ tiểu và trung địa chủ khơng chịu nỗi nhục mất nước, có mâu thuẫn với đế quốc về
quyền lợi dân tộc nên đã tham gia đấu tranh chống thực dân và bọn phản động tay sai.
Giai cấp nông dân chiếm khoảng 90% dân số. Họ bị đế quốc, phong kiến địa chủ
và tư sản áp bức, bóc lột rất nặng nề. Ruộng đất của nông dân đã bị bọn tư bản thực dân
chiếm đoạt. Chính sách độc quyền kinh tế, mua rẻ bán đắt, tô cao, thuế nặng, chế độ cho
vay nặng lãi... của đế quốc và phong kiến đã đẩy nông dân vào con đường bần cùng hóa
khơng lối thốt. Một số ít bán sức lao động, làm thuê trong các nhà máy, hầm mỏ, đồn
điền hoặc bị bắt đi làm phu tại các thuộc địa khác của đế quốc Pháp. Cịn số đơng vẫn
phải gắn vào đồng ruộng và gánh chịu sự bóc lột vơ cùng nặng nề ngay trên mảnh đất mà
trước đây là sở hữu của chính họ.
Vì bị mất nước và mất ruộng đất nên nông dân có mâu thuẫn với đế quốc và phong
kiến, đặc biệt sâu sắc nhất với đế quốc và bọn tay sai phản động. Họ vừa có yêu cầu độc
lập dân tộc, lại vừa có yêu cầu ruộng đất, song yêu cầu về độc lập dân tộc là bức thiết
nhất. Giai cấp nơng dân có truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất là lực lượng to
lớn nhất, một động lực cách mạng mạnh mẽ. Giai cấp nông dân khi được tổ chức lại và
có sự lãnh đạo của một đội tiên phong cách mạng, sẽ phát huy vai trò cực kỳ quan trọng
của mình trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.
Giai cấp tư sản hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.
Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản Việt Nam mới chỉ là một tầng lớp nhỏ bé. Sau
chiến tranh, tư sản Việt Nam đã hình thành giai cấp rõ rệt. Ra đời trong điều kiện bị tư
5
lOMoARcPSD|15963670
bản Pháp chèn ép, cạnh tranh rất gay gắt, nên số lượng tư sản Việt Nam không nhiều, thế
lực kinh tế nhỏ bé, thế lực chính trị yếu đuối.
Trong quá trình phát triển, giai cấp tư sản Việt Nam phân thành hai bộ phận:
Tư sản mại bản là những tư sản lớn, hợp tác kinh doanh với đế quốc, bao thầu
những cơng trình xây dựng của chúng ở nước ta. Nhiều tư sản mại bản có đồn điền lớn
hoặc có nhiều ruộng đất cho phát canh, thu tơ. Vì có quyền lợi kinh tế và chính trị gắn
liền với đế quốc thực dân, nên tư sản mại bản là tầng lớp đối lập với dân tộc.
Tư sản dân tộc là bộ phận đông nhất trong giai cấp tư sản, bao gồm những tư sản
loại vừa và nhỏ, thường hoạt động trong các ngành thương nghiệp, công nghiệp và cả tiểu
thủ công nghiệp. Họ muốn phát triển chủ nghĩa tư bản của dân tộc Việt Nam, nhưng do
chính sách độc quyền và chèn ép của tư bản Pháp nên không thể phát triển được. Xét về
mặt quan hệ với đế quốc Pháp, tư sản dân tộc phải chịu số phận mất nước, có mâu thuẫn
về quyền lợi với bọn đế quốc thực dân và phong kiến, nên họ có tinh thần chống đế quốc
và phong kiến. Giai cấp tư sản dân tộc là một lực lượng cách mạng không thể thiếu trong
phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.
Giai cấp tiểu tư sản bao gồm nhiều bộ phận khác nhau: tiểu thương, tiểu chủ, thợ
thủ cơng, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên và những người làm nghề tự do. Giữa
những bộ phận đó có sự khác nhau về kinh tế và cách sinh hoạt, nhưng nhìn chung, địa vị
kinh tế của họ rất bấp bênh, luôn luôn bị đe dọa phá sản, thất nghiệp. Họ có tinh thần yêu
nước nồng nàn, lại bị đế quốc và phong kiến áp bức, bóc lột và khinh rẻ nên rất hăng hái
cách mạng. Đặc biệt là tầng lớp trí thức là tầng lớp rất nhạy cảm với thời cuộc, dễ tiếp
xúc với những tư tưởng tiến bộ và canh tân đất nước, tha thiết bảo vệ những giá trị tinh
thần truyền thống của dân tộc. Khi phong trào quần chúng công nông đã thức tỉnh, họ
bước vào trận chiến đấu giải phóng dân tộc ngày một đơng đảo và đóng một vai trò quan
trọng trong phong trào đấu tranh của quần chúng, nhất là ở đô thị. Giai cấp tiểu tư sản là
một lực lượng cách mạng quan trọng trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc.
