Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

VẤN ĐỀ NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.24 KB, 22 trang )

TIỂU LUẬN MƠN TRIẾT HỌC

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHĨA HỌC CHẤT LƯỢNG CAO

MAC – LENIN

ĐỀ TÀI: VẤN ĐỀ NGUỒN NHÂN LỰC Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY- THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP

Giáo viên hướng dẫn : Tiến sĩ Trần Thu Hường
Sinh viên thực hiện : ABC
Mã sinh viên : ABC
Lớp : ABC

Hà Nội, 12/2019


MỤC LỤC
I.Phần mở đầu .............................................................................. 2
1.Tính cấp thiết của đề tài và lí do chọn đề tài .......................2
2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................... 3
3.Cơ sở lí luận, đối tượng nghiên cứu, và phương pháp .......3
4. Kết cấu ....................................................................................3
II.Nội dung ................................................................................. 4
1.Cơ sở lý luận ........................................................................... 4
2.Nội dung chính ........................................................................5
2.1. Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất .......... 5
2.1.1. Lực lượng sản xuất..................................................5
2.1.2. Quan hệ sản xuất....................................................7


2.1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất.........................................................................9
2.2. Thực trạng, nhân tố, nguyên nhân và thách thức............10
2.2.1. Thực trạng nguồn nhân lực hiện nay ở Việt Nam.11
2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng
của người lao động.........................................................12
2.2.3. Những thách thức và nguyên nhân yếu kém, bất
cập...................................................................................13
2.3. Giải pháp nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực ở Việt
Nam. ...............................................................................................16
III.Kết luận ................................................................................. 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................20

1


I. Phần mở đầu
1.

Tính cấp thiết của đề tài và lí do chọn đề tài

Trong thời đại Cơng nghệ 4.0, đất nước ta đang có nhưng chuyển mình rõ rệt
để bắt kịp với nền kinh tế thế giới. Một nền kinh tế muốn phát triển nhanh và bền
vững thì phải dựa trên ba trục cơ bản đó là: áp dụng khoa học công nghệ, phát triển
cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực, trong đó, nguồn lực con người giữ vai
trị quan trọng nhất . Trình độ phát triển nguồn nhân lực là một thước đo chủ yếu sự
phát triển của mỗi quốc gia. Nguồn nhân lực có một ý nghĩa quan trọng trong phát
triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia nói chung và mỗi địa phương nói riêng, sức
mạnh của nguồn lực con người ở mỗi địa phương, mỗi vùng lãnh thổ góp phần tạo
nên sức mạnh tổng hợp của nguồn lực con người trong cả nước. Tất cả các quốc gia

trên thế giới đều đặt vấn đề về con người là vấn đề trung tâm trong chiến lược phát
triển kinh tế – xã hội. Nhân thức điều đó, chúng ta đang hướng tới phát triển nguồn
nhân lực toàn diện về cả thể lực và trí lực, cả về khả năng lao động, năng lực sáng
tạo và tính tích cực trong cả xã hội, chính trị cả về đạo đức, tâm hồn và tình cảm.
Kế thừa và phát huy truyền thống của ông cha trong việc trọng dụng nhân tài, coi
“hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, trong mỗi một giai đoạn phát triển, Đảng và
Nhà nước ta luôn khẳng định quan điểm xem nhân tố con người là trung tâm của
mọi sự phát triển.
Hiện nay, trong điều kiện đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế, đặc biệt khi Việt Nam đang trong thời kỳ của cuộc cách mạng công nghiệp
4.0 (CMCN 4.0), vấn đề nguồn nhân lực được xem là khâu đột phá, phát triển
nguồn nhân lực trở thành nền tảng phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh
quốc gia. Với lợi thế đang trong thời kỳ dân số vàng, nguồn nhân lực Việt Nam
hiện nay sẽ có những lợi thế riêng nhưng cũng có những thách thức đáng kể trong
thời kỳ CMCN 4.0.

2


Với tất cả những lý do trên, em lựa chọn chủ đề “Thực trạng nguồn nhân lực ở
Việt Nam hiện nay” để phân tích và nêu ra những điều cịn khó khăn, từ đó đưa ra các
giải pháp để khắc phục.

2.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Bài tiểu luận này có mục đích làm rõ ràng, sáng tỏ về thực trang nguồn nhân lực
của Việt Nam trong thời kì cơng nghệ 4.0 . Từ đó đưa ra các phải pháp nhằm đẩy
mạnh sự phát triển nguồn nhân lực.


3.
-

Cơ sở lí luận, đối tượng nghiên cứu, và phương pháp
Cơ sở lý luận của tiểu luận là những nguyên lý cơ bản của triết học Mác -

Lênin; lý luận Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước, vai trị của Nhà nước,
về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
-

Tiểu luận kế thừa kết quả của một số cơng trình nghiên cứu khoa học về nhà

nước, vai trị của nhà nước trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nghiên cứu về những con người lao động tại Việt Nam qua các nhà máy, xí
nghiệp, các doanh nghiệp. Đồng thời, tìm hiểu thêm về các giải pháp mà Nhà nước đề
ra nhằm cải cách nguồn
-

Phương pháp: Phân tích, tổng hợp, điều tra, thống kê lực lao động.

