Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Luận văn: Nguồn nhân lực Việt Nam: Lợi thế, thách thức và xu hướng phát triển trong tiến trình hội nhập kinh tế pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.21 KB, 60 trang )


1


Luận văn

Nguồn nhân lực Việt Nam:
Lợi thế, thách thức và xu
hướng phát triển trong tiến
trình hội nhập kinh tế

2
LỜI NÓI ĐẦU

Bất cứ một sự phát triển nào cũng đều phải có một động lực thúc đẩy.Phát
triển kinh tế xã hội được dựa trên nhiều nguồn lực: nhân lực (nguồn lực con
người), vật lực (nguồn lực vật chất, công cụ lao động, đối tượng lao động,
tài nguyên thiên nhiên, …), tài lực (bao gồm nguồn lực tài chính, tiền tệ)
…song chỉ có nguồn lực con người mới tạo ra động lực cho sự phát triển.
Từ thời xa xưa con người đã sử dụng công cụ lao động thủ công, đơn giản
để sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu của bản thân.Ngày nay, Sản
xuất ngày càng phát triển, phân công lao động xã hội ngày càng chi tiết, hợp
tác ngày càng chặt chẽ, những tiến bộ KHCN được áp dụng vào sản xuất
làm thay đổi tính chất của lao động từ lao động thủ công sang lao động cơ
khí và trí tuệ.
Đối với các quốc gia đang phát triển như chúng ta, dân số đông nguồn lực
dồi dào. Nếu biết khai thác chúng một cách hiệu quả sẽ thúc đẩy kinh tế phát
triển nhanh chóng.Vì vậy hơn ai hết đảng và nhà nước ta hiểu được nguồn
lực quan trọng nhất để phát tiển đất nước đó chính là con người. Nếu như
trước đây con người Việt nam được biết đến với ý chí quật cừơng, sự thông
minh, dũng cảm, thì ngày nay chúng ta được biết đến như một dân tộc nghèo


khổ, kém phát triển.Như vậy đối với sự nghiệp phát triển kinh tế thì chỉ có
cần cù thôi thi chưa đủ. Do đó, con người Việt Nam hay đúng hơn là nguồn
cần phải học hỏi thật nhiều để tiếp thu kiến thức, văn minh nhân loại .
Những lĩnh vực mà chung ta chưa có điều kiện tiếp cận, hay tiếp cận nhưng
còn hạn chế như: công nghệ tin học, công nghệ sinh học…Để làm dược điều
đó nguồn nhân lực Việt Nam cần phải đảm bảo những điều kiện gì, yếu tố
gì, phẩm chất gì đó cung chính là đề tài mà tôi nghiên cứu. Nguồn nhân lực
Việt Nam: Lợi thế, thách thức và xu hướng phát triển trong tiến trình hội
nhập kinh tế.

3
Kết cấu của đề án bao gồm các phần:
Chương I: Lí luận có bản về nguồn nhân lực và quá trình hội nhập
kinh tế
Chương II: Đánh giá thực trạng về nguồn nhân lực Viêt Nam trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương III: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong tiến
trình tham gia hội nhập.





4
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC VÀ TIẾN TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ

I- NGUỒN NHÂN LỰC
1) Khái niệm nguồn nhân lực (NNL) và vai trò phát triển NNL

a) Khái niệm
Có nhiều cách hiểu khác nhau về NNL:
 Nguồn nhân lực là nguồn lực về con người và được nghiên cứu dưới nhiều
khía cạnh. Trước hết với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội
bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường.
NNL được hiểu với tư cách là tổng thể các cá nhân, những con người cụ
thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về vật chất và
tinh thần được huy động vào quá trình sản xuất.Với cách hiểu này NNL bao
gồm người bắt đầu bước vào độ tuổi lao động trở lên .
 NNL với tư cách là một yếu tố của sự phát triển kinh tế- xã hội là khả
năng lao động của xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm nhóm dân
cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Cách hiểu này NNL tương
đương với nguồn lao động.
Các cách hiểu này chỉ khác nhau về việc xác định quy mô NNL, song đều
nhất trí với nhau đó là NNL nói lên khả năng lao động của xã hội.
 Phát triển NNL Việt Nam là tạo ra sự thay đổi về mặt chất lượng của
NNL các mặt thế lực, trí lực, chuyên môn khoa học-kỹ thuật, phẩm chất và
nhân cách để đáp ứng những đòi hỏi cao của nền kinh tế, văn hoá- xã hội
trong bối cảnh cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và xu hướng phát
triển của thế giới.
b) Vai trò của phát triển NNL đối với phát triển kinh tế-
xã hội

5
Khai thác tiềm năng trí tuệ, phát huy sáng tạo của con người trở thành
cần thiết và chủ yếu đối với phát triển KT-XH. Trước đây nguồn lao động
(NLĐ) nhiều và rẻ được coi là thế mạnh hàng đầu về nhân lực thì ngày nay,
yếu tố chất lượng ngày càng được nhấn mạnhvà quan tâm. Tri thức trở thành
thế mạnh mũi nhọn đối với nền kinh tế phát triển. Cạnh tranh lành mạnh
trong khoa học- kĩ thuật nói riêng và trong kinh tế thị trường nói chung, suy

cho cùng là cạnh tranh về tài năng trí tuệ của các nhân tài, kĩ thuật công
nghệ tiên tiến và thông tin là yếu tố quyết định phát triển kinh tế.
Mặt khác con người với khả năng của mình tác trực tiếp động lên công
cụ lao động và đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất nhằm thoả
mãn nhu cầu cá nhân. Cùng với quá trình sản xuất, sức mạnh và kĩ năng lao
động của con người tăng lên, đặc biệt là tư duy trí tuệ của con người không
ngừng phát triển, hàm lượng lao động trí tuệ ngày càng cao, sản phẩm làm
ra ngày càng chứa hàm lượng chất xám nhiếu hơn. Sự phát triển này đã làm
thay đổi tính chất lao động từ thủ công sang lao động cơ khí, máy móc hiện
đại.
Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ song vai
trò lao động của con người vẫn không hề giảm sút, mà trái lại mọi hoạt động
sản xuất không thể tách rời con người bởi con người sáng tạo, phát minh ra
máy móc thíêt bị hiện đại đó. Mặt khác thực tế đã chứng minh rằng, sự giàu
có và phát triển kinh tế của các nước trên thế giới được giải thích bởi sự
đóng góp phần lớn là do sự đóng góp của lực lượng lao động ( trình độ, sức
khoẻ, giới tính), trong khi đó các yếu tố nguồn vốn, tài nguyên chỉ đóng vai
trò phần nhỏ,bới nếu các yếu này chỉ được khai thác và hoạt động có hiệu
quả khi có sự tác động của con người. Do đó, ta có thể khẳng định con
người là trung tâm phát trỉên của lực lượng sản xuất, thước đo của sự phát
triển xã hội.

