Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Sán dây và bệnh do sán dây chó gây bệnh cho chó và sự truyền lây giữa chó và người của một số loài sán dây chó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.64 MB, 78 trang )

CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
Từ trước đến nay, chó luôn được xem là người bạn trung thành và thân thiết với con
người. Ở Việt Nam, chó được nuôi để giữ nhà, giúp cho việc chăn nuôi và gần đây là
để làm cảnh. Thế nhưng, bệnh ở chó mèo thường rất ít được quan tâm hoặc có quan
tâm thì chỉ chú ý đến các bệnh truyền nhiễm như dại, carê... mà ít quan tâm đến các
bệnh ký sinh trùng do chúng thường không có triệu chứng rõ ràng, không gây chết mà
chỉ làm con vật gầy còm, chậm lớn, giảm sức đề kháng... Mặt khác, khi nói đến bệnh
ký sinh trùng, người ta cũng chỉ quan tâm đến ký sinh trùng ngoài da gây mất thâm mỹ
đối với con vật mà quên rằng ký sinh trùng đường tiêu hóa cũng rất nguy hiểm, đặc
biệt là các bệnh do sán dây và ấu trùng của chúng gây ra, nhất là khi chúng có thể
truyền lây qua người và gây hậu quả nghiêm trọng. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này,
chúng tôi tiến hành thực hiện chuyên đề “ Sán dây và bệnh do sán dây chó gây bệnh
cho chó và sự truyền lây giữa chó và người của một số loài sán dây chó”.
Mục tiêu của chuyên đề:
- Tìm hiểu về sán dây.
- Các bệnh sán dây ở chó.
- Sự truyền lây giữa chó và người.
1
CHƯƠNG 2: ĐẠI CƯƠNG VỀ SÁN DÂY
2.1. Tình hình nghiên cứu
2.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Lêukart (1879) là người đặt cơ sở cho khoa học ký sinh trùng khi lần đầu tiên ông
định nghĩa: “Ký sinh trùng là một sinh vật ký sinh (sống nhờ) ở một con vật khác, lấy
thức ăn ở con vật ấy làm chất nuôi dưỡng cho chính mình”.
Tiếp sau đó các nhà khoa học đã có nhiều công trình nghiên cứu về ký sinh trùng và
bệnh ký sinh trùng ở gia súc gia cầm.
Bệnh nội ký sinh trùng ở dê được xác định chủ yếu là do giun sán thuộc ngành giun
tròn (Nemathelminthes) và ngành giun dẹp với 2 lớp là sán lá (Trematoda) và lớp sán
dây (Cestoda) gây ra.
Trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu ở nước ngoài công bố về tình hình
nhiễm giun sán ở chó như sau:


Islam, -AWMS; Chizyuka, - HGB (1983), nghiên cứu về sự lưu hành giun sán ký
sinh ở chó ở Lusaka, Zambia. Giữa tháng 5/1980 và tháng 4/1982 đã kiểm tra 85 chó
nhà địa phương cho thấy 40% chó bị nhiễm với một hay nhiều loài sán ký sinh. Sán
được tìm thấy trên chó là Dipylidium canium, Taenia hydatigena, Diphyllobothrium.
Sự lưu hành bệnh giun sán ký sinh ở đường tiêu hóa chó trong vùng nông thôn ở
Nigeria, theo tác giả Basa, SS; Ounkoya, AB; Ezeocoli, CD (1983), tại Chori, Bắc
Nigeria, kiểm tra chó thấy 14 con bị nhiễm Taenia spp. Tỷ lệ nhiễm có khuynh hướng
cao trong mùa mưa.
2
Macko-JK (1954 – 1970) điều tra thành phần giun sán ký sinh trên vịt (Anas
platyhynchos) ở Slovakia, Tiệp Khắc có 16 loài của lớp Cestoda.
Mc Laughline – JD; Burt – MDB (1973) đã phát hiện được 16 loài thuộc lớp Cestoda
có liên quan đến sự phát triển của vịt trong giai đoạn từ vịt con đến vịt trưởng thành,
sự di chuyển nơi cư trú và những thay đổi chế độ dinh dưỡng đối với vịt.
Theo Moskalev – VA ( 1976) ở Liên Xô nghiên cứu giun sán ký sinh ở hệ tiêu hóa
vịt cho thấy hầu hết vịt từ 7 ngày tuổi đếu bị nhiễm phổ biến với Cestoda.
2.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Tài liệu về ký sinh trùng trên dê đầu tiên ở Việt Nam được nghiên cứu bởi
Hourdermer (1983, Bắc bộ), ông đã phát hiện hệ giun sán trên dê và tỷ lệ nhiễm như
sau:
- Lớp Trematoda: Fasciola hepatica 35%, Eurytrema pancreaticum
15%, Homalogaster paloniae 5%.
- Lớp Cestoda: Cysticercus tenuicollis 10%
- Lớp Nematoda: Oesphagostomum venulosum 70%, Oesphagostomum
columbianum 20%, Mecistocirrus digitatus 40%.
Nguyễn Trọng Nội (1967) cho biết dê ở các lứa tuổi nhiễm ký sinh trùng đường tiêu
hóa, nặng nhất là dê dưới 1 năm tuổi, dê lớn thường mắc bệnh mãn tính. Mù hè, thu,
thường thấy dê nhiễm nhiều nhất.
Phan Thế Việt (1977), giun sán ký sinh tìm thấy ở Việt Nam gồm các lớp họ giun
sán ký sinh định danh như sau:lớp Trematoda, lớp Nematoda và lớp Cestoda, trong lớp