4. Kết cấu
Kết cấu phần nội dung chính của em bao gồm các phần như sau:

- Nội dung chính : + Phần 1: Lực lượng sản xuất và mối quan hệ sản
xuất với lực lượng sản xuất
+ Phần 2: Vấn đề thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay
+ Phần 3: Giải pháp nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực ở Việt
Nam
3



II. Nội dung
1.

Cơ sở lý luận

Ngày nay khi vai trò của nguồn nhân lực được thừa nhận như một yếu tố tất yếu
cho mọi sự tăng trưởng đang ngày càng rõ ràng thì một trong những yêu cầu để tiếp
cận được với nền kinh tế khu vực cũng như nền kinh tế thế giới là phải có được một
nguồn nhân lực có đủ các yếu tố và phẩm chất đáp ứng đựơc những yêu cầu về trình
độ phát triển của thế giới, của thời đại. Nguồn nhân lực là toàn bộ những người lao
động đang có khả năng tham gia vào các quá trình lao động. Nguồn nhân lực với vai
trò là một yếu tố tất yếu của sự phát triển kinh tế - xã hội là khả năng lao động cả xã
hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động. Với cách hiểu này nguồn nhân lực tương đương với nguồn lao động.
Nguồn nhân lực cịn có thể hiểu là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia
vào quá trình lao động, là tổng thể các y ếu tố về thể chất và tinh thần được huy động
vào quá trình lao động. V ới cách hiểu này nguồn nhân lực bao gồm những người từ
giới h ạn d ưới đ ộ tuổi lao động trở lên. Nguồn nhân lực được xem xét trên giác độ số
lượng và chất lượng. Số lượng nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua chỉ tiêu quy
mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực. Các chỉ tiêu này có quan hệ mật thiết với các ch ỉ
tiêu quy mô và tốc độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng
cao thì dẫn đến quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại. Tuy
nhiên, mối quan hệ dân số và nguồn nhân lực được biểu hiện sau một thời gian nhất
định (vì đến lúc đó con người muốn phát triển đầy đủ, mới có khả năng lao động). Khi
tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế - xã h ội, con ng ười đóng vai trị chủ
động, là chủ thể sáng tạo và chi phối toàn bộ q trình đó, hướng nó tới mục tiêu nhất
định. Vì vậy, nguồn nhân lực khơng ch ỉ đơn thuần là số lượng lao động đã có và sẽ có
mà nó cịn ph ải bao gồm một tổng thể các yếu tố thể lực, trí lực, kỹ năng làm việc,

thái độ và phong cách làm việc... tất cả các yếu tố đó ngày nay đều thuộc về ch ất
lượng nguồn nhân lực và được đánh giá là một chỉ tiêu tổng hợp là văn hoá lao động.
Ngoải ra, khi xem xét nguồn nhân lực, cơ cấu của lao động - bao gồm cả cơ cấu đào
tạo và cơ cấu ngành nghề cũng là m ột ch ỉ tiêu r ất quan trọng. Cũng giống như các
4


nguồn lực khác, số lượng và đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trị hết sức
quan trọng trong việc tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Để đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế và nhu cầu sử dụng lao động, những người lao động phải được
đào tạo, phân bổ và s ử dụng theo cơ cấu hợp lý, đảm bảo tính hiệu quả cao trong sử
dụng. Một quốc gia có lực lượng lao động đông đảo, nhưng nếu phân bổ không hợp lý
giữa các ngành, các vùng, cơ cấu đào tạo khơng phù hợp với nhu cầu sử dụng thì lực
lượng lao động đơng đảo đó khơng những khơng trở thành nguồn lực để phát triển mà
nhiều khi còn là gánh nặng.

2.

Nội dung chính

2.1. Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất.
Trong quá trình sản xuất, con người thực hiện cặp quan hệ song trùng. Một mặt, con
người quan hệ với giới tự nhiên, được biểu hiện ở lực lượng sản xuất; mặt khác, con
người quan hệ với con người, được biểu hiện ở quan hệ sản xuất.
2.1.1

Lực lượng sản xuất


Lực lượng sản xuất (LLSX) là mối quan hệ của con người với tự nhiên hình thành
trong quá trình sản xuất . Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở trình độ khống
chế tự nhiên của con người. Đó là kết quả năng lực thực tiễn của con người tác động
vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đảm bảo sự tồn tại và phát triển của loài người .
Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản
xuất ra của cải, vật chất bao gồm các nhân tốc vật chất và kỹ thuật tồn tại trong mối
quan hệ biện chứng và tạo ra sức sản xuất làm cải biến các đối tượng trong quá trình
nhằm phục vụ nhu cầu của con người.
Lao động là hoạt động có mục đích của con người. Lao động là một hành động
diễn ra giữa người và giới tự nhiên. Trong quá trình lao động con người vận dụng sức
tiềm năng trong thân thể mình, sử dụng công cụ lao động để tác động vào giới tự nhiện,
chiếm lấy những vật chất tự nhiên, biến đổi vật chất đó và làm cho chúng có ích cho
5


đời sống của bản thân. Vì thế lao động là điều kiện không thể thiếu được của đời sống
con người, là một sự tất yếu vĩnh viễn là môi giới trong sự trao đổi vật chất giữa tự
nhiên và con người. Lao động chính là việc sử dụng sức lao động.
Trong cấu thành của lực lượng sản xuất, có thể có một vài ý kiến nào đó khác
nhau về một số yếu tố khác của lực lượng sản xuất , song suy cho cùng thì chúng đều
vật chất hố thành hai phần chủ yếu là tư liệu sản xuất và lực lượng con người . Trong
đó tư liệu sản xuất đóng vai trị là khách thể , cịn con người là chủ thể .
Tư liệu sản xuất được cấu thành từ hai bộ phận đó là đối tượng lao động và tư liệu
lao động. Thơng thường trong q trình sản xuất phương tiện lao động còn được gọi là
cơ sở hạ tầng của nền kinh tế . Trong bất kỳ một nền sản xuất nào công cụ sản xuất
bao giờ cũng đóng vai trị là then chốt và là chỉ tiêu quan trọng nhất . Hiện nay công cụ
sản xuất của con người không ngừng được cải thiện và dẫn đến hoàn thiện, nhờ thành
tựu của khoa học kỹ thuật đã tạo ra công cụ lao động công nghiệp máy móc hiện đại
thay thế dần lao động của con người . Do đó cơng cụ lao động ln là độc nhất , cách
mạng nhất của LLSX.