6
Năm 1998 đề cập đến vấn đề PTNNL, UNESCO đã khẳng định phải coi
giáo dục và đào tạo là yếu tố then chốt, PTNNL là nội dung quan trọng hàng
đầu của chiến lược phát triển KT-XH đất nước. Nó được coi là tài nguyên
cơ bản và quan trọng nhất của mỗi quốc gia bởi tất cả những thay đổi trong
sản xuất, dịch vụ, quản lí, đời sống đều dựa trên cơ sở cách mạng KH-CN
hiện đại nên đòi hỏi phải phát triển NNL, đồng thời tạo ra NNL có trình độ
cao nắm được KH-CN mới đưa vào sản xuất và đời sống. Quốc gia nào

không chú trọng phát triển NNL thì sẽ tụt hậu về kinh tế ngày càng xa đối
với các nước trong khu vực và thế giới. Vì vậy, phát triển NNL đóng vai trò
vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước vì nó quyết
định sự giầu có, hưng thịch của một quốc gia.
2) Các chỉ tiêu đánh giá NNL
a) Chỉ tiêu vế số lượng NNL.
 Quy mô NNL: Đựơc hiểu là tổng số người trong độ tuổi lao động, có khả
năng lao động được xác định tại một thời điểm nhất định.
Quy mô NNL ở các thời điểm khác nhau là khác nhau. Nó phụ thuộc vào
quy mô dân số và tốc độ tăng dân số. Quy mô và tốc độ tăng dân số càng lớn
thì quy mô và tốc độ tăng NNL lớn và ngược lại.
 Tốc độ tăng NNL: Tại một thời kì là sự chênh lệch về quy mô NNL ở thời
điểm đầu và thời điểm cuối của thời kì, tính bằng phần trăm so với NNL ở
thời kì đầu và thường được quy về một năm.
Như đã nói ở trên tốc độ NNL phụ thuộc vào tốc độ tăng dân số, tốc độ tăng
dân số cao thì tốc độ tăng NNL cao và ngược lại.
 Cơ cấu NNL: Cơ cấu NNL là sự phân chia toàn bộ NNL thành các bộ
phận khác nhau theo các tiêu thức khác nhau tạo nên cơ cấu NNL, các đặc
trưng chủ yếu để phân chia là: độ tuổi, giới tính, tôn giáo, vùng, trình độ văn
hoá…
b) Chất lượng NNL.

7
Khái niệm:
Chất lượng NNL là trạng thái nhất định của nguồn lực thể hiện mối quan
hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của NNL.
Chất lượng NNL không những là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển
kính tế, mà còn là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển về mặt đời sống xã
hội, bởi lẽ chất lượng NNL sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ hơn thúc đẩy kinh
tế, văn hoá, xã hội phát triển.

Chất lượng NNL được thể hiện qua các tiêu chí:
Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khoẻ dân cư.
Sức khoẻ là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không
phải đơn thuần là không có bệnh tật. Sức khoẻ là tổng hoà nhiều yếu tố bên
trong và bên ngoài, thể chất và tinh thần có nhiều chỉ tiêu biểu hiện về trạng
thái sức khoẻ như: chiều cao, cân nặng, vòng ngực, mắt, mũi , tai, họng.
 Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hoá của người lao động .
Trình độ văn hoá của người lao động là sự hiểu biết của người lao động về
kiến thức phổ thông, tự nhiên, xã hội.Trong chừng mực nhất định, trình độ
văn hoá của dân số biểu hiện bằng dân trí của quốc gia đó. Nó được thể hiện
thông qua các tỷ lệ như:
_Số lượng người biết chữ và chưa biết chữ.
_Số lượng người có trình độ tiểu học.
_Số người có trình độ phổ thông cơ sở.
_Số người có trình độ phổ thông trung học.
_Số người có trình độ đại học và trên đại học.
Trình độ văn hoá của nguồn nhân lực phản ánh chất lượng nguồn nhân lực
và tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Trình độ văn
hoá cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng nhanh chóng những tiến bộ khoa
học vào thực tiễn.
Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn kĩ thuật của người lao động.

8
Là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên môn nào đó, nó bỉêu hiện
trình độ được đào tạo tại các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại
học và sau đại học, có khả năng chỉ đạo quản lí một công việc thuộc một
chuyên môn nhất định. Chuyên môn NNL đo bằng:
_Tỉ lệ cán bộ trung cấp.
_Tỉ lệ cán bộ cao đẳng đại học.
_Tỉ lệ cán bộ trên đại học.

Trình độ kĩ thuật của người lao thường dùng để chỉ trình độ được đào tạo ở
các trường kĩ thuật, được trang bị kiến thức nhất định, những khả năng thực
hành công việc nhất định. Nó được thể hiện thông qua chỉ tiêu:
_Số người lao động được đào tạo và lao động phổ thông.
_Số người có bằng kĩ thuật và không có bằng.
_Trình độ tay nghề theo bậc thợ.
Trình độ chuyên và kĩ thuật thương được kết hợp chặt chẽ với nhau thông
qua chỉ tiêu số lao động được đào tạo và không được đào tạo trong từng tập
thể NNL.
Chất lượng NNL thể hiện thông qua chỉ số phát triển con người (HDI).
Chỉ số này tính bởi ba chỉ tiêu chủ yếu.
_Tuổi thọ bình quân.
_Thu nhập bình quân đầu người (GDP/người)
_Trình độ học vấn (tỉ lệ biết chữ và số năm đi học trung bình dân cư).
Ngoài các chỉ tiêu trên còn có một số chi tiêu khác như: truyền thống dân
tộc, bảo vệ tổ quốc, truyền thống văn hoá văn minh dân tộc, phong tục tập
quán , lối sống…
Đây là các chỉ tiêu nhấn mạnh đến ý chí tinh thần của người lao động.
II) HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ (HNKTQT) LÀ GÌ ?
1)Khái niệm
HN là là việc các nước đi tìm kiếm một điều kiện nào đó mà họ có thể
thống nhất được với nhau, kể cả dành cho nhau những ưu đãi tạo ra những

9
điều hiện cân bằng, có đi có lại trong quan hệ hợp tác với nhau nhằm khai
thác những khả năng của nhau phục vụ cho nhu cầu của mình.
Như vậy HNKTQT: là tổng thể các quan hệ về kinh tế và khoa học công
nghệ có liên quan đến tất cả các giai đoạn của quá trình sản xuất xã hội diễn
ra giữa các quốc gia cũng như giữa các quốc gia và các tổ chức kinh tế quốc
tế.

