Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

LUẬN VĂN: Thực trạng – giải pháp phát triển kinh tế tư bản nhà nước ở việt nam hiện nay docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.54 KB, 19 trang )












LUẬN VĂN:

Thực trạng – giải pháp phát triển kinh tế
tư bản nhà nước ở việt nam hiện nay





1. Sự cần thiết và khả năng sử dụng kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta
hiện nay.
1.1. Tính tất yếu khách quan của việc sử dụng hình thức kinh tế tư bản
nhà nước ở nước ta hiện nay.
Để thấy rõ tính khách quan của việc sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà
nước ở nước ta hiện nay chúng ta cần phải nắm được đặc điểm cũng như trình độ
của nền kinh tế nước ta. Có thể nói nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu với gần 80% dân số tham gia hoạt động nông nghiêp với kỹ thuật
thô sơ là phổ biến. Công nghiệp nhỏ bé, thương nghiệp, giao thông vận tải và dịch
vụ chưa phát triển. Hiện nay, Đảng và nhà nước ta đang lãnh đạo nhân dân ta tiến
hành công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với mục đích đưa


nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp tiên
tiến, hiện đại, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong công cuộc đổi mới ấy, nền
kinh tê nước ta cũng được chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng chủ nghĩa xã hội. Trong nền
kinh tế nhiều thành phần ấy, Đảng ta đã xác định kinh tế tư bản nhà nước là một
trong năm thành phần kinh tế cơ bản. Đó là một chủ trương đúng đắn, tất yếu của
Đảng và nhà nước ta vì những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, như trên đã nói, nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó tất yếu tồn tại
thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Mặt khác, với chính sách khuyến khích tự do
trao đổi hàng hoá, khuyến khích làm giàu chính đáng, tất yếu sẽ nảy sinh một tầng
lớp tư sản mới. Không thể dùng sắc lệnh để loại bỏ được thành phần kinh tế này,
cách tốt nhất là hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước. Như vậy, sự
tồn tại của kinh tế tư bản nhà nước vừa mang tính tất yếu khách quan vừa như là
một sách lược kinh tế của nhà nước ta để định hướng cho các thành phần kinh tế
khác (tiêu biểu là thành phần kinh tế tư bản tư nhân) đi lên chủ nghĩa xã hội.


Thứ hai,ở một nước mà nền tiểu sản xuất chiếm ưu thế như nước ta thì không
thể trực tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội được. Do đó chúng ta phải sử dụng kinh tế
tư bản nhà nước như một sách lược kinh tế. Hay nói cách khác chủ nghĩa tư bản
nhà nước sẽ là mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất va chủ nghĩa xã hội, làm
phương tiện, con đường, phương pháp phương thức để tăng lực lượng sản xuất. Lê
nin đã từng nói: “ trong một nước tiểu nông trước hết các đồng chí phải bắc những
chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước tiến lên chủ
nghĩa xã hội ”. Sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước sẽ giúp chúng ta phát
triển lực lượng sản xuất vì kinh tế tư bản nhà nước có ưu thế về vốn, kỹ thuật và
công nghệ cũng như những kinh nghiệm và biện pháp quản lý kinh tế tiên tiến.
Thông qua hình thức hơp tác, đầu tư với tư bản trong và ngoài nước, chúng ta sẽ

thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại Đặc biệt trong điều kiện cuộc
cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra như vũ bão thì hình thức kinh tế tư
bản nhà nước sẽ giúp chúng ta tránh khỏi nguy cơ bị tụt hậu. Bên cạnh đó, chúng
ta còn học tập thêm được những phương pháp cũng như những kinh nghiệm quý
báu của các nhà tư bản nước ngoài trong quản lý kinh tế. Đó là những tiền đề hết
sức cần thiết để nước ta tiến hành thành công công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Như vậy, sử dụng kinh tế tư bản nhà nước không những là một tất
yếu khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà còn là một biện pháp
để chúng ta tăng cường phát triền lực lượng sản xuất, trên cơ sở đó phát triển
nhanh nền kinh tế để đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, việc sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước còn phù hợp với xu
thế quốc tế hoá đang diễn ra trên toàn bộ thế giới và đặc biệt là khu vực Đông
Nam á. Chúng ta sẽ không thể phát triển được nếu không mở rộng quan hệ kinh tế
với các nước trong khu vực và trên thế giới kể cả các nước chủ nghĩa xã hội cũng
như các nước tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, sự hợp tác về kinh tế với các nước tư bản
thông qua hình thữc kinh tế tư bản nhà nước là một tất yếu trong quá trình mở
rộng sự hợp tác phát triển trên mọi lĩnh vực.


