Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Thiệt hại và cách xác định bồi thường thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng(9.5 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.97 KB, 14 trang )

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến ThS. Nguyễn Đình Phong.
Trong quá trình học tập và tìm hiểu bộ mơn Luật dân sự module 2, em đã nhận được sự
quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn rất tận tình, tâm huyết của thầy. thầy đã giúp em tích lũy thêm
nhiều kiến thức để có cái nhìn sâu sắc và hồn thiện hơn trong cuộc sống. Từ những kiến
thức mà thầy truyền tải, em đã dần trả lời được những câu hỏi trong cuộc sống thơng qua
những lí luận về Luật dân sự module 2. Thơng qua bài tập này, em xin trình bày lại những gì
mà mình đã tìm hiểu về vấn đề Thiệt hại và cách xác định bồi thường thiệt hại trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Luật dân sự module 2 gửi đến thầy.
Có lẽ kiến thức là vô hạn mà sự tiếp nhận kiến thức của bản thân mỗi người luôn tồn
tại những hạn chế nhất định. Do đó, trong q trình hồn thành bài tập, chắc chắn khơng
tránh khỏi những thiếu sót. Bản thân em rất mong nhận được những góp ý đến từ thầy để
bài tập của em được hồn thiện hơn.
Kính chúc thầy sức khỏe, hạnh phúc thành công trên con đường sự nghiệp giảng dạy.
Hà Nội, Ngày…tháng…năm 2020
Sinh viên

1


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ST
T
1
2
3
4

TỪ VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ



BLDS
BTTH
TANDTC
LTNBT

Bộ luật Dân sự
Bồi thường thiệt hại
Tòa án nhân dân tối cao
Luật trách nhiệm bồi thường

2


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
Bồi thường thiệt hại (BTTH) là một trong những chế định có sớm nhất và quan trọng
nhất của luật dân sự. Trong đời sống có rất nhiều sự việc thực tế tranh chấp dẫn đến việc
các cá nhân, tổ chức…phải phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Bộ luật Dân sự
(BLDS) đã giành hẳn một chương riêng để quy định về vấn đề này. Trong đó, tranh chấp
yêu cầu BTTH đã có một số Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối
cao (TANDTC) hướng dẫn áp dụng pháp luật nên việc giải quyết tranh chấp của các cấp
Tòa án khá tồn diện, triệt để, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên đướng sự.
Tuy nhiên, cách hiểu và áp dụng luật trong việc xác định thiệt hại và mức bồi thường
khoản tiền bù đắp tổn thất còn nhiều vướng mắc trên thực tế. Sau gần 10 năm đi vào đời

3


sống thực tiễn, BLDS đã bộc lộ nhiều điểm bất cập và có nhiều quy định khơng cịn phù
hợp với thực tế xã hội không ngừng phát triển. Xuất phát từ tình hình trên đây, em đã chọn
đề tài: “Thiệt hại và cách xác định bồi thường thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngồi hợp đồng.” Và trình bày một số tìm hiểu của mình cho bài tập học kì.
B. NỘI DUNG
1. Thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Mỗi người sống đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã hội. Khi một người vi phạm
nghĩa vụ của mình gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải chịu bất lợi do hành
vi của mình gây ra. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội,
lợi ích của Nhà nước ln được bảo vệ, BLDS đã quy định trách nhiệm BTTH với tư cách
là một chế định dân sự độc lập. Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, trách nhiệm BTTH
thường được phân thành trách nhiệm BTTH theo hợp đồng và trách nhiệm BTTH ngồi
hợp đồng.
Khác với trách nhiệm BTTH theo hợp đồng có căn cứ phát sinh trên cơ sở một hợp
đồng có trước thì trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm
dân sự mà khi người nào đó có hành vi vi phạm nghĩa vụ ngồi hợp đồng do pháp luật quy
định, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải BTTH do mình
gây ra. Hiện nay, pháp luật Việt Nam đã quy định về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng
và cách xác định BTTH ngoài hợp đồng. Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH ngồi
hợp đồng là có thiệt hại xảy ra; có hành vi trái pháp luật hoặc hoạt động gây thiệt hại trái
pháp luật; có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại; lỗi của người
gây thiệt hại.
Chúng ta hiểu thiệt hại trong trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng là gì? Thiệt hại
trong trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng xảy ra là tiền đề của trách nhiệm BTTH. Về
pháp lý thì “Bồi thường thiệt hại” là “hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có
hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật
4