2)Bản chất của kinh tế quốc tế
Bản chất của kinh tế quốc tế là các nước mở cửa thị trường cho nhau cả về
thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và đầu tư, sự chuyển dịch lao
động giữa các nước.
Việc mở cửa thị trường thương mại hàng hoá thông qua việc bãi bỏ các
biện pháp thuế quan- giảm thuế, miễn thuế, và phi thuế quan như: Giấy
phép, rào cản kĩ thuật, chống trợ cấp, chống bán phá giá…
3) Ưu điểm nhược điểm của HNKTQT
a)Ưu điểm
_Mở cửa, HNKTQT giúp mở rộng thị trường sản xuất, thị trường xuất khẩu
hàng hoá, dịch vụ, tăng sức thu hút đầu tư, và chuyển giao kĩ thuật, công
nghệ giữa các nước khác nhau của nền kinh tế thế giới. Tạo điều kiện để các
nước đang phát triển, khai thác tài nguyên thiên nhiên có hiệu quả và sử
dụng chúng hợp lí hơn, mở rộng cơ hội quan hệ, học tập tiếp thu kinh
nghiệm quản lí tiên tiến, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.
HNKTQT giúp các nước đi sau tận dụng được những tiến bộ KHKT mà
không quá tốn kém thông qua việc đi tắt đón đầu thành tựu của các nước đi
trước. Nhờ đó mà họ rút ngắn được thời gian, tiết kiệm được nguồn lực về
cả vật chất cũng như tinh thần cho quá trình phát triển.
Nhờ có HN mà quá trình phân công lao động diễn ra sâu sắc hơn, có hiệu
quả hơn. Nó không chỉ diễn ra trong từng quốc gia mà còn diễn ra trên toàn
thế giới. Vì vậy nâng cao hiệu quả kinh tế, lao động , gắn chặt mối liên hệ
giữa các nước.

10
b)Nhược điểm
Khi tiến hành hội nhập kinh tế chính phủ phải dỡ bỏ các biện pháp thuế
quan- giảm thuế, miễn thuế và phi thuế quan như: giấy phép, các rào cản kĩ
thuật… Ví dụ các nước trong khuôn khổ AFTA phải cam kết cắt giảm thuế
xuống mức 0-5% theo lộ trình nhất định, trong khuôn khổ WTO các nước

công nghiệp phát triển phải giảm thuế xuất nhập khẩu hàng công nghiệp
xuống còn 3.4%, nông sản xuống còn 6%, các nước đang phát triển được
duy trì với thuế xuất ở mức 12.3% và 10%. Điều này làm nhà nước giảm
thu ngân sách từ thuế, hàng hoá nhập khẩu giá rẻ xâm nhập vào trong nước
liên tục gia tăng, tình trạng này gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong
nước( công nghệ lạc hậu, vốn ít…), không còn được sự bảo hộ của nhà
nước nên không thể cạnh tranh được hàng hoá nhập khẩu từ bên ngoài.
Làm cho họ có thể dẫn đến phá sản, tăng tình trạng thất nghiệp.

Khi hội nhập kinh tế các nước có cơ hội nhận được nguồn vốn tài trợ,
đầu tư của các tổ chức kinh tế, chính phủ từ các nước khác song bên cạnh
đó điêu này thường đi kèm với các điều kiện vế chính trị. Điều này dẫn đến
sự phụ thuộc vế chính trị dẫn đến phụ thuộc về kinh tế điều này có thể vô
tình dẫn đến cản trở phát triển kinh tế.
Trong quá trình hội nhập kinh tế nếu nhà nước không có chính sách quản
lí tốt thì có thể dẫn đến tình trạng gây ô nhiễm môi trường trầm trọng, khai
thác tài nguyên một cách tràn lan, tăng các tệ nạn xã hội như: ma tuý, mại
dâm…

III) MỐI QUAN HỆ GIỮA NNL VÀ HNKTQT

1) NNL tác động đến tiến trình HNKTQT
Hội nhập kinh tế đòi hỏi mỗi tổ chức và quốc gia phải có đầy đủ tiềm lực
về tài chính, khoa học công nghệ đặc biệt là yếu tố NNL cần được coi trọng.

11
Nó là nhân tố cốt lõi, chủ đạo, quyết định sự thành công của mỗi quốc gia
khi tham phân công lao động quốc tế. Thật vậy một tổ chức chỉ đủ khả năng
cạnh tranh hàng hoá trên thị trường khi họ có một đội ngũ nhân lực kĩ thuật
cao, lành nghề,… điều này làm cho sản phẩm của họ có lợi thế hơn so với