Người lao động với tư cách là một bộ phận của LLSX xã hội phảI là người có thể
lực , có tri thức văn hố , có trình độ chun mơn nghiệp vụ cao, có khinh nghiệm và
thói quen tốt, phẩm chất tư cách lành mạnh, lương tâm nghề nghiệp và trách nhiệm cao
trong công việc.Trước đây do chưa chú trọng đúng mức đến vị trí của người lao động,
chúng ta chưa biết khai thác phát huy mọi sức mạnh của nhân tố con người. Đành rằng
năng lực và kinh nghiệm SX của con người cịn phụ thuộc vào những TLSX hiện có
mà họ đang sử dụng. Nhưng tích cực sáng tạo của họ đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Nền văn minh nhân loại suy cho cùng là do sự phát triển của LLSX một cách
đúng hướng . Xác định con đường đi lên của CNXH không qua giai đoạn phát triển
của CNTB, trong đó có vấn đề phát triển LLSX như thế nào là nhiệm vụ quan trọng
mang tính cấp bách ở nước ta . Nó khơng những ảnh hưởng đến việc định hướng sự
phát triển LLSX mà còn tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng và hiệu quả kinh tế xã hội nước nhà .
6


Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng đều có quy luật vận động và phát triển của nó .
Đối với LLSX cũng vậy, nó cũng tuân thủ sự vận động và phát triển bằng biện chứng
giữa tuần tự và nhảy vọt. Tuần tự trong LLSX được hiểu là một q trình biến đổi dần
dần về số lượng của nó . Nhảy vọt trong LLSX là một quá trùnh biến đổi sâu sắc căn
bản về chất lượng của nó, là quá trình biến đổi từ chất cũ sang chất mới.
Mặc dù giữa hình thức phát triển nhảy vọt và tuần tự có sự khác nhau cơ bản song
chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau . Hình thức phát triển này làm tiền đề cho
hình thức phát triển kia như là mối quan hệ nhân quả, chúng là các giai đoạn phát triển
của một quá trình thống nhất .
Giai đoạn phát triển tuần tự về mặt lượng tự nó không làm thay đổi chất lượng
của LLSX mà chỉ tạo nên sự thay đổi những thuộc tính về lượng, chỉ là bước chuẩn bị
tiền đề để chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, cao hơn, mạnh hơn về chất . Sự
phát triển có tính cách mạng của LLSX là bước nhảy vọt căn bản tạo nên một chất
lượng hoàn toàn mới trong kết cấu cấu trúc cũng như trong mối quan hệ giữa các yếu
tố cấu thành LLSX. Sự phát triển trong LLSX có đặc tính làm thay đổi căn bản những

tư liệu lao động, quy trình cơng nghệ cơ sở khoa học của SX, yếu tố chủ quan trong
LLSX .
2.1.2

Quan hệ sản xuất

Đối với chủ nghĩa duy vật lịch sử, thì “quan hệ sản xuất” (QHSX) là một trong
những khái niệm cơ bản, góp phần phản ánh cấu trúc và logic vận động của các hình
thái kinh tế - xã hội. Lênin cho rằng: “Chỉ có đem những quan hệ xã hội vào những
quan hệ sản xuất (QHSX) và đem những QHSX vào trình độ của những lực lượng sản
xuất (LLSX) thì ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của
những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”.
QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái
sản xuất). Trong quá trình sản xuất nảy sinh nhiều mối quan hệ, nhưng ở đây ta chỉ xét
ba mối quan hệ cơ bản mà C.Mác coi đó là ba mặt của QHSX. QHSX gồm ba mặt cơ
bản sau đây:
7


- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất (TLSX): Nói lên rằng trong q trình
sản xuất, người lao động đang sử dụng những TLSX đó của ai, và ai là người có quyền
định đoạt TLSX đó. Trong QHSX, quan hệ sở hữu đối với TLSX đóng vai trị quyết
định vì nó quyết định bản chất của QHSX.
- Quan hệ trong tổ chức quản lý và phân công lao động: Nói lên địa vị và vai trị
của các tập đồn khác nhau, nói lên sự trao đổi giữa các tập đoàn xã hội với nhau. Tuy
phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với TLSX, nhưng trong thực tế quan hệ trong tổ
chức, quản lý và phân công lao động cũng có vai trị rất quan trọng. Ngay cả khi chế
độ sở hữu chưa có gì thay đổi, nhưng nếu có một phương thức quản lý hợp lý thì sản
xuất vẫn có bước phát triển.
- Quan hệ phân phối sản phẩm lao động: Là cách thức phân phối kết quả sản xuất

cho những quan hệ với quá trình đó, điều đó phụ thuộc vào quan hệ của họ đối với
TLSX, nhưng nếu phân phối công bằng sẽ thúc đấy q trình sản xuất phát triển.
Ba mặt nói trên quan hệ hữu cơ với nhau, không tách rời nhau. Trong đó quan hệ
sở hữu đối với tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với những quan hệ khác. Bản
chất bất kỳ QHSX nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề TLSX chủ yếu trong xã hội giải
quyết như thế nào.
QHSX có vai trị to lớn trong sự phát triển xã hội. Khi QHSX phù hợp với trình
độ phát triển của LLSX tạo thành quy luật thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Cùng với
quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, QHSX phù hợp đã thúc đẩy xã hội loài
người lần lượt phát triển qua năm hình thái kinh tế - xã hội: Cơng xã nguyên thủy
(Cộng sản nguyên thủy), Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến, Tư bản chủ nghĩa và Xã hội
chủ nghĩa.
Các loại hình sở hữu quy định các thành phần kinh tế tương ứng. Thực tiễn đã
cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức
sở hữu chứ khơng đơn thuần như là hai hình thức trước đây.

