ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG
HỌ VÀ TÊN: NGÔ VĂN HỘI
LỚP H331 – CẦN GIỜ
Câu 1:
*Hoàn cảnh lịch sử thế giới cuối TK19 đầu TK20 :
*Tình hình trong nước :
Ngày 1-9-1858 thực dân Pháp nổ súng xâm lược VN. Đến năm 1897, thực dân P hoàn thành
công cuộc xâm chiếm Bình Định VN và bắt đầu xác lập chế độ cai trị, khai thác thuộc địa ở VN trên
tất cả các lĩnh vực :
. Về chính trị : Điển hình là chính sách “chia để trị”
. Về kinh tế : Thực dân P tiến hành hai cuộc khai thác thuộc địa : lần thứ 1 (1897-1914), lần thứ
2 (1919-1929)
. Về văn hóa : Thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, thực hiện chính sách ngu dân và
ngăn chặn mọi ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ thế giới vào VN.
- Dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân P, xã hội VN đã có những biến
chuyển sâu sắc.
. Về tính chất xã hội : từ xã hội phong kiến thành XH thuộc địa nửa phong kiến.
. Về >< cơ bản trong xã hội : nổi bật 2 >< : >< giữa toàn thể dân tộc VN với thực dân P và tay
sau, >< giữa nông dân với địa chủ phong kiến.
. Về cơ cấu giai cấp trong XH : giai cấp cũ (địa chủ phong kiến và nông dân) bị phân hóa; xuất
hiện những giai cấp mới (công nhân, TS và tiểu TS)
- Phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân VN trước 1930 rất sôi nổi nhưng đều thất bại
mặc dù đã được thử nghiệm theo các hệ tư tưởng khác nhau như :
+ Các phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến :
.
* Nguyên nhân các phong trào đấu tranh thất bại :
+ Chưa thấy được tính chất thời đại đã thay đổi sau Cách mạng tháng Mười, mở ra thời đại mới.
+ Chưa thấy được giai cấp lãnh đạo cách mạng đã thay đổi.
+ Chưa thấy được mối quan hệ dân tộc và giai cấp.
+ Chưa thấy được mối quan hệ dân tộc và quốc tế
+ Chưa thấy được bản chất của chủ nghĩa tư bản
+ Chưa thấy được sức mạnh, vai trò của quần chúng nhân dân khi có Đảng cộng sản lãnh đạo.
Trước yêu cầu cấp bách phải tìm 1 con đường cứu nước mới, ngày 5-6-1911 Nguyễn Ai Quốc
đã lên đường sang các nước phương tây nơi có KHKT phát triển và những tư tưởng dân chủ tự do,
xem xác nước làm thế nào để rồi trở về giúp đồng bào mình thoát khỏi ách nô lệ. Người đã gặp đc
Chủ nghĩa Mác-Lenin cũng là thời điểm người thấy được những >< trên và đã được giải quyết khi
ĐCSVN ra đời.
ĐCSVN ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở VN trong
thời đại mới, đó là sp của sự kết hợp CN Mac – Lenin với p/trào công nhân và p/trào yêu nước VN.
Sự ra đời của Đảng với hệ thống tổ chức chặt chẽ và cương lĩnh CM đúng đắn đã chấm dứt sự
khủng hoảng về đường lối và lãnh đạo của các p/trào yêu nước đầu thế kỷ XX. Sự kiện thành lập
Đảng là bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử CMVN. Nó chứng tỏ giai cấp vô sản VN trưởng
thành và đủ sức lãnh đạo CM. Đảng ra đời làm cho CMVN trở thành 1 bộ phận khăng khít của
CMTG.
Sự ra đời của Đảng là sự chuẩn bị tất yếu cầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát
triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc VN.
Sự ra đời của Đảng khẳng định con đường đi lên của dân tộc VN từ năm 1930 là con đường
CMVS, gắn mục tiêu độc lập dân tộc với CNXH là con đường đúng đắn phù hợp với quy luật phát
triển của lịch sử.
* Con đường cách mạng hiện nay ở nước ta :
Câu 2: Anh (chị) hãy cho biết sự vận dụng
đúng đắn sáng tạo học thuyết Mác-Lênin
về Đảng Cộng Sản; sự phát triển của chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trong việc
thành lập Đảng CSVN? Liên hệ với việc
xây dựng và chỉnh đốn đảng hiện nay và
nhiệm vụ then chốt?
Sự vận dụng đúng đắn sáng tạo học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin về Đảng cộng sản; sự
phát triển của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trong việc thành lập Đảng CSVN :
Giữa lúc dân tộc Việt Nam đang khủng hoảng về đường lối cứu nước thì với bản lĩnh và tư duy
độc lập, tháng 6/1911 Nguyễn Ai Quốc đã lên đường sang các nước phương Tây, nơi có khoa học –
kỹ thuật phát triển và những tư tưởng dân chủ tự do để tìm đường cứu dân tộc thoát khỏi ách nô lệ.
Năm 1917, với sự thắng lợi của Cách mạng XHCN tháng Mười Nga đã mở ra một thời đại mới
trong lịch sử nhân loại, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Đồng thời đã
có ảnh hưởng quyết định đến cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ai Quốc.
Tháng 7-1920, được đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo nhân đạo đã giải đáp cho Nguyễn Ai Quốc con đường đấu tranh
giành độc lập cho dân tộc.
Ngày 30-12-1920, Nguyễn Ai Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản, sau đó tham
gia thành lập Đảng cộng sản Pháp và trở thành người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu sự chuyển biến về tư tưởng chính trị của Nguyễn Ai Quốc,
gắn liền tư tưởng yêu nước với lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ
nghĩa Mác – Lê nin. Người quyết định đặt cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng
vô sản.
Với sự chuẩn bị công phu của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về các mặt như : Hoạt động thực tiễn
vừa tích cực nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào cách mạng trong nước;
trực tiếp chuẩn bị những điều kiện về tư tưởng – chính trị; viết sách báo tập trung lên án chủ nghĩa
thực dân và thực dân Pháp, vạch trần bản chất xâm lược phản động, bóc lột đàn áp nhằm đánh thức
lòng yêu nước, ý chí phản kháng của dân tộc. Đặt biệt Người nghiên cứu lý luận Mác – Lê nin và
phát triển thêm để trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động, là cơ sở để hoạch định
đường lối cho Đảng sau này. Trong đó quan điểm cách mạng của Nguyễn Ai Quốc còn được thể hiện
qua :
- Chuẩn bị lực lượng cách mạng : Giai cấp công-nông là chủ yếu.
- Mục tiêu của cách mạng là quyền lực phải về tay nhân dân.
- Đảng phải có Đảng cộng sản lãnh đạo và phải lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin làm hệ tư tưởng.
- Thực hiện đoàn kết quốc tế, liên minh quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của phong trào cách mạng
thế giới.
- Cùng với một số nhà cách mạng trong và ngoài nước, Người đã thành lập : Hội Liên hiệp các
dân tộc thuộc địa, Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, Hội Việt Nam thanh niên CM,…
đồng thời trực tiếp chuẩn bị về chính trị tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập chính đảng vô sản ở
Việt Nam dẫn đến sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản : Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929), An Nam
Cộng sản Đảng (7-1929), Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (1-1930). Và điều tất yếu đã xảy ra, tháng
2-1930 Đảng cộng sản Việt Nam đã được thành lập. Đảng ra đời là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách
mạng Việt Nam. Dựa trên sự đúc kết các kinh nghiệm thực tiễn, Đảng đã xác định để có đường lối
đúng đắn sáng tạo Chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Xuất phát từ thực tiễn của đất
nước ta, tôn trọng và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan đồng thời nắm vững xu thế phát triển
của thời đại; trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc.
Thực tế lịch sử đã chứng minh sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam là sản phẩm kết hợp giữa
lý luận cách mạng với phong trào công nhân, phong trào yêu nước. Mà trong đó :
- Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đóng vai trò nền tảng tư tưởng và là vũ khí
tinh thần của Đảng.
- Giai cấp công nhân là lực lượng xã hội, là sức mạnh vật chất của Đảng. Được soi sáng bằng lý
luận của Mác-Lênin, phong trào công nhân mới có khả năng đấu tranh chính trị và giành thắng lợi.