các tổ chức khác như: giá rẻ, chất lượng cao… từ đó có đựơc uy tín với
khách hàng, làm cho tổ chức thuận lợi hơn trong quá trình hội nhập vì đã có
chỗ đứng trên thị trường. Như vậy có thể nói NNL là nhân tố thúc đẩy
HNKT diễn ra mạnh mẽ hơn, nhanh chóng hơn giúp tổ chức phát huy được
lợi thế cạnh tranh trên thị trường.
Mặt khác nếu NNL kém, chất lượng chuyên môn tay nghề kém sẽ kìm
hãm khả năng sản xuất của tổ chức, không cạnh tranh đươc hàng hoá của đối
thủ, từ đó hàng hoá sản phẩm của tổ chức, doanh nghiệp này không thể thâm
nhập được thị trường khác, dẫn đến hạn chế hội nhập kinh tế quốc tế của tổ
chức.
2)HNKT tác động đến phát triển NNL
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới lao động
giản đơn ngày càng giảm ý nghĩa trong sản xuất và cạnh tranh mang tính
toàn cầu, trái lại năng lực và tư chất của con người biến những cơ hôị do
môi trường mang lại thành những hoạt động sản xuất thiết thực, tiến kịp các
nước đi trước.
Hội nhập ngày càng phát triển, các thị trường ngày càng được mở rộng,
thương mại ngày càng tự do thì sức ép về tính cạnh tranh ngày càng cao đối
với mỗi nền kinh tế, mỗi doanh nghiệp thậm chí là mỗi cá nhân. Trước đây
gía nhân công rẻ là lợi thế của các nước đang phát triển trong đó có Việt
Nam để thu hút vốn đầu tư nước ngoài và xuất khẩu lao động. Nhưng hiện
nay lợi thế này đã và đang ngày càng giảm ý nghĩa bởi hiện tại khả năng tiếp
cận đối với các thiết bị máy móc, công nghệ hiện đại của các doanh nghiệp
là gần như nhau, yếu tố tạo nên sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp, mỗi
nền kinh tế nằm ở yếu tố quản lí và chất lư
ợng nguồn nhân lực.

12
Ngoài ra yếu tố nguồn lao động rẻ chỉ có ý nghĩa đối với các ngành kinh tế
sử dụng nhiều lao động như: dệt may, giầy dép, chế biến nông lâm thuỷ

sản…. chứ không hề có lợi trong các ngành sử dụng công nghệ cao hoặc
ngành sử dụng nhiều vốn. Bởi vậy, việc không ngừng nâng cao tính cạnh
tranh của NNL đang trở thành cuộc chạy đua giữa các doanh nghiệp, các
nền kinh tế. Có thể nói hội nhập đang tạo ra yêu cầu, động lực và điều kiện
để phát triển NNL. Việc nâng cao tay nghề, đào tạo chuyên môn kĩ thuật cho
NNL trở thành thách thức đối với Việt Nam trong việc phát triển NNL.
Bên cạnh đó hội nhập cũng đã có một số tác động tích cực đến việc nâng
cao chất lượng lao động Việt Nam cụ thể là:
Thứ nhất: HNKTQT kích thích sự phát triển nhanh chóng của khoa học-
công nghệ đòi hỏi người lao động phải không ngừng nâng cao trình độ cho
theo kịp với sự phát triển kinh tế.
Thứ hai: Đối với lao động đang làm việc tai các doanh nghiệp có phương
pháp và quản lí tiên tiến trong và ngoài nước, qua quá trình làm việc họ đã
học tập tiếp thu được tay nghề năng lực quản lí và tác phong làm việc.
Quá trình này cũng làm bộc lộ hạn chế của lực lượng lao động Việt Nam.
Cả nước đang phải chứng kiến một nghịch lí là trong khi ta thừa lao động
trên thị trường thì vẫn thiếu cục bộ đối với mốt số ngành đang có nhu cầu
cao, tại một số khu chế xuất, khu công nghiệp và đặc biệt là thị trường lao
động nước ngoài. Sức cạnh tranh yếu của NNL Việt Nam không chỉ thể hiện
ở trình độ chuyên môn, thiếu ngoại ngữ mà còn ở tinh thần chấp hành kỉ
luật, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, văn hoá ứng xử trong công việc chưa
thích nghi được với nền kinh tế hiện đại. Đó cũng là thách thức lớn với Việt
Nam trong quá trình hội nhập.
3)Vì sao phải HNKTQT
Lý do của HN có cả nhân tố khách quan và chủ quan.
Về mặt chủ quan về mặt chủ quan thì nhờ công cuộc đổi mới, nền kinh tế
nước ta đã phát triển nhanh chóng, trạng thái của nền kinh tế đã thay đổi một

13
cách cơ bản: nếu như trong những năm 70-80 của thế kỷ 20 hầu như cái gì

cũng khan hiếm, thì ngày nay nền kinh tế đã đáp ứng được các nhu cầu thiết
yếu của nhân dân, và nhiều măt hàng tỷ suất khá cao. Tình hình đó phải đẩy
mạnh tiêu thụ thì mới tái sản xuất mở rộng được. Hay nói cách khác nhân tố
đầu ra có ý nghĩa rất quan trọng, trong nhiều trường hợp thậm chí có ý nghĩa
quyết định. Ngoài quan tâm kích cầu trong nước thì xuất khẩu là không thể
thiếu được. Bên cạnh đó, mặc dù khả năng tích luỹ của nền kinh tế trong
nước ngày càng cao, trình độ khoa học kĩ thuật, quản lí càng được nâng cao,
song quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta vẫn cần tranh thủ
rất nhiều vốn, trình độ khoa học công nghệ, quản lí kinh tế của nước ngoài.
Toàn bộ nhu cầu chủ quan trên đòi hỏi nước ta phải chủ động hội nhập nền
kinh tế khu vực và thế giới vì lợi ích của chính bản thân mình.
Về mặt khách quan, chúng ta đang sống trong một thế giới mà xu hướng
toàn cầu hoá đang phát triển nhanh chóng, gia tăng mạnh mẽ quy mô và
phạm vi giao dịch hàng hoá, dịch vụ xuyên quốc gia . Dòng vốn đầu tư lan
toả ra toàn cầu, công nghệ kĩ thuật truyền bá rộng rãi, nhanh chóng. Cục
diện ấy vừa tạo ra những khả năng mới để mở rộng thị trường, thu hút vốn,
công nghệ, vừa tạo ra những thách thức mới về nguy cơ tụt hậu ngày càng
xa và sự cạnh tranh rất gay gắt. Chỉ có HNKTQT mới đem đến cho chúng ta
cơ hội này.
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ và tiến bộ của KH-CN thì việc
PTNNL là sự cần thiết, quan trọng đối với sự HN với nền kinh tế thế giới.
Sự tiến bộ này đã làm cho nền kinh tế thế giới có những bước nhảy khổng
lồ. Của cải vật chất được tạo ra, văn hoá dịch vụ được tạo ra lớn gấp bội,
giao lưu trao đổi khoa học-kĩ thuật, kinh tế-văn hoá- xã hội diễn ra vô cùng
mạnh mẽ. Vì vậy mô hình kinh tế đóng cửa, không giao lưu trao đổi kinh tế
thế giới, chỉ dẫn đến tự cung tự cấp trì trệ vẫn khó khăn từ đó gây ra ách tắc
làm cho kinh tế không tăng trưởng, đời sống dân cư gặp nhiều khó khăn.