8


2.1.3

Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ

sản xuất
- Thứ nhất, tính thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống
nhất biện chứng, ràng buộc, chi phối lẫn nhau trong quá trình sản xuất của xã hội.
Mỗi q trình sản xuất khơng thể tiến hành được nếu như thiếu một trong hai
phương diện đó, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, quan hệ sản xuất
là hình thức xã hội của quá trình sản xuất. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và

quan hệ sản xuất chính là mối quan hệ tất yếu giữa nội dung và hình thức của cùng
một q trình sản xuất.
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu lao động và người lao
động. Khi công cụ sản xuất được sử dụng bởi từng cá nhân riêng biệt để sản xuất ra
một sản phẩm cho xã hội không cần đến lao động của nhiều người. Công cụ sản
xuất được nhiều người sử dụng để sản xuất ra các vật phẩm thì LLSX mang tính
chất xã hội.
Trình độ phát triển của tư liệu lao động mà đặc biệt là công cụ sản xuất, là
thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Đồng thời nó cũng là trình độ
sản xuất và tiêu chuẩn đánh giá sự khác nhau giữa các thời đại, xã hội khác nhau.
Chính cơng cụ sản xuất và phương tiện lao động kết hợp với lao động sáng tạo của
con người là yếu tố quyết định đến năng xuất lao động.
- Thứ hai, lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành và phát triển , biến
đổi của các hình thức của quan hệ sản xuất.
Để nâng cao hiệu quả trong sản xuất và giảm bớt lao động nặng nhọc, con
người khơng ngừng cải tiến hồn thiện và chế tạo ra các công cụ sản xuất mới.
Đồng thời sự tiến bộ của cơng cụ tri thức khoa học, trình độ chuyên môn kỹ thuật
và mọi kỹ năng của người lao động cũng ngày càng phát triển. Yếu tố năng động
này của LLSX địi hỏi QHSX phải thích ứng với nó. LLSX quyết định sự hình
thành, phát triển của QHSX từ đó nó quy định sự phát triển và biến đổi của quan hệ
9


sở hữu. Sự lớn mạnh của LLSX đã dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với chế độ sở hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa. Chúng ta biết rằng, các quan hệ sở hữu XHCN xuất hiện khi
LLSX đã trở nên mâu thuẫn với hình thức chiếm hữu tư bản tư nhân. Nhưng nó vẫn
chưa hồn tồ xã hội hố trong phạm vi toàn xã hội. Chúng ta thấy rằng chỉ có thể
phát triển nền sản xuất hàng hố dựa trên cơ sở đa dạng hố các hình thức sở hữu,
các thành phần kinh tế mới tạo ra sự liên kết và tính đan xen giữa chúng thì mới có
thể đưa một nền sản xuất lớn thúc đẩy cho LLSX phát triển. Trên cơ sở đó xác lập

mối quan hệ sản xuất mới và quan hệ sở hữu nói riêng .
- Thứ ba, sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản
xuất:
Mặc dù sự đa dạng hố các hình thức sở hữu bị chi phối bởi LLSX với tính
cách là hình thức đa dạng hố các hình thức sở hữu nói riêng hay QHSH nói chung
cũng có tác động trở lại đối với LLSX. Khi quan hệ sở hữu phát triển nó thúc đẩy
LLSX phát triển theo mối quan hệ sở hữu hay hình thức sở hữu đó phù hợp với tính
chất và trình độ của LLSX. Khơng những thế mà nó định hướng và tạo điều kiện
cho LLSX phát triển.
Nếu quan hệ sở hữu phát triển lạc hậu hơn so với LLSX thì tất yếu QHSH sẽ
là siềng xích kìm hãm sự phát triển của LLSX. Trong quan hệ sản xuất chiếm hữu
nô lệ ra đời bằng những hình thức lao động khổ sai, thích ứng với trình độ phát triển
của LLSX và chế độ chiếm hữu nô lệ đã đạt được những kỳ tích to lớn trong lịch sử
văn minh nhân loại .
Tóm lại : Quy luật về sự phù hợp của QHSX nói chung, QHSH nói riêng với
tính chất và trình độ phát triển của LLSX là quy luật chung của sự phát triển xã hội.
Dưới tác động của quy luật này xã hội là sự phát triển kế tiếp nhau từ thấp đến cao
của phương thức sản xuất, tuy nhiên sự phù hợp này phải là sự phù hợp biện chứng,
sự phù hợp không loại trừ mâu thuẫn.

2.2 .Thực trạng, nhân tố, nguyên nhân và thách thức

10


2.2.1.Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam có quy mơ dân số trên 96 triệu người, đứng thứ 14 thế giới, thứ 3 trong
khu vực Đông Nam Á. Theo Báo cáo Điều tra Lao động việc làm mới nhất của Tổng
cục Thống kê, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của Việt Nam ước tính khoảng
55.1 triệu người, chiếm khoảng 57% tổng dân số. Như vậy, Việt Nam có nguồn nhân

lực tương đối dồi dào, và đang trong thời kỳ dân số vàng. Đây là một trong những điều
kiện thuận lợi của Việt Nam trong thời kỳ CMCN 4.0. Với số lượng nguồn nhân lực
đơng, dồi dào thì chất lượng nguồn nhân lực qua đào tạo của Việt Nam cũng có thể
được xem là thế mạnh trong quá trình CMCN 4.0. Về chất lượng nguồn lao động:
Trong tổng số 55.1 triệu người trong độ tuổi lao động, chỉ có 7,3 triệu người đã được
đào tạo, chiếm 14,9% lực lượng lao động. Trong số những người đang theo học ở các
trường chuyên nghiệp trên toàn quốc thì tỷ lệ người đang theo học trình độ sơ cấp là
1,7%, trung cấp 20,5, cao đẳng 24,5% và Đại học trở lên là 53,3%. Tỷ trọng lao động
đã qua đào tạo ở nước ta rất thấp, cụ thể là 86,7% dân số trong độ tuổi lao động chưa
được đào tạo chuyên môn, kỹ thuật, đáng chú ý hơn là khu vực nông thôn, nơi phần
lớn người lao động có nguyện vọng đi làm việc ở nước ngồi thì tỷ lệ lao động chưa
được đào tạo chiếm 92%. Bên cạnh lực lượng lao động đã qua đào tạo, nguồn nhân lực
chưa qua đào tạo chiếm một tỷ lệ vô cùng lớn. Đây thực sự là rào cản, hạn chế lớn của
nhân lực Việt Nam trong cuộc CMCN 4.0 này. Đồng thời, những hạn chế này đã đưa
đến nhiều hệ lụy khác như năng suất lao động thấp, năng lực cạnh tranh cũng như giá
trị nguồn nhân lực Việt Nam trên thị trường lao động không cao.
Các chỉ số phát triển nguồn nhân lực để đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia và
tính hấp dẫn của mơi trường đầu tư Việt Nam còn chưa cao, cụ thể: Chất lượng chung
của nguồn nhân lực vẫn ở mức thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới:
Chất lượng và chỉ số cạnh tranh nguồn nhân lực chỉ đạt lần lượt là 3,79/10 điểm (xếp
thứ 11/12 nước Châu Á theo bảng xếp hạng của WB); tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo
nghề chiếm gần 85% (thành thị 70%, nông thôn 91%); đa số doanh nghiệp sử dụng lao
động (82% – WB) chưa hài lòng về chất lượng lao động, nhất là kỹ năng làm việc của
người lao động. Cơ cấu phân bố lao động theo ngành nghề mất cân đối: Tỷ lệ lao động
làm việc cho các ngành cần tăng tốc phát triển giai đoạn 2011 – 2020 phục vụ công
11