Giai cấp cơng nhân là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của
Pháp và nằm trong những mạch máu kinh tế quan trọng do chúng nắm giữ. Lớp công
nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở
công nghiệp và thành phố phục vụ cho việc xâm lược và bình định của chúng ở nước ta.
Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của đế quốc Pháp, giai cấp cơng nhân đã hình
thành. Đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, giai cấp công nhân đã phát triển nhanh
6
lOMoARcPSD|15963670
chóng về số lượng, từ 10 vạn (năm 1914) tăng lên hơn 22 vạn (năm 1929), trong đó có
hơn 53.000 công nhân mỏ (60% là công nhân mỏ than), và 81.200 công nhân đồn điền.
Giai cấp công nhân Việt Nam tuy còn non trẻ, số lượng chỉ chiếm khoảng 1% số dân,
trình độ học vấn, kỹ thuật thấp, nhưng sống khá tập trung tại các thành phố, các trung tâm
công nghiệp và các đồn điền.
Giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp cơng nhân
quốc tế, đồng thời cịn có những điểm riêng của mình như: phải chịu ba tầng lớp áp bức
bóc lột (đế quốc, phong kiến và tư sản bản xứ); phần lớn vừa mới từ nơng dân bị bần
cùng hóa mà ra, nên có mối quan hệ gần gũi nhiều mặt với nông dân. Giai cấp công nhân
Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, nên nội bộ thuần nhất, không bị phân tán
về lực lượng và sức mạnh. Sinh ra và lớn lên ở một đất nước có nhiều truyền thống văn
hóa tốt đẹp, nhất là truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, sớm tiếp thu được tinh hoa
văn hóa tiên tiến trong trào lưu tư tưởng của thời đại cách mạng vô sản để bồi dưỡng bản
chất cách mạng của mình.
Giai cấp cơng nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội tiên tiến, đại diện cho
phương thức sản xuất mới, tiến bộ, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần cách mạng
triệt để, lại mang bản chất quốc tế. Họ là một động lực cách mạng mạnh mẽ và khi liên
minh được với giai cấp nông dân và tiểu tư sản sẽ trở thành cơ sở vững chắc cho khối đại
đoàn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do. Khi được tổ chức lại và hình
thành được một đảng tiên phong cách mạng được vũ trang bằng một học thuyết cách
mạng triệt để là chủ nghĩa Mác - Lênin thì giai cấp cơng nhân trở thành người lãnh đạo
cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân
mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã
hội Việt Nam, ngồi mâu thuẫn cơ bản giữa Nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp
địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay
gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể Nhân dân Việt Nam với thực
dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến
đang đặt ra hai yêu cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập
cho dân tộc, tự do cho Nhân dân; Hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ
cho Nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nơng dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng
dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
7
lOMoARcPSD|15963670
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Chính sách thống trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam và cả Đơng Dương nói
chung là một chính sách thống trị chuyên chế về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế
nhằm đem lại lợi nhuận tối đa về kinh tế, kìm hãm và nơ dịch về văn hóa, giáo dục, chứ
khơng phải đem đến cho nhân dân một sự “khai hoá văn minh” - một sự khai hoá và cải
tạo thực sự theo kiểu phương Tây. Bản chất của “sứ mạng khai hóa” đó chính là sự khai
thác thuộc địa diễn ra dưới lưỡi lê, họng súng, máy chém, v.v.. Hồ Chí Minh từng nói về
“nhà khai hố” như sau: “Khi người ta đã là một nhà khai hố thì người ta có thể làm
những việc dã man mà vẫn cứ là người văn minh nhất 1” .Và nếu dân bản xứ không chịu
nhục được, phải vùng lên, thì các nhà khai hố “điều quân đội, súng liên thanh, súng cối
và tàu chiến đến, người ta ra lệnh giới nghiêm. Người ta bắt bớ và bỏ tù hàng loạt. Đấy!
Cơng cuộc khai hố nhân từ là như thế đấy!2” . Nước Việt Nam đã có những biến chuyển
sâu sắc về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần
tuý đã biến thành một xã hội thuộc địa. Mặc dù thực dân cịn duy trì một phần tính chất
phong kiến, song khi đã thành thuộc địa thì tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội và giai cấp ở Việt Nam đều bị đặt trong quỹ đạo chuyển động của xã hội đó. Trong
lòng chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã hình thành những mâu thuẫn đan
xen nhau, song mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với
thực dân Pháp và tay sai phản động. Sự thống trị, áp bức và bóc lột càng tăng thì mâu
thuẫn đó càng sâu sắc, sự phản kháng và đấu tranh vì sự tồn vong của dân tộc càng phát
triển mạnh mẽ, gay gắt về tính chất, đa dạng về nội dung và hình thức. Trái lại, sự xung
đột, đấu tranh về quyền lợi riêng của mỗi giai cấp trong nội bộ dân tộc được giảm thiểu
và không quyết liệt như cuộc đấu tranh dân tộc. Hồ Chí Minh đã vạch rõ vấn đề này từ
năm 1924 rằng: “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây... Sự
xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó, khơng thể chối cãi được3”.