14

























CHƯƠNG II

ĐÁNH GÍA THỰC TRẠNG NNL VIỆT NAM
TRONG TIẾN TRÍNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

15

I-THỰC TRẠNG NNL
Để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp với 40% dân số thành thị, Việt Nam đứng trước hàng loạt cơ
hội và thách thức đối với việc sử dụng, đào tạo NNL. Vì vậy để sử dụng
nguồn nhân lực mang lại hiệu quả tối đa, thúc đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ta cần tìm hiểu một số vấn đề sau của
NNL nước ta.
1)Quy mô cơ cấu NNL
a) Quy mô dân số ảnh hưởng đến quy mô NNL
Dân số là cơ sở để hình thành NNL. Quy mô NNL phụ thuộc vào quy mô
dân số. Quy mô dân số lớn, tốc độ tăng dân số nhanh sẽ báo hiệu quy mô và
tốc độ tăng trưởng nhanh NNL trong tương lai và ngược lại. Sự ảnh hưởng
của dân số tới NNL phải sau một thời gian nhất định bởi nó phụ thuộc vào
sự xác định giới hạn của độ tuổi lao động. Thông thường sau khi tăng dân số
thì phải sau15, 16 năm sau NNL mới thay đổi theo, đó là lúc lứa tuổi này bắt
đâu bước vào độ tuổi lao động. Sự tác động này được thể hiện như sau:
Bảng:1 Quy mô dân số và quy mô NNL (Đơn vị : triệu)
Năm Quy mô dân số Quy mô NNL
2001

78.68

39.49

2002 79.73 40.69
2003 80.90 42.13
2004 82.07 43.25
Nguồn: _Thời báo kinnh tế Việt Nam. (Kinh tế 2004-2005 Việt Nam& Thé giới. Bài:
Kinh tế- xã hội qua các con số thống kê).
_ Con số& sự kiên số 12 năm 2004. Bài thây gì qua điều tra lao động việc làm

01/07/2004

16
Như vậy qua bảng số liệu ta có thể thấy quy mô dân số và quy mô NNL
có quan hệ mật thiết với nhau. Quy mô dân số tăng thì quy mô NNL tăng.
Năm 2001 dân số nước ta là 78.68 triệu dân thì trong đó có tới 39.49 triệu
người tham gia lực lượng lao động. Năm 2002 dân số cả nước là 79.73 triệu
dân tăng 1,35% thì có tới 40.69 triệu tham gia lực lượng lao động tăng
3.04%. Năm 2003 dân số cả nước là 80.90 triệu dân tăng 1.47% thì trong đó
có đến 42.13 triệu lao động tăng 3,53%. Năm 2004 dân số cả nước là
khoảng 82.1 triệu người tăng 1.45% thì trong đó có đến 43.25 triệu dân số
tham gia lực lượng lao động, tăng 2.59%. Có thể nhận thấy NNL nước ta
năm sau đều tăng so với các năm trước đó chỉ có duy nhất năm 2004 thì tốc
độ nay tăng chậm hơn. Nguyên nhân của hiện tượng tăng nay là do sự tăng
dân số của các năm trước đó chậm hơn, bởi dân số tăng xẽ kéo theo NNL
tăng theo. Ta cũng nhận thấy dân số củâ nước ta năm 2004 tăng chậm hơn
so vơí các năm trước. Điều này nói lên ta đã làm tương đối tốt công việc
tuyên truyền công tác kế hoạch hoá gia đình. Quy mô dân số và NNL nước
ta tương đối lớn đó, là tiêm năng mà nhiều nước không thể có, với tốc độ
tăng như vây thì nó có thể hoàn toàn đảm bảo cho nước ta có một LLLĐ dồi
dào, năng động dảm bảo sự phát triển kinh tế trong tương lai. Tuy nhiên bên
cạnh đó cúng có nhiều bất lợi bởi tốc độ tăng NNL quá nhanh gây ra sức ép
về việc làm quá lớn cầu lao động, gây nên hiện tương mất cân đối cung- cầu
về lao động, làm tăng tỉ lệ thất nghiệp ơ nước ta.
1)Cơ cấu NNL
a)Cơ cấu NNL theo tuổi

Bảng 2: Cơ cấu NNL theo tuổi ( Đơn vị: %)



Độ tuổi Năm 2003 Năm 2004 Biến Động
Cả nước 100 100 100

17
15-24 21.5 21.5 0
25-34 26.6 25.3 -1.3
35-44 27.4 27.1 -0.3
45-54 17.2 18.4 1.2
55 tr
ở l
ên

7.3

7.7

0.4

Nguồn:Con số& sự kiện sô11 năm 2004.
Bài viết: Thấy gì qua cuộc điều tra laođộng việc làm 01/07/2004. Tác giả: Quang Tại
Căn cứ vào bảng số liệu ta thấy nước ta có cơ cấu LLLĐ trẻ. Số lượng
người trong độ tuổi lao từ 15-44 chiếm 73.9% lực lượng lao động của cả
nước, mặc dù năm 2004 tỉ lệ này giảm 1.3% ở độ tuổi 25-34 và 0.3% ở độ
tuôỉ 35-44 song tỉ lệ này là không đáng kê. Nguyên nhân của sự giảm NNL
này là do thời kì trứơc đó chúng ta thực hiện khá tốt chính sách kế hoạch
hoá gia đình cua đảng và Nhà nước, từ đó dẫn đến dân sô giảm, dân số giảm
kéo theo NNL giảm.
Cơ cấu NNL trẻ là điểm thuận lợi, ưu thế đối với nước ta khí tham gia
hội nhập và phát triển kinh tế bởi họ có đủ nằng lực, trí tuệ tiếp thu khoa học
công nghệ mới, ki năng tác phong làm việc hiện đại và có cơ hội được đạo

tao nâng cao trình độ chuyên môn kĩ thuậ, khi tham gia thị trường lao động
mà đặc biệt là thị trường lao động quốc tế. Song đôi khi cũng gặp nhiều khó
khăn vì NNL trẻ nước ta nhiều song lại thiếu trình độ chuyên môn kĩ thuật,
thiếu kĩ năng kĩ xảo, thiếu kinh nghiệm mà đặc biệt là những ngành lao động
công nghệ cao lại càng thiếu trần trọng.