Vì thế sự phát triển của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng trong việc thành lập Đảng cộng sản Việt
Nam đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và lãnh đạo của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ
XX.
Việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay là nhiệm vụ then chốt :
Học thuyết Mác – Lê nin về Đảng cộng sản có vai trò, ý nghĩa to lớn đối với xây dựng Đảng ta
vững mạnh về tổ chức trong các thời kỳ cách mạng. Vận dụng các nguyên lý Đảng kiểu mới của học
thuyết Mác-Lênin về Đảng Cộng sản vào xây dựng Đảng ta, tư tưởng Hồ Chí Minh đã khái quát thành
những nguyên lý chủ yếu như : tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và
phê bình; kỷ luật nghiêm túc và tự giác; đoàn kết thống nhất trong Đảng; đức và tài, quan hệ giữa đức
và tài của cán bộ; liên hệ mật thiết với nhân dân; xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở và đội ngũ đảng
viên;lề lối, phong cách làm việc… Đồng thời, Người cũng chỉ ra việc thực hiện các nguyên lý đó đối
với Đảng ta.
Học thuyết Mác-Lênin về Đảng cộng sản là cơ sở, nền tảng để Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng
vào xây dựng phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên của Đảng ta. Quan điểm của Người
là : đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta luôn xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng
tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, song
suy đến cùng xây dựng Đảng có vai trò quyết định nhất. Học thuyết Mác-Lênin về Đảng Cộng sản vẫn
là cẩm nang có giá trị nhất, là ngọn đuốc soi đường để Đảng và nhân dân Việt Nam tiến hành công tác
xây dựng Đảng trong điều kiện mới.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
Cộng sản, nhất là về Đảng Cộng sản cầm quyền luôn luôn là chỉ dẫn quý báu để Đảng và nhân dân
Việt Nam tiến hành công tác xây dựng Đảng, để Đảng có đủ khả năng đưa đất nước Việt Nam đến
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên Chủ nghĩa xã
hội.
Câu 3: CMT8 – 1945 có phải là “cánh cửa
chính trị khép hờ” không hay là khoa học
và nghệ thuật “chớp thời cơ” trong lãnh
đạo tổng khởi nghĩa của Đảng ta? Bằng sự
hiểu biết về LSĐ CSVN, anh ( chị )hãy cho
biết nhận định nào là đúng hay sai?
- CMT8 – 1945 là khoa học và nghệ thuật “Chớp thời cơ” trong lãnh đạo tổng khởi nghĩa của
Đảng ta.
- Nhận định Cách mạng tháng 8 thành công là một quá trình chuẩn bị của Đảng ta.
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên ra đời đúng đắn phù hợp và điều đó minh chứng qua :
. Cao trào cách mạng 1936-1939 (đây được xem là cuộc tổng diễn tập đầu tiên chuẩn bị cho
CMT8-1945)
. Cao trào cách mạng 1936-1939 (được Đảng xem là cuộc tổng diễn tập lần thứ 2)
. Cao trào cách mạng 1939-1945 là bước chuẩn bị công phu (Hội nghị TW 6 đã đặt vấn đề dân
tộc là cốt lõi, tạm gát thành lập chính phủ Xô Viết để thành lập chính phủ cộng hòa dân chủ vào tháng
9/1945)
+ Hội nghị TW7 (11/1940) đ/c Trường Chinh chủ trì đã đưa đấu tranh vũ trang vào chương
trình nghị sự.
+ Hội nghị TW8 (5/1941) do Nguyễn Ai Quốc chủ trì đã tìm ra con đường khởi nghĩa vũ trang
giành chính quyền mang bản sắc Việt Nam (khởi nghĩa từng phần giành thắng lợi từng bước tiến tới
giành chính quyền) đã được áp dụng thành công trong cách mạng tháng 8.
Chủ trương của Đảng ngày 12/3/1945 với bản chỉ thị lịch sử : “Nhật – Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta”
Đảng xác định thời cơ cách mạng :
Nhật đã đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh vô điều kiện.
Chính phủ tay sai Trần Trọng Kim hoang mang cực độ.
Quân đội các nước đồng minh chuẩn bị vào Đông Dương tước vũ khí quân Nhật.
Đảng xác định, việc giành chính quyền được đặt ra như một cuộc chạu đua nước rút với quân Đồng
minh, sao cho phải giành chính quyền trước khi Đồng minh vào Đông dương.
Chính vì chỗ biết vận dụng thời cơ chủ quan – khách quan, xác định tình hình, dưới sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng đã quyết định thắng lợi CMT8 – 1945.
Câu 4 : Anh (chị) hãy nêu và phân tích
những nét đặc thù chủ yếu trong chủ
trương, biện pháp mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã thực hiện đưa nước ta
ra khỏi thế “ngàn cân treo sợi tóc” năm
1945-1946? Liên hệ thực tiễn cách mạng
hiện nay ở nước ta và những giải pháp để
khắc phục?
A. Tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám
Những thuận lợi
Những khó khăn
Về đối nội:
Về đối ngoại
B. Những chủ trương và biện pháp khắc phục khó khăn, củng cố chính quyền nhằm giữ vững nền độc
lập
Củng cố chính quyền dân chủ nhân dân:
Một tuần lễ sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, Chính phủ lâm thời đã công bố
lệnh tổng tuyển cử trong cả nước. Ngày 06/01/1946, hơn 90% cử tri cả nước tham gia bỏ phiếu bầu cử
Quốc hội và đã bầu ra 333 đại biểu. Ngày 02/03/1946, Quốc hội khoá I họp phiên đầu tiên và đã quyết
định thành lập Chính phủ chính thức do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Sau ngày bầu cử Quốc hội,
cử tri cả nước cũng đã tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và sau đó Ủy ban hành chính các
cấp cũng được thành lập. Quốc Hội ban hành hiến pháp, pháp luật.
Việt Nam giải phóng quân được củng cố và phát triển sau đó đổi tên thành vệ quốc đoàn (9/1945)
và đến tháng 5/1946 đổi thành Quân đội quốc gia Việt Nam.
Thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Khẳng định lòng ủng hộ son sắc của cả dân tộc đối với Đảng và Chính phủ cách mạng
trước những âm mưu chia rẽ của bọn đế quốc và tay sai. Trên đây là những điều kiện ban đầu để Đảng
và Nhà nước vượt qua được tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” lúc bấy giờ.
Giải quyết khó khăn về đối nội
Diệt giặc đói:
Biện pháp trước mắt: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào lập “hũ gạo tiết kiệm”, không
dùng gạo, ngô nấu rượu để đem cứu dân nghèo. Tổ chức “ngày đồng tâm”, thực hiện “nhường cơm sẽ
áo” để cứu đói
Biện pháp lâu dài: Phát động phong trào thi đua tăng gia sản xuất với khẩu hiệu: “không một tất đất
bỏ hoang”, “tấc đất tấc vàng” Củng cố đê điều, Chia ruộng cho dân cày nghèo, giảm tô 25%, bãi bỏ
thuế thân và các thứ thuế vô lý khác.
Kết quả: Đến cuối năm 1946, nền nông nghiệp được phục hồi, sản lượng lương thực tăng lên và
nạn đói được đẩy lùi.
Diệt giặc dốt: Ngày 08/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập cơ quan Bình dân
học vụ và kêu gọi nhân dân tham gia xóa nạn mù chữ. Đến đầu tháng 3/1946, ở Bắc bộ và Bắc Trung
bộ có gần 3 vạn lớp học với 81 vạn học viên, các trường tiểu học, trung học phát triển mạnh.
Giải quyết khó khăn về tài chính: Chính phủ đã thành lập quỹ độc lập, phát động tuần lễ vàng để
kêu gọi nhân dân tự nguyện đóng góp giúp Chính phủ.