chất và tổn thất tinh thần cho bên bị thiệt hại”. do đó, khơng có thiệt hại thì khơng đặt ra
vấn đề bồi thường cho dù có đầy đủ các điểu kiện khác. “Thiệt hại” được hiểu là “bị mất
mát về người, của cải vật chất hoặc tinh thần” hay là những tổn thất thực tế được tính
thành tiền, do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá
nhân, tổ chức.
Trong trách nhiệm hình sự đối với một số tội có cấu thành hình thức thì khơng địi
hỏi có hậu quả vật chất. Ngay đối với một số tội có cấu thành vật chất thì trong một số
trường hợp cá biệt, hậu quả chưa xảy ra nhưng do tính chất của hành vi nguy hiểm có khả
năng gây ra hậu quả lớn cũng đã cấu thành tội phạm hoặc ngược lại, đối với một số tội như
tội thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc vi phạm các quy định về an tồn giao thơng thì phải có
thiệt hại nghiêm trọng mới cấu thành tội phạm. Nhưng trong trách nhiệm dân sự chỉ cần có
thiệt hại là làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Vì thiệt hại là điều kiện bắt buộc phải có
trong trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng.
2. Cách xác định thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng.
Thiệt hại là một điều kiện có tính bắt buộc và là tiền đề làm phát sinh trách nhiệm
BTTH, do đó chỉ cần có thiệt hại là phải bồi thường và nếu khơng có thiệt hại thì sẽ khơng
đặt ra vấn đề bồi thường. Việc xác định thiệt hại hiện nay vẫn là vấn đề rất khó khăn và
phức tạp. Mục 2 chương XX Phần thứ ba BLDS quy định về các loại thiệt hại được bồi
thường và cách xác định thiệt hại một cách khái quát. Những thiệt hại phải bồi thường là
thiệt hại về tài sản (Điều 589 BLDS), thiệt hại về sức khỏe (Điều 590 BLDS), thiệt hại về
tính mạng (Điều 591 BLDS), thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 592 BLDS).
Đặc biệt, nếu do sự kiện bất khả kháng hoặc thiệt hại xảy ra hoàn tồn do lỗi của bên bị
thiệt hại thì khơng phải BTTH. Như vậy, một người chỉ phải bồi thường khi có hành vi
xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người khác và có thiệt hại thực tế xảy ra.
2.1. Thiệt hại về tài sản:

5



Điều 589 BLDS 2015 quy định về thiệt hại do tài sản bị xâm hại được bồi thường
bao gồm tài sản “ bị mất, bị hủy hoại hoặc hư hỏng”, “lợi ích gắn liền với việc sử dụng,
khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút”, “chi phí hợp lí để ngắn chặn, hạn chế và khắc phụ
thiệt hại”. Đây là những thiệt hại vật chất của người bị thiệt hại.Như vậy, thiệt hại về tài
sản bao gồm thiệt hại trực tiếp nhằm phục hồi tình trạng tài sản ban đầu của người bị thiệt
hại và thiệt hại gián tiếp liên quan đến việc khai thác, sử dụng trong thời gian từ khi xẩy ra
thiệt hại đến khi bồi thường. Thiệt hại về tài sản có thể tính tốn được thành một số tiền
nhất định bao gồm các khoản sau:
* Thiệt hại trực tiếp:
Thiệt hại do tài sản bị mất (có tính đền tình trạng tài sản, thời giá trị thị trường tại
thời điểm tài sản bị mất); Tài sản bị hủy hoại là những tài sản không thể phục hồi chức
năng ban đầu; tài sản bị hư hỏng là những cho phí hợp lí, cần thiết để phục hồi tài sản, bảo
đảm tính năng sử dụng ban đầu như trước khi bị thiệt hại; Những chi phí phải bỏ ra bao
gồm chi phí để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại hoặc khắc phục thiệt hại.
Có thể giải quyết việc BTTH trực tiếp bằng các cách: bồi thường bằng hiện vật và
bồi thường bằng tiền hoặc thực hiện một công việc. Bồi thường bằng hiện vật là sửa chữa
những chỗ hư hỏng để khơi phục lại tình trạng cũ của tài sản hoặc nếu đối bên đương sự
thoả thuận và Tồ án thấy hợp lý, hợp tình, thì đền bù bằng một tài sản cùng loại hoặc khác
loại, có giá trị tương đương; nếu tài sản đền bù có giá trị chênh lệch thì thanh tốn phần giá
trị chênh lệch đó. Trường hợp khơng thể bồi thường bằng hiện vật được thì bồi thường
bằng tiền. Khi trị giá tài sản phải ăn cứ vào giá trị thị trường của loại tài sản đó có tính
khấu hao tài sản do đã sử dụng tài sản. Nếu hao mịn khơng đáng kể, thì khơng tính.
* Thiệt hại gián tiếp:
Lợi ích gắn liền với việc khai thác tài sản (không thể khai thác tài sản trong suốt thời
gian sửa chữa, khắc phục thiệt hại). Những hoa lợi, lợi tức chắc chắn thu được nếu khơng
có thiệt hại xẩy ra và những chi phí cần thiết để hạn chế thiệt hại.
2.2. Thiệt hại về sức khỏe:


6


Sức khỏe con người là vốn quý, khó có thể xác định chính xác bằng một khoản tiền.
Vì vậy, BTTH về sức khỏe thực chất có ý nghĩa là đền bù một phần thiệt hại về vật chất,
tạo điều kiện cho nạn nhân hay gia đình họ khắc phục khó khăn do tai nạn gây nên và
trong một số trường hợp chỉ có ý nghĩa là một trợ cấp cho nạn nhân, gia đình nạn nhân.
Ngồi các quy định trong Điều 590 BLDS thì thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm còn được
hướng dẫn bởi Mục 1 Phần II Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP. Thiệt hại do sức khỏe bị
xâm phạm được bồi thường bao gồm:
Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị
mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: Tiền thuê phương tiện đi cấp cứu, tiền
thuốc, tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chụp... theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền
mua thuốc...; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi
phí cho việc lắp chân giả, tay giả, phẫu thuật thẩm mỹ, mua xe lăn… để hỗ trợ hoặc thay
thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).
Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại. Nếu trước khi sức
khỏe bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do sức khỏe bị xâm phạm
họ phải đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút.
Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao
gồm: phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian
điều trị; tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện
việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong
thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế.
* Xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại:
Bước một: Xác định thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị
có hay khơng. Nếu có thì tổng hợp số thu nhập là bao nhiêu.
Nếu người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ
hợp đồng lao động, thì thu nhập thực tế bị mất = tiền lương, tiền công/tháng x thời gian điều
trị.

Nếu người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu
nhập của các tháng khác nhau, thì thu nhập thực tế bị mất = thu nhập trung bình 6 tháng
liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) x thời gian điều trị.
7


Nếu người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng khơng ổn định, khơng xác định được, thì
thu nhập thực tế bị mất = thu nhập trung bình của lao động cùng loại/tháng x thời gian điều trị.
Bước hai: Lấy tổng số thu nhập thực tế mà người bị thiệt hại có được trong thời
gian điều trị so sánh với thu nhập thực tế tương ứng. Nếu khơng có khoản thu nhập thực
tế nào của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị thì thu nhập thực tế của người bị thiệt
hại bị mất; nếu thấp hơn thì khoản chênh lệch đó là thu nhập thực tế của người bị thiệt hại
bị giảm sút; nếu bằng thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không bị mất.
Ví dụ 1: K làm nghề thợ đục tự do. Thu nhập thực tế của A trước khi sức khỏe bị
xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là 7 triệu đồng. Do sức khỏe bị xâm phạm, K
phải điều trị một thời gian nên khơng có khoản thu nhập nào. Trong trường hợp này thu
nhập thực tế của K bị mất.
Ví dụ 2: B làm cơng cho một công ty D. Thu nhập thực tế của B trước khi sức khỏe
bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là 8 triệu đồng. Do sức khỏe bị xâm phạm,
B phải điều trị và trong thời gian điều trị công ty trả cho B 50% tiền lương là 4 triệu đồng.
Trong trường hợp này thu nhập thực tế của B mỗi tháng bị giảm sút 4 triệu đồng.
Ví dụ 3: C là cơng chức có thu nhập hàng tháng ổn định 5 tri đồng. Do sức khỏe bị
xâm phạm, C phải điều trị và trong thời gian điều trị cơ quan vẫn trả đủ các khoản thu
nhập cho C. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của C không bị mất.
* Xác định thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại:
Nếu người chăm sóc có thu nhập thực tế ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền
công từ hợp đồng lao động thì thì thu nhập thực tế bị mất = tiền lương, tiền cơng/tháng x
thời gian chăm sóc.
Nếu người chăm sóc có làm việc và hàng tháng có thu nhập ổn định, nhưng có mức
thu nhập khác nhau thì thì thu nhập thực tế bị mất = thu nhập trung bình 6 tháng liền kề

(nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) x thời gian chăm sóc.
Nếu người chăm sóc vẫn được cơ quan, người sử dụng lao động trả lương, trả tiền
công lao động theo quy định của pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ khơng bị mất
thu nhập thực tế do đó khơng được bồi thường; Nếu người chăm sóc khơng có thu nhập ổn
định thì được hưởng tiền cơng chăm sóc bằng tiền cơng trung bình của người chăm sóc
người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú. Trong trường hợp sau khi điều trị,
8


người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người
bị thiệt hại khơng cịn khả năng lao động bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81%
trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại, bao gồm:
chi phí hợp lý hàng tháng cho việc nuôi dưỡng, điều trị người bị thiệt hại và chi phí hợp lý
cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại bằng mức tiền cơng trung bình trả
cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú. Về nguyên
tắc, chỉ tính BTTH cho một người chăm sóc.
* Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm:
Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm được bồi thường
cho chính người bị thiệt hại. Trong mọi trường hợp, khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị
thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Việc xác định mức độ
tổn thất về tinh thần cần căn cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã
hội…Mức bồi thường khoản tiền bù đắp trước hết do các bên thỏa thuận. Nếu không thỏa
thuận được, thì mức bồi thường phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa
không quá 50 tháng lương cơ sở do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi
thường.
Xét Bản án dân sự phúc thẩm số 46/2019/DS-PT ngày 07/11/2019 của TAND tỉnh
Quảng Ngãi về vụ án “Yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại” giữa nguyên
đơn chị Phan Thị Thu V và bị đơn anh Trần Văn T, người kháng cáo bị đơn anh Trần Văn
T, nội dung vụ án: Chị V và anh T là vợ chồng nhưng trong thời gian chung sống có xảy ra
mâu thuẫn. Ngày 07/5/2019, chị V về lấy đồ cho con thì bị anh T đánh gãy sống mũi và

được điều trị tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ngãi. Chị V yêu cầu anh T bồi thường cho
chị các khoản như sau: Chi phí điều trị tại bệnh viện; tiền thu nhập bị mất trong thời gian
điều trị; tiền công người chăm sóc trong thời gian điều trị; tiền tổn thất tinh thần; tiền bồi
dưỡng phục hồi sức khỏe; tiền xe đi lại; tiền thẩm mỹ. Trong quá trình giải quyết, chị V rút
yêu cầu tiền thẩm mỹ. Anh T đã đưa trước cho chị 10.000.000 đồng. Chị yêu cầu anh T
phải bồi thường các chi phí cịn lại. Đối với bị đơn trần văn T: Thừa nhận vì mâu thuẫn mà
đã dùng tay đánh chị Phan Thị Thu V. Chấp nhận bồi thường các khoản chị V yêu cầu.
Nhưng đối với khoản tiền tổn thất tinh thần: 20.000.000 đồng, anh không đồng ý.
9


Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2019/DS-ST ngày 23/8/2019 của Tòa án nhân dân
huyện huyện Đức Phổ tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị V. Ngày
06/9/2019, bị đơn anh Trần Văn T kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét đối
với khoản tiền tổn thất tinh thần là 20.000.000 đồng, với lí do mức bồi thường này quá
cao; vợ bỏ đi nên anh không đi làm biển được, phải nuôi hai con nhỏ, trong đó một con
đang bị bệnh hiểm nghèo phải đi chữa bệnh thường xuyên và đang nuôi mẹ già 85 tuổi.
Đồng thời, chị V cũng có thái độ xử sự khơng chuẩn mực khi nói chuyện với anh.
Xét thấy theo quy định của BLDS 2015 thì các lý do anh T trình bày khơng phải là
căn cứ để xem xét giảm mức bồi thường. Do đó, hành vi dùng tay đánh gãy sống mũi chị
Vcủa anh T không chỉ gây nên tổn thất tinh thần cho chị V mà còn ảnh hưởng lớn đến
thẩm mỹ đối với gương mặt của người phụ nữ. Vì vậy, chị V yêu cầu bồi thưởng tiền tổn
thất tinh thần 20.000.000 đồng là phù hợp với quy định của pháp luật, tại khoản 2 Điều
590 BLDS 2015 quy định: “Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa
thuận; nếu khơng thỏa thuận được thì mức tối đa khơng quá 50 lần mức lương cơ sở do
Nhà nước quy định”. Hiện nay mức lương cơ sở là 1.490.000 đồng/tháng (Nghị định
38/2019/NĐ-CP Quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực
lượng vũ trang). Như vậy, Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm của
Tòa án nhân dân huyện Đức Phổ là hồn tồn có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp
luật.