Cestoda dê bị nhiễm các loài Taenia hydatigena, ấu trùng Cysticercus tenuicollis và
Moniezia expansa.
3
Trịnh Văn Thịnh ( 1977), đã mổ khám dê 4 tháng tuổi thấy cường độ nhiễm sán dây
là 14 con/ cá thể.
Trong quyển “Công trình nghiên cứu Ký sinh trùng ở Việt Nam”, tập 2 thì thành phần
giun sán ký sinh ở chó đến trước năm 1945, theo Hourderer (1938), bao gồm các loài
như: Dipylidium canimum, Cysticercus cellulosae, Taenia pisiformis, Taenia
hydatigena...
Tác giả Trần Thị Thanh Hằng (1989) điều tra tỉ lệ nhiễm giun sán ở chó tại Thành
phố Hồ Chí Minh cho thấy tỉ lệ nhiễm sán dây là 4 loài.
Hồ Tòng Nhân (1997) tiến hành mổ khảo sát chó tại thị xã Vĩnh Long thấy nhiễm 2
loài sán dây Taenia hydatigena, Dipylidium canimum.
Theo các tác giả Lương Văn Huấn, Lê Hoàng Nhiệm (1995) cho biết một số sán dây
từ chó có thể truyền lây sang người như Taenia hydatigena, Dipylidium canimum.
Theo Joyeux và Trương Tấn Ngọc (1950) điều tra tại Chợ Lớn cho thấy vịt bị nhiễm
Cestoda với tỉ lệ là 0,1 – 0,5% ở vịt con và 3 – 10% ở vịt lớn.
Tài liệu tổng hợpnăm 1969 từ các điều tra nghiên cứu của Trịnh Văn Thịnh (1963 –
1969), bộ Nông Trường (1967), Nguyễn Thị Lê (1968), Phan Thế Việt (1969), Phạm
Văn Khuê (1969) đã phát hiện 28 loài giun sán ký sinh ở vịt trong đó có 7 loài thuộc
lớp Cestoda.
2.2. Đặc điểm hình thái – vòng đời – phân loại
Sán dây ở gia súc gia cầm thuộc lớp Cestoda, ngành Plathelminthes, ký sinh ở gia
súc gia cầm ở hai hình thức: ấu trùng và sán trưởng thành.
4
2.2.1. Đặc điểm hình thái
Sán dây thuộc lớp Cestoda, cơ thể hầu hết có thân dài, dẹp, hướng lưng bụng giống
như dãi băng, kích thước từ vài milimét đến vài chục mét. Cơ thể gồm ba phần:
- Phần đầu (scolex): hình cầu, trên đỉnh đầu có giác bám hoăc rãnh bám. Một số
loài trên đỉnh đầu có mõm hút và rất nhiều móc; số lượng, hình thái và cách sắp xếp