cuộc cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước như: Công nghệ thông tin, công nghiệp
phụ trợ, y tế, giáo dục – đào tạo…chỉ chiếm xấp xỉ 1% mỗi ngành, trong khi có tới

47,4% lao động làm việc trong khu nông – lâm – ngư nghiệp hoặc lao động giản đơn;
Cơ cấu đào tạp nguồn nhân lực không hợp lý: Tỷ lệ đào tạo đại học, cao đẳng so với
trung cấp, công nhân kỹ thuật nghề là 7/3 dẫn tới thực trạng “thừa thầy, thiếu thợ”.
Sinh viên ra trường khó tìm được việc làm phù hợp, thiếu kỹ năng hịa nhập, làm việc
nhóm, giao tiếp với nước ngồi, ứng dụng công nghệ thông tin…; Việt Nam xuất khẩu
lao động phổ thơng giản đơn, nhập khẩu lao động có trình độ, tay nghề cao: Hiện có
khoảng 400.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại nước ngoài trong hơn 30 nhóm
nghề khác nhau, nhưng đa số là lao động giản đơn, trong khi phải nhập khẩu nguồn lao
động có trình độ từ nước ngồi để làm các cơng việc mà lao động Việt Nam khơng thể
đảm nhận.
Như vậy có thể nói, nguồn nhân lực của Việt Nam khá dồi dào nhưng chưa phải
là nguồn nhân lực có chất lượng.Người lao động của Việt Nam bị hạn chế về trình độ
và khả năng làm việc. Công tác giáo dục-đào tạo của Việt Nam chưa theo kịp nhu cầu
phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước
và hội nhập quốc tế.Hệ thống giáo dục-đào tạo chưa gắn liền với thực tiễn phát triển
kinh tế-xã hội đất nước. Chất lượng giáo dục-đào tạo còn hạn chế ,xem nhẹ các kỹ
năng nghề nghiệp, kỹ năng lao động tự chủ, sáng tạo .Bên cạnh đó, chính sách thu hút,
quản lý, sử dụng, đãi ngộ nhân tài chưa hồn thiện, thiếu sức cạnh tranh,chưa có đủ
sức hấp dẫn đẻ thu hút nguồn nhân lực có kỹ năng, trình độ cịn hạn chế.Tất cả những
điều đó làm cho nguồn lao động của Việt Nam thừa mà thiếu.Với thời đại phát triển
theo hướng cơng nghiệp hóa hiện đại hóa liệu Việt Nam có đã và đang xây dựng được
nguồn năng lực Chất Lượng Cao?
2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng của
người lao động
- Ảnh hưởng đến số lượng
+ Dân số: là yếu tố cơ bản quyết định số lượng lao động, quy mô và cơ cấu dân
số có ý nghĩa quyết định đến quy mơ và cơ cấu của nguồn lao động. Các yếu tố cơ bản
12



ảnh hưởng đến sự biến động của dân số là: phong tục, tập quán của từng nơi, trình độ
phát triển kinh tế, mức độ chăm sóc y tế và chính sách của từng nơi đối với vấn đề
khuyến khích sinh đẻ.
+ Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động: là số phần trăm của dân số trong độ tuổi
lao động tham gia lực lượng lao động trong nguồn nhân lực. Nhân tố cơ bản tác động
đến tỷ lệ tham gia lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động khơng có như cầu
làm việc vì đang đi học, đi làm cơng việc nội trợ hoặc ở tình trạng khác
+ Thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp: bao gồm những người khơng có việc làm
nhưng đang tích cực tìm việc. Số người khơng có việc làm sẽ ảnh hưởng đến số người
làm việc và kết quả hoạt động của nền kinh tế.
+ Thời gian lao động: Số ngày làm việc/ năm; số giờ làm việc/ năm;….. xu
hướng chung là thời gian làm việc sẽ giảm đi khi trình độ phát triển kinh tế được nâng
cao.
- Ảnh hưởng đến chất lượng
Giáo dục được coi là một dạng quan trọng nhất của sự phát triển tiềm năng của
con người theo nhiều nghĩa khác nhau. Yêu cầu chung đối với giáo dục là rất lớn, nhất
là đối với giáo dục phổ thông, con người ở mọi nơi đều tin giáo dục rất có ích cho bản
thân mình và con cháu họ. Việc thiếu kiến thức và kinh nghiệm trong học tập nói riêng
và các kỹ năng xã hội, kỹ năng làm việc nói chung đang khá được nhiều người quan
tâm. Các doanh nghiệp, các nhà máy xí nghiệp đều rất chú trọng việc tuyển dụng
những con người có năng lực giỏi, chun mơn tốt để có thể giúp ích cho cơng ty của
họ phát triển bền vững trong khoảng thời gian dài.
2.2.3. Những thách thức và nguyên nhân yếu kém, bất cập
Việt Nam đang trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển đất nước, từng
bước đổi mới mơ hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế và tăng cường sức cạnh tranh,
nên đòi hỏi chất lượng lao động phải cao với một cơ cấu hợp lý hơn. Trong khi đó,
cơng tác đào tạo nghề vẫn chưa đáp ứng u cầu, nhu cầu của các thành phần kinh tế
để có thể sẵn sàng tham gia hội nhập. Hằng năm, mặc dù với hơn 1 triệu lao động trẻ
13



