Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

82 THỦ tục rút gọn THEO BLTTHS năm2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.97 KB, 63 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT..................................................................................III
LỜI NÓI ĐẦU...........................................................................................................1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.........................................................................................................1
2. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI...........................................................................................3
3.MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI.........................................................................................4
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:................................................................................4
5. BỐ CỤC ĐỀ TÀI:...............................................................................................................4

CHƯƠNG 1...............................................................................................................6
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.6
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ...................6
1.1.1. Khái niệm thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
6
1.1.2. Đặc điểm của thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
8
1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI QUY ĐỊNH THỦ TỤC RÚT GỌN THEO

BLTTHS...............................9

1.2.1. Về lý luận 9
1.2.2. Về thực tiễn
11
1.3 LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA QUY ĐỊNH THỦ TỤC RÚT GỌN..............................................12
1.3.1. Từ năm 1988 đến năm 2003 12
1.3.2. Từ năm 2003 đến năm 2015 13
1.3.3. Từ năm 2015 đến nay
14
1.4. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA VIỆC ÁP DỤNG THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ15
1.4.1. Mục đích của việc áp dụng thủ tục rút gọn


1.4.2. Ý nghĩa của việc áp dụng thủ tục rút gọn

15
15

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1...................................................................................................16

CHƯƠNG 2.............................................................................................................17
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ VIỆC ÁP DỤNG THỦ TỤC
RÚT GỌN................................................................................................................17
2.1. PHẠM VI ÁP DỤNG THỦ TỤC RÚT GỌN........................................................................17
2.2. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG THỦ TỤC RÚT GỌN......................................................................18
2.2.1. Đối với giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm
19
2.1.2. Đối với giai đoạn xét xử phúc thẩm. 24
2.3. THẨM QUYỀN ÁP DỤNG, HỦY BỎ QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG THỦ TỤC RÚT GỌN...............25
2.3.1. Viện kiểm sát
25
2.3.2. Cơ quan điều tra
26
2.3.3. Tòa án 26
2.4. VỀ THỜI HẠN VÀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC ÁP DỤNG THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG

HÌNH SỰ 28
2.4.1. Về thời hạn28
2.4.2. Về trình tự, thủ tục 30
2.5. VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN...............................................................37


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2...................................................................................................38


CHƯƠNG 3.............................................................................................................40
THỰC TIỄN ÁP DỤNG, BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ THỰC TIỄN VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ........40
3.1. THỰC TIỄN VỀ ÁP DỤNG THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM. .40
3.2. BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG THỦ TỤC RÚT GỌN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ..................................................................................................43
3.2.1.Bất cập trong quy định pháp luật về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự 43
3.2.2. Bất cập trong thực tiễn áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
44
3.3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG THỦ TỤC RÚT

GỌN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ...........................................................................................46
3.3.1.Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
3.3.2.Giải pháp hồn thiện thực tiễn áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự

46
55

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3...................................................................................................57

KẾT LUẬN.............................................................................................................58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................59


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TTRG
BLTTHS

Thủ tục rút gọn

Bộ Luật Tố tụng hình sự

3


LỜI NĨI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tố tụng hình sự được hiểu là trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội
phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Các giai đoạn tố tụng này có
tính độc lập tương đối nhưng giữa chúng ln có quan hệ khăng khít và chặt chẽ với nhau.
Giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn sau và kết quả của giai đoạn sau là sự kiểm chứng
tính đúng đắn, khách quan của giai đoạn trước. Quá trình tố tụng hình sự được diễn ra để
bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm,
khơng làm oan người vơ tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền cơng
dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước Việt Nam, quyền và lợi ích hợp pháp người dân, giáo dục
mọi người chấp hành pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm trên mọi lĩnh vực.
Thủ tục rút gọn là một thủ tục đặc biệt của tố tụng hình sự, trong đó có sự đơn giản về
thủ tục, giảm bớt một số khâu, một số thủ tục trong việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình
sự nhằm rút ngắn về thời gian giúp giải quyết vụ án được nhanh chóng, kịp thời nhưng vẫn
đảm bảo xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo tuân thủ các ngun tắc cơ
bản của tố tụng hình sự, góp phần tiết kiệm thời gian, cơng sức, chi phí của nhà nước, góp
phần đấu tranh phịng, chống tội phạm có hiệu quả, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp
của cơng dân. Thủ tục rút gọn đã góp phần thiết thực vào cuộc đấu tranh, phòng ngừa tội
phạm, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết nhanh chóng một số lượng lớn các vụ
án, hạn chế lượng án tồn đọng hàng năm.
Lần đầu tiên vấn đề thủ tục rút gọn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự được quy định trong một văn bản pháp lý quan trọng của Nhà nước mà cụ thể được quy
định tại Chương XXXIV của Bộ luật tố tụng hình sự (viết tắt là BLTTHS) của nước Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc Hội khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26
tháng 11 năm 2003, được Chủ tịch nước công bố ngày 10 tháng 12 năm 2003 và có hiệu

lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2004. Chương XXXIV của BLTTHS năm 2003 quy
định thủ tục rút gọn có 7 điều luật, từ Điều 318 đến Điều 324.
Quán triệt theo tinh thần Nghị quyết của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm
trong cơng tác tư pháp, trong đó có nêu: “Nghiên cứu để quy định và thực hiện thủ tục rút
gọn đối với những vụ án đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm

1


trọng, …”1. Bộ Luật TTHS năm 2003, lần đầu tiên đã ghi nhận và quy định việc giải quyết
vụ án hình sự theo thủ tục rút gọn. Có thể nói, việc quy định này mang một ý nghĩa lịch sử
đối với pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, đó là khơi phục lại trình tự tố tụng rút gọn
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự đã được quy định và áp dụng từ rất lâu từ khi thành
lập nước Việt Nam.
Tiếp đến, cùng với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trên mọi lĩnh vực, Nghị
quyết 48/NQ-TW ngày 25/5/2005 của Bộ Chính trị Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 với mục tiêu xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, trọng tâm là hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; góp phần đưa nước ta trở thành
nước cơng nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Nghị quyết 49/NQ-TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã có chỉ đạo là:
“xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện
nhất định”. Từ đó, cho thấy thủ tục rút gọn được quy định trong BLTTHS năm 2003 còn
nhiều điểm chưa hợp lý nên hiệu quả áp dụng không cao, cần sửa đổi, bổ sung để hồn
thiện hơn nhằm nâng cao cơng tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hàng tố
tụng. Từ thực tiễn áp dụng, trên cơ sở kế thừa những quy định của pháp luật về thủ tục rút
gọn trong BLTTHS năm 2003. Ngày 27/11/2015, Quốc hội khóa XIII đã thơng qua
BLTTHS năm 2015, thủ tục rút gọn cũng được quy định thành một chương riêng đó là
Chương XXXI gồm 11 điều luật từ Điều 455 đến Điều 465. BLTTHS năm 2015 đã quy

định mở rộng hơn về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn; phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn;
thẩm quyền áp dụng thủ tục rút gọn; thời hạn điều tra, truy tố, xét xử (được quy định cụ thể
từ Điều 455 đến Điều 465).
Việc áp dụng thủ tục rút gọn là rất cần thiết, phù hợp với điều kiện và yêu cầu thực
tiễn trong công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, giúp quá trình giải quyết vụ
án được nhanh chóng, kịp thời, nhằm tăng cường hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng, chống
tội phạm. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt thuận lợi thì thủ tục rút gọn vẫn tồn động những
hạn chế, khó khăn trên thực tế nên việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết các vụ án
hình sự khi có đủ điều kiện để áp dụng thủ tục này chưa thật sự đạt hiệu quả như mong
1

Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng

tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.
2


muốn. Nghiên cứu cho thấy, kể từ khi thủ tục rút gọn được quy định trong BLTTHS, số
lượng vụ án được áp dụng theo thủ tục đặc biệt này chiếm tỷ lệ rất thấp trong tổ số các vụ
án hình sự được giải quyết.
Hiện nay, đại dịch Covid-19 vẫn đang hoành hành lây lan với mức độ đáng lo ngại,
với nhiều diễn biến rất phức tạp trên địa bàn cả nước. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn,
dịch bệnh xâm nhập và lây lan nhanh trên diện rộng, đã làm ảnh hưởng đến mọi mặt đời
sống kinh tế, xã hội của người dân. Đa phần người dân có ý thức chấp hành tốt các biện
pháp phịng, chống dịch của Chính phủ và chính quyền địa phương, bên cạnh đó vẫn cịn
một số đối tượng thiếu ý thức trong phòng, chống dịch, tấn công lực lượng đang làm nhiệm
vụ bảo vệ sức khoẻ cho tồn cộng đồng, cho gia đình và bản thân họ. Xét thấy, việc những
người phạm tội liên quan đến việc phòng chống Covid-19 là việc phạm tội đơn giản, chứng
cứ rõ ràng; phạm tội ít nghiêm trọng; có lý lịch và nơi cư trú rõ ràng nên có thể áp dụng thủ
tục rút gọn để giải quyết. Thời điểm dịch bệnh có nhiều diễn biến phức tạp và có dấu hiệu

kéo dài, việc áp dụng xét xử theo thủ tục rút gọn không chỉ phát huy được ưu điểm là tính
kịp thời, cấp bách mà cịn giảm tải đáng kể khối lượng công việc cho cơ quan tiến hành tố
tụng, giúp tiết kiệm thời gian và chi phí.
Xuất phát từ những lý do trên, người viết đã mạnh dạn chọn đề tài: “Thủ tục rút gọn
theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” để làm đề tài nghiên cứu tốt nghiệp. Khi quyết
định chọn đề tài này để nghiên cứu bản thân người viết rất hy vọng có thể đưa ra một cái
nhìn tổng qt và đầy đủ hơn về việc áp dụng các thủ tục rút gọn trong quá trình điều tra,
truy tố và xét xử các vụ án hình sự để tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan tiến hành tố tụng
giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời đáp ứng yêu cầu của cơng tác phịng chống tội
phạm, giải quyết được tình trạng quá tải của cơ quan tiến hành tố tụng, tiết kiệm thời gian,
cơng sức, chi phí của Nhà nước trong việc giải quyết các vụ án.
2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối với đề tài “Thủ tục rút gọn theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, người viết
tập trung nghiên cứu các vấn đề cơ bản liên quan thủ tục rút gọn như: Những khái quát
chung về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự; Những quy định pháp luật về thủ tục rút gọn
được quy định trong BLTTHS 2015 và một số văn bản khác có liên quan. Nghiên cứu thực
tiễn áp dụng thủ tục rút gọn và một số vần đề bất cập trong việc áp dụng thủ tục rút gọn
trong tố tụng hình sự. Từ những nguyên nhân và bất cập được phân tích, đưa ra những giải
pháp nhằm hồn thiện hơn thủ tục rút gọn để việc áp dụng hiệu quả nhất có thể.
3


3.Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài “Thủ tục rút gọn theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”
nhằm tìm hiểu rõ hơn những quy định của pháp luật về thủ tục rút gọn. Từ việc nghiên cứu,
phân tích có thể làm sáng tỏ các quy định của pháp luật về các vấn đề liên quan thủ tục rút
gọn, đồng thời có thể rút ra những thiếu sót, bất cập của các quy định và đưa ra giải pháp
khắc phục nhằm hoàn thiện những quy định pháp luật về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình
sự. Từ đó, giúp các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có cơ sở để áp dụng thủ tục
rút gọn trong việc giải quyết nhanh, chính xác, đúng người, đúng pháp luật, không để tồn

đọng án nhưng vẫn đảm bảo đúng các nguyên tắc chung của tố tụng, giảm thiểu tối đa mọi
chi phí tốn kém về con người, tiền của cho Nhà nước và nhân dân.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài:
Để hoàn thành được đề tài nghiên cứu này, người viết đã kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau chủ yếu như sau:
Thứ nhất, đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận, quan điểm duy vật lịch
sử, duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt
Nam về cải cách tư pháp
Thứ hai, phương pháp tổng hợp, so sánh và phân tích lý luận trên các tài liệu có liên
quan đến thủ tục rút gọn.
Thứ ba, phương pháp nghiên cứu và phân tích luật viết để phân tích những quy định
của pháp luật.
5. Bố cục đề tài:
Ngồi phần lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung chính
người viết sử dụng bố cục gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Khái quát chung về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự.
Chương này, người viết sẽ nghiên cứu một cách tổng quát về các vấn đề liên quan đến
thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự. Người viết sẽ làm rõ những nội dung mang tính lý luận
như: khái niệm, đặc điểm của thủ tục rút gọn; mục đích, ý nghĩa của việc áp dụng thủ tục rút
gọn; lịch sử phát triển của thủ tục rút gọn trong giai đoạn từ năm 1988 đến nay.
Chương 2: Quy định pháp luật tố tụng hình sự về việc áp dụng thủ tục rút gọn.
Chương này giữ vai trò là nền tảng trong tồn bộ luận văn vì nó tập trung nghiên cứu
các quy định pháp luật về thủ tục rút gọn trong BLTTHS năm 2015. Trên cơ sở nghiên cứu,
làm rõ quy định pháp luật về thủ tục rút gọn, người viết đã phân tích, đánh giá thực trạng
4


quy định của BLTTHS năm 2015 so với BLTTHS năm 2003 về thủ tục rút gọn trên các
phương diện như: Phạm vi áp dụng, điều kiện áp dụng, thẩm quyền áp dụng, thời hạn tố
tụng và một số biện pháp áp dụng trong thủ tục rút gọn

Chương 3: Thực tiễn áp dụng, nguyên nhân và giải pháp đề xuất góp phần hoàn
thiện quy định của pháp luật về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự.
Trong chương cuối này, người viết sẽ nêu ra thực tiễn áp dụng thủ tục rút gọn và
những bất cập khi áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự. Từ những bất cập đó, đưa
ra những giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện hơn quy định pháp luật để áp dụng hiệu
quả vào thực tiễn.

5


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của Thủ tục rút gọn trong Tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
Trên thực tế, khơng phải vụ án hình sự nào cũng có tính chất phức tạp, khó giải
quyết cần có nhiều thời gian để điều tra thu thập chứng cứ. Nếu những vụ án tính chất đơn
giản, rõ ràng, việc điều tra, thu thập chứng cứ không mất nhiều công sức, thời gian mà
được tiến hành theo thủ tục tố tụng thông thường thì sẽ dẫn đến sự lãng phí thời gian, tiền
của, công sức của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố
tụng và các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan khác khi tham gia giải quyết vụ án hình
sự. Từ đó, địi hỏi phải có một thủ tục tố tụng vừa nhanh gọn, vừa đảm bảo được yêu cầu về
xử lý tội phạm, góp phần thiết thực vào cuộc đấu tranh, phịng ngừa tội phạm nói chung.
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể giải
quyết nhanh chóng các vụ án ít nghiêm trọng, phạm tội quả tang, đơn giản, chứng cứ và
nhân thân người phạm tội rõ ràng, giúp cơ quan tiến hành tố tụng có thể tập trung lực
lượng, thời gian để giải quyết các vụ án có mức độ cao hơn. Từ những đòi hỏi trên, chế
định về thủ tục rút gọn được ra đời.
Trong khoa học tố tụng hình sự, thủ tục rút gọn được đề cập đến trong nhiều cơng
trình nghiên cứu khoa học với nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau như:

Quan điểm thứ nhất: ‘‘Thủ tục rút gọn là một trong những thủ tục đặc biệt trong tố
tụng hình sự, được rút ngắn về thời gian tố tụng, giản lược một số thủ tục nhất định nhưng
vẫn đảm bảo các nguyên tắc chung của tố tụng hình sự, nhằm giúp cho việc điều tra, truy
tố, xét xử được nhanh chóng đối với những vụ án nhất định’’.2 Quan điểm này đã đưa ra
khái niệm thể hiện được bản chất của thủ tục rút gọn là rút ngắn thời hạn, giản lược thủ tục
tố tụng, nhưng lại chưa nêu rõ các điều kiện nào khi áp dụng thủ tục rút gọn. Quan điểm
này, còn nhắc đến việc áp dụng thủ tục rút gọn cần phải đáp ứng các nguyên tắc chung của
tố tụng hình sự.