các móc thay đổi tùy theo loài. Một số loài còn có móc trên giác bám.
- Phần cổ (neck segment): gồm những đốt sán nối tiếp sau đầu, có khả năng sinh ra
các đốt thân, cơ quan sinh sản ở các đốt cổ chưa hình thành rõ ràng.
- Phần thân (strobila): là những đốt sau phần cổ, do các đốt có mức độ thành thục
sinh dục khác nhau nên có hình dạng cấu tạo khác nhau, chia làm ba loại gồm:
+ Đốt chưa thành thục (immature segment): giáp với đốt cổ, cơ quan sinh dục
chưa phát triển đầy đủ, chỉ thấy cơ quan sinh dục đực.
+ Đốt thành thục (mature segment): ở giữa thân, cơ quan sinh dục đã phát triển
đầy đủ, gồm tinh hoàn, buồng trứng, tuyến noãn hoàng, tử cung, âm đạo, ống
bài tiết và một số cơ quan khác.
+ Đốt chửa (đốt già - gravid segment): ở cuối thân sán, bên trong tử cung chứa
đầy trứng, cơ quan sinh dục đực thoái hóa. Đốt chửa có hình 4 cạnh, chiều dài
lớn hoặc bé hơn chiều rộng tùy loài, đốt có thể rời khỏi cơ thể theo phân ra
ngoài.
Sán dây không có khoang cơ thể, sán được bao bọc bằng lớp da cơ gồm các lớp: vỏ,
dưới vỏ và cơ. Vỏ là lớp cuticun, bên ngoài có nhiều lỗ thoát nhỏ, lớp dưới vỏ gồm
nhiều tế bào lớn, giữa vỏ và lớp dưới vỏ là màng bazan. Lớp cơ gồm nhiều bó cơ vòng
và cơ dọc, bên trong lớp cơ là các cơ quan nội tạng như thần kinh, bài tiết, sinh dục...
5
- Bộ phận thần kinh: ít phát triển, gồm có hạch thần kinh trung ương ở phân bố ở
đốt đầu, từ đó có hai dây thần kinh nhỏ chạy xuyên qua các đốt về cuối thân. Bộ
phận thần kinh nằm ở khắp thân sán thông với hạch ở đầu.
- Bộ phận tiêu hóa: sán dây không có hệ tiêu hóa, sán lấy thức ăn bằng thẩm thấu,
đây là đặc điểm quan trọng để phân biệt với sán lá.
- Bộ phận tuần hoàn và hô hấp tiêu giảm, hô hấp kiểu yếm khí.
- Bộ phận bài tiết: hai ống bài tiết chính bắt đầu ở phần cuối cơ thể bằng một lỗ bài
tiết chung, sau đó đi về phía trước dọc hai bên thân đến đầu rồi ngoặc lại về phía
sau cuối cùng đóng kín lại, do vậy thường có ấn tượng là sán có bốn ống bài tiết
dọc. Ở mỗi đốt sán còn có những ống ngang nối liền với hai ống chính, ở chỗ nối
liền phần cuối thân cả hai ống làm thành một túi đựng nước tiểu chung và có thể co

bóp. Khi đốt cuối rụng đi thì không hình thành túi đựng nước tiểu mới nữa mà mỗi
một ống bài tiết của thân thông ra ngoài bằng một lỗ đặc biệt.
- Bộ phận sinh dục: Trong mỗi đốt sán đều có đầy đủ cơ quan sinh dục đực và cái.
Quá trình phát triển như sau: ở gần đốt cổ là đốt chưa thành thục, nên cơ quan sinh
dục đực và cái chưa phân chia rõ rệt. Sau khi các cơ quan dần dần được hình thành,
bộ phận sinh dục đực hình thành trước và thành thục dần, tiếp đó bộ phận sinh dục
cái hình thành, cuối cùng phát triển thành đốt sán thành thục. Sau khi giao phối bộ
phận sinh dục đực và các bộ phận khác thoái hóa trước, bộ phận sinh dục cái thóai
hóa sau, chỉ còn tử cung phát triển rất mạnh, trong đốt sán chỉ có tử cung chứa đầy
trứng gọi là đốt sán chửa. Đốt sán này sẽ rụng đi, theo phân ra ngoài và là nguồn
gieo rắc căn bệnh.
- Cơ quan sinh dục đực: gồm nhiều tinh hoàn, mỗi tinh hòan được nối với ống
dẫn tinh riêng, nhiều ống này hợp lại thành ống dẫn tinh chung và dương vật.
Dương vật nằm ở đọan cuối ống dẫn tinh chung, có màng bao bọc ở ngoài gọi
là túi dương vật, trong túi dương vật cò có túi chứa tinh. Dương vật thông ra
6
bên ngoài qua lỗ sinh dục đực nằm ở cạnh đốt hoặc ở giữa đốt sán; căn cứ vào
đặc điểm này giúp ta phân loại sán dây.
- Cơ quan sinh dục cái: ở giữa có túi trứng (ngã tư sinh dục – Ootuype) thông
với buồng trứng, tuyến dinh dưỡng, tuyến Mehlis, tử cung và âm đạo. Phần cuối
của âm đạo là lỗ sinh dục cái, thông với bên ngoài cạnh lỗ sinh dục đực tạo
thành lỗ sinh dục. Cơ quan sinh dục cái có một buồng trứng chia ra hai thùy,
trứng sau khi thành thục đi vào tử cung. Tử cung những sán dây thuộc Bộ
Pseudophyllidea có hình ống, có lỗ thông ra ngoài nên trứng được đẻ ra bên
ngoài, tuyến noãn hoàng phân tán, trứng hình bầu dục, có nắp, bên trong có
chứa mầm sán coracidium. Ngược lại, sán dây thuộc Bộ Cyclophyllidea tử cung
phân nhánh, dạng túi khép kín không có lỗ thông với bên ngoài nên trứng sán
không theo phân ra ngoài mà cùng với đốt chửa ra ngoài, tuyến nõan hoàng tập
trung, có hình khối, trứng hình tròn hoặc bầu dục, có 4 lớp vỏ, bên trong có phôi
6 móc (mầm sán Onchosphere).