18
b)Cơ cấu NNL theo giới tính
So với cùng thời điểm 1/7/2003 thì tỉ lệ nam giới năm 2004 tăng 0.3%
chiếm 51% LLLĐ của cả nước, tỉ lệ nữ giới năm 2004 giảm 0.3% chiếm
49% LLLĐ của cả nước (năm 2003 là 49.3%). Ta nhận thây rằng đã có sự
thay đổi rõ ràng trong cơ cấu giới tính NNL. Nếu như thời gian trước tỉ lệ
nam lao động thường ít hơn nữ giới thì trong thời gian này nam tham gia
nhiều hơn. Nguyên nhân trong thời kì nàylà do tỉ lệ sinh con trai nhiều hơn tỉ
lệ sinh con gái nam, đây là do ảnh hưởng của những tàn dư phong kiến để lại
do thái độ trọng nam khinh nữ, đẻ con trai để nỗi dõi tông đường dẫn đên tỉ
lệ nam lao động cao hơn.
Như vậy qua phân tích vấn đề trên ta nhận thấy quy mô NNL nước ta là
rất lớn, theo dự báo trong thời gian tới mức tăng dân số trong độ tuổi lao
động tư 2006-2010 hàng năm sẽ tăng 1.092 triệu lao động tức tăng trung
bình hàng năm là 2% năm, bên cạnh đó còn có hàng triệu lao động người già
cao tuổi song vẫn mong muốn được làm việc. Vì vậy mà vấn đề đào tạo
nâng cao chất lượng NNL cho người lao động la vấn đề hết sức quan trọng
và to lớn đối với nước ta và cần có sự quan tâm củ toàn thể các ban nghành,
đảng và nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội.
2) Chất lượng NNL
NNViệt Nam đựơc đánh giá là cần cù chụi khó , thông minh sáng tạo tiếp
thu khoa học-kĩ thuật- công nghệ nhanh song bên cạnh đó cũng còn có
nhiều hạn chế thách thức mà ta cân quan tâm:
a) Thể lực,thể trạng NNL còn nhiều hạn chế .

 Chiềucao cân nặng dinh dưỡng: Vấn đề triển chiều cao, cân nặng cho
người lao động Viêt Nam đang đảng và nhà nước hết sức quan tâm. Tuy
nhiên trong nhiều năm qua các nhà nghiên cứu cho biêt rằng thể lực của
thanh niên tiến triển rất chậm. Chiều cao trung bình của thanh thiếu niên
nước ta cuối thập kỉ 80 là 161-162cm so với 159 cm vào thời điểm 1930.

19
Như vậy có thể thấy rằng sau hơn 50 năm chiều cao của thanh niên Việt nam
hầu như là không thay đổi trong khi đó ở các nước phát triển thì sau 10 năm
thanh niên cao thêm 1cm và nặng thêm hơn 1kg, trong khi đó chiều cao
trung bình của người lao động là 1.50m nặng 39kg, chỉ số này các nước
trong khu vực như: Philipin cao 15.3m nặng 45.5kg, ngoài khu vực như
Nhật 1.64m nặng 53.3kg .Mặc dù là nước đứng thư 2 thế giới về xuất khẩu
gạo, có 90% dân số biết chữ song ở nước ta cứ 3 trẻ em dưới 5 tuổi thì có 1
bé bị suy sinh dưỡng, tỉ lệ người lớn suy sinh dưỡng là 28%, cứ 3 bà mẹ
mang thai thì có một bà mệ thiêu máu, ti lệ béo phì là 4.3%, bệnh nghề
nghiệp 54%.
Như vậy có thể nhận thây thể lực và sức khoẻ NNL nước ta là rât kém
diều này hoàn toàn bất lợi đối với họ khi tham gia lao động, đặc biệt trong
quá trình tham gia hội nhập đòi hỏi về lao động ngày càng trở nên khắt khe,
phức tạp. Sức khoẻ là cái quy nhất của người lao động. Không có sức khoẻ
thì ta không thể làm gì được. Hơn thế nữa công việc ngày nay đòi hỏi có
tinh chụi đựng cao, căng thẳng, nặng nhọc. Vì vậy thiếu các yếu tố này
người lao động đã tự loại mình ra khỏi LLLĐ mà cụ thể hơn nữa là thị
trường lao động.
 Chỉ số HDI: Theo báo cáo của UNDP năm 2004 thì chỉ số HDI của nước ta
trong những năm qua như sau:


Bảng3: Chỉ số HDI của nước ta từ năm 1999-2004


Năm 1999 2000 2001

2002 2004
HDI 0.682 0.686 0.688

0.691 0.691
Xếp 101 109 112 112 112
Tổng các nư
ớc
162 172 175 177 177
Nguồn: Báo cáo chỉ số phát triển con người của UNDP năm 2004

20
Như vây năm 2004 nước ta đạt HDI=0.691 trong đó thành phần tuổi thọ
là 0.733 chỉ số tri thức 0.815, chỉ số thu nhập 0.523. Theo số liệu này ta thấy
HDI của nước ta trrong những năm qua tăng nhưng không đáng kể. Năm
1999 xếp trên 61 nước, năm 2000 xếp trên 64 nước, năm 2001 xếp trên 63
nước, năm 2002 và năm 2004 xếp trên 65 nước, có thể nói đây là con số
tăng rất chậm so với tiềm lực dân số nước ta. Tuy nhiên nếu dựa vào phương
pháp tính của LHQ thì thực chất năm 2002 HDI của nước ta là 0.709 xếp
thứ 107/177 nước, xếp trên nhiều nước trong khu vực ( tương đựơng với U-
dơ-mê-kxi-tan, sau Xiri, trên An-giê-ri , đứng trên 70 nước) đây có thê coi là
niềm tự hào đối với nước ta khi mà điều kiện kinh tế đất nước còn nhiều khó
khăn, thu nhập thấp. Như vậy ta đã có những bước tiến nhất định trong việc
phát triển con người, tuy nhiên trong thời gian tới cần phải nỗ lực hơn nữa
để theo kịp với các nước trong khu vực và thế giới. Cần chú trọng các
chương trình nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao tuổi thọ, học vấn và thu
nhập cho người dân, đó là cơ sở để thay đổi HDI.
b) Cơ cấu NNL theo trình độ văn hoa Phổ thông