2

Trương Thị Huế (2015), Luận văn thạc sĩ Luật học “Thủ tục rút gọn trong luật tố

tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn ở Tây Nguyên’’;
6


Quan điểm thứ hai: ‘‘Thủ tục rút gọn là thủ tục tố tụng hình sự được rút ngắn về thời
gian tố tụng, giản lược một số thủ tục nhất định nhưng vẫn đảm bảo những nguyên tắc
chung của tố tụng hình sự, nhằm giúp việc điều tra, truy tố, xét xử được nhanh chóng đối
với những vụ án nhất định (thường là những vụ án có tính chất đơn giản, phạm tội quả
tang, chứng cứ lai lịch của người phạm tội rõ ràng, góp phần đấu tranh, phịng chống tội
phạm kịp thời, có hiệu quả, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân trong tố
tụng hình sự”.3 Cũng giống như quan điểm thứ nhất, quan điểm này cũng nêu rõ bản chất
của thủ tục rút gọn là rút ngắn thời hạn tố tụng, giản lược thủ tục tố tụng và việc áp dụng
thủ tục rút gọn cần phải đáp ứng các nguyên tắc chung của tố tụng hình sự. Ngồi ra, khái
niệm này cịn tập trung đến mục đích, nhiệm vụ khi giải quyết vụ án hình sự áp dụng theo
thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, quan điểm này thì theo định nghĩa nêu trên cũng chưa đề cập
đến những điều kiện nào khi áp dụng thủ tục rút gọn.
Từ hai quan điểm nêu trên tuy thủ tục rút gọn tồn tại một số vấn đề khác nhau nhưng

chúng ta có thể thấy thủ tục rút gọn có một số đặc điểm như sau: Thủ tục rút gọn là một thủ
tục đặc biệt trong tố tụng tụng hình sự và được quy định trong BLTTHS; Thủ tục rút gọn
thực chất là rút gọn thủ tục tố tụng và rút ngắn thời hạn tố tụng; Thủ tục chỉ được áp dụng
khi đáp ứng được đầy đủ các điều kiện luật định; Khi áp dụng thủ tục rút gọn phải tuân thủ
theo những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS.
Từ những phân tích nêu trên, người viết đưa ra khái niệm về thủ tục rút gọn nhau sau:
“Thủ tục rút gọn là thủ tục tố tụng đặc biệt trong tố tụng hình sự. Theo đó, cơ quan tiến
hành tố tụng được phép rút ngắn về thời gian tố tụng, đồng thời đơn giản hoá một số thủ
tục nhất định đối với những vụ án nhất định so với thủ tục tố tụng hình sự thơng thường
nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc chung của tố tụng hình sự, nhằm giúp cho việc điều
tra, truy tố, xét xử được nhanh chóng đối với những vụ án nhất định, vẫn đạt được mục
đích của tố tụng hình sự là “chính xác, nhanh chóng và xử lý cơng minh, kịp thời mọi hành
vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội”.
1.1.2. Đặc điểm của thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
Thủ tục rút gọn là một thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình sự, thủ tục rút gọn có những
đặc điểm cơ bản sau:
3

Vũ Quang Dũng (2008), Luận văn thạc sĩ Luật học, “Thủ tục rút gọn trong tố tụng

hình sự - lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội” Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
7


TTRG rút ngắn về thời hạn tố tụng: Trong thủ tục tố tụng hình sự rút gọn, thời gian
để tiến hành tố tụng được rút gắn đi rất nhiều lần so với thủ tục tố tụng thông thường. Nếu
như trong thủ tục tố tụng hình sự thơng thường thì nhà làm luật quy định một khoảng thời
hạn tối đa cho mỗi giai đoạn tố tụng hình sự nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án được
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nhưng đối với các vụ án hình sự được tiến hành theo

TTRG, thời gian tiến hành tố tụng được quy định ngắn hơn, yêu cầu giải quyết vụ án đối
với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải xử lý vụ án nhanh chóng, hạn
chế sự lãng phí về thời gian, tiền bạc, cơng sức của các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
TTRG giản lược về thủ tục tố tụng: Bản chất của TTRG là việc giảm bớt một số thủ
tục không cần thiết, rút ngắn về thời gian và chỉ áp dụng đối với một số vụ án nhất định. Sự
giản lược về mặt thủ tục được thể hiện như: Sau khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra ra
quyết định đề nghị truy tố mà không cần làm bản kết luận điều tra. Quyết định đề nghị truy
tố ghi tóm tắt hành vi phạm tội, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất, mức độ
thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn,
biện pháp cưỡng chế; việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và xử lý vật chứng; đặc điểm
nhân thân của bị can, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; lý do và căn
cứ đề nghị truy tố; tội danh, điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự được áp dụng; ghi rõ
thời gian, địa điểm, họ tên và chữ ký của người ra quyết định. Viện kiểm sát không cần phải
làm bản cáo trạng, chỉ cần ra quyết định truy tố bị can trước toà án.
TTRG phải tuân thủ theo các nguyên tắc tố tụng hình sự: Pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam cũng như pháp luật tố tụng hình sự trên thế giới thì thủ tục tố tụng cho dù thủ tục
đặc biệt hay thủ tục thông thường đều không được trái với các nguyên tắc chung của tố
tụng hình sự. Vì vậy, việc áp dụng TTRG vẫn phải đảm bảo tôn trọng các nguyên tắc cơ
bản của luật tố tụng hình sự như: nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; nguyên tắc tôn
trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của cơng dân; Suy đốn vơ tội; Xác định sự thật của vụ
án, Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bị hại, đương sự; nguyên tắc xét xử công khai; nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội
thẩm tham gia. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên
tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số… Sở dĩ việc quy định TTRG phải tuân thủ các
nguyên tắc cơ bản như thủ tục thông thường hay các các hình thức tố tụng khác vì nếu
chúng ta quá chú trọng đến việc bảo đảm giải quyết vụ án nhanh chóng, tiết kiệm, thuận lợi
8