Từ tất cả các điều trên có thể kết luận rằng ở nước ta hiện nay, việc sử dụng
hình thức kinh tế tư bản nhà nước là một tất yếu khách quan. Sử dụng kinh tế tư
bản nhà nước sẽ là điều kiện cần thiết để khắc chế tính tự phát trong sản xuất và
chế độ sản xuất phân tán kém hiệu quả của kinh tế sản xuất nhỏ, nhằm khai thác
tối đa tiềm năng để tập trung cho các nguồn lực hướng về mục tiêu kinh tế - xã hội
cao nhất như công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và các chương trình kinh tế
lớn khác. Hơn nữa, tố chất cạnh tranh vốn có của hình thái kinh tế tư bản chủ
nghĩa sẽ như chất xúc tác cho một môi trường kinh tế cạnh tranh sôi động, giúp
cho tất cả các thành phần kinh tế trong xã hội có một sự nhận thức về bản thân
mình đúng hơn, ý thức hơn về nhu cầu tồn tại trong phát triển xã hội, và do đó sẽ
đáp ứng sản phẩm tốt hơn cho người tiêu dùng. Một hệ quả hết sức quan trọng của

sự phối hợp kinh tế trong nước với nhau và trong nước với nước ngoài là sự giao
lưu và tăng trưởng trí tuệ, kiến thức xã hội và do đó thúc đẩy mặt bằng học vấn
kinh tế xã hội được nâng cao. Chính vì tất cả những lý do trên mà Đảng và Nhà
nước ta đã áp dụng một cách rộng rãi, phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà
nước để phát triển lực lượng sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII viết: “ Kinh tế tư bản nhà nước bao gổm các hình
thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và
hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài. Kinh tế tư bản
nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công
nghê, khả năng tổ chữc quản lý của các nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ,
cũng như của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ”.
2.1. Những khả năng sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta.
Như vậy, qua phần phân tích trên ta thấy rõ tính tất yếu của việc sử dụng
hình thức kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta. Nhưng chúng ta sẽ vận dụng như thế
nào? Liệu nước ta có đủ điều kiện và khả năng để sử dụng hình thức kinh tế tư bản
nhà nước hay không?


Lý luận của Lê nin đã chỉ rõ, để sử dụng có hiệu quả chủ nghĩa tư bản nhà
nước thì trước hết, chính quyền nhà nước phải nằm trong tay giai cấp công nhân. ở
nước ta hiện nay, Đảng Cộng sản - Đảng tiên phong của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động đang giữ vai trò lãnh đạo. Toàn thể nhân dân ta đều tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng và đang nỗ lực phấn đấu để đưa đất nước ta tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Có thể nói, đây là điều kiện đầu tiên quan trọng nhất để sử dụng chủ
nghĩa tư bản nhà nước.
Thứ hai, về mặt kinh tế, nước ta đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự điều tiết của nhà nước. Đây là một điều kiện rất quan trọng để phát
triển kinh tế tư nhân trong nước cũng như nước ngoài trên cơ sở đó vận dụng các
hình thức kinh tế tư bản nhà nước như: liên doanh, liên kết giữa nhà nước và tư

bản tư nhân trong nước và liên doanh, liên kết giứa nhà nước và tư bản tư nhân
nước ngoài
Thứ ba, về mặt luật pháp, chúng ta đã ban hành và đang tiếp tục hoàn thiện
hành lang pháp lý về thành phần kinh tế tư nhân trong nước, liên doanh giữa nhà
nước và kinh tế tư bản tư nhân trong nước, về đầu tư nước ngoài cũng như liên
doanh giữa nhà nước và nước ngoài
Không những thế, những xu thế quốc tế hiện nay cũng tạo cho nước ta những
thuận lợi nhất định. Trước hết, đó là xu thế hoà bình, hợp tác quốc tế trên cơ sở hai
bên cùng có lợi. Khác với thời kỳ chiến tranh lạnh trước kia, ngày nay, Việt Nam
mong muốn làm bạn với tất cả các nước, cùng hợp tác trong mọi lĩnh vực, đặc biệt
là kinh tế. Đây không chỉ là mong muốn của nước ta mà đã là sách lược của tất cả
các nước trong khu vực và hầu hết các nước trên thế giới. Xu thế này tạo điều kiện
rất thuận lợi để chúng ta kêu gọi, thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Cùng với xu thế hợp tác là xu thế quốc tế hoá. Quá trình quốc tế hoá đang
diễn ra hết sức mạnh mẽ trong khu vực cũng như toàn thế giới tác động rất mạnh
mẽ đến nền kinh tế nước ta. Trong thời đại ngày nay, không một quốc gia nào có