Bảng 4: Cơ cấu NNL theo trình độ văn hoa Phổ thông 1996-2003. (Đơn vị
%)

Trình độ Năm
1996 2002 2003
Cả nước 100 100 100
Không biết chữ 5.72 3.74 4.24
Chưa t
ốt nghiệp câp I

20.72

15.8

15.48

Tốt nghiệp cấp I 27.7 31.71 31.51
Tốt nghiệp cấp II 32.08 30.46 30.40
Tốt nghiệp cấp III 13.78 18.29 18.37

Nguồn: Bộ lao động TB & XH.Số liệu điều tra Dân số-Việc làm 1996-2003. Năm 2004

21
Qua số liệu điều tra dân số trên ta nhận thấy năm 1996 tỉ lệ chưa biết chữ
của LLLĐ chiếm 5.72% tổng LLLĐ thì đến năm 2003 giảm xuống còn
4.24%, tỉ lệ chưa tốt nghiệp tiểu học 20.72% đến năm 2003 giảm xuống còn
15.48%. Số người tốt nghiệp cấp I và cấp III tăng liên tục qua các năm,
trong đó số người tốt nghiệp cấp III tăng nhanh hơn cả về quy mô và tốc
độ. Năm 1996 tỉ lệ tốt nghiệp cấp III là 13.78% thì đên năm 2003 tăng lên
18.37% tức tăng lên khoảng 4.59%. trong đó tỉ lệ tốt nghiệp cấp II của

LLLĐ cả nước giảm nhẹ từ 32.08% năm 1996 xuống còn 30.40% năm 2003.
Như vậy có thể thấy cơ cấu LLLĐ của nước ta trong giai đoạn 1996-2003
chuyển dịch theo hướng tăng lao đông có trình độ văn hoá phổ thông đồng
thời giảm lao động không có trình độ văn hoá. Có thể nói đây là tín hiệu
đáng mừng đối với nền kinh tế nươc ta trong giai đoạn hiên nay, giai đọan
mà nền kinh tế đang thiếu lao động có trình độ lành nghê, tay nghề cao. Tuy
nhiên có điều đang cần bàn tới đó là LLLĐ chủ yếu tập trung ơ thành thị,
cac khu công nghiệp, chế xuất lớn trong khi đó ở nông thôn nơi tập trung đa
số lao động nông nghiệp thì lại rất hạn chế về trình độ. Năm 2003 có đến
40.06% lao động tốt nghiệp cấp III tập trung thành thị trong khi đó ở nông
thôn là 11.43%. Vì vậy, để phát triên kinh tế đồng đều giữa các khu vực,
cần phải giảm bớt chênh lệch kinh tế giữa các vung cân phải có chính sách
phân bổ NNL có trinh độ một cách hợp lí hơn, đặc biệt là các nơi vùng sâu
vùng xa cần có chính sách thu hút, khuyến khích người lao động có trình độ
chuyên môn tham gia, trong đó cần chú trọng về chính sách tiên lương, tiền
công, các chế độ phúc lợi xã hội.
 Cơ cấu trình độ chuyên môn kĩ thuật.
Bảng 5: Cơ cấu trình độ chuyên môn kĩ thuật 1996-2003. (Đơn vị %)

Trình độ chuyên
môn kĩ thuật
Năm
1996 2002 2003

22
Cả nước 100 100 100
Không có CMKT 89 81.27 78.85
Có CMKT(sơ cấp, hoc nghề) 11 18.78 21.15
CMKT có bằng 7.26 11.79 11.83


Nguồn: Bộ lao động TB & XH.Số liệu điều tra Dân số-Việc làm 1996-2003. Năm 2004
Qua số liệu điều tra trên ta nhận thấy năm 1996 số người có không
CMKT chiếm 89% số người có CMKT chiếm 11% nhưng đến năm 2003 thi
số người có trình độ CMKT là 21.15%. Như vậy ta có thể nhận thấy tỉ lệ
không đựơc đào tạo là rất lơn chiếm 78.75% LLLĐ điều đó ảnh hưởng rất
lớn đến chất lượng NNL và ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế
nước ta. Hàng năm tốc độ tăng bình quân của LLLĐ có CMKT thời kì 1996-
2003là 10.68%trong đó LLLĐ có bằng cấp tăng bình quân mỗi năm là
7.61% song tốc độ tăng này vẫn không đáng kể và chưa đáp ứng nhu cầu của
nền kinh tế.
Đến năm 2004 lao động qua đào tạo nói chung đạt 22.6%. Trong đó qua
đào tạo nghề mới đạt 13.4%, tốt nghiệp THCN chiếm 4.8%.So với năm
2003 cơ cấu LLLĐ có nhiều thay đổi và tăng lên rõ rệt song thực chất tính ra
cơ cấu này còn rất thấp. Nếu tính theo cơ cấu đào tạo chia theo trình độ của
LLLĐ tính chung cho cả nước giữa ĐH/THCN/CNKT vẫn còn nhiều bất
hợp lý. Hiện nay cơ cấu này của nước ta là 1/1.2/2.7 trong khi các nước khu
vực và các nước phát triển là 1/4/10. Ta thấy đây là chính là tình trạng
“thừa thầy thiếu thợ”. Tại các nước phát triển cứ 1thầy có 10 thợ nhưng ở
nước ta cứ bình quân 1 thầy có 2.7 thợ. Có thể nói đây là một cơ cấu cần
phải đưa lên bàn mổ xẻ và xem xét lại. Do đó cần chú trọng đào tạo nâng
cao trình độ trong đội ngũ công nhân kĩ thuật nhằm đi đến một cơ cấu hợp lí,
thuận lợi, đảm bảo nhu cầu về lao động của nền kinh tế.
3) Ý thức kỉ luật lao động

23
Đa số lao động nước ta hiện nay chưa được đào tạo về kỉ luật lao động
công nghiệp. Phần lớn họ đều xuất thân từ những người nông dân ở nông
thôn còn mang nặng tác phong sản xuất của nền sản xuất nông nghiệp tiểu
nông, nên họ thường có thái độ tuỳ tiện, hành vi tự phát, chưa được trang bị
về kiến thức và kĩ năng làm việc theo nhóm, không có khả năng hợp tác,

ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc. Điều này được thể
hiện rõ trong các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, khu CN-KCX.
4) Phân bố lao động
Tại thời điểm 1/7/04 LLLĐ của nước ta là 43225.3 triệu người tăng 2.7 %
so với năm 2003 cùng tời điểm, quy mô tăng thêm 1130.6 nghìn người.
Trong đó có lao động cụ thể ở các vùng như sau.


