Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

CARCINOMA THỂ ỐNG tại CHỖ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.78 KB, 8 trang )

CARCINOMA THỂ NỘI ỐNG (DCIS)

Quyển sách này dành cho những người muốn hiểu biết thêm thông tin về Carcinoma
thể nội ống (DCIS). Sách mô tả ung thư (carcinoma) thể nội ống là gì, các triệu
chứng, chẩn đốn như thế nào và cách điều trị.

Người dịch: Phùng Thị Hương, Hoàng Thu Hà
Hiệu đính:
1


Chúng tôi hy vọng thông tin này giúp bạn hiểu thêm về DCIS, thảo luận bất kỳ câu hỏi
nào bạn đưa ra với bác sỹ và được tham dự càng nhiều càng tốt vào bất kỳ quyết định về
điều trị nào.
Bạn cũng tìm thấy nhiều bổ ích khi đọc cuốn sách Điều trị Ung thư vú nguyên phát.

Carcinoma thể nội ống là gì (DCIS)
DCIS là dạng sớm của ung thư vú và chiếm chừng 12% tất cả các loại ung thư vú.
Ung thư vú bắt đầu khi các tế bào trong vú bắt đầu phân chia và phát triển theo cách bất
thường.
Vú gồm các tiểu thùy (các tuyến sản sinh ra sữa) và các ống dẫn (ống mang sữa tới núm
vú), các tiểu thùy và ống dẫn sữa được bao quanh bởi các mô tuyến, mô xơ và các mô mỡ.
Khi các tế bào ung thư đã phát triển bên trong ống dẫn sữa của vú nhưng vẫn còn ở bên
trong ống (in situ) thì được gọi là DCIS. Các tế bào ung thư vẫn chưa có khả năng lan ra
ngồi các ống này vào các mơ vú xung quanh hoặc tới các bộ phận khác của cơ thể. Do
vẫn cịn ở trong ống dẫn sữa nên DCIS có tiên lượng rất tốt.

Bạn có thể thấy DCIS được mơ tả theo các cách khác nhau như là ung thư tiền xâm lấn,
ung thư nội ống hoặc ung thư không xâm lấn, hoặc ung thư vú giai đoạn 0.

Các triệu chứng của DCIS


DCIS thường khơng có triệu chứng. Hầu hết DCIS được phát hiện ra khi khám sàng lọc
vú hoặc được chụp X quang vú vì lý do khác.
Thi thoảng DCIS được tìm thấy khi nhiều người có thay đổi ở vú như là cục cứng hoặc
tiết dịch núm vú. Tuy nhiên nếu một ai đó mắc DCIS mà có thay đổi ở vú thì nhiều khả
năng hơn họ cũng sẽ mắc ung thư vú xâm lấn.
Một số người mắc ung thư thể nội ống cũng bị ngứa ở núm vú giống như bệnh Paget của
vú, mặc dầu điều này hiếm.

2


Chẩn đốn
DCIS có thể được chẩn đốn khi sử dụng một loạt các xét nghiệm, có thể gồm một hoặc
nhiều xét nghiệm sau:
• Khám lâm sàng vú
• Chụp X quang
• Siêu âm vú (sử dụng sóng âm cao tần để tạo nên hình ảnh)
• Sinh thiết (lấy ra mơ để quan sát dưới kính hiển vi).

Chẩn đốn vơi hóa
Nếu bạn khơng có triệu chứng và được gọi điện thoại sau lần chụp X quang vú thì có thể
là do bạn có một vài đốm trắng bé xíu nhìn thấy trên phim X quang. Các đốm trắng này là
các đốm của muối canxi và được gọi là vơi hóa hóa. Voi hóa hóa có thể là do DCIS.
Nhiều phụ nữ phát triển vơi hóa lành tính (khơng phải ung thư) trong vú khi họ già đi.
Nếu bạn có nốt vơi hóa hóa, bạn sẽ được chụp thêm X quang vú để xem vơi hóa hóa chi
tiết hơn nữa. Đơi khi cũng có thể được siêu âm vú.
Nếu nốt vơi hóa khơng rõ ràng là lành tính thì bạn sẽ được sinh thiết dưới hướng dẫn của
hình ảnh để giúp chẩn đốn. Mẫu mô vú được lấy ra khi sử dụng phim chụp X quang vú
để giúp định vị trí chính xác của các nốt vơi hóa. Đơi khi sử dụng siêu âm nhưng việc này
ít phổ biến hơn. Thủ thuật này được thực hiện như là cho bệnh nhân ngoại trú nên bạn có