1
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.2, tr. 56.
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.2, tr. 115.
3
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.1, tr. 464
2
8
Downloaded by ng?c trâm ()
lOMoARcPSD|15963670
Chương 2
QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.1. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến
2.1.1. Phong trào yêu nước của giai cấp phong kiến
• Khởi nghĩa Trương Định (1859 – 1864)
Năm 1859, giặc Pháp đưa quân đánh chiếm Gia Định. Trương Định tổ chức nghĩa
qn chống giặc ở Gị Cơng, Tân An, được triều đình Huế giao chức Lãnh binh.
Ngày 5/6/1862, triều đình nhà Nguyễn kí Hiệp ước Nhâm Tuất đồng ý giao 3 tỉnh
miền Đông Nam Kỳ cho thực dân Pháp và phải đàn áp các cuộc nổi dậy của nhân dân. Vì
lẽ đó, triều đình ra lệnh cho Trương Định phải ngừng chiến đấu và giải tán nghĩa quân
nhưng Trương Định cương quyết kháng Pháp đến cùng, được nhân dân suy tôn là Bình
Tây đại ngun sối.
Ngày 20/8/1864, Trương Định bị thương nặng đã rút gươm tự sát. Con trai là
Trương Quyền tiếp tục chiến đấu đến năm 1867.
• Khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực (1861 – 1868)
Năm 1859 thực dân pháp tấn công vào thành Gia Định, ông đã tham gia vào đội
nghĩa binh kháng chiến và được cử về hoạt động chống Pháp trên địa bàn phủ Tân An và
phối hợp tác chiến với Trương Định. Năm 1861, ông chiêu mộ một số đông nông dân nổi
dậy đánh phá các đồn Pháp ở các vùng thuộc phủ Tân An, nhờ lập được nhiều cơng lao,
ơng được triều đình Nguyễn phong chức Quản cơ nên còn gọi là Quản Chơn, hay Quản
Lịch và hậu thưởng cho nghĩa quân.
Là một trong những người yêu nước tiêu biểu và đặc biệt. Ông đã tham gia chống
Pháp từ những năm đầu tiên Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam với hai chiến công lừng
lẫy: Trận đầu tiên diễn ra vào năm 1861 trên vàm Nhựt Tảo. Cụ và các nghĩa binh là
nông dân đã tiếp cận và đốt cháy tàu L’Esperance của quân Pháp, tiếng tăm của Nguyễn
Trung Trực vang dội, làm binh lính Pháp phải dè dặt. Trận thứ hai diễn ra vào lúc 4 giờ
sáng 16/6/1868, Nguyễn Trung Trực dẫn quân xuất phát từ Tà Niên đánh úp đồn Kiên
Giang, gây hoang mang trong quân lính Pháp. Về sau, thi sĩ Huỳnh Mẫn Đạt quê ở Rạch
Giá đã nhắc đến cụ qua hai câu thơ ghi lại hết công trạng của ông tại Long An và Kiên
Giang: “Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa; Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần”.
9
Downloaded by ng?c trâm ()
lOMoARcPSD|15963670
Ngày 21/6/1868, Pháp phản công, Nguyễn Trung Trực đành phải lui qn về Hịn
Chơng, rồi ra đảo Phú Quốc lập căn cứ tại Cửa Cạn nhằm chống Pháp lâu dài. Tháng 9
năm 1868, Nguyễn Trung Trực bị thực dân Pháp bắt ở Phú Quốc rồi bị đem về Sài Gòn,
chúng dụ dỗ ông đầu hàng nhưng vô hiệu. Ngày 27 tháng 10 năm 1868, thực dân Pháp
đưa Nguyễn Trung Trực về Rạch Giá và xử tử ông tại dây. Trước khi chết Nguyễn Trung
Trực đã dõng dạc nói với quân Pháp “Bao giờ nước Nam hết cỏ, thì mới hết người Nam
đánh Tây”1.
• Khởi nghĩa Nguyễn Hữu Huân (1862 – 1875)
Khi quân Pháp xâm lược ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, ông cùng với nghĩa quân
Võ Duy Dương, Âu Dương Lân hoạt động suốt một dải từ Tân An đến Mỹ Tho, đánh du
kích quân giặc, khiến chúng khốn đốn.