Bảng6: Quy mô LLLĐ chia theo vùng Đơn vị %

Vùng

t
ổng số năm
2004
2003

2001

Cả nước 100 100 100
ĐB.Sông Hồng 22.5 22.37 22.02
Đông Bắc 11.9 11.95 16.38
Tây Bắc 3.2 3.15 2.79
Bắc Trung Bộ 12.1 12.12 11.87
DH Nam Trung B


8.3


8.32

8.23

Tây Nguyên 5.6 5.35 5.06
Đông Nam Bộ 15.1 15.09 16.59
ĐB.Sông Cửu
Long
21.5 21.64 22.06
Nguồn: Bộ lao động TB & XH.Số liệu điều tra Dân số-Việc làm 1996-2004. Năm 2004

24
Từ bảng số liệu trên ta thấy ĐB.Sông Hồng là nơi có NNL lớn nhất cả
nước chiếm 22.5% tiếp đến là ĐB.Sông Cửu Long chiếm 21.5%, Đông Bắc
11.9% Bắc Trung Bộ chiếm 12.1%. Ta nhận thấy LLLĐ nước ta được phân
bố chủ yếu ở đồng bằng hoặc các khu công nghiệp-khu chế xuất, nơi tập
trung các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Qua đó thấy rằng năm
2004 so với năm 2003 chuyển dịch lao động giữa các vùng các khu vực diễn
ra tương đối chậm, thậm chỉ có vùng còn không thay đổi, hoặc có thay đổi
nhưng không đáng kể. Điều này chứng tỏ rằng nền kinh tế nước ta phát triển
tương đôí chậm chạp và không đồng đều giữa các vùng, các miền.
Nguyên nhân của hiện tượng là do lìch sử để lại: Các vùng đồng bằng là
nơi tập trung sản xuất của nhân dân ta từ trước tới nay, nước ta là là nước
thuần nông nên dân cư chủ yếu ở các vùng đồng bằng, trung du các vùng
nông nghiệp phát triển, ngoài ra còn do nguyên nhân nước ta ưu tiên phát
triển các khu công nghiệp.
5) Cơ cấu lao động
Theo số liệu điều tra 1/7/2003 cả nước ta hiện có 41.179365 triệu lao
động đang làm việc trong các nghành nghề kinh tế quốc dân. Trong đó
Nông-Lâm-Ngư nghiệp chiếm 24.310.852 người chiếm 59.04% so với tổng

số lao động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân, Công nghiệp-Xây
dựng là 6.758.590 người chiếm 16.41%, nhóm nghành Dịch vụ là
10.109.923 người chiếm 24.55%.
So với năm 2002, lao động có việc làm trong cả nước tăng thêm 686.546
người. Về số lượng lao động có việc làm trong khu vực I, II và III đều tăng
song tỉ lệ lao động làm việc trong khu vực I tiếp tục giảm 1.63%, tỉ lệ lao
động làm việc trong khu vực II và trong khu vực III tăng 1.28% và 0.35%.
Cơ cấu lao động chia theo nghành năm 2003 và 2002 vẫn tiếp tục giảm theo
hướng có lợi. Trong đó, tỉ lệ lao động làm việc trong các nghành CN-XD
tăng nhanh hơn so với nhóm nghành dịch vụ. Với tốc độ chuyển dịch như

25
thế này cho đến năm 2010 tỉ lệ lao động nông nghiệp sẽ còn khoảng 50%
như mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội IX đề ra.
Theo tỉ lệ lao động làm việc trong nhóm nghành Nông-Lm-Ngư nghiệp theo
8 vùng như sau:
Vùng có tỉ lệ lao động làm Nông-Lâm-Ngư nghiệp dưới 30% là Đông
Nam Bộ (29.99%) hai vùng có tỉ lệ trên 54% đến gần 57% là Duyên Hải
Nam Bộ 54.74% và Đồng Bằng Sông Hồng 56.13%, Tây Nguyên 73.18%,
Đông Bắc 76.28% và Tây Bắc 86.81%. Lao động tập trung trong khu vực
Nông Nghiệp quá nhiều, trong khi đó số lượng đất đai lại hạn chế, điều này
ảnh hươngr đến việc tăng năng xuất lao động, ảnh hưởng đến quá trình thực
hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá và hội nhập kinh tế đât nước. Vì vậy, ta
cần phải phân bố NNL cho các khu vực hợp lí hơn tạo điều kiện thuận lợi
cho việc phát triển kinh tế
6) Tình trạng việc làm của LLLĐ.
Năm 2004 LLLĐ từ 15 tuổi trở lên nói chung ở thành thị có tới 94.6% có
việc làm và có 5.6% là thất nghiệp, khu vực nông thôn có 98.9% là có việc
làm và 1.1% là thất nghiệp. Tỉ lệ tương ứng với nữ là 93.5% và 6.5% ở
thành thị, 98.8% và 1.2% ơ nông thôn.

So với 8 vùng kinh tế thì tỉ lệ thất nghiệp của LLLĐ trong độ tuổi lao động ơ
khu vực thành thị giảm ở 5 vùng ĐBSông Hồng, Đông Bắc, Bắc Trung Bộ,
Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long đồng thời tăng ơ 3 vùng còn
lại. Trong đó vùng trọng điểm tỉ lệ thất nghiệp của LLLĐ khu vực thành thị
cao nhất là Bắc Bộ 6.1%, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là 5.9%, kinh tế
trọng điểm miền Trung là 5.8%. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp
của lao động khu vực thành thị trong đó chủ yếu là do chưa tìm được việc
làm khi thôi hoc hoặc tốt nghiệp tại các cơ sở đào tạo73.7%, tiếp đó là do
người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng 20.9%, hết hạn hợp đồng là
2.3%, xa thải 1%. Để khắc phục hiện tượng này cần phải xây dựng hệ thống
thông tin thị trường lao động, các trung tâm giới thiệu việc làm cho ngưới

×