Giải quyết khó khăn về đối ngoại:
Trong giai đoạn trước ngày 28/2/1946
Nhân dân Nam Bộ kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lược:Ngay sau khi Nhật đầu hàng
Đồng minh, chính phủ Pháp đã có kế hoạch tái chiếm Đông Dương. Ngày 2/9/1945, thực dân Pháp đã
xảsúng vào nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn đang tham dự mit-tinh mừng ngày độc lập. Ngày 6/9/1945,
quân Anh đến Sài Gòn và đã thả hết quân Pháp bị Nhật bắt giam trước đó; trang bị vũ khí cho chúng
và tiến hành chiếm đóng nhiều nơi. Đêm 22 rạng ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng tấn công trụ
sở Ủy Ban nhân dân Nam Bộ, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Trước tình thế
đó, nhân dân Nam bộ đã chủ động kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngày 5/10/1945, sau khi có viện
binh thực dân Pháp đẩy mạnh đánh chiếm các tỉnh Nam bộ và Nam Trung bộ. Trước tinh thần kháng
Pháp của nhân dân Nam bộ, Trung ương Đảng, Chính phủ và Bác Hồ đã ra sức ủng hộ và phát động
phong trào ủng hộ Nam bộ kháng chiến để giam chân địch.
Biện pháp hòa hoãn với Tưởng Giới Thạch Để tránh trường hợp cùng một lúc phải đối phó với
nhiều kẻ thù, đồng thời tranh thủ điều kiện hòa bình để xây dựng và củng cố chính quyền, Đảng đã
chủ trương hòa hoãn và tránh xung đột với quân Tưởng Giới Thạch: Chấp nhận tăng thêm 70 ghế
không qua bầu cử cho tay sai của Tưởng. Dành 4 ghế Bộ Trưởng cho bọn Việt Quốc, Việt Cách. Cho
Nguyễn Hải Thần làm phó chủ tịch nước. Chấp nhận cung cấp một phần lương thực thực phẩm cho
quân Tưởng. Đồng ý để Tưởng đưa đồng “Quan kim”, “Quốc tệ” vào lưu hành ở miền Bắc.
Giai đoạn từ 28/2/1946 trở đi
Hiệp ước Hoa – Pháp và âm mưu của Pháp: Sau khi chiếm đóng Nam bộ và Nam Trung bộ, thực
dân Pháp chuẩn bị mở rộng xâm lược ra miền Bắc. Nhưng do lực lượng còn yếu (3,5 vạn), chúng
không thể đương đầu nổi với nhân dân miền Bắc và sự cản trở của 20 vạn quân Tưởng ở đây. Để có
thể đưa quân ra miền Bắc một cách “hòa bình”, Pháp đã thương lượng và ký với Tưởng Hiệp ước Hoa
– Pháp vào ngày 28/2/1946 với nội dung:
Pháp trả lại một số quyền lợi cho Tưởng ở Trung Quốc và cho Trung Quốc vận chuyển hàng hoá qua
cảng Hải Phòng miễn thuế.
Tưởng đồng ý cho Pháp đưa quân ra miền Bắc thay thế Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật.
Mặt khác, Pháp tìm cách điều đình với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Như vậy, sau 28/2/1946, ta đang đứng trước hai con đường:
Hoặc chống lại thực dân Pháp ngay sau khi chúng đưa quân ra miền Bắc.
Hoặc tạm thời hòa hoãn với Pháp để nhanh chóng đẩy 20 vạn quân Tưởng ra khỏi đất nước ta, sau
đó mới chống lại Pháp.
Chủ trương của ta sau ngày 28/2/1946
Chính phủ của ta đã chọn giải pháp thứ hai – hòa hoãn với Pháp:
Kí Hiệp định sơ bộ: Ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ ký với đại diện
Chính phủ Pháp bản Hiệp định Sơ bộ với nội dung:
Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một quốc gia tự do, có Chính phủ,
Nghị viện, quân đội và Tài chính riêng nằm trong khối Liên Hiệp Pháp.
Chính phủ Việt Nam thỏa thuận cho 15.000 quân Pháp ra miền Bắc thay Tưởng, và số quân này sẽ rút
dần trong thời hạn 5 năm.
Hai bên thực hiện ngừng bắn ngay ở Nam Bộ; Tạo điều thuận lợi cho việc mở cuộc đàm phán ở Paris.
Hiệp định sơ bộ đã đẩy được 20 vạn quân Tưởng và tay sai ra khỏi miền Bắc, tạo ra được một
giai đoạn hòa bình để củng cố và xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài với thực
dân Pháp
Ký tạm ước 14/9/1946
Ta tranh thủ điều kiện hòa bình để ra sức củng cố, xây dựng và phát triển lực lượng về mọi mặt,
chuẩn bị để đối phó với thực dân Pháp. Thực dân Pháp liên tiếp vi phạm Hiệp định: Gây xung đột ở
Nam Bộ, tìm cách trì hoãn và phá hoại các cuộc đàm phán, làm cho cuộc đàm phán ở Phông-ten-nơ-
blô giữa hai Chính phủ bị thất bại. Nguy cơ bùng nổ chiến tranh đến gần. Trước tình hình đó, ngày
14/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Chính phủ Pháp một bản Tạm ước, tiếp tục nhượng bộ
một số quyền lợi ở Việt Nam cho Pháp để kéo dài thời gian hòa hoãn nhằm củng cố và xây dựng lực
lượng.
Nội dung bản Tạm ước gồm những điểm chủ yếu như sau: Chính phủ Việt Nam và Chính phủ
Pháp cam kết tiếp tục chính sách hợp tác như Hiệp định Sơ bộ đã nêu, tiếp tục cuộc đàm phán sẽ được
triển khai chậm nhất vào tháng Giêng 1947.
Chính phủ Việt Nam bảo đảm các quyền tự do dân chủ, quyền lợi kinh tế - văn hoá của người Pháp ở
Việt Nam.
Chính phủ Pháp sẽ đình chỉ xung đột ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ, bảo đảm các quyền tự do dân chủ cho
nhân dân.
Việt Nam và Pháp thả hết tù chính trị, chấm dứt tuyên truyền không thân thiện.
Việc trưng cầu dân ý ở Nam Bộ do hai bên quy định thời gian và cách thức.
Tạm ước 14-9-1946 là sự nhân nhượng cuối cùng của ta nhằm cứu vãn tình thế hết sức khó khăn
của đất nước lúc bấy giờ. Ngày 20-10-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến Tổ quốc trong sự chờ đón
đầy tin tưởng của toàn dân ta. Cuộc hành trình ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên đất Pháp tuy chưa giải quyết được mục tiêu cơ bản của
cuộc đàm phán, nhưng đã làm cho nhân dân Pháp và nhân dân thế giới hiểu rõ hơn vấn đề Việt Nam,
biểu thị sự đồng tình ủng hộ nền độc lập của Việt Nam.
Trải qua hơn một năm đấu tranh bảo vệ và củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, những khó
khăn ban đầu đã được đẩy lùi. Tiềm lực của Nhà nước cách mạng được tăng cường một bước, tạo nên
thế và lực mới cho toàn dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trong cả nước. Có
được những thắng lợi đó là do toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ, thực hiện sự nghiệp vẻ vang "vừa kháng
chiến, vừa kiến quốc" dưới sự lãnh đạo của Đảng. "Đảng ta, đứng đầu là Hồ Chủ tịch, với đường lối
chính trị vô cùng sáng suất, vừa cứng rắn về nguyên tắc, đã đưa nước nhà vượt qua muôn vàn khó
khăn tưởng như không sao vượt qua nổi. Lúc thì hoà hoãn với Tưởng để rảnh tay đối phó với thực dân
Pháp, lúc thì tạm thời hoà hoãn với Pháp để đuổi cổ quân Tưởng và quét sạch bọn phản động tay sai
của Tưởng, giành thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược,
điều mà Đảng ta đã biết chắc là không thể nào tránh khỏi".
Câu 5: Căn cứ vào đâu mà Đảng ta đề ra
đường lối kháng chiến chống thực dân
Pháp và can thiệp Mỹ? Nhân tố quyết định
1. Cơ sở đề ra đường lối kháng chiến chống Pháp:
* Âm mưu của Pháp:
* Tình hình trong nước:
thắng lợi của cuộc kháng chiến 1945-
1954? Liên hệ với việc thực hiện 2 nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong giai đoạn hiện nay?
2. Nội dung đường lối kháng chiến chống Pháp:
Đường lối kháng chiến được hình thành ngay từ đầu của cuộc kháng chiến: Chỉ thị kháng chiến
kiến quốc (25/11/1945), Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12/12/1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến (19/12/1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng bí thư Trường Chinh, gồm
những nội dung cơ bản:
+ Mục tiêu kháng chiến: đánh đuổi thực dân Pháp, bọn phản động Pháp, giành độc lập thống
nhất Tổ quốc.