Khoảng tháng 6 năm 1862, Nguyễn Hữu Huân đem nghĩa quân gia nhập lực lượng
Trương Định. Tháng 6 năm 1863 ông bị bắt. Ngày 22/8/1864, ông bị kết án 10 năm tù
khổ sai và bị đày đi Cayenne. Sau 5 năm tù, ngày 4/2/1869, Pháp cho lệnh ân xá. Nguyễn
Hữu Huân liên lạc với các sĩ phu yêu nước và hội kín Hoa kiều Trường Phát, nhờ mua vũ
khí để chuẩn bị khởi nghĩa. Lần này dân chúng theo Nguyễn Hữu Hn rất đơng, trong số
đó có cả một số hương chức, hội tề, địa chủ. Đến khoảng tháng 3 năm 1875, ông trở lại
vùng Tân An để tập hợp lại lực lượng, thì bị bắt vì bị chỉ điểm. Nhà cầm quyền Pháp
giam Nguyễn Hữu Huân ở Mỹ Tho.
Sau khi chiêu hàng khơng thành, họ kết án tử hình ơng. Trước khi thụ hình, ơng
nhắn vợ con tế sống mình và gửi vải vào cho ông đề thơ và câu liễn (Liễn tuyệt mệnh)
thờ. Ngày 15 tháng 4 năm Ất Hợi (19 tháng 5 năm 1875), đối phương cho tàu chở
Nguyễn Hữu Hn xi theo dịng Bảo Định về Mỹ Tịnh An và hành quyết ông lúc 12
giờ trưa.
Nguyễn Hữu Huân là một trong những thủ lĩnh nghĩa quân chiến đấu kiên cường
nhất đất Nam Kỳ. Ông bị giặc bắt 3 lần, mỗi lần được tha ra lại tập hợp lực lượng chiến
đấu, tiêu biểu cho tinh thần bất khuất của nhân dân Tây Nam Bộ.
Cuối thế kỷ XIX, triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các hiệp ước Harmand
năm 1883 và Patenôtre năm 1884, đầu hàng thực dân Pháp. Dù vậy, trước sự xâm lược
1
Dương Kinh Quốc, Việt Nam những sự kiện Lịch Sử (1858-1918), NXB. Giáo Dục tr28,29
10
Downloaded by ng?c trâm ()
lOMoARcPSD|15963670
của thực dân Pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng phong
kiến diễn ra mạnh mẽ.
• Phong trào Cần Vương (1885-1896)
Phong trào Cần Vương (1885-1896), một phong trào đấu tranh vũ trang do vua
Hàm Nghi và cụ Tôn Thất Thuyết lãnh đạo, hoạt động tại Bắc kỳ và Trung kỳ. Ngày
13/7/1885, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương. Phong trào Cần Vương phát triển
mạnh ra nhiều địa phương ở Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam Kỳ.
Sau khi vua Tự Đức mất (tháng 7 năm 1883), nội bộ đình thần, quan lại nhà
Nguyễn phân hóa càng sâu sắc, triều đình phân hóa thành 2 phe rõ rệt – phe chủ chiến và
phe chủ hòa. Phe chủ chiến đứng đầu là Tôn Thất Thuyết chủ trương chống Pháp, kiên
quyết không khuất phục thực dân Pháp, muốn cứu lấy sự tồn tại của đất nước, của triều
đình. Cịn phe chủ hòa sẵn sàng quy thuận và hợp tác với Pháp để bảo vệ quyền lợi giai
cấp. Tôn Thất Thuyết là Thượng thư Bộ binh, nắm giữ quân đội trong tay và là nhân vật
quan trọng nhất trong Hội đồng phụ chính. Ngồi ra, Tơn Thất Thuyết cịn có liên hệ mật
thiết với nhiều thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp. Tôn Thất Thuyết quyết tâm xây dựng,
củng cố lực lượng để quyết chiến với thực dân Pháp. Ông cho thành lập một hệ thống sơn
phòng từ Quảng Trị đến Ninh Bình và từ Quảng Nam đến Bình Thuận; chiêu mộ thêm
nghĩa binh, tăng cường xây dựng đồn lũy. Tại Huế, ông cho củng cố quân đội và lập thêm
2 đạo quân đặc biệt – Phấn Nghĩa quân và Đoàn Kiệt quân. Đây là đội quân cơ động, tinh
nhuệ trong các cuộc đối đầu với Pháp và bảo vệ vua cùng Hội đồng phụ chính.
Trong triều, phe chủ chiến dù khó khăn, vẫn khơng nản chí. Vấn đề trước mắt họ
là phải tìm ra một nhân vật mà phái chủ chiến có thể khống chế được để đưa lên ngơi.