2.3. Thiệt hại do tính mạng bị xâm hại:
Tính mạng của con người là vơ giá khơng thể tính thành tiền. Vì vậy, BTTH về tính
mạng thực chết là bồi thường vật chất phải bỏ ra liên quan đến cái chết của người bị thiệt
hại. Việc xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm được quy định tại Điều 591 BLDS
2015 quy định về thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm và được hướng dẫn bởi Mục 2 Phần
II Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP) bao gồm:
Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi
chết và thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; Chi phí hợp
lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc
khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho
10


việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân theo thông lệ chung. Khơng chấp nhận u cầu bồi
thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ...
Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng. Đối
tượng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng là những người đang được người bị thiệt hại
đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thường xuyên khi cịn sống. Khơng có khả năng lao
động và khơng có thu nhập, khơng có tài sản để tự ni mình bao gồm: Vợ, chồng, con
chưa thành niên hoặc con đã thành niên mất khả năng lao động; anh, chị, em đang được
cấp dưỡng; ông, bà, cháu đang được cấp dưỡng…
Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm: Người được
nhận là những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại bao
gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người bị thiệt hại.
Nếu khơng có những người này thì người mà bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã
trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được thừa hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường
bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối
đa khơng q 100 lần mức lương cơ sở do nhà nước quy định.
Quy định về mức BTTH về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm giữa Bộ BLDS
2015 và Luật trách nhiệm bồi thường (LTNBT) của nhà nước năm 2017 có sự khác nhau

dẫn đến vướng mắc trong công tác xét xử, áp dụng luật của Tòa án trong một số vụ việc.
Cụ thể là tại khoản 2 Điều 591 BLDS 2015 quy định “Mức bồi thường do các bên thỏa
thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa khơng q 100 lần mức lương cơ sở do
Nhà nước quy định”; khoản 4 Điều 27 LTNBT của nhà nước năm 2017 quy định mức bồi
thường cao hơn: “Thiệt hại về tinh thần trong trường hợp người bị thiệt hại chết được xác
định là 360 tháng lương cơ sở. Trường hợp người bị thiệt hại chết thì khơng áp dụng
BTTH về tinh thần quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều này.”
2.4. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm:
Thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân khơng thể xác định được. Thực
chất là xác định những tổn thất về vật chất do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị
xâm hại. Những chi phí đó bao gồm:
11


Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại bao gồm: chi phí cần thiết cho việc thu
hồi ấn phẩm có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị thiệt hại; chi
phí cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm; tiền tàu, xe đi lại, thuê nhà trọ (nếu có) theo giá trung bình ở địa phương nơi thực
hiện việc chi phí để yêu cầu cơ quan chức năng xác minh sự việc, cải chính trên các
phương tiện thơng tin đại chúng; chi phí tổ chức xin lỗi, cải chính cơng khai tại nơi cư trú
hoặc nơi làm việc của người bị thiệt hại và các chi phí thực tế, cần thiết khác để hạn chế,
khắc phục thiệt hại (nếu có).
Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút: Nếu người bị xâm phạm có thu nhập thực
tế, nhưng do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm người đấy phải thực hiện những
công việc để hạn chế, khắc phục thiệt hại, nên khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc
bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó;
Việc xác định thu nhập thực tế của người bị xâm phạm và việc xác định thu nhập thực tế bị
mất hoặc bị giảm sút của người bị xâm phạm được thực hiện theo hướng dẫn tại tiểu mục
1.2 mục 1 Phần II Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP.
Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần được bồi thường cho chính người bị xâm