thì sẽ dẫn đến sự vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, không bảo đảm sự bình
đẳng trước pháp luật, vi phạm các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Ngược lại, nếu
quá coi trọng đến việc bảo đảm quyền bình đẳng của cơng dân trước pháp luật mà không
giản lược các thủ tục, trình tự khơng cần thiết thì việc quy định và áp dụng TTRG trong tố
tụng hình sự sẽ khơng những khơng mang lại hiệu quả mà cịn làm phức tạp, gây khó khăn
cho các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng, việc áp dụng TTRG sẽ không đem lại hiệu quả cao.
TTRG được giải quyết khi đáp ứng đuợc điều kiện nhất định: Bản chất của TTRG là
rút ngắn gọn thủ tục, thời hạn, nên chỉ được áp dụng TTRG đối với những vụ án hình sự có
tính chất đơn giản, nhân thân của người phạm tội rõ ràng, tội phạm đã thực hiện là tội phạm
ít nghiêm trọng... là những điều kiện đảm bảo được nếu khi rút gọn thời hạn, thủ tục tố tụng
thì vụ án vẫn được giải quyết đúng đắn theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, đảm
bảo quyền, lợi ích của người tham gia tố tụng. Ngồi ra, vụ án hình sự được áp dụng còn
phải đảm bảo điều kiện, nếu vụ án đó bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, thì
ở khía cạnh nào đó, chúng ta vẫn có thể áp dụng TTRG, để đảm bảo vụ án được giải quyết
nhanh gọn từ giai đoạn sơ thẩm.
1.2. Sự cần thiết phải quy định thủ tục rút gọn theo BLTTHS
1.2.1. Về lý luận
Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự nói riêng hay thủ tục giản lược nói chung được
hình thành trên cơ sở đơn giản hóa thủ tục thông thường nhằm giải quyết đối với những
trường hợp vi phạm pháp luật dân sự, hành chính đối với những vụ việc tranh chấp không
lớn, đơn giản tới vi phạm pháp luật hình sự ít nghiêm trọng, chứng cứ rõ ràng, mức hình
phạt thấp, người bị buộc tội có lý lịch rõ ràng… Việc áp dụng TTRG góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án giải
quyết nhanh chóng vi phạm phát sinh trong xã hội mà vẫn bảo đảm quyền, lợi ích của cá
nhân, cơ quan, tổ chức; làm giảm nhẹ đáng kể thời gian, vật chất, cơng sức cho chính
những người tham gia tố tụng.
Trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trọng tâm là hoàn
thiện tổ chức Tòa án nhân dân. Theo Hiến pháp 2013 quy định tại điều 102 “Tòa án nhân
dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư

pháp”, như vậy quyền tư pháp được xác định giao cho Tòa án nhân dân. Tòa án nhân dân
là trung tâm trong hoạt động tố tụng, ảnh hưởng tới việc hình thành và tổ chức các cơ quan
9


tố tụng, ảnh hưởng đến việc xây dựng các chế định tố tụng, trong đó chế định TTRG trong
tố tụng hình sự với những điều kiện nhất định là phù hợp với việc mở rộng thẩm quyền của
Tòa án nhân cấp huyện theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49- NQ/TW ngày
02/06/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 định hướng tiếp tục cụ thể hóa và
thực hiện những chủ trương về cải cách, tổ chức và đổi mới hoạt động của các cơ quan tư
pháp. Việc mở rộng thẩm quyền của Tịa án cấp huyện thì số lượng vụ án sẽ tăng lên đáng
kể, công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sẽ chiếm một khối lượng lớn cơng việc, u
cầu đặt ra cần hồn thiện TTRG để áp dụng vào thực tiễn là công việc hết sức cần thiết để
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhanh chóng, kịp thời giải quyết các vụ án, từ
đó làm giảm tải tình trạng án tồn đọng, kéo dài từ năm này qua năm khác.
Mặt khác, TTRG trong tố tụng hình sự khơng phải là một thủ tục mới, mà đã từng
xuất hiện trong pháp luật Việt Nam và một số nước trên thế giới. Vì vậy, việc xây dựng,
hồn thiện TTRG trong tố tụng hình sự là đảm bảo phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế,
đáp ứng yêu cầu quốc tế, mặt khác có thể học hỏi kinh nghiệm trong những quy định trước
đây của Việt Nam và một số nước khác để hoàn thiện thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
hiện nay.
Trong những năm qua, tình trạng án tồn dọng, kéo dài vẫn diễn ra rất phổ biến. Mặc
dù những vụ án đó là tình tiết đơn giản, hành vi phạm tội ít nghiêm trọng, lý lịch bị can rõ
ràng… Tuy nhiên, với tâm lý của người tiến hành tố tụng là sẽ giải quyết vụ án đúng thời
hạn cho phép, chứ không cần thiết phải giải quyết nhanh. Dẫn đến tình trạng, các vụ án có
thể kéo dài qua các năm. Từ đó cho thấy, TTRG có ý nghĩa sâu sắc trong tình hình hiện
nay. Thủ tục này là cơ sở pháp lí để các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giải quyết
nhanh chóng, kịp thời nhiều vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng, có tính chất quả tang, đơn
giản, rõ ràng; tiết kiệm được thời gian, tiền bạc, công sức trong việc giải quyết những vụ án

loại này, tập trung vào việc giải quyết những vụ án nghiêm trọng, đáp ứng yêu cầu kịp thời,
nhanh chóng của cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm; góp phần giải quyết tình trạng tồn
đọng án và vi phạm các quy định của BLTTHS về thời hạn. Việc giải quyết vụ án theo
TTRG tạo điều kiện để nhanh chóng khắc phục những thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra,
góp phần đảm bảo lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cơng dân;
tiết kiệm được thời gian, chi phí cho những người tham gia tố tụng, giúp họ nhanh chóng
ổn định cuộc sống và tham gia vào các quan hệ pháp luật khác. Đồng thời, nó giúp cho cơ
10


quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thời gian xử lý các vụ án khác phức tạp
hơn, cần nhiều thời gian để giải quyết, qua đó, được góp phần giải quyết tình trạng tồn
đọng án và vi phạm các quy định của BLTTHS về thời hạn có xu hướng gia tăng; khắc
phục tình trạng q tải trong các trại tạm giam và những khó khăn trong tổ chức tạm giữ,
tạm giam và nâng cao hiệu quả đấu tranh phịng chống tội phạm trong quần chúng nhân
dân.
Ngồi ra, giải quyết vụ án theo TTRG còn tạo điều kiện để khắc phục những thiệt hại
do hành vi phạm tội gây ra được nhanh chóng, góp phần đảm bảo lợi ích Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cơng dân. Việc áp dụng TTRG cịn góp phần nhanh
chóng khơi phục quan hệ xã hội bị xâm phạm, tội phạm sớm được xét xử, người phạm tội
sớm phải chịu hình phạt nên cũng sớm trở về hồ nhập cuộc sống, từ đó góp phần nhanh
chóng ổn định trật tự xã hội.
1.2.2. Về thực tiễn
Thực tế ở nước ta hiện nay mà nói, tình hình tội phạm ngày càng tăng cao và diễn
biến phức tạp; cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm được đẩy mạnh, để tăng cường hiệu
quả của cơng cuộc đấu tranh phịng và chống tội phạm, đồng thời bảo đảm an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo được các quyền tự do dân chủ của công dân, đảm bảo
phát triển kinh tế - xã hội thì việc quy định thủ tục rút gọn trong BLTTHS là rất cần thiết:
Từ việc điều tra, truy tố đến xét xử một cách nhanh chóng, kịp thời nhưng vẫn đảm bảo xử
lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trong những năm gần đây, tình trạng án hình sự bị tồn động vẫn liên tục diễn ra rất
phổ biến, chưa được giải quyết. Mặc dù, những vụ án đó có tình tiết đơn giản, hành vi
phạm tội ít nghiêm trọng, lý lịch bị can rõ ràng, …Thực tiễn giải quyết án hình sự cho thấy
các cơ quan tiến hành tố tụng chưa quan tâm đến việc áp dụng thủ tục này. Một mặt, do
thời hạn giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn quá ngắn và pháp luật cũng không quy định
bắt buộc phải áp dụng khi vụ án có đủ điều kiện luật định, nên những người tố tụng vẫn còn
quan điểm áp dụng cũng được mà không áp dụng cũng được. Nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến tình trạng trên xuất phát từ tâm lý chủ quan ngại áp dụng của Điều tra viên, Kiểm sát
viên. Với tâm lý của người tiến hành tố tụng là sẽ giải quyết vụ án đúng thời hạn cho phép,
chứ không nhất thiết phải giải quyết nhanh các vụ án dẫn. Họ không muốn áp dụng thủ tục
này vì áp lực về thời gian rất lớn, nhất là với Điều tra viên