Ngày 31/7/1884, Tôn Thất Thuyết cho phế truất vua Kiến Phúc – một ơng vua có
tư tưởng thân Pháp và đưa Ưng Lịch mới 14 tuổi lên ngôi, lấy hiệu là Hàm Nghi, sớm tỏ
ra có khí phách ngay trước mặt tên Trú sứ Rheinart và các sĩ quan Pháp có mặt trong buổi
lễ đăng quang của mình tại kinh thành Huế.
Cuối năm 1884, Pháp chiếm kinh thành Huế, giữa lúc quân Pháp đang khốn đốn ở
Bắc Kỳ, phe chủ chiến ở Huế, đứng đầu là Tôn Thất Thuyết, lấy danh nghĩa vua Hàm
Nghi phản đối việc 300 quân Pháp kéo vào Huế lập căn cứ Mang Cá ngay trong Hoàng
thành. Đáp lại Pháp cho tăng thêm số quân đóng ở Mang Cá lên hàng ngàn tên.
Đại biểu cho phe chủ chiến trong triều là Phan Đình Phùng, Ơng Ích Khiêm, Trần
Xn Soạn... đứng đầu là Tơn Thất Thuyết. Mặc dù có những điểm bất đồng trong
11
Downloaded by ng?c trâm ()
lOMoARcPSD|15963670
chuyện phế lập, nhưng phái chủ chiến và đa số hồng tộc đã nhanh chóng thơng qua kế
hoạch táo bạo đánh úp quân Pháp ở đồn Mang Cá và toàn bộ khu vực Kinh thành của
Tôn Thất Thuyết.
Tôn Thất Thuyết huy động số quân còn lại ở các địa phương tập trung về Huế, bí
mật tổ chức một cuộc phản cơng. Do biết tình hình, ngày 27/6/1885, De Courcy (tổng chỉ
huy vừa được cử sang) đem 4 đại đội và 2 tàu chiến từ Hải Phòng vào thẳng Huế nhằm
loại trừ phe chủ chiến, dự định bắt cóc Tơn Thất Thuyết.
Ngày 2/7/1885, De Courcy đến Thuận An rồi lên Huế, u cầu Hội đồng phụ
chính đến hội thương. Tơn Thất Thuyết cáo bệnh không đến, gấp rút chấn chỉnh quân sĩ,
đào hào đắp lũy trong thành, bố trí hai đạo qn đặc biệt phịng thủ hồng thành, nhằm
giành thế chủ động trước khi De Courcy bày đặt việc triều yết vua Hàm Nghi để đột nhập
hoàng thành.
Đêm ngày 4/7/1885, giữa lúc De Courcy đang dự tiệc ở sứ quán bên kia sông
Hương và bàn kế đột nhập kinh thành Huế thì Tơn Thất Thuyết bí mật chia qn làm hai
cánh. Cánh thứ nhất (do Tơn Thất Lệ chỉ huy) có nhiệm vụ tấn công sứ quán Pháp. Cánh
thứ hai (do Tơn Thất Thuyết đích thân chỉ huy) sẽ đánh úp tiêu diệt tồn bộ lính Pháp ở
đồn Mang Cá.
Biết trước âm mưu của giặc nên mặc dù việc chuẩn bị chưa thật đầy đủ, Tôn Thất
Thuyết vẫn nổ súng trước nhằm giành thế chủ động cho cuộc tấn công. Đúng 1 giờ sáng
ngày 5/7/1885, trong cảnh khuya vắng lặng của kinh thành Huế, bỗng có tiếng súng thần
cơng nổ rầm trời. Lệnh phát hỏa vừa dứt, đồn Mang Cá bốc cháy, quân ta đột nhập đồn,
lính Pháp rối loạn, mất 4 sĩ quan và trên 60 lính. Đồng thời sứ quán Pháp bên kia sông
Hương cũng bị tấn công, các trại lính địch bốc cháy dữ dội. De Courcy đối phó cầm
chừng, chờ sáng. Trại Mang Cá, lợi dụng quân Nguyễn chuyển hướng tấn công sang sứ
quán, quân Pháp kéo 3 đội quân vào chiếm thành Huế, đốt phá dinh thự, tàn sát dân
chúng, vượt qua các ổ phục kích lọt được vào hoàng thành.
Quân Pháp đã trắng trợn cướp bóc của cải và tàn sát vơ cùng dã man nhiều người
dân vô tội trên đường tiến quân. Trong ngày hơm đó, hầu như nhà nào cũng có người bị
giết. Do vậy từ đó về sau, hằng năm Nhân dân Huế đã lấy ngày 23 tháng 5 Âm lịch làm
ngày giỗ chung.