thể rời bệnh viện sớm sau đó.
Các mẫu sinh thiết sẽ được chụp X quang để kiểm tra liệu chúng có tế bào ung thư hay
khơng trước khi được gửi tới phòng xét nghiệm để xem xét dưới kính hiển vi.
Nếu bạn muốn biết thêm thơng tin về các xét nghiệm này đề nghị đọc quyển sách Hẹn
khám lâm sàng vú.

Luồn vật đánh dấu bằng kim loại
Nếu bạn được sinh thiết, đôi khi bạn được đặt một mảnh (hoặc vật đánh dấu) kim loại nhỏ
vào vú ở nơi mẫu sinht hiết được lấy ra để có thể tìm lại được khu vực này nếu cần sinh
thiết hoặc phẫu thuật bổ sung. Vật đánh dấu này để lại trên vú là an tồn và khơng cần
được lấy ra, thậm chí nếu khơng cần thêm thủ thuật nào nữa.

Nhận kết quả
Nhân viên tại phịng khám sẽ nói cho bạn khi nào bạn nhận được kết quả sinh thiết. Bạn
thường sẽ được hẹn quay lại phòng khám để nhận kết quả.
Kết quả được mô tả như thế nào
DCIS được phân độ mô học dựa trên cơ sở các tế bào trông như thế nào dưới kính hiển vi.
DCIS sẽ được ấn định một độ mơ học theo việc chúng nhìn khác với tế bào vú bình
thường như thế nào và chúng đang phát triển nhanh ra sao. DCIS được phân độ mơ học là
thấp, trung bình hoặc cao.
• Độ mơ học thấp – các tế bào ung thư nhìn gần như giống với tế bào bình thường và
thường phát triển chậm
3


• Độ mơ học trung bình – các tế bào ung thư nhìn ít khác với tế bào bình thường và
đang phát triển nhanh hơn.
• Độ mơ học cao – các tế bào ung thư nhìn gần như bị thay đổi và thường đang phát
triển nhanh.
Để có thêm thơng tin đề nghị xem cuốn Tìm hiểu kết quả giải phẫu bệnh.


DCIS có thể phát triển thành ung thư vú xâm lấn hây khơng?
Nếu DCIS khơng được điều trị thì các tế bào ung thư có thể phát triển khả năng lan ra bên
ngồi các ống dẫn sữa vào các mơ vú xung quanh, và được gọi là ung thư vú xâm lấn.
Ung thư xâm lấn có tiềm năng lan tới các bộ phận khác của cơ thể.
Để có thêm thơng tin đề nghị đọc quyển Ung thư vú thể ống xâm lấn.
Trong một số trường hợp, DCIS sẽ không bao giờ phát triển thêm hoặc tăng trưởng chậm
đến nỗi nó sẽ không bao giờ gây hại trong cuộc sống. Mặc dầu kích thước và độ mơ học
của DCIS có thể giúp dự đốn liệu nó có trở thành xâm lấn hay khơng, hiện nay khơng có
cách nào để biết liệu điều này có xảy ra hay khơng. DCIS độ mơ học cao nhiều khả năng
trở thành ung thư vú xâm lấn hơn là DCIS có độ mơ học thấp và phát triển nhanh.