+ Nhiệm vụ cơ bản: vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Hai nhiệm vụ bổ sung, hỗ trợ cho nhau
đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi.
+ Lực lượng kháng chiến: huy động sức mạng toàn dân tộc, các tầng lớp nhân dân tập hợp trong
Mặt trận Việt Minh.
+ Phương châm kháng chiến: toàn dân, toàn diện, kháng chiến trường kỳ, dựa vào sức mình là
chính (tự lực cánh sinh).
+ Lãnh đạo cuộc kháng chiến: Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đoàn thể chính
trị - xã hội.
à Thực tiễn đã chứng minh đường lối kháng chiến là đúng đắn, là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Phân tích:
+ Lý luận: dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê nin.
+ Quy luật và xu thế: kháng chiến toàn dân, đúng quy luật huy động sức mạnh toàn dân tộc,
chiến tranh chính nghĩa nhất định thắng lợi.
+ Tổng kết thực tiễn: kinh nghiệm thực tiễn chống giặc ngoại xâm của cha ông ta (trường kỳ
kháng chiến), lấy ít địch nhiều, lấy nhân nghĩa thắng hung tàn.
+ Đường lối kháng chiến phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của nhân dân.
+ Tiếp thu những kinh nghiệm, tinh hoa của thế giới: Liên Xô chiến thắng phát xít Đức, khoa
học - nghệ thuật chiến tranh
+ Kháng chiến toàn diện: tận dụng các nguồn lực về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, tư
tưởng
3. Quá trình tổ chức, thực hiện đường lối kháng chiến chống Pháp, bổ sung, phát triển, hoàn
thiện đường lối kháng chiến:
4. Liên hệ thực tiễn:
Trong văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng đã trình bày, cách mạng VN ngày nay thực hiện
cùng lúc 2 nhiệm vụ chiến lược:
+ Xây dựng, phát triển đất nước, đổi mới, mở cửa, hội nhập, phát triển toàn diện.
+ Bảo vệ nền an ninh, quốc phòng, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.
(Xem trong văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng )
Câu 6: Anh (chị) hãy cho biết quá trình
hình thành phát triển và hoàn thiện đường
lối CM miền Nam? Bước ngọăt và những
thắng lợi của cách mạng miền Nam (1954
– 1975) trong việc giải phóng miền Nam
thống nhất Tổ quốc?
1. Quá trình hình thành đường lối CM miền Nam :
Tình hình miền Nam sau 1954 và đường lối CM miền Nam :
1.1. Đất nước tạm thời chia là 2 miền :
1.2. Đường lối CM miền Nam :
2. Bước ngoặt và những thắng lợi của CMMN (1954-1975) trong việc giải phóng miền Nam
thống nhất Tổ quốc : Từng bước đánh thắng kế hoạch chiến lược chiến tranh của Mỹ, giải
phóng miền Nam thống nhất tổ quốc :
1. Chống Chiến tranh đơn phương của Mỹ – Diệm 1954-1960
* Cao trào Đồng Khởi mùa xuân 1960
Ngày 17/01/1960 tỉnh ủy Bến Tre lãnh đạo nhân dân 3 xã Định Thủy, Phước Hiệp và Bình
Khánh (Mỏ Cày) với gậy, gộc, súng ống … đồng loạt nổi dậy đánh đồn bốt và giải tán chính quyền
địch, phong trào lan rộng khắp Nam Bộ, Tây Nguyên và một số nơi ở Trung Trung bộ. Đến cuối năm
1960, ta đã giải phóng được 600/1298 xã ở Nam Bộ, 904/3829 thôn ở Trung bộ, 3200/5721 thôn ở
Tây Nguyên.
=> Cơ bản làm tan rã bộ máy chính quyền của địch ở nông thôn. Đây là một bất ngờ của Mỹ
Diệm đã chuyển CM miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.
Trên đà thắng lợi, ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời,
trực tiếp lãnh đạo thống nhất phong trào cách mạng miền Nam. Đây là 1 bất ngờ của Mỹ Diệm đã
chuyển CMMN từ tư thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.
2. Đánh thắng Chiến tranh đặc biệt : 1961-1965
Mỹ tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam. Sau khi thực hiện bộ mặt giả tạo
giúp đỡ NDMN, nhưng bên trong là chuẩn bị mở rộng hành quân của Mỹ -> với mục tiêu giành lại trái
tim, trí óc của người dân.
Thủ đoạn : lập “Ấp chiến lược” (sau đổi là “Ấp tân sinh”) nhằm đẩy lực lượng cách mạng ra
khỏi các xã, ấp, tách dân khỏi cách mạng tiến tới nắm dân, thực hiện chương trình “bình định” miền
Nam (Ap chiến lược để bắt cá (bắt Việt cộng, Việt Minh, Cộng sản) dồn dân vào ấp : sáng lấy dây
thép gai quây lại tối vào trong đó lính canh, sáng đi ra quân Mỹ khám, không cho mang cơm ra ngoài
(tiếp tế cho cộng sản) => thủ đoạn xảo quyệt
Chủ trương của Đảng “Đảng bám dân, dân bám đất, du kích bám địch”, giữ thế chiến lực tiến
công; phương châm “2 chân, 3 mũi, 3 vùng” (cả ba mũi chính trị, quân sự và binh vận)
Mỹ – Ngụy dự định thực hiện những mục tiêu của “Chiến tranh đặc biệt” trọng tâm là mục tiêu
“bình định” trong vòng 18 tháng, bắt đầu từ giữa năm 1961 bằng kế hoạch Stalây Tay lo. Đến đầu
năm 1964, khi 18 tháng đã qua, miền Nam vẫn chưa được “bình định”, Mỹ đặt yêu cầu khiêm tốn :
“bình định” miền Nam có trọng điểm trong thời hạn 2 năm bằng kế hoạch Giônxơn – Mác Namara
Đáp ứng yêu cầu của cách mạng từ khởi nghĩa từng phần phát triển lên chiến tranh cách mạng,c
hống “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ – Ngụy, ngày 15-2-1961 các lực lượng vũ trang cách mạng thống
nhất thành Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Đây là sự kiện quan trọng tiếp sau sự kiện Mặt trận
dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đây là sự kiện quan trọng tiếp sau sự kiện Mặt trận dân tộc
Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời (ngày 20-12-1960) và Trung ương Cục miền Nam Việt Nam
được thành lập (tháng 1-1961) thay cho Xứ ủy Nam Bộ cũ.
Đông – Xuân 1964-1965, Quân giải phóng mở chiến dịch tiến công địch ở miền Đông Nam Bộ
với trận mở màn chiến thắng ở Bình Giã (ngày 2-12-1964), làm phá sản về cơ bản chiến lược “Chiến
tranh đặc biệt” của Mỹ.
3. Đánh thắng Chiến tranh cục bộ 1965-1968 :
“Chiến tranh đặc biệt” thất bại để cứu vãn chính quyền Ngụy của Mỹ ở miền Nam : Mỹ đem
quân tới để thực hiện mục tiêu “Bình định và tìm diệt”
Mỹ đưa quân ồ ạt vào Miền Nam với 54 vạn quân Mỹ và 7,2 vạn quân chư hầu và tăng cường
chiến tranh phá hoại miền Bắc.
Đường lối của Đảng: Với tình hình trên Đảng ta đã kịp thời nhận định và đưa ra phương châm,
chỉ đạo chiến lược tại hội nghị Trung Ương lần thứ 11,12 khóa III: Mỹ đưa quân vào Miền Nam
nhưng lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn, vì thế cược kháng chiến vẫn giữ
vững và phát triển chiến lược tiến công.
Mỹ thua đầu tiên ở Núi Thành – Quảng Nam và rút vào Đà Nẵng. Mỹ đánh phá Miền Bắc ,
chiến tranh lan ra cả nước, năm 1965 cả nước chống Mỹ cứu nước.