Quốc sử quán triều Nguyễn ghi: riêng tại Phủ Nội vụ ở tầng dưới cất giữ 91.424
thỏi bạc đỉnh 10 lạng, 78.960 thỏi bạc đỉnh 1 lạng; tầng trên cất giữ khoảng 500 lạng
12
Downloaded by ng?c trâm ()
lOMoARcPSD|15963670
vàng, khoảng 700.000 lạng bạc; kho gần cửa Thọ Chỉ cất giữ 898 lạng vàng, 3.400 lạng
bạc. Toàn bộ số vàng bạc này đã bị Pháp chiếm. Tướng De Courcy, chỉ huy cuộc tấn
công vào kinh đô Huế, ngày 24/7/1885 đã gửi cho chính phủ Pháp một bức điện với nội
dung sau: “Trị giá phỏng chừng các quý vật bằng vàng hay bằng bạc dấu kỹ trong các
hầm kín là 9 triệu quan. Đã khám phá thêm nhiều ấn tín và kim sách đáng giá bạc triệu.
Xúc tiến rất khó khăn việc tập trung những kho tàng mỹ thuật. Cần cử sang đây một
chiếc tàu cùng nhiều nhân viên thành thạo để mang về mọi thứ cùng với kho tàng”. Ngồi
ra, trong q trình qn Pháp truy đuổi Tơn Thất Thuyết từ tháng 7/1885, đã thu giữ ở
tỉnh Quảng Trị 34 hòm bạc chứa 36.557 tiền bạc và 6 hòm bạc chứa 196 thỏi bạc, mỗi
thỏi 10 lạng và 18.696 tiền bạc.
Việc không thành, Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi cùng đồn tùy tùng rời
kinh đơ Huế chạy ra sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị). Khi tới Tân Sở (Quảng Trị), quân sĩ
chỉ còn 500 người. Sáng mùng 5 tháng 7 Vua Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương. Ngày 13
tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết, lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi, đã hạ chiếu Cần
Vương lần thứ nhất nêu lại sự kiện “sự biến Kinh thành”, hô hào dân chúng phò Vua cứu
nước. Ở Quảng Trị một thời gian, để tránh sự truy lùng gắt gao của quân Pháp, Tôn Thất
Thuyết lại đưa Hàm Nghi vượt qua đất Lào đến sơn phòng Ấu Sơn (Hương Khê, Hà
Tĩnh). Tại đây, Hàm Nghi lại xuống chiếu Cần Vương lần hai vào ngày 20 tháng 9 năm
1885 nhằm bóc trần âm mưu của Pháp, cảnh cáo thế lực đầu hàng của Đồng Khánh và
nêu cao tính chính thống, chính nghĩa của bản thân sau khi Pháp vội vã đưa Đồng Khánh
lên làm Vua bù nhìn ở Huế vào ngày 19 tháng 9 năm 1885.
Mặc dù diễn ra dưới danh nghĩa Cần Vương, thực tế đây là một phong trào đấu
tranh yêu nước chống Pháp xâm lược của Nhân dân Việt Nam. Trong thời kì này, hồn
tồn vắng mặt sự tham gia của quân đội triều đình. Lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa Cần
Vương không phải là các võ quan triều Nguyễn như trong thời kỳ đầu chống Pháp, mà là
các sĩ phu văn thân yêu nước có chung một nỗi đau mất nước với quần chúng lao động,
nên đã tự nguyện đứng về phía nhân dân chống Pháp xâm lược.
Phong trào Cần Vương bùng nổ từ sau sự biến kinh thành Huế vào đầu tháng 7
năm 1885 và phát triển qua hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất (1885-1888)
Lúc đầu, “Triều đình Hàm Nghi” với sự phị tá của 2 người con Tôn Thất Thuyết
là Tôn Thất Đàm và Tôn Thất Thiệp, Đề đốc Lê Trực, Tri phủ Nguyễn Phạm Tuân di
13
Downloaded by ng?c trâm ()
lOMoARcPSD|15963670
chuyển và chiến đấu ở vùng rừng núi Quảng Bình; sau phải vượt Trường Sơn, qua đất Hạ
Lào về vùng sơn phòng Ấu Sơn (Hà Tĩnh). Đây là trang sử vẻ vang hiếm có của một ơng
vua u nước khi dịng họ mình nói chung đã hàng giặc. Để chiến đấu lâu dài, Tôn Thất
Thuyết và Trần Xuân Soạn quyết định vượt vòng vây đi xây dựng lực lượng kháng chiến
ở Thanh Hoá, rồi qua Trung Quốc.
Tháng 12/1886, theo lệnh Toàn quyền P. Bert, Đồng Khánh xuống 1 dụ kêu hàng,
nhưng khơng một ai trong “Triều đình Hàm Nghi” chịu buông súng.