7
Bảng so sánh sự khác nhau giữa 2 Bộ sán dây Cyclophyllidea và
Pseudophyllidea
Nội dung so sánh Cyclophyllidea Pseudophyllidea
Cơ quan bám hút
Đốt sán
Lỗ sinh dục
Tinh hoàn
Buồng trứng
Tuyến noãn hoàng
Tử cung chứa trứng
Lỗ tử cung
Trứng
Có 4 giác hút
Chia đốt rõ, đốt chửa rụng đi
Ở một bên hoăc hai bên
Ở giữa ống bài tiết, có ít
Phân thùy như cái quạt hoặc
chia 2 thùy như cái chuông
Thành khối
Chia nhánh cành cây có túi
trứng
Không có
Không nắp
Có 2 rãnh bám
Chia đốt không rõ
Ở giữa hoặc 2 bên
Phân tán, có nhiều
Phân 2 thùy ở giữa ống bài
tiết

Hình chấm, phân tán nhiều
Hình ống, hình túi
Thường có, ở giữa mặt
bụng
Có nắp
8
9
Cấu tạo sán dây (a) đầu sán với các đốt non (b) đốt sán trưởng thành (c) đốt già
Đầu sán
1. móc
2. mõm hút
3. giác bám
Đốt sán trưởng thành
Cấu tạo sán dây
2.2.2. Vòng đời
Hầu hết các loài sán dây ký sinh ở gia súc và người cần 2 – 3 ký chủ trong quá trình
phát triển; có loài không cần ký chủ trung gian. Sán dây thụ tinh theo phương thức thụ
tinh giao nhau hoặc tự thụ tinh, mỗi loài sán dây có vòng đời phát triển riêng, dưới đây
là vòng đời của sán dây Bộ Cyclophyllidea và Pseudophyllidea, hai bộ có liên quan
nhiều nhất với thú y.
Ø Vòng đời sán dây bộ Pseudophyllidea:
Ví dụ: sán dây Diphyllobothrium latum ký sinh ở nguời và gia súc; sán trưởng thành
đẻ trứng theo phân ra ngoài, rơi vào nước sau 10 – 15 ngày nở thành ấu trùng coracidi
có lông và chuyển động trong nước bị giáp xác như cyclops nuốt phải, khi vào tới ruột
giáp xác, ấu trùng mất lông và chui vào thành ruột phát triển thành ấu trùng procercoid
đầu chứa phôi 6 móc. Vật chủ bổ sung là cá ăn giáp xác, sau 1 - 4 tuần thì thành ấu
trùng plerocercoid ở trong cơ thịt của cá dài 6mm, đốt đầu có rãnh bám không rõ lắm,
không chia đốt. Khi vật chủ cuối cùng ăn phải cá chưa nấu chín, vào đến ruột phát triển
thành sán trưởng thành.
10

Vòng đời sán dây Diphyllobothrium latum
Ø Vòng đời của sán dây bộ Cyclophyllidea
- Không cần ký chủ trung gian:
Ví dụ sán Hymenolepis nana ký sinh ở người và chuột. Đốt sán chửa rụng đi chứa rất
nhiều trứng theo phân ra ngoài, gặp điều kiện thuận lợi qua một thời gian thành trứng
sán đủ sức gây bệnh, lẫn vào thức ăn nước uống và phát triển thành sán trưởng thành
mất 10 – 12 ngày.
11
Vòng đời sán dây Hymenolepis nana
- Cần ký chủ trung gian:
+ Vật chủ trung gian là động vật có xương sống: đốt sán chửa rụng đi theo phân ra
ngoài, trứng sán phân tán ra, vật chủ trung gian ăn phải, thai 6 móc nở ra chui vào
niêm mạc ruột, theo máu về các vị trí mà ấu trùng ký sinh. Khi vật chủ cuối cùng
ăn phải ấu trùng này sẽ thành sán trưởng thành. Ví dụ: gạo heo; sán trưởng thành
Taenia solium ở ruột non người, đốt sán chửa ra ngoài, heo ăn phải trứng sán, thai 6
móc theo máu về bắp thịt thành gạo heo. Khi người ăn phải thịt heo có gạo chưa
nấu chín sẽ thành sán trưởng thành Taenia solium.
+Vật chủ là động vật không xương sống: ví dụ sán dây Moniezia ký sinh ở ruột non
gia súc nhai lại, đốt sán chửa theo phân ra ngoài bị nhện đất Oribatidmites ăn phải,
nở thành ấu trùng Cycticercoid. Khi gia súc ăn cỏ có lẫn nhện đất mang ấu trùng thì
sẽ thành sán trưởng thành và gây bệnh.
12
Vòng đời sán dây Moniezia Expana
Bảng so sánh vòng đời của 2 bộ Cyclophyllidea và Pseudophyllidea
Sinh sản hữu tính Biến thái hoặc sinh sản vô
tính
Sinh sản
hữu tính
Nội dung
Cyclophyllidea