11


Thủ tục rút gọn có ý nghĩa sâu sắc trong tình hình hiện nay vì thủ tục này là cơ sở
pháp lí để các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giải quyết nhanh chóng, kịp thời
nhiều vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng, có tính chất quả tang, đơn giản, rõ ràng; tiết kiệm
được thời gian, tiền bạc, công sức trong việc giải quyết những vụ án loại này, tập trung vào
việc giải quyết những vụ án nghiêm trọng, đáp ứng yêu cầu kịp thời, nhanh chóng của cuộc
đấu tranh phịng chống tội phạm; góp phần giải quyết tình trạng tồn đọng án và vi phạm các
quy định của BLTTHS về thời hạn.
1.3 Lịch sử phát triển của quy định thủ tục rút gọn
1.3.1. Từ năm 1988 đến năm 2003
BLTTHS sự ra đời quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án hình sự về các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng với nhau; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng và của các
cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân, nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng,
kịp thời và xử lý công bằng mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, khơng làm oan
người vơ tội góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp

pháp của cơng dân, giáo dục công dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và tôn trọng quy
tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa. Thủ tục rút gọn theo pháp luật Việt Nam đã xuất hiện
từ rất sớm, trước đây với tên gọi là Thủ tục rút ngắn. Tuy nhiên, BLTTHS năm 1988 không
quy định về vấn đề thủ tục rút ngắn vì cho rằng áp dụng thủ tục này có thể ảnh hưởng tới
quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Mặc dù BLTTHS 1988 không quy định riêng biệt một
thủ tục rút gọn nhưng BLTTHS năm 1988 đã rút ngắn thời hạn điều tra so với những vụ án
thông thường. Quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 93 BLTTHS năm 1988 về quyền hạn điều
tra của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm: “Đối với hành vi phạm tội quả tang,
chứng cứ rõ ràng, ít nghiêm trọng thì ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành điều tra và
chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra
quyết định khởi tố vụ án’’.
Sau một thời gian áp dụng BLTTHS năm 1988, thực tiễn đã đặt ra yêu cầu phải có
một thủ tục đặc biệt để giải quyết nhanh các vụ án đơn giản, ít nghiêm trọng, nhằm tránh sự
ùn tắc, ứ đọng án ở nhiều địa phương, tránh sự quá tải ở các nhà tạm giữ, trại tạm giam.
Với địi hỏi đó và sự phân hóa tội phạm theo BLTTHS năm 1999, Nghị quyết 08-NQ/TW
năm 2002 của Bộ Chính trị đã xác định: “Nghiên cứu để quy định và thực hiện thủ tục rút

12


gọn đối với những vụ án đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm
trọng”. Từ đó, chế định về Thủ tục rút gọn ra đời trong BLTTHS năm 2003.
1.3.2. Từ năm 2003 đến năm 2015
BLTTHS năm 2003 đã xây dựng thủ tục rút gọn tại chương XXXIV gồm 7 điều, từ
Điều 318 đến Điều 324 đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam. Theo quy định của BLTTHS năm 2003, chỉ có Viện kiểm sát là chủ thể duy nhất có
thẩm quyền áp dụng và hủy bỏ thủ tục này trong ba giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Phạm
vi áp dụng thủ tục rút gọn được quy định trong BLTTHS năm 2003 là chỉ được áp dụng đối
với việc điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, không áp dụng giai đoạn xét xử phúc thẩm, giám
đốc thẩm hay tái thẩm. Nếu vụ án bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm thì sẽ

được giải quyết theo thủ tục chung. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn cũng được quy định
rất chặt chẽ. Chỉ áp dụng thủ tục rút gọn khi hội tụ đủ cả bốn điều kiện: Người thực hiện
hành vi phạm tội bắt quả tang; sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; tội phạm đã
thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng.
Về điều tra: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 321 sau khi kết thúc điều tra, Cơ quan
điều tra không phải làm bản kết luận điều tra mà ra quyết định đề nghị truy tố.
Về truy tố: Theo quy định tại Điều 323, trong thời hạn 04 ngày, kể từ ngày nhận được
hồ sơ vụ án, Viện Kiểm sát phải ra một trong những quyết định sau: Truy tố bị can trước
toà bằng quyết định truy tố (khơng cần có bản cáo trạng); trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung.
Nếu trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì vụ án tiến hành tố tụng theo thủ tục chung.
-Về xét xử: Do trong giai đoạn truy tố BLTTHS năm 2003 đã lược bỏ cáo trạng chỉ
còn quyết định truy tố cho nên việc xét xử theo thủ tục rút gọn thay vì đọc cáo trạng, kiểm
sát viên sẽ tóm tắt nội dung vụ việc và công bố quyết định truy tố. Việc xét xử sơ thẩm theo
thủ tục rút gọn được tiến hành theo thủ tục chung (Theo quy định tại Khoản 2 Điều 324
BTTHS năm 2003).
BLTTHS năm 2003 ra đời, sau thời gian dài áp dụng trong thực tiễn điều tra, truy tố,
xét xử đã được được những kết quả nhất định. Nhưng dường như, một thủ tục đặc biệt là
thủ tục rút gọn lại không được áp dụng nhiều trong tố tụng hình sự. Điều này thể hiện rõ
qua những vướng mắc, bất cập trong nhận thức và vận dụng các quy định về thủ tục rút
gọn. Điều đó thể hiện ở số lượng án hình sự được áp dụng theo thủ tục rút gọn là rất hạn
chế, tỷ lệ vụ án áp dụng thủ tục rút gọn trên tổng số vụ án khởi tố, điều tra là rất thấp.

13


Thực trạng trên cho thấy, những quy định về thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 chưa thật sự phù hợp với thực tiễn điều tra, truy tố xét xử án hình sự.
Cùng với yêu cầu về ‘‘xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có
đủ một số điều kiện nhất định’’4... Đây rõ ràng là một yêu cầu mới về thủ tục rút gọn trong
giai đoạn xét xử. Bên cạnh đó, cũng chưa có bất kỳ văn bản hướng dẫn nào cho phần các

quy định về thủ tục rút gọn. Mặc dù là thủ tục rút gọn nhưng theo quy định của BLTTHS
năm 2003 chủ yếu là chỉ rút ngắn về thời hạn, còn thủ tục tố tụng giản lược không đáng kể.
Ngày 27-11-2015, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 đã thơng qua BLTTHS năm 2015 có
hiệu lực từ ngày 01/01/2018 ra đời đã đáp ứng những nhu cầu sửa đổi, bổ sung một các
toàn diện các quy định về thủ tục rút gọn trong BLTTHS năm 2003 để thủ tục rút gọn trở
thành một thủ tục đặc biệt đúng nghĩa, đáp ứng với yêu cầu của cải cách tư pháp và đẩy
nhanh quá trình xử lý tội phạm trong tình hình mới.
1.3.3. Từ năm 2015 đến nay
BLTTHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung để thủ tục rút gọn được áp dụng
rộng rãi hơn trong tố tụng hình sự; phát huy vai trò, ý nghĩa của thủ tục rút gọn trong giải
quyết nhanh chóng các vụ án hình sự. BLTTHS năm 2003 quy định thủ tục rút gọn chỉ áp
dụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, không áp dụng đối với xét xử phúc
thẩm. BLTTHS năm 2015 đã quy định mở rộng phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn đối với cả
giai đoạn xét xử phúc thẩm. BLTTHS năm 2015 đã quy định thẩm quyền áp dụng thủ tục
rút gọn cho cả ba chủ thể là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án cịn theo quy định của
BLTTHS năm 2003 thì Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất có thẩm quyền áp dụng và hủy
bỏ thủ tục rút gọn trong ba giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm. Quy định như vậy đã
dẫn đến tình trạng khơng chủ động, không nêu cao tinh thần trách nhiệm của Cơ quan điều
tra và Tòa án trong việc xem xét giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn.
Với những quy định tiến bộ hơn, mở rộng về phạm vi áp dụng, điều kiện áp dụng, thủ
tục rút gọn trong BLTTHS năm 2015 đã tạo điều kiện để các cơ quan tiến hành tố tụng có
thể thuận lợi xem xét quyết định việc áp dụng thủ tục rút gọn trong quá trình giải quyết vụ
án. Tuy nhiên, Thủ tục rút gọn quy định trong BLTTHS năm 2015 đã thật sự hoàn thiện hay
chưa? Có thể giải quyết triệt để được những hạn chế, vướng mắc hay chưa? Đó là những
câu hỏi được đặt ra mà chúng ta cần tìm hiểu để tìm ra câu trả lời.
4

Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02-06-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách

tư pháp đến năm 2020

14


1.4. Mục đích, ý nghĩa của việc áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
1.4.1. Mục đích của việc áp dụng thủ tục rút gọn
Thủ tục rút gọn là thủ tục đặc biệt được quy định trong luật tố tụng hình sự nhằm mục
đích làm giảm áp lực, tiết kiệm thời gian, tiền của, công sức của các cơ quan tiến hành tố
tụng, những người tiến hành và tham gia tố tụng, giải quyết nhanh chóng, kịp thời và hiệu
quả một số vụ án hình sự nhất định. Mặt khác, việc giải quyết các vụ án hình sự theo thủ
tục rút gọn vẫn bảo đảm sự chính xác, tuân thủ triệt để các nguyên tắc chung của tố tụng
hình sự, sự thật của vụ án vẫn được thể hiện một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ, bảo
đảm xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, đảm bảo các
quyền tự do, dân chủ và bình dẳng của cơng dân trước pháp luật. Ở một số nước thì thủ tục
rút gọn còn là một trong những giải pháp tốt để bị can, bị cáo cân nhắc, lựa chọn hình thức
tố tụng phù hợp, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
1.4.2. Ý nghĩa của việc áp dụng thủ tục rút gọn
Những quy định về việc áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự là những căn cứ
pháp lý quan trọng để các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng có
thẩm quyền giả quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng, bị bắt quả
tang, tính chất vụ án đơn giản, lai lịch của người phạm tội rõ ràng. Do đó, tiết kiệm được
thời gian, công sức, tiền của của nhà nước, tạo điều kiện để các cơ quan tiến hành tố tụng
tập trung vào việc giải quyết các vụ án hình sự phức tạp, nghiêm trọng. Qua đó, đẩy nhanh
tốc độ xử lý các vụ án của tồn bộ hoạt động tố tụng hình sự, nâng cao hiệu quả của cơng
cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm, góp phần giải quyết tình trạng để án tồn đọng kéo
dài, khắc phục tình trạng quá tải trong các trại tạm giam. Bên cạnh đó, việc áp dụng thủ tục
rút gọn làm cho những thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra nhanh chóng được khắc phục,
xử lý kịp thờicác hành vi phạm tội và người phạm tội. Từ đó, phát huy tác dụng giáo dục ý
thức pháp luật trong nhân dân và phòng ngừa tội phạm.
Tuy nhiên, dưới nhiều góc độ khác nhau, thủ tục rút gọn cũng có những hạn chế nhất
định như do bị rút ngắn về thời gian và một số thủ tục khác (khơng có bản kết luận điều tra,

khơng có cáo trạng) nên đã ảnh hưởng nhất định đến quyền lợi của bị can, bị cáo, thậm chí
trong một số trường hợp làm cho bản án sai lệch. Nếu chỉ chú trọng đến vấn đề bảo đảm
quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật, thủ tục bảo đảm quyền bào chữa của bị can,
bị cáo thì một số thủ tục sẽ mang tính hình thức. Và do đó, việc áp dụng thủ tục rút gọn
trong tố tụng hình sự sẽ khơng mang lại hiệu quả mà cịn có thể tạo ra những khó khăn,
15


lúng túng cho các cơ quan tiên hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Ngược lại, nếu chỉ
quá chú trọng đến vấn đề giải quyết vụ án nhanh chóng, tiết kiệm thì sẽ dẫn đến việc vi
phạm các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Qua đó, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân sẽ khơng được bảo đảm triệt để.
Vì vậy, xuất phát từ điều kiện và hoàn cảnh thực tiễn của nước ta mà việc nghiên cứu
đầy đủ, toàn diện những vấn đề về bản chất, mục đích, ý nghĩa, các quy định về áp dụng
thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt Nam và tìm ra các giải pháp tối ưu cho việc xây
dựng, áp dụng thủ tục này trên thực tế là công việc không chỉ mang ý nghĩa lý luận mà cịn
có giá trị to lớn về mặt thực tiễn nhất là trong công cuộc cải cách Tư pháp của nước ta hiện
nay.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương này, luận văn đã giải quyết các vấn đề lý luận, đưa ra khái niệm về
Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự, đặc điểm của Thủ tục rút gọn; Lịch sử quy định pháp
luật về Thủ tục rút gọn. Các vấn đề lý luận này giúp người đọc nắm được bản chất của Thủ
tục rút gọn, mục đích và ý nghĩa của thủ tục này. Qua đó có thể nhận thấy những đặc điểm
nổi bật của thủ tục rút gọn như: Thủ tục rút gọn là thủ tục đã phát triển từ rất lâu trong lịch
sử lập pháp nước ta; Đây là một thủ tục tố tụng đặc biệt bên cạnh thủ tục tố tụng chung;
Thủ tục rút gọn là một thủ tục chỉ được áp dụng khi có đủ những điều kiện nhất định và
những ý nghĩa quan trọng của thụ tục rút gọn. Việc phân tích, làm rõ những nội dung liên
quan đến thủ tục rút gọn ở chương 1 được xem như một nền tảng cơ bản cho việc đi sâu
vào phân tích những quy định pháp luật về thủ tục rút gọn ở Chương 2 của luận văn. Để
hiểu rõ hơn các quy định về thủ tục rút gọn, bên cạnh góc nhìn về lý luận đó là góc nhìn về

pháp lý, người viết sẽ tiếp tục tìm hiểu quy định Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 ở
chương 2 của Luận văn này.

16


CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ VIỆC ÁP DỤNG
THỦ TỤC RÚT GỌN
2.1. Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn
Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn là giới hạn luật định cho phép thủ tục rút gọn được áp
dụng trong những giai đoạn nhất định của tố tụng hình sự.
Điều 318 BLTTHS năm 2003 quy định: ‘‘Thủ tục rút gọn đối với việc điều tra, truy tố
và xét xử sơ thẩm được áp dụng theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy
định khác của Bộ luật này không trái với những quy định của Chương này’’. Như vậy, Thủ
tục rút gọn chỉ được áp dụng ở giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm, dù cấp sơ thẩm
áp dụng thủ tục rút gọn, sau khi xét xử sơ thẩm có kháng cáo hoặc kháng nghị theo trình tự
phúc thẩm thì vẫn phải áp dụng theo thủ tục chung.
Cịn theo BLTTHS năm 2015 quy định tại Điều 455: “Thủ tục rút gọn đối với việc
điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm được thực hiện theo quy định của
Chương này và những quy định khác của Bộ luật này không trái với quy định của Chương
này”. So với quy định trong BLTTHS 2003, phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn đã được mở
rộng đến giai đoạn xét xử phúc thẩm. Việc mở rộng phạm vi này đã đảm bảo mục đích, ý
nghĩa, vai trị của thủ tục rút gọn là rút ngắn thời gian giải quyết vụ án hình sự ở giai đoạn
xét xử phúc thẩm.
Theo quy định tại điều 455 nêu trên, thì thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng ở giai đoạn
điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm mà không không áp dụng ở giai đoạn
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; trình tự, thủ tục xét xử giám
đốc thẩm, tái thẩm. Trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố, đây là một giai đoạn chưa xác định được sự việc có mang dấu hiệu tội phạm hay