Đến đây Đảng nhận định: Giữ thế chiến lược, trường kì, tranh thủ sự giúp đỡ của Quốc tế với
phương châm chỉ đạo chiến lược với 3 mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận: vận động con em
binh lính quay đầu chống Mỹ, cả nước, thế giới giúp nhân dân ta. Chủ trương của Đảng thể hiện quyết
tâm cao (1965) tạo sự đồng thuận của cả nước, cả thế giới giúp nhân dân ta.
Đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ 1965-1968 và buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán tại
Pari năm 1969 về việc lập lại hòa bình ở Việt Nam.
4. Đánh thắng chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, giải phóng miền nam thống nhất nước nhà 1969
-1975
Ngày 20/1/1969 R. Nichxon lên cầm quyền và cho ra đời “Học thuyết Nichxon” với kế hoạch
chiến tranh mới “Việt Nam hóa chiến tranh ” thự hiện âm mưu “dùng người Việt Nam đánh người
Việt Nam”.
9 giờ 47 phút ngày 2/9/1969 chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời.Biến thương đau thành hành động
cách mạng nhân dân miền Nam cùng với cả nước đã quyết tâm thực hiện di chúc thiêng liêng của chủ
tịch Người là đánh thắng giặc Mỹ, thống nhất nước nhà. Những thắng lợi quân sự, chính trị, nhất là
thắng lợi đường 9- Nam Lào đánh thắng chiến dịch “ Toàn thắng 1/71” của Mỹ - ngụy vào Đông Bắc
Cam Phu Chia và chiến dịch đánh vào ngã ba biên giới ở Tây Bắc- Kon Tum đã làm phá sản bước đầu
chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Trưa ngày 30/3 đến cuối tháng 6 năm 1972, quân ta tiến công chiến lược theo kế hoạch của
quân ủy Trung ương. Mở đầu cuộc tiến công, quân ta đánh vào Quảng Trị, lấy QT làm hướng tiến
công chủ yếu, rồi phát triển rộng ra khắp chiến trường miền Nam và kéo dài trong năm 1972. Kết quả
sau gần 3 tháng chiến đấu quân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu một lực lượng lớn sinh lực địch khoảng
30van quân, vùng giải phóng được mở rộng với 4 triệu dân cung 2 triệu dân ở cùng tranh chấp. Đó là
đòn mạnh mẽ giáng vào chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. Cùng với thắng lợi ở miền
Nam, nhân dân Miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ, lập nên một chiến
công lịch sử “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”, qua 12 ngày đêm. Buộc Mỹ phải ttr[r lại bàn đàm
phán để kí hiệp định Pari.
* Nội dung hiệp định Pari:
1. Mỹ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.
2. Mỹ cam kết chấm dứt mọi hoạt động quân sự trên lãnh thổ Việt Nam.
3. Mỹ và đồng minh rút quân đội, cố vấn và các loại vũ khí ra khỏi miền Nam Việt Nam.
4. Mỹ phải có nghĩa vụ đóng góp vào việc Hàn gắn vết thương chiến tranh và công cuộc xây dựng sau
chiến tranh ở Việt Nam và toàn Đông Dương.
Giải phóng hoàn toàn Miền Nam (1973 - 1975).
Tháng 7 năm 1973, Ban chấp hành TƯ họp hội nghị lần thứ 21, quyết định đường lối cách
mạng trong tình hình mới tiếp tục đưa cách mạng miền Nam tiến lên.
Tổng tiến công nổi dậy mùa xuân năm 1975 lần lượt với các chiến dịch Tây Nguyên, Huế, Đà
Nẵng và đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng hoàn toàn miền Nam vào lúc 11giờ 30 ngày
30/4/1975 cờ chiến thắng đã cắm trên Dinh Độc Lập. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc
thắng lợi.
Câu 7: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IV (12/1976) khẳng định “không thể nào
có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến
chống Mỹ cứu nước nếu không có miền
Bắc XHCN…” Bằng kiến thức Lịch sử
Đảng hãy phân tích và chứng minh làm rõ
khẳng định trên. Liên hệ và vận dụng
những bài học kinh nghiệm của thời kỳ
* Hoàn cảnh lịch sử:
Thế giới: tình hình thế giới có nhiều thuận lợi nhưng cũng hết sức khó khăn. CNXH ngày
càng đc củng cố, phát triển mạnh mẽ đối với cách mạng thế giới.
Trong nước: sau chiến thắng ĐBP (5/1954) đất nước ta bị chia cắt thành 2 miền. Miền Bắc tiến
lên xây dựng CM XHCN, miền Nam tiến lên Cm DT DC ND, giải phóng miền nam thồng nhất đất
nước.
* Vai trò của miền Bắc trong việc xây dựng CNXH
Tại ĐH III của Đảng (9/1960) xác định đường lối xây dựng CNXH ở miền Bắc là: đưa miền
này trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH. Để thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu đó phải sử
dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản. Thực hiện cải tạo,
xây dựng nền kinh tế XHCN, phải tiến hành CNH, coi CNH là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời ký
quá độ lên CNXH. Tiến hành cuộc CM XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa. Miền Bắc tiến lên
CNXH trong điều kiện đất nước có chiến tranh, phải vừa xây dựng CNXH, vừa chống chiến tranh
phá hoại của đế quốc Mỹ và làm tròn nghĩa vụ hậu phương cho tiến tuyến miền nam trong cuộc kháng
chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Trước tình hình đó Đảng ta đã xác định nhiệm vụ của miền Bắc lúc này là phải chuyển hướng
về tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng cho tình
hình mới. Việc chuyển hướng phải đảm bảo cho miền Bắc đủ sức mạnh đáp ứng yêu cầu bảo vệ miền
bắc chống lại cuộc ném bom, bắn páh, phong tỏa của địch, sẵn sàng đối phó với tình hình địch mở
rộng chiến tranh ở bất kì mức độ nào, sẵn sàng chi viện cho cuộc kháng chiến của đồng bào miền
Nam; đồng thời đáp ứng yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho CNXH.
Phương châm Đảng ta vạch ra lúc này là: toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính, đồng
thời tranh thủ sự đoàn kết và chi viện của quốc tế. Với 10 năm xây dựng CNXH, miền Bắc đã đạt 1 số
thành tựu to lớn sau:
Quan hệ sản xuất XHCN được xác lập, xóa bỏ chế độ chiếm hữu và bóc lột phong kiến trường tồn
trên đất nước ta hàng ngàn năm.
Bước đầu xây dựng một số cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH:
+ Ở lĩnh vực công nghiệp: nhiều khu CN lớn được hình thành, những ngành CN nặng như: điện,
than đá, cơ khí cũng được xây dựng và đưa vào hoạt động. CN nhẹ cũng rất phát triển. Năm 1975,
toàn ngành CN làm ra 55% giá trị tổng sản lượng nông nghiệp, 41% tổng sản phẩm XH, 20% thu nhập
quốc dân và 91,5% giá trị hàng xuất khẩu.
+ Ở lĩnh vực nông nghiệp: nhiều công trình thủy lợi được xây dựng phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật cũng được áp dụng vào trong sản xuất, tăng năng suất, tăng vụ…
+ Về mặt văn hóa, giáo dục và y tế: tính đến năm 1975, trung bình cứ 3 người thì có 1 người đi
học, tất cả trẻ em trong độ tuổi đi học đều được đến trường, đội ngũ cán bộ KHKT và cán bộ quản lý
có trình độ trên ĐH, ĐH,Trung học chuyên nghiệp hơn 43 vạn người, tăng 19 lần so với năm 1960.
Mạng lưới y tế chăm sóc sức khỏe của người dân cũng được mở rộng, số bác sĩ và y sĩ tăng 13.4 lần
so với 1960.
+ Cơ cấu xã hội – giai cấp đã có sự thay đổi lớn. Xã hội miền Bắc đã trở thành xã hội của những
người lao động bình đẳng. Sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong xã hội ngày càng cao.