Pseudophyllidea
Vật chủ
cuối cùng
Trưởng
thành =>
Trưởng
thành =>
Ngoại
cảnh
Trứng
và thai 6
móc =>
Trứng
=>
Coracidi
=>
Vật chủ trung
gian
Cysticercus
Coenurus
Echinococcus
Cysticercoid
Strobilocereus
Dithyridium
Procereoid
Vật chủ bổ
sung
=>
plerocercoid
=>

Vật chủ
cuối cùng
Trưởng
thành
Trưởng
thành
2.2.3. Ấu trùng của sán dây
Trong quá trình phát riển của sán dây dù trưởng thành hay ấu trùng có thể gây bệnh
cho gia súc, gia cầm và người. Tác dụng gây bệnh của ấu trùng cũng tương tự như
nhau, tác dụng gây bệnh của sán trưởng thành hoàn toàn khác với ấu trùng. Vì vậy phải
nghiên cứu bệnh của cả sán dây trưởng thành và do ấu trùng gây ra. Chẩn đóan chính
xác các dạng ấu trùng sán dây có ý nghĩa quan trọng trong vệ sinh thực phẩm, nhất là
trong kiểm nghiệm thịt.
13
Ø Một số ấu sán có liên quan đến thú y (căn cứ theo hình thái ấu trùng).
* Ấu trùng sán thuộc bộ Cyclophyllidea do trứng có thai 6 móc phát triển thành:
- Cysticercus: một bọc, hình tròn hoăc bầu dục, có màng mỏng bọc ở ngoài, là một
tổ chức liên kết, bên trong có nước trong suốt và một đầu sán màu trắng. Đấu này
thường dính với màng trong, khi lấy đầu sán cho lên phiến kính và ép mạnh cho
đầu sán nhô ra thì thấy có một giác bám, một số còn có móc nhỏ. Độ to nhỏ của
bọc thay đổ tùy theo loại, như gạo heo, gạo bò chỉ to bằng hạt gạo, hoặc bằng quả
trứng, quả bưởi (Cysticercus temicollis).
- Coenurus: hình tròn hoặc bầu dục, bên trong có dịch trong suốt và rất nhiều đầu
sán bám vào màng sinh sản (có tới 300 đầu sán). Đó là điểm quan trọng phân biệt
hai loại ấu trùng này. Ví dụ: Coenurus cerebralis \ký sinh ở não cừu.
- Echinococcus: Bọc hình tròn hoặc bầu dục, độ to nhỏ thay đổi theo từng loại,
bằng hạt đậu có khi bằng quả bưởi. Trong bọc chứa nhiều dịch trong suốt, bên
ngoài bọc nhiều lớp mô kitin rất dày, trong cùng là lớp mô sinh sả, từ lớp này sinh
ra nhiều lớp bọc con và bọc con sinh ra nhiều bọc cháu. Ngoài ra, lớp mô sinh sản
còn sinh ra nhiều đầu sán và những bọc chứa nhiều đầu sán. Những đấu sán này