Điều trị như thế nào?
Mục tiêu của điều trị là loại bỏ tất cả DCIS ra khỏi bên trong vú để giảm nguy cơ nó trở
thánh ung thư vú xâm lấn.
Do khơng có cách nào biết khi nào hoặc liệu DCIS sẽ trở thành ung thư vú xâm lấn hay
khơng, thường có khuyến nghị điều trị, và có thể dẫn tới điều trị không cần thiết hoặc điều
trị quá mức đối với một số người.
Nghiên cứu đang được thực hiện nhằm làm rõ các trường hợp của DCIS nào sẽ trở thành
xâm lấn và chúng có thể an tồn để khơng cần điều trị hay khơng. Nếu bạn được chẩn
đóan DCIS độ mơ học thấp thì bạn có thể được mời tham dự thử nghiệm lâm sàng.
Nếu bạn có bất cứ câu hỏi hay sự quan tâm nào về chẩn đốn của mình bạn nên nói với
bác sỹ.

Phẫu thuật
Phẫu thuật gần như luôn là phương thức điều trị đầu tiên cho DCIS. Có thể là phẫu thuật
bảo tồn vú, hoặc có thể là cắt bỏ tồn bộ vú.
Phẫu thuật bảo tồn là loại bỏ DCIS với biên của mơ vú bình thường xung quanh. Phẫu
thuật cắt vú là loại bỏ tất cả mô vú kể cả khu vực núm vú Phẫu thuật cắt vú bảo tồn núm
vú có thể thực hiện được trong mọt số trường hợp. Bạn có thể hỏi bác sĩ điều này.

Bạn có thể được đề xuất chọn giữa hai kiểu phẫu thuật này phụ thuộc vào kích thước và vị
trí khu vực ung thư. Bác sỹ phẫu thuật sẽ thảo luận với bạn về việc này.
Gần như nhiều khả năng phẫu thuật cắt bỏ vú được đề xuất nếu:
• DCIS ảnh hưởng đến một khu vực lớn trong vú
• DCIS có ở từ hai khu vực của vú trở lên (mặc dù nếu các khu vực là nhỏ, có thể có
hai đường mổ cục bộ rộng thay cho việc cắt toàn bộ vú;
4


• Khơng thể có được biên sạch của mơ vú bình thường xung quanh DCIS khi sử
dụng phẫu thuật cục bộ rộng.
Định vị
Không thể sờ thấy được hầu hết các trường hợp DCIS nên một quy trình được gọi là định
vị thường được sử dụng vào hôm trước hoặc vào ngày ngày phẫu thuật bảo tồn vú. Việc
này được làm trong khoảng thời gian 30 phút và giúp đánh dấu chính xác khu vực sẽ cắt
bỏ khi phẫu thuật. Một dây kim loại rất mảnh sẽ được đưa vào khu vực cần quan tâm khi
dùng X-quang (hoặc trong vài trường hợp sử dụng siêu âm) dẫn đường. Bạn sẽ được gây
tê cục bộ làm tê liệt khu vực phẫu thuật nhưng vẫn có cảm giác khơng thoải mái. Một dây
kim loại được luồn vào, thực hiện chụp X quang để kiểm tra xem nó có ở đúng vị trí hay
khơng. Một khi dây kim loại ở đúng vị trí, nó được giữ chặt bằng băng nén và để ở đó cho
tới khi được phẫu thuật và được rút ra.
Một số bệnh viện đang sử dụng thủ thuật định vị mới khi mà thay cho dây kim loại mảnh,
một hạt phóng xạ liều thấp (có kích thước của hạt gạo) được luồn vào mơ vú. Thủ thuật
này có thể được thực hiện tới 2 tuần trước khi phẫu thuật. Trong khi phẫu thuật, sử dụng
một đầu dò đặc biệt để định vị hạt và hướng dẫn bác sĩ phẫu thuật tới mơ cần được cắt bỏ
cùng với hạt phóng xạ.
Tái tạo vú
Nếu bạn phải phẫu thuật cắt bỏ vú bạn sẽ thường có khả năng xem xét đến tái tạo vú. Việc
này có thể được thực hiện đồng thời với việc phẫu thuật (tái tạo tức thì) hoặc sau vài
tháng hoặc vài năm (tái tạo trì hỗn). Nếu muốn có thêm thơng tin đề nghị xem cuốn sách