ra nhập thị trường lao động, nhưng công tác đào tạo vẫn tồn tại nhiều yếu kém kéo dài,
dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực vẫn không được cải thiện đáng kể, nhiều nghề xã
hội có nhu cầu nhưng ít người học. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động qua đào tạo ở bậc
đại học, cao đẳng vẫn tiếp tục gia tăng. Tỷ lệ lao động có chun mơn kỹ thuật đáp
ứng yêu cầu xã hội.
Công tác phân luồng học sinh sau trung học nhiều năm qua vẫn yếu kém, chưa
khắc phục được tâm lý sính bằng cấp, coi nhẹ học nghề trong xã hội; các trường đại
học cao đẳng tuyển sinh và đào tạo ồ ạt, “vét” hầu hết học sinh sau khi tốt nghiệp trung
học phổ thông, làm cạn kiệt nguồn tuyển sinh học nghề. Tình trạng thiếu hụt giáo viên
dạy nghề có khả năng dạy cả lý thuyết và thực hành vẫn phổ biến tại hầu hết các cơ sở
dạy nghề, nhiều trường không tuyển sinh được nên số giáo viên dôi dư khá nhiều.
Thiết bị dạy nghề thiếu, lỗi thời, thậm trí khơng sử dụng được trong đào tạo thực hành.
Chất lượng đào tạo trong nhiều cơ sở dạy nghề thấp, không đáp ứng yêu cầu các doanh
nghiệp, nhiều doanh nghiệp sau khi tuyển dụng lao động phải đào tạo lại gây tốn kém
và lãng phí cho xã hội và người dân.
Công tác dự báo về nhu cầu nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội
chưa tốt, chưa sát với nhu cầu nhân lực ở từng lĩnh vực, ngành, các khu vực kinh tế và
các địa phương; việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo
thiếu tính khoa học.
Hệ thống giáo dục chưa thống nhất, chia cắt đã kéo dài nhiều năm nhưng chưa
được giải quyết. Quy mơ phát triển q nóng, dẫn đến tình trạng 5 năm gần đây không
đủ nguồn tuyển vào các trường, nhiều cơ sở đào tạo nghề khơng có người học.
Đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất còn rất nhiều hạn chế, yếu kém không theo kịp
yêu cầu của thực tế. Số lượng các chương trình mới cịn q ít, nhất là những chương
trình đạt chuẩn khu vực và thế giới; nhiều trường vẫn dạy theo chương trình cũ chưa
cập nhật kiến thức, nên không đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp.
Năng lực của các cơ quan quản lý còn yếu kém, thiếu cơ chế tương tác giữa các
cơ quan có chức năng kiểm sốt, đánh giá, thẩm định chất lượng với các cơ sở đào tạo.
14



Cơng tác và cơ chế quản lý cịn nhiều vướng mắc, thiếu đồng bộ, chia cắt. Chưa kiên
quyết đóng cửa các cơ sở đào tạo yếu kém và vi phạm nghiêm trọng các quy định
trong đào tạo.
Chưa có cơ chế và cơ quan chuyên trách kiểm định chất đào tạo, cấp giấy phép
hành nghề cho lao động qua đào tạo, làm cho thị trường lao động hoạt động thiếu lành
mạnh và khó kiểm sốt chất lượng đào tạo. Chưa có khung trình độ quốc gia theo tiêu
chuẩn khu vực và quốc tế để yêu cầu các cơ sở đào tạo phải từng bước thực hiện.
Chính sách tài chính đối với công tác đào tạo lạc hậu, kém hiệu quả, lãng phí,
khơng tạo được mơi trường cạnh tranh lành mạnh thúc đẩy các cơ sở đào tạo phải đổi
mới toàn diện, mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu và nhu cầu của xã hội.
Số lượng công việc cần lao động chất lượng cao ngày càng gia tăng, trong khi thứ
hạng chỉ số lao động có chất lượng của Việt Nam cịn đứng ở vị trí thấp. Ví dụ điển
hình là ngành Cơng nghệ thơng tin. Ước tính mỗi năm, nhu cầu tuyển dụng vẫn tăng
đều đặn gần 50%, trong khi thực tế với 500.000 ứng viên công nghệ thông tin ra
trường chỉ có 8% đáp ứng được nhu cầu này. Thực tế này cho thấy, chất lượng nguồn
lao động đặc biệt là ngành Kỹ thuật hiện đang trở thành đòi hỏi bức thiết. Theo các bản
báo cáo của Vietnamworks, có gần 15.000 nhân sự trong ngành Công nghệ thông tin
Việt Nam được tuyển dụng trong năm 2016; đến cuối năm 2018, ngành này thiếu hụt
khoảng 70.000 người và đến năm 2020 sẽ là 500.000 người.
Bên cạnh đó, một trong những thách thức đặt ra đối với các quốc gia đang phát
triển khi tiếp cận với kinh tế số chính là nguồn nhân lực có tay nghề cao. Theo số liệu
trong Báo cáo về mức độ sẵn sàng cho nền sản xuất trong tương lai 2018 của WEF,
Việt Nam xếp hạng thuộc nhóm cuối trong bảng thứ hạng về lao động có chun mơn
cao, thứ 81/100 thậm chí xếp hạng sau Thái Lan và Philippin trong nhóm các nước
ASEAN. Và cũng trong báo cáo này, thứ hạng về chất lượng đào tạo nghề của Việt
Nam chỉ ở thứ 80/100, so với trong nhóm các nước ASEAN thì chỉ đứng trước
Campuchia (92/100).


15


Nguồn nhân lực thực sự vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của kinh tế số, một phần
là do trong hệ thống nhà trường nhất là những trường đào tạo về kỹ thuật cịn áp dụng
những cơng nghệ rất cũ trong công tác giảng dạy. Khi cuộc CMCN 4.0 ra đời thì các
doanh nghiệp sẽ địi hỏi họ cũng phải thay đổi, phát triển để đáp ứng yêu cầu của
khách hàng. Các trường đại học phải đào tạo ra nguồn nhân lực có các kỹ năng mới và
trình độ giáo dục cao hơn so với những thập kỷ trước. Thực tế hiện nay, giáo dục đại
học về tổng thể vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của các nhà tuyển dụng.
Có thể nói kinh tế số với những cơng nghệ mới, làm thay đổi nền tảng sản xuất,
phát sinh thêm nhiều ngành nghề mới, đồng thời đặt ra những yêu cầu mới về năng lực
nhân sự. Đây là một thách thức lớn đối với giáo dục đại học Việt Nam. Vì vậy, các
trường đại học ở Việt Nam cần phải nhận thức được những thách thức này, từ đó, có
chiến lược phù hợp cho việc phát triển khoa học, công nghệ, thay đổi phương thức đào
tạo, đầu tư cơ sở vật chất để đào tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao trong thời kỳ
kỹ thuật số.