Ngược lại, chưa bao giờ cả nước ta lại có nhiều cuộc khởi nghĩa đến như thế dưới
ngọn cờ Cần Vương. Trong giai đoạn đầu này, phong trào Cần Vương trải rộng từ địa
bàn trung tâm ra Bắc và Nam kỳ. Ở Trung kỳ, trước hết là Quảng Bình với Lê Trực,
Nguyễn Phạm Tuân; Quảng Nam là Trần Quang Dự, Nguyễn Hàm, Nguyễn Duy Hiệu;
Quảng Ngãi là Lê Trung Đình; Bình Định là Mai Xn Thưởng…
Bắc kỳ cũng có nhiều cuộc khởi nghĩa quan trọng như Đốc Tít ở Đơng Triều, Cai
Kinh ở Bắc Giang, Nguyễn Quang Bích ở Tây Bắc... Đặc biệt, xứ Bắc kỳ cũng đang hình
thành những cuộc khởi nghĩa có sức chiến đấu mạnh mẽ, có tiếng vang như Tạ Hiện ở
Thái Bình, Nam Định; Nguyễn Thiện Thuật ở Hưng Yên, Hải Dương; Phạm Bành, Đinh
Cơng Tráng ở Thanh Hóa; Lê Ninh, Phan Đình Phùng ở Đức Thọ, Hương Khê (Hà
Tĩnh)...
Giai đoạn thứ hai (1888-1896)
Trong điều kiện ngày càng khó khăn, số lượng các cuộc khởi nghĩa có giảm bớt,
nhưng lại tập trung thành những trung tâm kháng chiến lớn.
Tại Thanh Hóa, cứ điểm Ba Đình bị san phẳng sau cuộc tiến cơng dài ngày đầu
tháng 1/1887 của 3000 quân Pháp. Phạm Bành, Đinh Công Tráng mở đường máu về căn
cứ Mã Cao (Yên Định) theo kế hoạch đã định. Họ đã chiến đấu ở Mã Cao nhiều tháng
trời, thắng nhiều trận đáng kể và chỉ rút lui khi Mã Cao bị vỡ vào mùa thu 1887.
Nhưng dưới sự lãnh đạo của Tống Duy Tân ở Vĩnh Lộc và sự trợ giúp của các thủ
lĩnh người Thái là Cầm Bá Thước, người Mường là Hà Văn Mao, ngọn lửa Ba Đình lại
được thổi lên, gọi là khởi nghĩa Hùng Lĩnh, kéo dài tới năm 1892.
Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật nổ ra từ năm 1885, với lối đánh
du kích, biến hóa phân tán, dựa vào thiên nhiên của nghĩa quân Bãi Sậy, tuy khơng có
những trận đánh lớn như ở Ba Đình nhưng cũng gây cho quân Pháp nhiều tổn thất.
14
Downloaded by ng?c trâm ()
lOMoARcPSD|15963670
Cuộc khởi nghĩa lớn nhất, kéo dài suốt thời Cần Vương là khởi nghĩa Hương Khê.
Kế thừa cuộc khởi nghĩa đầu tiên của Lê Ninh ở Đức Thọ, Hà Tĩnh, Tiến sĩ Phan Đình
Phùng với sự trợ giúp của Cao Thắng, Ngô Quảng, Cao Đạt, Hà Văn Mỹ, Nguyễn Chanh,
Nguyễn Trạch... đã đưa cuộc khởi nghĩa này lên tầm vóc lớn nhất, độc đáo nhất thời Cần
Vương.
Phan Đình Phùng đã chia địa bàn 4 tỉnh: Thanh, Nghệ, Tĩnh, Bình thành 15 quân
thứ, xây dựng những chiến tuyến cố định, mạnh (Cồn Chùa, Thượng Bồng - Hạ Bồng,
Trùng Khê - Trí Khê, Vụ Quang) kết hợp lối đánh du kích với lối đánh lớn chiến tuyến cố
định, cuộc khởi nghĩa Hương Khê đã gây cho quân Pháp nhiều tổn thất. Phó tướng Cao
Thắng, hy sinh lúc mới 30 tuổi là người có tài chế súng theo kiểu năm 1874 của Pháp.
Thực dân Pháp phải huy động một lực lượng quân sự lớn, không kể cả 3000 ngụy quân
của Nguyễn Thân, vượt xa cả qn số, vũ khí khi chúng tấn cơng thành Ba Đình. Những
chiến thắng của Phan Đình Phùng như trận đánh úp thành Hà Tĩnh, bắt sống Tri phủ Đinh
Nho Quang 1892, trận Vạn Sơn tháng 3-1893, trận tập kích Hà Tĩnh lần thứ hai năm
1894 và trận Vụ Quang tháng 10-1894 được là một thành tựu của nghệ thuật qn sự Việt
Nam lúc đó.