Thành quả của 10 năm xây dựng CNXH ở miền Bắc được nhận định trong báo cáo của CT Hồ
Chí Minh tại HN chính trị đặc biệt (3/1964) như sau: “Trong mười năm qua miền bắc nước ta đã tiến
những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc, đất nước, xã hội và con người đều đổi mới”
Tháng 12/1965 TW Đảng nhận định “…Trải qua hơn 10 năm thực hiện CM XHCN và xây dựng
CNXH, miền Bắc đã trở thành căn cứ địa vững chắc cho CM VN trong cả nước, với chế độ chính trị
ưu việt, với lưc lượng kinh tế và quốc phòng lớn mạnh…”
Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, cùng 1 lúc phải đảm đương cả hai nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ tổ quốc, Đảng đã có những chủ trương đường lối hết sức phù hợp lòng dân và khiến họ toàn
tâm toàn ý cho sự nghiệp chung của cả dân tộc. Để có được thành quả đó là do Đảng luôn giữ vững
tình độc lập dân chủ, linh hoạt sáng tạo trong việc xác định đường lối cách mạng. Có nhận thức đúng
đắn lý luận CN Mac – Le6nin về thời kì quá độ lên CNXH và vận dụng một cách sáng tạo khi áp dụng
thực tế vào thực tế miền Bắc.
* Liên hệ thực tiễn:
Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo để tiếp tục tiến hành thắng
lợi công cuộc đổi mới và phát triển đất nước trước sự tác động phức tạp của bối cảnh chính trị, kinh tế,
an ninh quốc tế hiện nay. Đó là điều mà nhân dân ta và bạn bè quốc tế hoàn toàn tin tưởng. Tuy
nhiên, các thế lực thù địch với CNXH thì ra sức phủ nhận điều đó, nhất là vào thời điểm lịch sử hiện
nay.
Tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam hơn 81 năm qua gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam; khoảng thời gian đó đã khẳng định trên thực tế: Đảng ta là đại diện chân chính,
duy nhất của dân tộc mà cho tới nay chưa có tổ chức chính trị nào khác có thể thay thế. Mặc dù vậy,
các thế lực thù địch, cơ hội, bất mãn vẫn tìm mọi cách để phủ định thành tựu lãnh đạo của Đảng đối
với đất nước, nhất là trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Với những luận điệu
cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã lỗi thời và không thể đi liền với tư tưởng Hồ Chí Minh chúng
tập trung xuyên tạc, bài bác chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bởi lẽ, đây là nền tảng tư
tưởng đảm bảo cho sự gắn bó, đồng thuận xã hội, tăng cường lòng tin của nhân dân với Đảng, với chế
độ. Bất chấp những thành tựu to lớn mang tính chất lịch sử của công cuộc đổi mới do Đảng khởi
xướng và lãnh đạo, các thế lực thù địch đã tập trung khoét sâu vào những hạn chế, yếu kém trong lãnh
đạo, quản lý và tổ chức điều hành của hệ thống chính trị; công kích vào đường lối đổi mới của Đảng.
Chúng cho rằng: Đảng đã hết vai trò lịch sử; bước sang giai đoạn mới, Đảng không có đủ khả năng để
lãnh đạo; ….Nhiều luận điệu xuyên tạc, kích động xung quanh các vấn đề quan hệ đối ngoại, chủ
quyền lãnh thổ, biển đảo của đất nước đều nhằm gây ra sự hoài nghi giữa nhân dân với Đảng. Trước
thềm Đại hội XI, chúng tăng cường bịa đặt xấu về đời tư, về gia đình của nhiều đồng chí giữ vị trí
trọng trách trong Đảng, gán cho bộ máy trong hệ thống chính trị của Đảng mọi điều xấu xa nhằm hạ
uy tín của Đảng đối với nhân dân Tư tưởng xuyên suốt trong mọi mưu đồ của các thế lực thù địch là
nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được xác nhận trong Điều 4
Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam và công khai kêu gọi thực hiện đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập.
Việc tăng cường chống phá chế độ XHCN, phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam với mọi âm mưu và thủ đoạn xấu độc của các thế lực thù địch là rất nguy hại. Điều đó cộng với
việc chậm khắc phục các hạn chế, yếu kém trong Đảng và sự thoái hoá về phẩm chất đạo đức, lối sống
của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã làm tổn hại đến thanh danh của Đảng ta và phần nào đã làm suy
giảm lòng tin của quần chúng đối với Đảng và chế độ XHCN mà Đảng và nhân dân ta đang nỗ lực
phấn đấu xây dựng.
Đại hội lần thứ XI của Đảng là một sinh hoạt chính trị sâu rộng không những trong nội bộ Đảng
mà trong toàn xã hội, để toàn Đảng và toàn dân đánh giá toàn diện về vai trò lãnh đạo của Đảng trong
công cuộc đổi mới và phát triển đất nước hơn 25 năm qua. Đồng thời, thông qua ý kiến của đông đảo
nhân dân và những ai quan tâm, có thiện chí, thì đây còn là dịp để Đảng tiếp thu những ý kiến chân
tình, thắng thắn, xác đáng trong việc thực hiện vai trò lãnh đạo đất nước hiện nay của mình. Mặc dù
đây đó còn có ý kiến phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng; nhưng vượt lên trên tất cả, bao trùm nhất
vẫn là sự kỳ vọng, thiện cảm và tin tưởng của hầu hết người dân Việt Nam yêu nước chân chính và
những người có thiện chí đối với Đảng Cộng sản Việt Nam và tương lai của đất nước Việt Nam. Thực
tiễn là thước đo chân lý; thực tiễn với những thay đổi lớn lao của đất nước, gắn liền với vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản trong hơn 80 năm qua, trong đó có 25 năm đổi mới đã trở thành một đảm bảo
hàng đầu để người dân Việt Nam tiếp tục gửi gắm niềm tin và kỳ vọng của mình đối với thắng lợi của
công cuộc đổi mới, phát triển đất nước hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Điều này còn được củng cố vững chắc thông qua các Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng nhằm
"đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại". Đại hội đã tổng kết toàn diện và sâu sắc những thành tựu "to lớn và
có ý nghĩa lịch sử" trong 20 năm thực hiện "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH": Đất nước thực hiện [I]thành công[/I] công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển, bộ
mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi; sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc
lập chủ quyền và chế độ XHCN được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng cao; tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới Những
đổi thay đó của đất nước cùng với các chủ trương và giải pháp chiến lược có tính khả thi cao để tiến
hành thắng lợi công cuộc đổi mới và phát triển đất nước hiện nay của Đại hội đã góp phần quan trọng
tăng cường sự tin tưởng, gắn bó của toàn dân đối với Đảng, với chế độ. Có thể khẳng định rằng: Đại
hội XI của Đảng là một dấu mốc quan trọng trên con đường tiến lên của dân tộc dưới sự lãnh đạo của
Đảng nhằm đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững theo mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", vững bước đi lên CNXH. Thông qua quá trình
chuẩn bị và tiến hành Đại hội XI của Đảng còn cho thấy, niềm tin vào Đảng Cộng sản Việt Nam
không chỉ trong hầu hết mọi người dân trong nước mà còn là tình cảm của đông đảo bạn bè trên thế
giới. Các đảng viên Đảng Cộng sản Pháp trong Chi bộ Thành phố Păng-tanh qua theo dõi Đại hội XI
của Đảng ta đã bày tỏ: Trong thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đánh thắng mọi kẻ thù thực dân, đế quốc sừng sỏ, giành độc lập dân tộc. Ngày nay, Đảng
Cộng sản Việt Nam lại tiếp tục lãnh đạo đất nước quyết tâm xây dựng thành công CNXH. Bài học
thành công của Đảng Cộng sản Việt Nam kể từ khi lãnh đạo nhân dân giành chính quyền và giành độc
lập dân tộc cũng như trong thời kỳ đổi mới là những kinh nghiệm vô cùng quý báu để các Đảng Cộng
sản, các đảng cánh tả tiến bộ trên toàn thế giới học hỏi. Ông Y-a-xư-ô Ôga-ta, Phó chủ tịch Đảng
Cộng sản Nhật Bản, khẳng định: vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam mang tính quyết định trong
việc lãnh đạo đất nước để đạt được các thành tựu phát triển kinh tế-xã hội. Ông Hoóc-hê Crây-nết, Bí
thư phụ trách quan hệ Quốc tế của Đảng Cộng sản Ác-hen-ti-na, đánh giá: con đường xây dựng
CNXH tại Việt Nam là tấm gương sáng và công cuộc đổi mới tại Việt Nam là nguồn cổ vũ cho cuộc
đấu tranh vì CNXH tại Mỹ La-tinh
Những gì đang diễn ra trong đời sống xã hội và qua thái độ của hầu khắp mọi người dân và bạn bè
quốc tế qua Đại hội Đảng lần thứ XI đã cho thấy, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cả
trong quá khứ và hiện tại đã được thực tế lịch sử và nhân dân Việt Nam xác nhận. Điều đó không phải
tự nhiên có được từ ý muốn chủ quan của Đảng hay từ sự thiện cảm bột phát, cảm tính của quần chúng
nhân dân và bạn bè quốc tế. Tuy nhiên, để tiếp tục giữ vững được lòng tin và vai trò lãnh đạo đối với
dân tộc trong thời kỳ mới, Đảng phải có sự quyết tâm vượt bậc để vượt qua mọi khó khăn, thách thức;
trong đó, tập trung khắc phục sự hạn chế, yếu kém, bất cập về phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán
bộ, đảng viên, trước hết là chủ động phòng ngừa sự "tự diễn biến" trong nội bộ; khắc phục sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; giữ gìn sự đoàn kết,
thống nhất trong Đảng để xứng đáng với trọng trách lịch sử đã được nhân dân giao phó.