phạm. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào hình thức xâm phạm
(bằng lời nói hay đăng trên báo viết hay báo hình…), hành vi xâm phạm, mức độ lan
truyền thông tin xúc phạm…; Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần
trước hết do các bên thỏa thuận. Nếu khơng thỏa thuận được, thì mức bồi thường khoản
tiền bù đắp tổn thất phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá
10 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường”.
Xét Bản án sơ thẩm dân sự số 05/2017/DS-ST ngày 17/8/2017 của TAND huyện
Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn, nguyên đơn yêu cầu bị đơn bồi thường do sáng mùng một Tết cổ
truyền bị đơn đến trước cửa nhà nguyên đơn chửi bới. Nguyên đơn yêu cầu bị đơn bồi
thường thiệt hại tinh thần do bị xâm phạm danh dự, uy tín là 7.000.000 đồng. Tịa án cho
rằng khơng có căn cứ bồi thường 7.000.000 đồng, mà tuyên xử ở mức 03 tháng lương cơ
bản, tương ứng 3.900.000 đồng. Tuy nhiên, Tịa án cũng khơng đưa ra được lập luận
thuyết phục trong việc lựa chọn mức bồi thường như trên, Tòa án cho rằng với mức bồi
thường là 7.000.000 đồng không tương xứng với thiệt hại mà nguyên đơn chứng minh.
12


2.5. Thời gian hưởng bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm
phạm.
Thời hạn được bồi thường là khoảng thời gian mà người được bồi thường được
hưởng do tính mạng, sức khỏe bị xâm hại. Thời hạn được bồi thường xác định trên cơ sở
khả năng người bị thiệt hại có tạo được thu nhập hay khơng sau khi đã ổn định sức khỏe
và người được cấp dưỡng cịn cần phải cấp dưỡng hay khơng căn cứ vào khả năng lao
động của họ để xác định thời hạn được hưởng.
Trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì người bị thiệt hại
được hưởng bồi thường từ thời điểm mất hoàn toàn khả năng lao động cho đến khi chết,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp người bị thiệt hại chết thì những người mà
người này có nghĩa vụ cấp dưỡng khi còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng từ thời điểm
người có tính mạng bị xâm phạm chết trong thời hạn sau đây: Người chưa thành niên hoặc
người đã thành thai là con của người chết và còn sống sau khi sinh ra được hưởng tiền cấp

dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi, trừ trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ mười tám
tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập đủ ni sống bản thân; Người thành niên nhưng
khơng có khả năng lao động được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi chết.
Ngoài ra, theo quy định của pháp luật, đối với con đã thành thai của người chết, tiền
cấp dưỡng được tính từ thời điểm người này sinh ra và còn sống. Điều 593 BLDS 2015
chỉ quy định thời hạn cho việc bồi thường đối với người mất hoàn toàn khả năng lao động
và người chết nhưng họ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho người khác mà không quy định thời
hạn bồi thường trong trường hợp người bị thiệt hại giảm sức lao động, do đó việc suy giảm
khả năng lao động cũng cần được xác định thời hạn bồi thường một cách cụ thể.
C. KẾT LUẬN
Qua việc tìm hiểu về đề tài trên, có thể hiểu BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách
nhiệm dân sự, được áp dụng để buộc chủ thể gây hại phải bù đắp những tổn thất cho chủ
thể khác do hành vi hoặc tài sản gây ra. Hiểu về bản chất của thiệt hại và cách xác định
thiệt hại trong BTTH ngồi hợp đồng. Quan đó, nhận thấy quyền được bảo vệ về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của
13


cá nhân là một quyền nhân thân có tính chất thiêng liêng của cá nhân và không một cá
nhân, tổ chức nào có quyền xâm phạm. Đặt trong bối cảnh hiện nay khi xã hội ngày càng
phát triển, nhu cầu cuộc sống ngày càng cao cả về vật chất lẫn tinh thần thì quyền được
bảo về về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác là một vấn đề quan trọng cần được pháp luật dân sự bảo vệ. Vì vậy, các quy
định về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng cần phải được hồn thiện hơn nữa để có thể
đảm bảo được quyền lợi chính đáng cho các chủ thể.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội “Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam – tập II”, NXB
Công an nhân dân – 2017.
3. Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017.

4. Nghị quyết số 03/2006/NQ - HDTP Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ
luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
5. Nghị định 38/2019/NĐ - CP Quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công
chức, viên chức và lực lượng vũ trang).
6. Thông tư số 137- TANDTC ngày 23 tháng 3 năm 1972 hướng dẫn xét xử về bồi
thường thiệt hại ngồi hợp đồng.
7. Tịa án Nhân dân tối cao, Trang thông tin điện tử công bố bản án, quyết định của
tòa án ( />
14



×