Tái tạo vú.
Có một số phụ nữ không chọn hoặc không thể tái tạo vú. Họ có thể dùng quả độn ngực
thay thế hoặc khơng làm gì cả.
Vét hạch nách
Hầu hết phụ nữ mắc DCIS sẽ không phải phẫu thuật để vét hạch nạch. Những người mắc
ung thư vú xâm lấn sẽ thường phải vét hạch bạch huyết để kiểm tra xem có hạch nạch nào
dưới cánh tay có chứa tế bào ung thư vú hay không. Việc này giúp quyết định liệu điều trị
bổ sung sẽ mang lại lợi ích cho bạn.
Thường khơng khuyến nghị vét hạch bạch huyết cho những người mắc DCIS do các tế
bào ung thư vú chưa phát triển khả năng lan ra bên ngoài ống dẫn sữa vào mô vú xung
quanh và do vậy không thể lan tới hạch bạch huyết.

5


Tuy nhiên nếu bạn được phẫu thuật cắt bỏ vú thì bác sĩ có thể thảo luận sinh thiết hạch
gác đồng thời do có thể khó tiếp cận tới hạch gác sau này nếu tìm thấy ung thư vú xâm
lấn.
Sinh thiết hạch gác nhận biết được liệu hạch (các) bạch huyết là có tế bào ung thư hay
khơng. Nếu khơng có tế nào ung thư, thường nghĩa là các hạch khác cũng khơng có, nên
khơng cần vét thêm hạch bạch huyết.
Nếu các kết quả sinh thiết hạch gác cho thấy rằng hạch hoặc các hạch đầu tiên có tế bào
ung thư thì có thể phẫu thuật thêm hoặc xạ trị vào các hạch bạch huyết cịn lại.
Đơi khi một khu vực ung thư vú xâm lấn được tìm thấy cùng với DCIS. Nếu như vậy, nó
sẽ ảnh hưởng tới các điều trị mà bạn sẽ được thực hiện và bạn có thể cần phẫu thuật hạch
bạch huyết dưới cánh tay để kiểm tra liệu chúng có chứa tế bào ung thư hay khơng. Để có
thêm thơng tin đề nghị đọc quyển Điều trị ung thư vú nguyên phát.

Các điều trị bổ trợ
Sau khi phẫu thuật bạn có thể cần tiếp tục điều trị, gọi là điều trị bổ trợ. Điều trị bổ trợ có

thể bao gồm xạ trị và, trong một số trường hợp có thể hóa trị.
Mục đích của các điều trị này là giảm các nguy cơ DCIS quay lại hoặc phát triển thành
ung thư xâm lấn.
Không sử dụng liệu pháp Hóa trị và liệu pháp trúng đích (sinh học) để điều trị DCIS.
Xạ trị
Xạ trị sử dụng tia X năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư. Nếu bạn được phẫu thuật
bảo tồn thì bạn có thể được xạ trị. Thường khơng cần xạ trị sau khi phẫu thuật cắt vú đối
với DCIS.
Xạ trị được thực hiện như bạn là bệnh nhân ngoại trú, chừng 4 tới 6 tuần sau phẫu thuật.
Xạ trị thường được thực hiện hàng ngày (từ thứ hai tới thứ sáu) trong ba tuần.
Bác sỹ của bạn sẽ giải thích những lợi ích của xạ trị và nói cho bạn các tác dụng phụ bất
kỳ của quá trình xạ trị. Để có thêm thơng tin hãy đọc cuốn sách Xạ trị cho ung thư vú
nguyên phát
Liệu pháp nội tiết
Nhiều liệu pháp nội tiết làm việc theo cách khác nhau để chặn ảnh hưởng của estrogen lên
tế bào ung thư. Liệu pháp nội tiết thường được chỉ định nếu ung thư vú của bạn có các thụ
thể trong các tế bào liên kết với chất nội tiết estrogen, được gọi là ung thư vú dương tính
với thụ thể estrogen hay là ung thư vú ER+. Khi estrogen đính với các thụ thể này, nó có
thể kích thích các tế bào ung thư phát triển. Nếu khơng tìm thấy các thụ thể estrogen thì
gọi là ung thư vú âm tính với thụ thể estrogen hay là ung thư vú ER- và liệu pháp nội tiết
sẽ khơng có lợi.
6