thể tồn tại độc lập, riêng rẽ mà phải nằm trong mối quan hệ với các quốc gia khác,
đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Có thể nói nền kinh tế của một quốc gia ngày
nay nằm trong mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế thế giới, nền kinh tế toàn cầu.
Chính vì vậy, kinh tế tư bản nhà nước đặc biệt là liên kết giữa nhà nước và tư bản
nước ngoài sẽ tạo điều kiện để nước ta gia nhập và là một bộ phận trong nền kinh
tế đó để tránh khỏi nguy cơ tụt hậu.
Như vậy, nước ta có đầy đủ khả năng và điều kiện để vận dụng chủ nghĩa tư
bản nhà nước kể cả về mặt kinh tế cũng như chính trị, xã hội, luật pháp và xu
hướng quốc tế. Điều quan trọng nhất hiện nay là chúng ta phải vận dụng tốt lý luận
của Lê- nin vào tình hình cụ thể của nước ta để thu được hiệu quả cao.
2. Những hình thức cụ thể của kinh tế tư bản nhà nước đang được vận
dụng ở nước ta.

Để có thể vận dụng có hiệu quả chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta một
mặt chúng ta không thể xa rời các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mac - Lê-nin,
mặt khác, chúng ta cũng không thể rập khuôn máy móc hay mô phỏng một cách
giáo điều mô hình kinh tế của nước Nga những năm 20. Vì vậy, chúng ta cần phải
nẵm vững những tư tưởng mà Lê nin đã nêu ra đồng thời dựa trên tình hình thực tế
của nước ta để vận dụng lý luận đó sao cho có hiệu quả nhất. áp dụng máy móc
hoặc xa rời chủ nghĩa Mac- Lê- nin trong tổ chức và thực hiện đều là sai lầm
không thể chấp nhận được.
Từ quan điểm của Lê nin và căn cứ vào thực tiễn nước ta trong bối cảnh hiện
nay có thể xác định các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước cần vận dụng ở
nước ta như sau:
2.1. Hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản tư nhân trong nước.
Thông qua sự liên doanh, liên kết giữa nhà nước và các chủ thể sở hữu ngoài
quốc doanh ỏ trong nước, nhà nước có thể huy động vốn được nhiều, đổi mới kỹ
thuật và quy trình công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị


trường Đồng thời, phía nhà nước cũng dễ dàng thực hiện được sự kiểm kê, kiểm
soát, hướng dẫn, điều tiết sự phát triển để thúc đẩy cải cách cơ cấu kinh tế và cơ
cấu sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế, cấu
trúc lại nền kinh tế.
Trước đây, hình thức này gọi là “ công tư hợp doanh ” nhưng chúng ta mới
chỉ áp dụng một cách hạn chế với chủ trương cốt để cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm
sớm đi đến xoá bỏ kinh tế tư bản tư nhân. Nay, trên cơ sở quan điểm thừa nhận
các thành phần kinh tế còn tồn tại và phát triển lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, hình thức này cần được sử dụng và phát triển phong phú và đa dạng
hơn.
Tính đến nay, nước ta đã có khá nhiều doanh nghiệp thuộc thành phần kinh
tế tư nhân. Quy mô của đa số những doanh nghiệp này còn rất nhỏ bé, lại dàn trải
ở các ngành kinh tế dịch vụ, nông lâm -ngư- nghiệp xây dựng và chỉ chiếm trên

9% GDP của cả nước. Để phát huy thế mạnh của thành phần kinh tế này, bên cạnh
việc tạo điều kiện cho thành phần kinh tế tư bản tư nhân phát triển, cần khuyến
khích nó liên doanh, liên kết với kinh tế nhà nước, qua đó mà tăng vốn, đổi mới
công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, tăng sức cạnh tranh và tăng khả năng hợp
tác với nước ngoài. Đây là một đòi hỏi bức xúc của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
Trong thời gian qua, nước ta đã áp dụng các phương thức góp vốn liên doanh
giữa nhà nước với các nhà tư bản để hình thành các công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn nhưng trong tổ chức vẫn còn những trở ngại. Để mở rộng hình
thức này, một mặt cần tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý, mặt khác, đẩy mạnh hơn
nữa cổ phần hoá một bộ phận các doanh nghiệp nhà nước, phát triển các loại hình
các công ty cổ phần, có quy chế tạo khả năng lưu hành rộng rãi cổ phiếu, phát
triển thị trường chứng khoán, hoàn thiện các yếu tố của nền kinh tế thị trường.