khơng, việc xác định các dấu hiệu tội phạm đang được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng kiểm tra xác minh và củng cố cho nên hoạt động xác định các điều kiện áp dụng
TTRG chưa thể thực hiện được. Vì vậy trong giai đoạn này TTRG không được áp dụng mà
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố được giải quyết theo thủ tục
chung thông thường.
Thủ tục rút gọn cũng không được áp dụng với thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Vì nếu sau khi xét xử sơ thẩm hoặc
17


xét xử phúc thẩm và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà Viện kiểm sát hoặc Tịa
án có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì khi đó tính chất của vụ án đã
phức tạp (hoặc là cơ quan tiến hành tố tụng đã đánh giá sai tính chất của vụ án hoặc là có
sự vi phạm trong q trình tiến hành tố tụng hoặc có tình tiết mới được phát hiện làm thay
đổi nội dung của bản án, quyết định..). Do vậy, khi vụ án được xem xét theo trình tự giám
đốc thẩm, tái thẩm thì vụ án cần được xem xét thận trọng nên cần có thời gian để nghiên
cứu, đánh giá tồn diện các tình tiết của vụ án.
So với BLTTHS năm 2003 thì phạm vi áp dụng của thủ tục rút gọn ở BLTTHS năm
2015 đã có sự điều chỉnh mở rộng theo hướng cho phép áp dụng thủ tục rút gọn trong việc
xét xử phúc thẩm vụ án hình sự. Khơng phải vụ án hình sự nào bị kháng nghị, kháng cáo
xét xử phúc thẩm đều làm cho tính chất của vụ án trở nên phức tạp. Xuất phát từ thực tiễn
xét xử các vụ án hình sự ở nước ta trước khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực đã tồn tại
khơng ít các trường hợp kháng cáo của bị cáo mà dẫn đến khơng làm cho tính chất của vụ
án trở nên tính phức tạp hơn. Trong những trường hợp này, nếu xét xử phúc thẩm theo thủ
tục tố tụng chung là không cần thiết, gây lãng phí về thời gian, cơng sức của cơ quan tiến
hành tố tụng và ảnh hưởng đến quyền lợi của bị cáo, những người có liên quan dẫn đến sự
khơng hợp lý, khơng phù hợp với tính chất và mục đích của thủ tục rút gọn. Điều này
không hợp lý, làm mất đi ý nghĩa của việc áp dụng thủ tục rút gọn ở các giai đoạn trước đó.
Từ đó cho thấy, quy định được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử phúc thẩm đối với
những vụ án trước đó đã áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết là cần thiết.

Vì vậy, Thủ tục rút gọn được áp dụng trong bốn giai đoạn: Điều tra, truy tố, xét xử sơ
thẩm và xét xử phúc thẩm là hợp lý, vì bốn giai đoạn này có thể coi là những giai đoạn
trọng tâm trong tố tụng hình sự.
2.2. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn
Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn là các điều kiện tối thiểu mà theo quy định của
BLTTHS năm 2015 khi có đầy đủ các điều kiện đó thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải
xem xét, quyết định việc áp dụng thủ tục rút gọn.
BLTTHS năm 2015 do mở rộng phạm vi áp dụng đến giai đoạn phúc phẩm, do đó,
điều kiện để áp dụng cũng được chia thành hai phần bao gồm điều kiện áp dụng thủ tục rút
gọn được áp dụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và điều kiện áp dụng thủ
tục rút gọn được áp dụng trong giai đoạn phúc thẩm, cụ thể:

18


2.2.1. Đối với giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm
Theo Điều 319 BLTTHS năm 2003 quy định thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng khi có
đủ các điều kiện sau đây: ‘‘Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang; Sự việc phạm
tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; Người
phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng’’. Còn theo quy định tại Khoản 1 Điều 456 BLTTHS
năm 2015 thủ tục rút gọn được áp dụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm khi
có đủ các điều kiện: ‘‘Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang hoặc người đó tự
thú; Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít
nghiêm trọng; Người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng’’. Như vậy, về cơ bản, quy định
về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn ở giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm tại khoản 1
Điều 456 BLTTHS năm 2015 có sự kế thừa từ Điều 319 BLTTHS năm 2003 nhưng có sự
mở rộng, sửa đổi, bổ sung thêm về điều kiện áp dụng cho phù hợp với thực tiễn. Theo đó,
về dấu hiệu liên quan đến người phạm tội, ngoài dấu hiệu ‘‘Người thực hiện hành vi phạm
tội bị bắt quả tang’’ nay được mở rộng, bổ sung thêm trường hợp ‘‘người phạm tội tự thú về
hành vi phạm tội của mình’’. Đồng thời, cũng trong khoản 1 Điều 456 BLTTHS năm 2015

cũng đã sửa đổi cụm từ ‘‘có căn cước, lai lịch rõ ràng’’ thành cụm từ ‘‘có nơi cư trú, lý lịch
rõ ràng’’ nhằm thống nhất cách hiểu và dễ dàng áp dụng hơn trong thực tiễn. ‘‘Căn cước, lai
lịch’’ thuộc về nhân thân của người phạm tội, qua thực tiễn cho thấy phạm vi rất rộng, rất
khó có thể xác định, nếu làm rõ căn cước, lai lịch sẽ tốn rất nhiều thời gian, không đảm bảo
yêu cầu của thủ tục rút gọn. Trên đây là những sửa đổi, bổ sung về điều kiện áp dụng thủ
tục rút gọn quy định tại Khoản 1 Điều 456 BLTTHS năm 2015 so với quy định tại Điều
319 BLTTHS năm 2003. Còn những điều kiện còn lại vẫn được phải đảm bảo đầy đủ khi áp
dụng theo thủ tục rút gọn tại ba giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm theo quy định tại
Khoản 1 Điều 456 BLTTHS năm 2015 như sau:
Điều kiện thứ nhất, ‘‘Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang hoặc người
đó tự thú’’.
‘‘Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị
phát hiện hoặc bị đuổi bắt thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người bị
bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan
này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều
tra có thẩm quyền’’5. Theo quy định này, thì phạm tội quả tang gồm có các trường hợp:
5

Khoản 1 Điều 111 BLTTHS năm 2015;
19


Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện và bị bắt giữ; Ngay sau khi người thực hiện
tội phạm thực hiện hành vi phạm tội thì bị phát hiện và Người thực hiện tội phạm đang bị
đuổi bắt.
Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện và bị bắt giữ là người đang thực hiện
hành vi mà hành vi đó cấu thành một tội phạm cụ thể được quy định trong bộ luật hình sự
nhưng chưa hồn thành tội phạm hoặc chưa kết thúc việc phạm tội thì bị phát hiện. Ví dụ:
hành vi giơ dao để đâm (đã thực hiện hành vi nhưng chưa thực hiện hết hành vi mô tả trong
cấu thành tội phạm); hành vi đang thực hiện có thể gây ra hậu quả hoặc chưa gây ra hậu