phần nhiều rời khỏi lớp mô và rơi vào trong nước. Đặc điểm của loại ấu trùng này
là trong bọc có nhiều bọc con, bọc cháu và rất nhiều đầu sán. Ví dụ: Echinococcus
granulosus ký sinh ở chó mèo và thú ăn thịt.
- Cysticerecoid: ấu trùng hình túi có đuôi: phần trước phình to, phần sau kéo dài
thành đuôi, thường ký sinh ở động vật không xương sống ở dưới nước hay trên cạn.
Ví dụ: ấu trùng sán dây Moniezia expansa phát triển trong cơ thể nhện đất.
- Strobilocercus: Cơ thể dài có hiện tượng phân đốt giả, trên đầu có móc, đoạn cuối
có bọc nhỏ. Ấu trùng ký sinh ở gan chuột và các loài gặm nhấm khác; sán trưởng
14
thành ký sinh ở ruột mèo. Ví dụ: sán Hydatigena taeniaeformis ký sinh ở ruột chó
mèo có ấu trùng là Strobilocercus fasciolaris.
- Dithyridium: ấu trùng hình túi, đầu có 4 giác bám, không có móc, có đuôi dài
nhưng không có bọc nhỏ ở đuôi. Ví dụ: Mesocestoides lineatus ký sinh ở ruột loài
thú ăn thịt, ấu trùng ký sinh trong ruột động vật gặm nhấm.
* Ấu trùng sán dây thuộc bộ Pseudophyllidea: trứng sán nở ra Coracidi và phát triển
trong cơ thể ký chủ trung gian và ký chủ bổ sung thành các dạng ấu trùng là
Procercoid và Plerocercoid.
- Procercoid: là giai đọan ấu trùng của sán dây Diphyllothium,cơ thể dài 0,5 – 0,6
mm, ký sinh ở động vật không xương sống.
- Plerocercoid: là dạng ấu trùng 2 của sán dây Pseudophyllidae, cơ thể dài đến 1m,
ký sinh trong cơ bụng cá, lưỡng thê, bò sát; có khi ký sinh ở gan và nhiều cơ quan
khác.
2.2.4. Phân loại sán dây:
Cơ thể sán dây thuộc lớp Cestoda phân đốt, có nhiều loài ký sinh ở gia súc và người.
Gồm 5 bộ là Monophyllidea, Dyphillidea, Tetraphyllidea, Pseudophyllidea và
Cyclophyllidea, trong đó có 2 bộ sau liên quan đến thú y nhiều.
- Bộ Pseudophyllidea: đốt đầu có hai rãnh bám hoặc chỉ có một rãnh, tử cung
hình hoa chia nhiều nhánh, có lỗ tử cung cố định thông ra ngoài trên mặt đốt
sán, trứng có nắp, ký sinh ở người và gia súc. Ví dụ: sán Dyphillobothrium
latum và D. erinacei.

- Bộ Cyclophyllidea: đầu có bốn giác bám, không có lỗ tử cung, đốt sán chửa
rụng đi theo phân ra ngoài, trứng sán không có nắp; trong bộ này có năm họ liên
quan đến thú y:
15
+ Họ Anoplocephalidae: đầu và giác bám không có móc, không có mõm hút, đầu
có giác bám to. Ví dụ: Anoplocephala magna, Monezia enpansa…
+ Họ Taeniidae: có nhiều tinh hòan, tử cung có hình trụ và phân nhiều nhánh
ngang, vỏ trứng dày, màu xám, sán trưởng thành ký sinh ở người và loài ăn thịt, ấu
trùng ở loài thú ăn cỏ và ăn tạp như Taeniarhynchus saginatus, Tania hydatigena.
+ Họ Davaineidea: mõm hút hình gối có 2 -3 hàng móc, gồm nhiều móc, trên giác
bám cũng có móc nhỏ. Ví dụ: Davainea proglottina, Raillietina tetregona…
+ Họ Dilepididae: Có hoăc không có mõm hút, nếu có thì trên mõm hút có móc,
giác bám có hoặc không có móc. Ví dụ: Amoebotaenia sphenoides, Diphylidium…
+ Họ Hymenolepididea: chiều rộng đốt sán lớn hơn chiều dài, mỗi đốt có 1 – 4 tinh
hoàn. Có hoặc không có mõm hút, nếu có mõm chỉ có một hàng móc hay mõm đơn
giản. Ký chủ trung gian là côn trùng, có khi không cần ký chủ trung gian. Ví dụ:
Drepanidotaenia lanceola ở ruột non ngỗng.
2.2.5. Tính miễn dịch:
Miễn dịch ký sinh trùng gồm:
- Miễn dịch tự nhiên: Tính miễn dịch này có thể hoàn toàn hay tương đối. Ví dụ
người hoàn toàn không cảm nhiễm với Plasmodium của loài gậm nhắm hay của
gà và ngược lại.
- Miễn dịch thu được trong các bệnh ký sinh trùng không bao giờ tiến tới tiêu diệt
hoàn toàn ký sinh trùng nên cò gọi là miễn dịch không hoàn toàn. Trong trạng thái
miễn dịch ấy những hoạt động phòng ngự của cơ thể ký chủ không cho ký sinh
trùng phát triển, hình thành một thế thăng bằng giữa ký sinh trùng và ký chủ.
16
- Miễn dịch chủ động gây ra do tiêm vacxin hay một kháng nguyên chết, khó thực
hiện, trừ một số bệnh giun tròn và đơn bào; có thể gây trạng thái phòng nhiễm đối
với một số bệnh như lê dạng trùng, biên trùng…