Câu 8: Anh (chị) hãy cho biết các bước
đột phá tìm tòi đường lối đổi mới và sự
phát triển nhận thức của Đảng ta về con
đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng
sáng tỏ hơn: Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
của vấn đề trên?
Tháng 9 năm 1979, Ban chấp hành trung ương đảng khóa IV tiến hành hội nghị lần thứ 6. Chủ
tịch Hội đồng bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã độc báo cáo mang tên Những vấn đề kinh tế cấp bách.
Cuối cùng Hội nghị đã ra quyết định số 20-NQ/TW ngày 20 tháng 9 năm 1975 với tinh thần chính là:
Cho phép kết hợp kế hoạch hóa với cơ chế thị trường
Sử dụng lại kinh tế tư nhân bao gồm cả tư bản tư nhân dưới sự quản lý của Nhà nước.
Sửa lại giá lương thực và giá các nông sản khác theo hướng dựa trên thỏa thuận.
Cho phép địa phương tiến hành xuất nhập khẩu.
Sau này, báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 – 2006)
đã đánh giá kết quả hội nghị trung ương 6 khóa IV là “bước đột phát thứ nhất về tư duy và quan điểm
kinh tế.
Qua 10 năm đôc lập thống nhất (1975 – 1985) vượt qua muôn vàn khó khăn và thử thách, Đảng
và nhân dân ta đã giành được những thành tựu trong sự nghiệp xây dựng XHCN và bảo đảm an ninh
quốc phòng. Nhưng tình hình đất nước khó khăn gay gắt, thực tế là vào thập niên 70 đất nước lâm vào
khủng hoảng kinh tế và xã hội trầm trọng có nguy cơ chuyển sang khủng hoảng về chính trị.
Trên thế giới có nhiều chuyển biến quan trọng: cải cách, cải tổ, đổi mới… thực tế là sửa đổi mô
hình CNXH thời chiến của những nước XHCN, xu thế hợp tác, phân công quốc tế hóa đời sống quốc
tế cà sự điều chỉnh ở các nước TBCN nhằm thích ứng với cách mạng khoa học – công nghệ… cũng
tác động tới sự điều chỉnh của đất nước.
Đứng trước tình hình đó, Hội nghị trung ương VI khóa 6 (8-1979) đã bàn những vấn đề cấp bách
về kinh tế - xã hội và phương hướng phát triển hàng công nghiệp tiêu dùng và địa phương. Hội nghị
có những nhận định, những chủ trương có tính chất đổi mới. tuy chưa cơ bản và toàn diện nhưng đó là
bước mở đầu có ý nghĩa.
Đại hội đại biểu lần thứ 6 của Đảng (8/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước sau
khi nêu 2 nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ XHCN đại hội 6 của Đảng ta xác định nhiệm vụ
bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặn đường đầu tiên là ổn định mọi mặt kinh
tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa cho chặng
đường tiếp theo nội dung đường lối đổi mới đã được thông qua.
Một là: Đổi mới cơ cấu kinh tế, thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần.
Hai là: Đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung, hành chính, quan liêu, bao cấp chuyển
sang hoạch toán kinh doanh XHCN.
Ba là: Đổi mới vai trò quản lý điều hành của nhà nước, làm rỏ chức năng quản lý nhà nước về
kinh tế - xã hội.
Bốn là: Đổi mới về kinh tế đối ngoại, mở rộng hợp tác và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Năm là: Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, Đảng LH chặt chẽ với nhân dân,
nắm bắt thực tiển đất nước, nắm và vận dụng đúng quy luật Kq.
Tháng 3/1989 ban chấp hành trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 6 để kiểm điểm công tác đổi
mới trong 2 năm nghị quyết đề ra những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc đổi mới:
Đổi mới là không phải thay đổi mục tiêu XHCN mà là làm cho mục tiêu đó thực hiện có kết quả
bằng những quan niệm đúng đắn về CNXH, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.
Xác định chủ nghĩa Mác Lê-nin là nền tảng tư tưởng của Đảng và chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách
mạng của nhân dân.
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý nhà nước
Xây dựng nền dân chủ XNCH, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực, song dân
chủ phải đi đôi với tập trung, với kỹ luật và pháp luật, dân chủ phải có lãnh đạo.
Phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới. Đồng thời nghị
quyết trung ương 6 còn đề ra chủ trương và phương hướng lớn có ý nghĩa như những chính sách và
giải pháp cụ thể. Qua đó khẳng định phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là chủ trương lớn
trong suốt thời kỳ quá độ.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991) diễn ra trong lúc tình hình trong nước
và quốc tế có những biến động phức tạp, đại hội tiếp tục phát triển, hoàn chỉnh đường lối đổi mới và
thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và đề ra chiến lược ổn định
kinh tế - xã hội đến năm 2000, đại hội còn nêu ra 6 đặc trưng cơ bản để làm rõ quan niệm về CNXH ở
Việt Nam.
1. Do nhân dân lao động làm chủ
2. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất chủ yếu.
3. Có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
4. Con người được giải phóng khỏi mọi áp bức, bốc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao
động, có cuộc sống ấm no hạnh phúc, phát triển toàn diện.
5. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp nhau cùng tiến bộ.
6. Có mối quan hệ hữu nghị với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Sau đại hội khóa VII, sự tan rã của chế độ XHCN ở Liên Xô đã tác động sâu sắc đến nước ta.
Đông đảo cán bộ và nhân dân lao động, lo lắng hoài nghi về tiền đồ của CNXH. Quan hệ kinh tế giữa
nước ta với thị trường truyền thống bị đảo lộn. Mỹ tiếp tục cấm vận, một số phần tử phản động lợi
dụng thời cơ ngóc đầu dậy, nước ta lại một lần nữa đứng trước gay go, thử thách gay gắt, có thể nói là
hiểm nghèo. Trong bối cảnh ấy, Đảng và nhân dân vẫn kiên trì đường lối đổi mới ra sức thực hiện
nghị quyết đại hội VII vượt qua khó khăn giành nhiều thành tựu to lớn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6/1996) tổng kết chặng đường 10 đổi mới khẳng định
nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và đạt được những thành tựu đáng kể nhịp độ tăng
bình quân hằng năm về tổng sản xuất trong nước đạt 8,2% (kế hoạch 5,5 – 6,5%) cơ cấu kinh tế bước
đầu có chuyển đổi, bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, lạm phát từ 67,1% năm 1991 xuống còn
7% năm 1995.
Tổng kết chặng đường 10 năm qua, đại hội đã nêu ra 6 bài học chủ yếu.
1. Giữ vững mục tiêu ĐL DT và CNXH trong quá trình đổi mới nắm vững 2 nhiệm vụ chiến lược và
bảo vệ tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM.
2. Là kết hợp chặt chẽ ngày từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới CT, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,
đồng thời từng bước đổi mới CT.
3. Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng
cường vai trò quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN, tăng cường kinh tế gắn liền với tiến bộ
và công bằng xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
4. Mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc
5. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới, kết hợp sức
mạnh dân tộc và sức mạnh của thời đại.
6. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, con xây dựng đảng làm nhiệm vụ then chốt.