2.2. Hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản tư nhân nước ngoài.
Trong lý luận của mình về chủ nghĩa tư bản nhà nước, Lê nin đã chỉ rõ việc
sử dụng vốn, các chuyên gia tư sản nước ngoài vào phát triển kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là hết sức quan trọng. Hiện nay, trong bối cảnh quốc
tế mới, các nước đang và mới phát triển có cơ hội sớm đi tới một nền kinh tế hiện
đại thông qua nhiều con đường như học hỏi, tiếp nhận chuyển giao công nghệ
của các nước phát triển. Chính vì vậy, đối với nước ta hình thức liên doanh giữa
kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân nước ngoài sẽ giúp chúng ta phát triển sản
xuất trong nước, rút ngắn khoảng cách lạc hậu giữa nước ta với các nước trong
khu vực.
Hiện nay, liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản nước ngoài có hai hình
thức. Đó là các công ty liên doanh giữa nhà nước và tư bản nước ngoài và các
công ty 100% vốn nước ngoài. Thông qua các hình thức này, Nhà nước thu hút và
cho phép các nhà tư bản và công ty nước ngoài đầu tư vào trong nước để phát triển
sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, ta có thể tiếp thu những công nghệ sản xuất tiên

tiến của nước ngoài, học tập được các phương thức và kinh nghiệm quản lý hiện
đại - những kiến thức mà hiện nay chúng ta rất yếu và rất thiếu. Hơn nữa, thông
qua hình thức này, chúng ta có thể sản xuất được nhiều mặt hàng cao cấp mà trong
nước chưa sản xuất được, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của hàng
hoá trong nước.
Hiện nay, ở nước ta, các hình thức này đang được triển khai tích cực. Tính
đến tháng 7 năm 1997, trong cả nước đã có 2067 dự án đầu tư nước ngoài được
cấp giấy phép hoạt động với số vốn đăng ký 31,3 tỷ USD. Ngoài ra những năm
gần đây các nhà tài trợ nước ngoài đã dành cho Việt Nam một khoản tài trợ đáng
kể, mỗi năm trên dưới 2 tỷ USD. Đây là một bộ phận rất quan trọng của kinh tế tư
bản nhà nước được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và có nhiều chính sách
nhằm tạo điều kiện cho nó phát triển. Các xí nghiệp liên doanh này cần đầu tư khá
đa dạng vào các lĩnh vực khác nhau từ công nghiệp cho tới dịch vụ. Khu vực này


đã góp phần rất đáng kể vào định hướng xây dựng cơ cấu kinh tế thiên về xuất
khẩu thu ngoại tệ ở Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất
nước. Không những thế khu vực này đã tạo ra nhiều ngành nghề và sản phẩm mới
cho xã hội, tăng năng lực sản xuất xã hội và công nghệ mới, hiện đại cho nhiều
ngành then chốt như: khai thác dầu khí, khí đốt, sản xuất sắt thép, sản xuất xi
măng, Trên cơ sở đó đã tạo ra nhiều chỗ làm việc mới, thu hút nhiều lao động
xã hội có mức thu nhập bình quân cao đồng thời góp phần đào tạo nhiều cán bộ có
năng lực làm việc tốt. Cuối cùng, cũng như các loại hình kinh tế tư bản nhà nước
khác, khu vực kinh tế này tạo môi trường thuận lợi cho chúng ta tiếp thu tốt công
nghệ, kỹ thuật tiên tiến nhất, kinh nghiệm tổ chức tiến bộ nhất. Do đó kinh tế tư
bản nhà nước trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần không
nhỏ vào sự nghiệp phát triển đất nước. Tuy nhiên, để hình thức này đạt hiệu quả
cao, chúng ta cần chú ý tập trung vào những ngành đòi hỏi có kỹ thuật cao, những
ngành mũi nhọn mà khả năng trong nước chưa thể sản xuất được, đồng thời nhà
nước phải nắm cổ phần lớn để có thể kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp

này theo đúng đường lối của Nhà nước.
2.3. Hình thức gia công đặt hàng.
Hình thức này áp dụng trong các ngành sản xuất vật chất. Thông qua hình
thức này, Nhà nước đặt hàng với các nhà tư bản trong và ngoài nước hoặc các
doanh nghiệp nhà nước nhận gia công cho các công ty nước ngoài. Hình thức này
với những chính sách phù hợp cũng đang mang lại những kết quả khả quan ở Việt
Nam trong những năm gần đây. Do đặc điểm của lực lượng lao động ở Việt Nam
là dổi dào với giá nhân công rẻ, lao động khéo léo, chăm chỉ nên nhiều đơn vị
nước ngoài đã quan tâm và thực hiện liên doanh, liên kết với các đơn vị kinh tế
thuộc sở hữu nhà nước dưới hình thức gia công, đặt hàng tham gia sản xuất một số
công đoạn trong dây chuyền chế tạo. Điều này cũng phù hợp với xu thế quốc tế
hoá và chính sách mở cửa ở Việt Nam hiện nay, tạo điều kiện giải quyết việc làm,
đúc rút kinh nghiệm về quản lý và cạnh tranh cho các đơn vị trong nước. Ngoài ra,


trong hình thức gia công đặt hàng này còn có hình thức các đơn vị tham gia sản
xuất kinh doanh theo đơn đặt hàng của nhà nước, cũng có những vai trò nhất định
đối với sự nghiệp phát triển kinh tế.
2.4. Khu chế xuất.
Khu chế xuất về thực chất được coi là các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà
nước. Tại đây không phải chỉ có một loại hình kinh tế tư bản nhà nước đơn độc,
thuần tuý mà có nhiều hình thức cụ thể, bao gồm cả hình thức tô nhượng, liên
doanh, cho tư bản nước ngoài thuê. ở Việt Nam hiện nay, kể từ ngày thành lập khu
chế xuất đầu tiên 25/12/1981, bên cạnh 45 khu công nghiệp còn có 3 khu chế xuất.
Với việc phát triển nhanh về quy mô và số lượng các khu công nghiệp, khu chế
xuất, Việt Nam không chỉ giải quyết được một số lượng lớn lao động có việc làm
mà các khu công nghiệp, khu chế xuất này còn góp phần thúc đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; tham gia vào quá trình hợp lý hoá, quy
hoạch hoá đô thị và bảo vệ môi trường. Do đó, các khu công nghiệp, khu chế xuất
này đã góp phần biến những vùng chậm phát triển có mức sống thấp thành những

khu đô thị có cơ sở hạ tầng tốt, số người dân có công ăn việc làm và thu nhập ổn
định tăng lên.
Tuy nhiên, để góp phần phát triển có hiệu quả các loại hình khu công nghiệp,
khu chế xuất chũng ta cần tạo điều kiện như quy hoạch, phát triển theo từng địa
phương hay theo từng ngành nghề, trao thêm quyền tự chủ cho các ban quản lý
khu chế xuất, thành lập các trung tâm đào tạo nghề có hiệu quả phục vụ cho các
khu chế xuất, có những ưu đãi về thuế để nó có thể thể hiện đầy đủ những ưu
điểm của kinh tế tư bản nhà nước.
2.5. Nhà nước cho tư bản trong và ngoài nước thuê các cơ sở sản xuất
kinh doanh và các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân.
Hiện nay ỏ nước ta do ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu toàn dân cho nên
các căn hộ - với tính cách là đơn vị sản xuất cơ bản trong nông nghiệp hiện nay -


chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu. Do vậy, đây cũng là một hình
thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Chỉ riêng trong lĩnh vực nông nghiệp, trên cơ
sở tư liệu sản xuất cơ bản thuộc sở hữu toàn dân, chúng ta có chế độ kinh doanh
hỗn hợp giữa nhà nước với hộ cá thể. Đây là một hình thức kinh tế được nhà nước
ta quan tâm và tạo điều kiện để phát triển nhằm cải thiện đời sống của nhân dân
phát huy được nội lực để phát triển kinh tế.
Không chỉ trong lĩnh vực nông nghiệp, mà trong lĩnh vực sản xuất kinh
doanh, ta cũng có thể triển khai hình thức này thông qua đấu thầu một số cơ sở vật
chất của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, thực hiện các hợp
đồng ký kết giữa nhà nước ta với các nhà tư bản trong và ngoài nước. So với tô
nhượng, hình thức cho thuê kinh doanh khác ở hai điểm: thứ nhất, thời gian hợp
đồng thường ngắn hơn; thứ hai, đối tượng chủ yếu cho thuê kinh doanh không
phải chủ yếu là quyền sử dụng đất mà chủ yếu là các hầm mỏ, khu rừng, xí nghiệp,
cửa hàng Thông qua phát triển hình thức này mà mở rộng một số ngành và lĩnh
vực kinh tế, đồng thời Nhà nước có điều kiện để tập trung vốn đầu tư vào các
ngành, các lĩnh vực trọng yếu, then chốt nhằm tăng cường vai trò chủ đạo trong

nền kinh tế nhiều thành phần.
2.6.Các tổ chức hợp tác với tính cách là các hình thức kinh tế tư bản nhà nước.
Các cá thể tập hợp nhau lại và cùng tham gia vào sản xuất kinh doanh - đó là
loại hình kinh tế hợp tác. Nhưng trên thực tế còn xuất hiện những tổ chức hợp tác
khác nữa mà ta có thể coi đó là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Đó là các tổ chức hợp tác như kinh doanh liên hộ, tổ hợp dịch vụ, tổ hợp chế
biến, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm Những tổ chức hợp tác này có sử dụng
đất đai của sở hữu toàn dân, có vay vốn của Nhà nước, và nhất là có sự kiểm kê,
kiểm soát của nhà nước, thì với quan niệm rộng theo tư tưởng của Lê-nin đó cũng
là hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Hình thức này thể hiện rõ nét nhất
trong chế độ kinh doanh hỗn hợp giữa nhà nước với tập thể trong các hoạt động


sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, chúng ta cần nắm lấy hình thức này để phát triển
nền kinh tế quốc dân nói chung và xã hội hoá sản xuất nông nghiệp nói riêng.
2.7. Một số hình thức khác mới bắt đầu áp dụng ở Việt Nam.
Hiện một số lượng không nhỏ những công ty cổ phần. Việc cổ phần hoá các
xí nghiệp quốc doanh hiện nay là chuyển từ sở hữu nhà nước sang sở hữu hỗn hợp
là làm gọn nhẹ, tối ưu các thành phần kinh tế quốc doanh, tăng thành phần kinh tế
cá thể, tập thể, tư nhân. Đây là giải pháp nhằm thoát khỏi tình trạng làm ăn thua lỗ
của các xí nghiệp quốc doanh, tránh được tình trạng thất thoát tài sản, lãng phí
dưới nhiều hình thức, nâng cao trách nhiệm của người lao động cũng như nâng cao
được trình độ quản lý Tất nhiên, chúng ta vẫn phải củng cố các xí nghiệp quốc
doanh, nhất là những đơn vị có vị trí quan trọng trong nền kinh tế cũng như xác
định mức cổ phần thích hợp trong từng loại đơn vị cổ phần. Cổ phần hoá các xí
nghiệp nhà nước đang trở nên phổ biến và đem lại kết quả rõ rệt ở hầu hết các
nước trên thế giới. Đây cũng là xu thế tất yếu của nước ta. Tuy nhiên, ở nước ta,
cái khó hiện nay là sản xuất chưa ổn định, lạm phát vẫn còn cao, số đông người
lao động không có vốn để góp cổ phần. Những người có khả năng về vốn trong lúc
này chưa dám mạo hiểm bỏ tiền ra mua cổ phần mà gửi tiết kiệm lấy lãi hoặc kinh

doanh thương nghiệp còn chắc chắn hơn. Để khắc phục trở ngại này, việc cổ phần
hoá xí nghiệp quốc doanh cầc có chủ trương, bước đi phù hợp với thực trạng kinh
tế - xã hội của đất nước.
Cho đến thời điểm này, ở nước ta đã xuất hiện hình thức đại lý bao gồm
nhiều hình thức khác nhau, nhưng một bộ phận quan trọng đó là một hình thức của
chủ nghĩa tư bản nhà nước do dựa trên việc nhận làm đại lí cho một đơn vị kinh tế
nước ngoài hoặc của một đơn vị kinh tế nhà nước. Hình thức này phổ biến trong
các mặt hàng mà nói chung chúng ta chưa có khả năng sản xuất nhưng có vị trí
quan trọng trong nền kinh tế. Trong quá trình mở cửa và hội nhập với thế giới,
hình thức đại lý cũng là một hình thức được tạo điều kiện để phát triển bởi nó có