- Miễn dịch bị động do tiêm huyết thanh của con vật đã được miễn dịch.
* Kháng nguyên và kháng thể:
Cũng như kháng nguyên của vi trùng, siêu vi trùng, kháng nguyên của ký sinh trùng
là bản thân ký sinh trùng hay những sản vật bài tiết phân tiết của nó. Ký chủ phản ứng
lại tác động kích thích của ký sinh trùng bằng cách sinh ra kháng thể là thành phần
globulin của huyết thanh nó. Kích thích của ký sinh trùng càng mạnh, thì phản ứng của
cơ thể càng mạnh, kháng thể sinh ra sẽ có hiệu quả chống kháng nguyên mạnh. Do sự
phát triển và tác động của ký sinh trùng thường là thứ cấp tính hay mãn tính, nên tính
miễn dịch đối với bệnh ký sinh trùng thường chỉ là tương đối . Kháng nguyên và kháng
thể cũng có tính đặcdị: ký sinh trùng loại nào phát sinh kháng nguyên loại ấy, ký chủ
sinh kháng thì cũng chỉ nhằm một loại ký sinh trùng nhất định. Nhưng trong bệnh ký
sinh trùng, lại có hiện tượng phản ứng miễn dịch nhóm, tức là kháng nguyên chống
được kháng nguyên của những loài ký sinh trùng gần nhau. Phản ứng miễn dịch là một
động phản xạ chịu sự chi phối và chỉ đạo của hệ thống thần kinh. Từ khi sinh ra kháng
thể tuy có thể chưa tiêu diệt hoàn toàn ký sinh trùng nhưng cũng hình thành một trạng
thái thăng bằng giữa ký sinh trùng và ký chủ khiến cho con vật bề ngoài có vẻ hoàn
toàn khoẻ mạnh. Như vậy là do hoạt động của tế bào và thể dịch toàn thân dưới sự
khống chế của cơ năng hưng phấn và ức chế của hệ thống thần kinh mà cơ thể có tác
dụng điều giải làm giảm bớt độc lực của ký sinh trùng. Sự phản sinh kháng thể là do
hoạt động của toàn thân ký chủ, nhưng cũng tập trung vào mấy cơ quan chính của hệ
thống tổ chức nội bì. sức đề kháng của ký chủ biểu hiện bằng tăng cường tác dụng
thực bào của bạch cầu, sản sinh kháng thể trong các thể dịch. Lá lách là khí quan sinh
kháng thể rất mạnh nếu cắt bỏ lá lách hay làm ngăn trở chức năng của lá lách, có thể
17
làm giảm sức đề kháng của cơ thể đối với bệnh ký sinh trùng làm cho bệnh đang ở thể
tiền ẩn phát hành bệnh lâm sàng.
2.2.6. Cơ chế gây bệnh
- Tác dụng của chất độc: trong quá trình sống, sán sản sinh ra các chất độc làm tổ
thương ruột, hạch lâm ba, màng treo ruột,... làm con vật châm lớn, sức đề kháng
giảm, dễ mắc các bệnh truyền nhiễm mãn tính và các bệnh ký sinh trùng khác.

- Tác dụng cơ giới: một con vật có thể nhiễm nhiều sán, sán dài từ 1 – 5 m tập
trung ở ruột non làm ruột phình to, có thể gây tắc ruột, lồng ruột, vỡ ruột...
- Chiếm đoạt dưỡng chất: nghiên cứu cho thấy một ngày đêm sán dài thêm 8cm,
chúng lấy nhiều dưỡng chất ở ký chủ và ảnh hưởng đến sư phát triển của ký chủ.
2.2.7. Chẩn đóan
2.2.7.1. Chẩn đóan với súc vật sống
Dựa vào triệu chứng lâm sang, dịch tể học… nhưng khó phân biệt và không chính
xác. Taeniaốt nhất là dung phương pháp xét nghiệm để tìm trứng, ấu trùng, hoặc ký
sinh trùng trưởng thành hoặc chẩn đóan bằng phương pháp miễn dịch học. Khi xét
nghiệm cần phân biệt ký chủ cuối cùng của sán và ký chủ mang trùng . Có những cách
chẩn đóan giun sán với súc vật còn sống như sau:
- Kiểm tra sán trưởng thành: Nhiều loài giun sán ký sinh ở đường tiêu hóa, đốt
sán theo phân ra ngoài.Kiểm tra phân, thu thập và định danh góp phần trong
chẩn đóan giun sán.
- Kiểm tra trứng sán dây: thường kiểm tra bằng phương pháp Fulleborn cho
hiệu quả tốt và được áp dụng rộng rãi.
18
- Chẩn đóan miễn dịch: chẩn đóan dựa vào kháng thể sinh ra trong cơ thể ký
chủ, thường dùng chẩn đóan các bệnh kén nước, ấu sán nhiều đầu…Kháng
nguyên từng loại sán có tính đặc hiệu riêng nhưng vẫn có thể gây ra phản ứng
phụ hoặc phản ứng chéo.
2.2.7.2. Chẩn đóan sau khi chết
Đây là phương pháp chẩn đóan chính xác nhất, có thể phát hiện được giun sán ký
sinh ở mọi cơ quan của con vật và đánh giá được cường độ và tỉ lệ nhiễm và định loại
giun sán. Thường sử dụng phương pháp mổ khám giun sán toàn diện của viện sĩ
K.I.Skrjabin.
19
CHƯƠNG 3: SÁN DÂY Ở LOÀI ĂN THỊT
Hiện nay đã có khoảng trên 30 loài sán dây kí sinh và gây bệnh cho chó, mèo..
Chúng đều thuộc hai bộ Cyclophyllidae và Pseudophyllidae. Căn cứ vào sự phát triển