Ngoài ra đại hội VIII còn nêu bật thời cơ, thách thức và đề ra mục tiêu của thời kỳ đẩy mạnh
CNH-HĐH đất nước, mục tiêu của CNH-HĐH là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ
sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với tiến bộ phát
triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4/2001) đã tổng kết cách mạng Việt Nam trong thế kỷ
XX, chỉ ra 3 thành tựu to lớn mang ý nghĩa:
1. Thắng lợi cách mạng tháng 8 1945 và việc thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, chế độ nửa
phong kiến ở nước ta đã được xóa bỏ, một kỷ nguyên mới mở ra, kỷ nguyên ĐLDT gắn liền với
CNXH.
2. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc, đánh thắng thực
dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất tổ quốc, đưa đất
nước đi lên CNXH, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình độc lập
dân chủ dân tộc và cùng tiến bộ xã hội.
3. Thắng lợi trong sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên CNXH. Đảng đã đề ra và
lạnh đạo thực hiện đường lới xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc phù hợp với thực tiễn Vnva 2 bối
cảnh TQ mới.
Đại hội I đã đánh giá tình hình đất nước và những bài học chủ yếu của 15 năm đổi mới, qua 5
năm thực hiện nghị quyết đại học ĐH VIII Đảng và nhân dân đã đạt được những thành tựu quan trọng.
Kinh tế tăng trưởng khá tổng hợp sản phẩm trong nước tăng bình quân 7% năm
Văn hóa xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân được cải thiện.
Tình hình chính trị xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường.
Công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củng cố
Quan hệ đối ngoại không ngửng được mở rộng, hội nhập kinh tế, quốc tế được tiến hành chủ động
và hiệu quả.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4/2006) đề ra nhiện vụ đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn
diện để sớm đưa nước ta sớm thoát khỏi tình trạng nước nghèo, chậm phát triển.
Đại hội đã tổng kết 20 năm đổi mới, bổ sung và đưa ra 8 đặt trưng cơ bản của CNXH ở Việt Nam.
Làm cho dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Do nhân dân làm chủ
Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lưc lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Con người thoát khỏi áp bức bất công, có cuộc sống ấm no hạnh phúc, phát triển toàn diện.
Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến
bộ.
Có nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản.
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Và 8 phương hướng cơ bản:
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
Đẩy mạnh CNH-HĐH
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội.
Xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết dân tộc.
Xây dựng nhà nước pháp quyền HXCN của nhân dân do nhân dân vì nhân dân.
Xây dựng đảng trong sạch vững mạnh.
Đảm bảo vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Liên hệ bản thân.
Câu 9: Vị trí vai trò của phương
pháp cách mạng và nên những
thành công của phương pháp cách
mạng (hình thức, cách thức, phương
châm…) mà Đảng ta đã thực hiện
trong quá trình lãnh đạo cách mạng
nước ta? Liên hệ vận dụng bài học
trên vào cơ quan đơn vị đang công
tác của anh (chị)?
Phương pháp: Hình thức, cách đi
Phương pháp CM đúng -> dẫn đến thành công
Phương pháp CM sai -> dấn đến hậu quả.
Hình thức, cách thức, phương châm
Trong cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng ta đã khẳng định -> nước ta dùng bạo
lực cách mạng (chính trị + vũ trang) và trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta đã khéo léo
kết hợp, tùy theo từng giai đoạn lịch sử -> chẳng hạn như giai đoạn 1936 – 1939: trước
tình hình khách quan và chủ quan (nội tình nước Pháp) Đảng cộng sản Việt Nam ->
hình thức đấu tranh hợp pháp – nửa hợp pháp; công khai -> nửa công khai.
Giai đoạn 1939 – 1945: Đảng dùng hình thức -> khởi nghĩa từng phần, giành
thắng lợi từng bước, giành chính quyền cả nước.
Sau 1954: (thời kỳ 1954 – 1945) Đảng chủ trương đấu tranh chính trị giữ vai trò
quyết định.
1956: Đảng chuyển hướng từng bước, kết hợp đấu tranh chính trị và quân sự.
Để có thể đánh lại chiến tranh đặc biệt, theo hội nghị trung ương 9 -> kết hợp đấu
tranh chính trị quân sự.
Đấu tranh mặt trận ngoại giao
Bên cạnh đó, Đảng còn kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Đồng
thời, Đảng cũng minh chứng -> một số hậu quả (thời kỳ đen tối của cách mạng Việt
Nam: 1954 – 1960).
60.000 đảng viên -> 1959 chỉ còn 5.000 đảng viên.
70% chi ủy viên, 60% huyện ủy viên, 40% tỉnh ủy viên -> bị bắn và giết
12 huyện không còn cơ sở Đảng.
Câu 10: Thắng lợi của CMVN trong
80 năm qua dưới sự lãnh đạo của
Đảng? Nhân tố hàng đầu tạo nên
thắng lợi đó là gì? Ý nghĩa của cuộc
vận động học tập tư tưởng tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây
dựng Đảng ta thật sự trong sạch,
vững mạnh, là đạo đức, là văn minh
hiện nay ở cơ quan đơn vị?
Dưới sự lãnh đạo của Đảng từ 1930 đến nay đã vượt qua khó khăn thử thách, đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác.
- 8/1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời chấm dứt chế độ thực dân.
- Thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp – Mỹ
- Xây dựng CNXH miền Bắc và cả nước.
- Công cuộc đổi mới
Lý do có những thắng lợi:
- Đó là sự lựa chọn của chính lịch sử (yêu cầu giải quyết 2 mâu thuẩn cơ bản). Đáp ứng
yêu cầu nguyện vọng của giai cấp công nhân, nông dân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc ta (độc lập dân tộc gắn với CNXH).
- Luôn lấy dân làm gốc
=> Những nhân tố thắng lợi trên bắt nguồn từ nhiều nhân tố nhưng trong đó nhân tố
quyết định nhất là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng CSVN.
1. Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của cách
mạng Việt Nam
- Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc đầu thế kỷ XX, sức mạnh to lớn của dân tộc Việt Nam
chỉ phát huy cao độ khi được tập hợp, đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự nghiệp
cách mạng của Người luôn luôn gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp cách mạng của Đảng, với vận mệnh
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam.
- Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong 80 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam gắn liền với công tác xây dựng Đảng, trước hết từ sự kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và những nguyên lý xây dựng Đảng theo Tư tưởng Hồ Chí
Minh; từ công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, thực sự "là đạo đức, là văn minh", xứng
đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân.
2. Quán triệt tầm quan trọng, ý nghĩa chiến lược cơ bản, lâu dài và thực tiễn trước mắt của công
tác xây dựng Đảng
- Xây dựng Đảng luôn luôn là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. Sự nghiệp
đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc trước đây, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo
đường lối đổi mới ngày nay luôn luôn đòi hỏi Đảng phải trong sạch, vững mạnh, có tầm cao trí tuệ,
sức chiến đấu, đủ năng lực lãnh đạo, đáp ứng tốt yêu cầu của mỗi giai đoạn cách mạng.
- Trong cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa cách mạng và phản cách
mạng, vấn đề trọng tâm, lĩnh vực diễn ra gay gắt nhất, quyết liệt nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản và công tác xây dựng Đảng. Xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh có ý nghĩa quyết định
đến việc bảo vệ chế độ chính trị, con đường phát triển của đất nước lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu
"Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
- Tư tưởng xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa soi đường cho Đảng ta xây dựng và
trưởng thành. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng hiện nay có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn sâu sắc, góp phần xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, qua đó làm tăng thêm
niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường phát triển của đất nước.
- Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội XI của Đảng là sinh hoạt chính trị toàn diện, rộng lớn và sâu
sắc. Việc học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta trong sạch, vững
mạnh là dịp để các tổ chức Đảng và toàn thể cán bộ, đảng viên ôn lại và nâng cao nhận thức lý luận về
xây dựng Đảng, nhìn lại công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ vừa qua, đánh giá đúng những thành
tựu, ưu điểm cũng như những khuyết điểm, hạn chế, nâng cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm, ý thức tự
giác, đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, góp phần tích cực vào thành công của đại hội Đảng các cấp
và Đại hội XI của Đảng.