2.3. Giải pháp nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực ở Việt Nam.
Ngoài việc bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đưa đi làm
việc ở nước ngoài theo quy định thì đào tạo nghề, ngoại ngữ, huấn luyện tác phong lao
động cơng nghiệp cho người lao động có tầm quan trọng ngày càng tăng đối với việc
duy trì, phát triển và tạo khả năng cạnh tranh cho lao động Việt Nam trên thị trường
lao động quốc tế. Trong khi nguồn nhân lực của nước ta chủ yếu là lao động giản đơn,
thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho xuất khẩu lao động dẫn đến kìm
hãm sự ổn kịnh và phát triển thị trường của lao động ngoài. Các doanh nghiệp XKLĐ
đã và đang gặp phải những khó khăn trong việc tuyển dụng lao động có nghề có sẵn
trên thị trường lao động trong nước để đáp ứng nhu cầu ngày cào lớn của đối tác nước
ngoài. Vấn đề này cần phải được giải quyết nhanh chóng. Trong bối cảnh nguồn lực
của nhà nước đầu tư cho phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cịn hạn hẹp,

chưa hiệu quả, nội dung, chương trình đào tạo còn nặng về lý thuyết, xem nhẹ thực

16


hành kỹ năng nghề cho người lao động thì ngành XKLĐ đã và đang chủ động áp dụng
một số giải pháp sau:
Một là, xây dựng nội dung, chương trình đào tạo nghề và ngoại ngữ phù hợp với
yêu cầu về kỹ năng nghề, ngoại ngữ của của đối tác nước ngoài. Nội dung đào tạo tập
trung huấn luyện kỹ năng nghề cho người lao động và an toàn vệ sinh lao động nhằm
ngăn ngừa tai nạn xảy ra trong quá trình tác nghiệp. Hướng dẫn cơ sở đào tạo căn cứ
đặc điểm thị trường tiếp nhận lao động để rèn luyện tác phong lao động công nghiệp
cho người lao động. Ví dụ: đối với lao động đi tu nghiệp tại Nhật Bản thì cơ sở đào tạo
phải rèn cho người lao động bỏ thói quen ngủ trưa, đi làm việc đúng giờ, tác nghiệp
phải chính xác, tu nghiệp sinh chỉ được thực hiện công việc khi đã hiểu rõ yêu cầu của
người quản lý...
Hai là, Thí điểm đặt hàng đào tạo nghề cho người lao động đi làm việc ở nước
ngoài theo cơ chế đặt hàng giai đoạn 2008-2010. Nội dung chủ yếu của đề án là nhà
nước hỗ trợ 70% chi phí học nghề cho người lao động, doanh nghiệp hoặc người lao
động chịu chi phí 30% cịn lại, nếu người lao động đạt trình độ nghề theo quy định và
được đối tác nước ngoài tiếp nhận. Mục tiêu của đề án là khuyến khích người lao động
học nghề trước khi đi làm việc ở nước ngoài nhằm tăng tỷ lệ lao động có nghề đi làm
việc ở nước ngoài, tạo khả năng cạnh tranh và từng bước xây dựng thương hiệu lao
động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế đối với các nghề: nghề Hàn trình độ
3G và 4G, các nghề trong ngành xây dựng, điều dưỡng viên, nhân viên phục vụ khách
sạn, nhà hàng. Sau thí điểm sẽ tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm và nhân rộng mơ
hình.
Ba là, tạo mối liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp. Để có lực lượng lao
động lành nghề, ngay từ khi còn trên ghế nhà trường, sinh viên được vừa học, vừa làm
trong môi trường thực tế. Tuy nhiên, hiện rất ít cơng ty có chiến lược nuôi dưỡng

nguồn nhân lực ngay từ năm thứ 2, thứ 3 và có kế hoạch cho sinh viên vào làm linh
hoạt. Ngược lại, các trường cũng chỉ tập trung vào công tác đào tạo chứ chưa quan tâm
nhiều đến việc hợp tác với doanh nghiệp. Giữa các doanh nghiệp với các trường đại
học cũng như các cơ sở đào tạo thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ, doanh nghiệp phải là
17


nơi đặt hàng cho các trường đại học về nhu cầu nhân lực, tuy nhiên, vấn đề này ở Việt
Nam chưa được thực hiện tốt, dẫn đến trường hợp nhân lực vừa thừa nhưng lại vừa
thiếu. Do đó, cần tập trung gắn kết hoạt động đào tạo của nhà trường với hoạt động sản
xuất của doanh nghiệp thông qua các mơ hình liên kết đào tạo giữa nhà trường và
doanh nghiệp, hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo tại các trường gắn rất chặt
với doanh nghiệp. Ngoài ra, có thể đẩy mạnh việc hình thành các cơ sở đào tạo trong
doanh nghiệp để chia sẻ các nguồn lực chung, từ đó hai bên cùng chủ động nắm bắt và
đón đầu các nhu cầu của thị trường lao động.
Bốn là, đổi mới cơ chế quản lý nhà nước đối với dạy nghề theo nhu cầu của thị
trường và yêu cầu cụ thể của người sử dụng lao động, gồm:
- Nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chuẩn về kỹ năng tối thiểu cần có của các loại
nghề nghiệp theo yêu cầu của người sử dụng lao động; trên cơ sở đó, khuyến khích và
tạo điều kiện để các hội, hiệp hội nghề nghiệp tự xây dựng bộ tiêu chuẩn nghề nghiệp
áp dụng cho các thành viên theo hướng áp dụng bộ chuẩn nghề nghiệp ở mức trung
bình trong khu vực; hướng dẫn các trường, trung tâm và tổ chức dạy nghề xây dựng
các chương trình và cách thức đào tạo đáp ứng các yêu cầu nói trên.
- Thực hiện đấu thầu hoặc chỉ định thầu cung cấp dịch vụ đào tạo lao động trong
các chương trình hỗ trợ đào tạo nghề theo yêu cầu của doanh nghiệp, người sử dụng
lao động; khuyến khích, tạo thuận lợi để doanh nghiệp và các tổ chức đào tạo thực
hiện hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau trong đào tạo, nâng cao kỹ năng cho lao động của
doanh nghiệp.
- Thực hiện hỗ trợ kinh phí đào tạo cho các trường, tổ chức đào tạo nghề theo kết
quả đầu ra, như số học viên được đào tạo theo nhu cầu cụ thể của doanh nghiệp, số học