Mọi ung thư vú xâm lấn được xét nghiệm tìm các thụ thể nội tiết bằng cách dùng mô từ
cuộc sinh thiết hoặc sau phẫu thuật. Có thể thực hiện xét nghiệm tìm thụ thể progesteron
(một chất nội tiết khác). DCIS có thể được xét nghiệm tìm các thụ thể nội tiết này nhưng
thường khơng được thực hiện.
Lợi ích của liệu pháp nội tiết cho những người có DCIS dương tính ER thay đổi theo điều
trị khác được thực hiện và không được khuyến nghị cho mọi người. Nếu DCIS của bạn

được xét nghiệm và tìm thấy là ER+ thì bác sĩ sẽ thảo luận việc sử dụng liệu pháp nội tiết
với bạn. Thuốc được gọi là tamoxifen hoặc các thuộc được gọi là chất ức chế aromatase
(cho những phụ nữ sau mãn kinh) có thể được khuyến nghị cho một số phụ nữ.
Một số nghiên cứu thấy rằng sử dụng liệu pháp nội tiết sau phẫu thuật làm giảm nguy cơ
DCIS quay trở lại (tái phát) và nguy cơ phát triển thành ung thư vú xâm lấn, nhưng những
phụ nữ uống thuốc nội tiết không sống lâu hơn những người không uống.
Nếu muốn biết thêm thông tin xin đọc cuốn sách Tamoxifen và Điều trị ung thư vú
nguyên phát hoặc từng quyển sách về các loại chất ức chế aromatse (thuốc nội tiết bậc 2
khác nhau.

Ứng phó với DCIS
Nhận tin bạn bị ung thư vú DCIS có thể là thừ=ời điểm khó khăn và đầy lo lắng. Mỗi
người phản ứng khác nhau với việc chẩn đốn và có cách thức ứng phó khác nhau.
Mặc dù DCIS là bệnh ở giai đoạn sớm của ung thư vú với tiên lượng rất tốt, một số người
cảm thấy rất lo lắng và sợ hãi khi bị chẩn đốn. Mọi người có thể chấp nhận các điều trị
được bác sĩ đưa ra như là phẫu thuật cắt bỏ vú, đồng thời được nghe rằng DCIS có thể
khơng bao giờ gây bất kỳ nguy hại gì cho họ.
Một số người miễn cưỡng nói họ lo lắng về việc bị chẩn đoán DCIS do họ lo ngại những
người khác sẽ nhìn bệnh này khơng nguy hiểm bằng các loại ung thư vú khác, hoặc họ có
thể than phiền khi mà họ khơng được điều trị hóa chất. Do điều này họ có thể cảm thấy
khó có thể yêu cầu hỗ trợ. Nhưng có những người có thể hỗ trợ bạn và khơng nên lo sợ
khi yêu cầu được giúp đỡ. Hãy để cho mọi người biết về cảm nhận của bạn, đặc biệt là gia
đình mình và bạn bè có thể làm họ hỗ trợ thêm.
Một số người cũng có thể thảo luận các cảm giác hoặc lo lắng của mình với y tá hoặc bác
sỹ. Có thể nói với chuyên gia tư vấn hoặc chun gia điều trị, có thể họ sẽ giải thích sâu
thêm cho bạn. Y tá, bác sỹ điều trị hoặc bác sỹ địa phương có thể thường xuyên giúp bạn
trong vấn đề này.
Bạn cũng có thể đọc thêm quyển sách Ung thư vú và bạn: chẩn đoán, điều trị và tương
lai.
7



8



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×