Phan Đình Phùng tạ thế ở núi Quạt (Hà Tĩnh) ngày 28-12-1895 để lại bài thơ
Tuyệt mệnh vào loại xuất sắc trong văn học cận đại. 23 bộ tướng của ông cũng bị giặc
Pháp bắt và xử tử tại Huế. Đầu năm 1896, những tiếng súng cuối cùng của phong trào
Cần Vương chấm dứt.
Cần Vương mang nghĩa “giúp vua”. Trong lịch sử Việt Nam, trước thời nhà
Nguyễn từng có những lực lượng nhân danh giúp nhà vua phát sinh như thời Lê sơ, các
cánh quân hưởng ứng lời kêu gọi của vua Lê Chiêu Tông chống lại quyền thần Mạc Đăng
Dung. Tuy nhiên, phong trào này không để lại nhiều dấu ấn và khi nhắc tới Cần Vương
thường được hiểu là phong trào chống Pháp xâm lược.
Phong trào thu hút được một số các quan lại trong triều đình và văn thân. Ngồi ra,
phong trào cịn thu hút đơng đảo các tầng lớp sĩ phu yêu nước thời bấy giờ. Phong trào
Cần Vương thực chất đã trở thành một hệ thống các cuộc khởi nghĩa vũ trang trên khắp
cả nước, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, kéo dài từ năm 1885 cho đến
năm 1896.
Đêm 1/11/1888, vua Hàm Nghi bị giặc bắt do sự phản bội của Trương Quang
Ngọc tại vùng núi Tuyên Hóa (Quảng Bình). Ơng bị đày đi Angiêri. Tuy vậy, phong trào
15
Downloaded by ng?c trâm ()
lOMoARcPSD|15963670
vẫn tiếp tục phát triển cho đến năm 1896 mới kết thúc. Phong trào Cần Vương cuối thế
kỷ XIX là phong trào dân tộc, phong trào yêu nước chống chủ nghĩa thực dân xâm lược
kết hợp với chống triều đình phong kiến đầu hàng đã diễn ra sôi nổi, rộng khắp. Thất bại
của các phong trào trên đã chứng tỏ hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh
đạo phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc Việt Nam. Dù vậy thì
các phong trào đã tô thắm thêm truyền thống anh hùng, bất khuất của dân tộc Việt Nam.
Nguyên nhân thất bại của phong trào Cần Vương:
Tính chất địa phương: sự thất bại của phong trào Cần Vương có nguyên nhân từ sự
kháng cự chỉ có tính chất địa phương. Các phong trào chưa quy tụ, tập hợp thành một
khối thống nhất đủ mạnh để chống Pháp. Các lãnh tụ Cần Vương chỉ có uy tín tại nơi họ
xuất thân, tinh thần địa phương mạnh mẽ làm họ chống lại mọi sự thống nhất phong trào
trên quy mô lớn hơn. Khi các lãnh tụ bị bắt hay chết thì quân của họ hoặc giải tán hay
đầu hàng.1
Quan hệ với dân chúng: các đạo quân này khơng được lịng dân q nhiều lắm bởi
để có phương tiện sống và duy trì chiến đấu, họ phải đi cướp phá dân chúng.2
Mâu thuẫn với tôn giáo: sự tàn sát vô cớ những người Công giáo của quân Cần
Vương khiến giáo dân phải tự vệ bằng cách thông báo tin tức cho phía Pháp. Những
thống kê của người Pháp cho biết có hơn 20.000 giáo dân đã bị quân Cần Vương giết
hại.3
Mâu thuẫn sắc tộc: Chính sách sa thải các quan chức Việt và cho các dân tộc thiểu
số được quyền tự trị rộng rãi cũng làm cho các sắc dân này đứng về phía Pháp. Chính
người Thượng đã bắt Hàm Nghi, các bộ lạc Thái, Mán, Mèo, Nùng, Thổ đều đã cắt
đường liên lạc của quân Cần Vương với Trung Hoa làm cạn nguồn khí giới của họ. Quen
thuộc rừng núi, họ cũng giúp quân Pháp chiến tranh phản du kích đầy hiệu quả.4
Nền sản xuất lạc hậu, kém phát triển làm nền tảng, vì vậy vũ khí thơ sơ khơng thể
chống lại vũ khí hiện đại của Pháp.
Lực lượng và chiến thuật: các cuộc khởi nghĩa khơng đủ mạnh, chỉ có thể tấn cơng
vào những chỗ yếu, sơ hở của địch; không đủ khả năng thực hiện chiến tranh trực diện
với lực lượng chính quy của địch.
Nguyễn Thế Anh, Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các triều vua nhà Nguyễn, tr108
Nguyễn Thế Anh, Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các triều vua nhà Nguyễn, tr108
3
Nguyễn Thế Anh, Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các triều vua nhà Nguyễn, tr102
4
Nguyễn Thế Anh, Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các triều vua nhà Nguyễn, tr109
1
2
16
Downloaded by ng?c trâm ()