viên tốt nghiệp đạt chuẩn nghề theo mức trung bình của khu vực, số học viên tốt
nghiệp có được việc làm trong 6 tháng kể từ khi tốt nghiệp,…
- Khuyến khích doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp quy mô lớn, tự đào tạo
lao động phục vụ nhu cầu của bản thân, của các doanh nghiệp bạn hàng, đối tác và các
doanh nghiệp có liên quan khác.
18


Năm là, xây dựng lại chương trình đào tạo, đổi mới phương pháp dạy và học,
nâng cao các kỹ năng mềm cho sinh viên. Đánh giá một cách khách quan cho thấy, hệ
thống đào tạo của nước ta còn tồn tại nhiều bất cập, cơ sở vật chất chưa đáp ứng với
yêu cầu đào tạo, phương thức đào tạo vẫn theo kiểu cũ, thiếu tính tương tác, sự gắn kết
với thực tiễn, học không đi đôi với hành, dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực sau đào
tạo chưa đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của xã hội đặc biệt trong xu thế phát triển
của CMCN 4.0. Do đó, cần sớm đổi mới chương trình, nội dung đào tạo đại học theo
hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực và phù hợp. Cải cách hệ thống giáo dục, đào tạo,
ưu tiên cho các ngành khoa học kỹ thuật, đào tạo hướng nghiệp gắn với việc làm và
theo nhu cầu của xã hội. Việc đào tạo cũng cần tiếp cận theo hướng đa ngành thay vì
chuyên ngành như trước đây, đồng thời tăng cường sự phản biện của người học. Quản
trị đại học cũng cần có sự thay đổi, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động giảng
dậy, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý.
Đặc biệt, trong thời kỳ kỹ thuật số như hiện nay, các trường đại học cũng cần
nghiên cứu, bổ sung thêm các chuyên ngành đào tạo các nghề về ICT, blockchain, trí
tuệ nhân tạo (AI) để đáp ứng về nhu cầu nhân lực trong CMCN4.0. Ngoài ra, một thực
tế nữa cho thấy, lao động của Việt Nam vẫn hạn chế trong việc sở hữu các kỹ năng
mềm, trình độ ngoại ngữ, khả năng làm việc nhóm, kỹ năng cơng nghệ thông tin và
khả năng sáng tạo. Nhiều lao động dù đã qua đào tạo, nhưng khi làm việc vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu khiến người sử dụng lao động mất thời gian đào tạo lại. Do đó,
một giải pháp đưa ra đó là cần trang bị các kỹ năng mềm cho sinh viên ngay từ trong
nhà trường, bằng cách đưa kỹ năng mềm vào trong chương trình đào tạo và chuẩn đầu

ra cho sinh viên. Không những thế cần khuyến khích và đẩy mạnh việc tự học của sinh
viên, tăng cường việc dạy thực tiễn từ các chuyên gia, doanh nhân… không chỉ 100%
kiến thức là giáo viên giảng dạy.

III.Kết luận
19


Nhân tố con người đóng một vai trị quan trọng trong quá trình sản xuất
của cải, vật chất và sự tiến bộ của toãn xã hội. Lịch sử con người từ trước tới
nay luôn đi liề với sản xuất vật chất. Đối với Việt Nam một trong các nước đang
phát triển theo hướng “ Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước” thì nhân tố
con người lại càng quan trọng hơn bao giờ hết.Mọi sự phát triển của Việt Nam
trên mọi lĩnh vực : kinh tế, chính trị, khoa học-kỹ thuật ,xã hội, văn hóa đều do
con người thực hiện và đều vì sự phát triển của con người Việt Nam tồn diện.
Do đó chúng ta cần có những phương hướng, biện pháp xây dựng và phát triển
con người một cách tối ưu nhất. Bên cạnh đó chúng ta cũng cần quan tâm đến
các yếu tố của lực lượng sản xuất xã hội như đối tượng lao động ( tài nguyên
thiên nhiên- nguồn nguyên liệu không thể thiếu trong q trình sản xuất) là yếu
tố có hạn vì khi con người cứ khai thác , khai thác các nguồn tài ngun đó thì
đến một lúc nào đó các nguồn Tì nguyên cũng sẽ rơi vào trạng thái dần dần cạn
kiệt bởi các tài ngun thiên nhiên đó khơng phải là vô hạn.Mà cái vô hạn
chúng ta cần khai thác ở đây chĩnh là bộ óc của con người, khả năng tư duy,
sáng tạo phải biết cách khai thác, sử dụng tài nguyên một cách hợp lý.Như vậy,
nguồn nhân lực lao động là yếu tố quyết định, là chủ thể của q trình sản xuất
vật chất do đó chúng ta cần phát triển các chính sách hợp lý, có những biện
pháp thích hợp với tình hình hiện nay để thúc đẩy sự phát triển của đất nước, để
hồn thành cc cách mạng công nghiệp, trở thành một nước công nghiệp hóahiện đại hóa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. />

mo%CC%A3t-so%CC%81-gia%CC%89i-pha%CC%81p-ve%CC%80da%CC%80o-ta%CC%A3o.html
2. />
3. />4. />5. />6. />7. />8. />
21



×