và khả năng gây bệnh của từng loài, chúng ta nghiên cứu về đặc điểm, hình thái, vòng
đời, kí chủ, nơi cư trú một số loài chính , còn về chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa sẽ
giới thiệu chung cho tất cả các loài.
3.1. Bộ Cyclophyllidae:
- Họ Taeniidae: là họ chủ yếu trong bộ Cyclophyllidae, các sán dây thuộc họ
Taeniidae đã được nghiên cứu là:
Taenia hydatigena
Taenia taeniaformis
Taenia pisiformis
Taenia ovis
Taenia multiceps
Taenia krabbei
Taenia serialis
Echinococcus granulous
Echinococcus multilocularis
20
Một số sán dây khác thuộc bộ Cyclophyllidae ký sinh trên chó mèo như:
- Họ Dilepididae: Dipylidium canium
- Họ Mesocestoididae: Mesocestoides lineatus
3.1.1. Họ Taeniidae
3.1.1.1. Taenia Hydatigena
Ø Kí chủ và nơi cư trú
Taenia Hydatigena trưởng thành được tìm thấy ở ruột non của chó, chó sói, mèo, cáo
và mèo rừng.
Ấu sán Cysticercus tenuicollis thì được tìm thấy ở kí chủ trung gian cừu, chuột, thỏ,
nai và động vật nhai lại (hoang dã)
Ø Đặc điểm hình thái
Dài 70 – 500 cm, đốt chữa dài 12 x 6 mm. Tử cung có 5 – 10 nhánh. Trứng bầu dục
38 x 35 micromet. Đỉnh đầu có mõm 26 – 44 móc, loại móc loại móc dài 170 – 200
micromet, loại móc ngắn 110 – 160 micromet.

21
Ø Vòng đời
22
Ấu sán Cysticercus tenuicollis
Đầu sán Taenia Hydatigena
Vòng đời của Taenia Hydatigena
Đốt sán chửa theo phân kí chủ (chó, mèo) ra ngoài, trứng sán lẫn vào bãi cỏ, ao hồ,
giếng nước. Ký chủ trung gian (cừu) ăn phải thức ăn, nước uống có lẫn đốt sán sẽ bị
bệnh ấu sán.Khi trứng sán đến dạ dày kí chủ trung gian thì võ trứng bị phân hủy, thai 6
móc bám vào niêm mạc ruột. Trứng vào trong ruột non và nở ra thành ấu sán
Cysticercus. Ấu trùng sẽ đến gan qua đường máu. Ấu trùng di chuyển vào trong nhu
mô gan. Chúng gây nên những vùng tổn thương và làm cho gan trở nên xơ cứng. Ấu
sán Cysticercus được tìm thấy ở màng bụng, màng treo ruôt và bề mặt các cơ quan và
tạo nên những lỗ hỏng. Chúng tấn công vào những màng treo ruột, và trên bề mặt của
những tổ chức này. Chúng trở thành cysticercus lớn hơn (lớn hơn 6 cm) với một cái
đầu lớn và cái khoan cổ dài. Những động vật ăn thịt nhiễm cysticercus sẽ bị nhiễm
Taenia Hydatigena
.
23
INCLUDEPICTURE " \* MERGEFORMATINET
Ấu sán Taenia Hydatigena trên gan
24
Ấu sán Cysticerci lấy từ các bọc ấu sán
Ấu sán cysticercus tenuicollis ở màng treo ruột
3.1.1.2. Taenia Taeniaeformis (Hydatigera Taeniaeformis )
Ø Kí chủ và nơi cư trú
Taenia Taeniaeformis trưởng thành được tìm thấy chủ ở ruột non của mèo và những
loài thuộc giống mèo. Ngoài ra, còn có ở chó, cáo và chồn
Ấu sán Strobilocercus kí sinh ở gan chuột và các loài găm nhấm (sóc,thỏ).
Ø Đặc điểm hình thái

Dài 15 x 60cm. Không có cổ. Tử cung có 17 – 18 nhánh. Trứng hình tròn 31- 37
micromet. Đầu sán có 4 giác bám lồi lõm. Có 26 – 52 móc, móc dài 380 - 420
micromet, móc ngắn250 - 279 micromet.
25
Trứng của Taenia Taeniaeformis

×