quả, có thể diễn ra trong thời gian ngắn (hành vi cướp tài sản) hoặc diễn ra trong thời gian
dài (tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, tội tràng trữ trái phép chất nổ, chất độc, chất
cháy, chất phóng xạ, ...). Ngay sau khi người thực hiện tội phạm thực hiện hành vi phạm tội
thì bị phát hiện là trường hợp các hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm đã được
thực hiện hết xong người thực hiện hành vi phạm tội chưa kịp chạy trốn hoặc đang cất giấu
công cụ, phương tiện, đang xóa những dấu vết của tội phạm trước khi chạy trốn thì bị phát
hiện. Người thực hiện tội phạm đang bị đuổi bắt là người phạm tội vừa thực hiện tội phạm
xong hoặc đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện nên đã chạy trốn và bị đuổi bắt. Việc
thực hiện tội phạm, chạy trốn và đuổi bắt có sự liên tục, khơng có sự gián đoạn về thời gian
và diễn biến của sự việc. Phạm tội quả tang có đặc điểm là hành vi tội phạm cụ thể, rõ ràng,
ai trong thấy cũng có thể biết đó là tội phạm. Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả
tang thường nhận tội ngay, chứng cứ tương đối rõ ràng và đầy đủ; người làm chứng, người
bị hại (nếu có) cũng thường được xác định cụ thể. Đây là những chứng cứ đủ chắc để
chứng minh mình vi phạm tội của họ vì vậy trong các trường hợp người thực hiện hành vi
phạm tội bị bắt quả tang thơng thường việc xác định tội phạm được nhanh chóng. Cho nên
trường hợp này không nhất thiết phải áp dụng theo một trình tự thủ tục thơng thường như
các trường hợp hành vi phạm tội khác. Phạm tội quả tang là một điều kiện đầu tiên quan
trọng rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng để quyết định vụ án giải quyết theo thủ tục rút
gọn vì đặc điểm phạm tội đảm bảo cho thời gian tố tụng nhanh chóng và cịn có ý nghĩa để
xác định cho điều kiện tiếp theo ‘‘sự việc phạm tội đơn giản, chứng có rõ ràng’’. ‘‘Tự
thú là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội
của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện’’6. Các trường hợp người
phạm tội bị bắt quả tang có thể thu giữ, phát hiện được ngay kịp thời còn đối với trường
6

Điểm h khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015
20


hợp tự thú là đánh vào tâm lý của người phạm tội, người phạm tội có ăn năn, có hối cải thì

sẽ thành khẩn hợp tác, khai báo giúp quá trình điều tra, thu thập chứng cứ được diễn ra
nhanh chóng. BLTTHS năm 2003 khơng quy định “người phạm tội tự thú” là điều kiện
xem xét áp dụng theo thủ tục rút gọn. BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm “người phạm
tội tự thú’’ là một điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn nhằm mục đích là dễ dàng điều tra,
truy tố, xét xử vụ án vì khi đó, các tài liệu, chứng cứ để chứng minh các vấn đề cần phải
chứng minh trong vụ án hình sự đã có thể xác định ngay tại thời điểm người phạm tội tự
thú, rút ngắn thời gian điều tra vụ án cho cơ quan tiến hành tố tụng. Trên thực tế có nhiều
trường hợp người phạm tội tự thú về hành vi phạm tội của mình, hành vi phạm tội đó đơn
giản, chứng cứ rõ ràng, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, lý lịch của bị can rõ ràng, việc
chứng minh tội phạm vẫn đảm bảo yếu tố nhanh chóng, chính xác nhưng khơng phải là
trường hợp phạm tội quả tang thì sẽ khơng xem xét áp dụng thủ tục rút gọn. BLTTHS năm
2015 đã khắc phục được hạn chế đó và bổ sung thêm điều kiện “người phạm tội tự thú” là
điều kiện xem xét, giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn để phát huy ý nghĩa của việc áp
dụng thủ tục rút gọn, rút ngắn thời gian điều tra vụ án cho cơ quan tiến hành tố tụng.
Điều kiện thứ hai, ‘‘Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng’’.
Điều kiện về ‘‘Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng’’ là điều kiện về tính
chất vụ án và mang tính định tính. Điều kiện về ‘‘Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ
ràng’’ gồm hai dấu hiệu: Sự việc phạm tội đơn giản và sự việc phạm tội có chứng cứ rõ
ràng, hai dấu hiệu này phải thống nhất với nhau. Khái niệm về ‘‘Sự việc phạm tội đơn giản,
chứng cứ rõ ràng’’ chưa được quy định trong một văn bản nào cụ thể. Có thể hiểu, sự việc
phạm tội đơn giản là những vụ án mà vấn đề cần chứng minh theo quy định pháp luật
không quá phức tạp và không mất quá nhiều thời gian để xác định. Theo quy định tại Điều
85 BLTTHS năm 2015 những vấn đề cần chứng minh gồm: có hành vi phạm tội xảy ra hay
khơng, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực
hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay khơng có lỗi, do cố ý hay vơ ý; có năng lực trách nhiệm
hình sự hay khơng; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách
nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; tính chất và
mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; nguyên nhân và điều kiện phạm tội; những
tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự,
miễn hình phạt.


21


Chứng cứ rõ ràng có thể được hiểu là những chứng cứ phản ánh đầy đủ, chính xác,
khách quan và toàn diện những vấn đề cần chứng minh trong vụ án. Theo điều 86 BLTTHS
năm 2015 chứng cứ của vụ án được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập theo đúng trình
tự, thủ tục mà pháp luật quy định, có giá trị chứng minh được sự thật khác quan của vụ án
và có độ tin cậy cao. Do người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang khi đang thực
hiện tội phạm, nên các chứng cứ thu thập được chủ yếu là lời khai của người trực tiếp
chứng kiến và người thực hiện hành vi phạm tội, lời khai của người bị hại, biên bản bắt
người phạm tội quả tang. Chứng cứ rõ ràng là một yếu tố quan trọng để xác định vụ việc
phạm tội đơn giản, đồng thời rút ngắn quá trình điều tra, xác minh của cơ quan tiến hành tố
tụng, tạo điều kiện để giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác.
Hai yếu tố ‘‘sự việc phạm tội đơn giản’’ và ‘‘chứng cứ rõ ràng’’ phải được xem xét
trong mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ và bổ sung cho nhau. Trong khái niệm sự việc phạm
tội đơn giản có bao hàm cả yếu tố chứng cứ rõ ràng và ngược lại. Trong suốt quá trình điều
tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, tính chất đơn giản và chứng cứ rõ ràng của vụ án
phải luôn được bảo đảm. Nếu trong quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn mà sau
đó phát hiện vụ án có những tình tiết phức tạp, phải điều tra bổ sung, cần thời gian để xác
minh thêm thì thủ tục rút gọn bị hủy bỏ, vụ án phải giải quyết theo thủ tục tố tụng thông
thường.
Điều kiện thứ ba, ‘‘Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng’’.
Khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định tội phạm được
phân thành bốn loại tội khác nhau: ‘‘Tội phạm ít nghiêm trọng; Tội phạm nghiêm trọng;
Tội phạm rất nghiêm trọng và Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng’’. Trong đó ‘‘Tội phạm ít
nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức
cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải
tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm’’ (Điểm a Khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015,
sửa đổi, bổ sung năm 2017). Việc xác định tội phạm ít nghiêm trọng dựa trên hai dấu hiệu:

Dấu hiệu về mặt nội dung chính trị xã hội (là tính chất và tính nguy hiểm cho xã hội) và
dấu hiệu về mặt hậu quả pháp lý (là tính chịu hình phạt). Tội phạm ít nghiêm trọng có thể
gây ra hậu quả khơng lớn nên việc xử lý có thể nhanh chóng, dễ dàng hơn, nếu có sai sót
trong việc xử lý thì hậu quả cũng khơng đến mức nghiêm trọng so với các trường hợp thực
hiện tội phạm khác và cũng dễ dàng khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, khơng phải tội phạm ít
nghiêm trọng nào cũng có thể áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết, còn phải phụ thuộc vào
22


×