tác dụng thúc đẩy việc tìm tòi trong sản xuất và nâng cao tính cạnh tranh của các
đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân.
Đặc khu kinh tế là một vùng lãnh thổ quốc gia mà trên đó người ta áp dụng
các chế độ đặc biệt đối với các hoạt động kinh tế đối ngoại. Hình thức này tuy khá
quen thuộc với một số nước xã hội chủ nghĩa trước đây và hiện nay song ở Việt
Nam vẫn còn khá mới mẻ và chưa được xây dựng. Đó cũng là một hướng đi cần
chúng ta tiếp tục nghiên cứu.
3. Phương hướng và những điều kiện để vận dụng thành công chủ nghĩa tư
bản nhà nước vào nước ta.
3.1. Phương hướng vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước vào nước ta.
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước không chỉ là một thành phần cơ bản
trong các thành phần kinh tế hiện nay ở nước ta mà còn có vai trò rất quan trọng,
đóng góp rất lớn vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Lực lượng kinh tế tư bản nhà
nước đã đầu tư thăm dò và khai thác dầu khí, khai khoáng, giao thông vận tải và
bưu điện viễn thông, điện tử, hoá chất, nông- lâm-ngư nghiệp, may mặc xuất khẩu,
công nghiệp nặng, hàng tiêu dùng, dịch vụ, khách sạn, du lịch, xây dựng nhà ở, tài
chính, tín dụng và một số ngành khác. Các xí nghiệp liên doanh và hợp doanh với
nước ngoài đã thu hút khoản gần 14,2 nghìn lao động trực tiếp sản xuất và hàng

vạn lao động vệ tinh khác. Chúng đã có những đóng góp không nhỏ vào sự tăng
trưởng của nền kinh tế, đặc biệt là góp phần từng bước cân bằng cán cân ngoại
thương, tạo điều kiện cho chúng ta học tập kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp của
các nước.
Nhưng trong quá trình phát ttiển, lực lượng kinh tế này cũng đã bộc lộ một
số hạn chế, khiếm khuyết như: các dự án đầu tư có quy mô nhỏ lại chủ yếu đầu tư
vào những ngành có thể đêm lại lợi nhuận ngay và thu hồi vốn nhanh, ít đầu tư
vào những ngành có công nghệ cao - ngành mà chúng ta đang thiếu; vốn đầu tư
chủ yếu tập trung ở phía nam đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà


Rịa - Vũng Tàu; thủ tục đầu tư còn nhiều vướng mắc, trình độ của lao động kỹ
thuật còn hạn chế Chính vì vậy chúng ta phải có những phương hướng để nâng
cao hiệu quả của thành phần kinh tế này.
Muốn tạo điều kiện để cho kinh tế tư bản nhà nước ở Việt Nam phát triển
theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và nhà nước ta đã đề ra phương
hướng trong văn kiện đại hội Đảng VIII như sau: “ Cải thiện môi trường đầu tư và
nâng cao năng lực quản lý để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trong các xí nghiệp
hợp tác, liên doanh. “ Đối với các nhà đầu tư trong nước: “ áp dụng nhiều phương
thức góp vốn liên doanh giữa nhà nước với các nhà kinh doanh tư nhân trong nước
nhằm tạo thế, tạo lực cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển, tăng sức hợp tác
và cạnh tranh với bên ngoài. “ Chỉ có vậy tư bản nước ngoài mới yên tâm đầu tư
vào nước ta cũng như các nhà đầu tư trong nước có thể yên tâm đầu tư, thay thế,
sử dụng những trang thiết bị hiện đại. Đó chính là phương hướng để phát huy
được những ưu việt của thành phần kinh tế này. Cụ thể phương hướng phát triển
thành phần kinh tế tư bản nhà nước như sau:
Thứ nhất, đối với đầu tư nước ngoài: Chúng ta cần chủ động tạo điều kiện
như cải thiện môi trường đầu tư, giảm bớt các thủ tục hành chính, tạo nhiều ưu
đãi và bằng nhiều hình thức khác nữa để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư của

các nhà tư bản nước ngoài. Bên cạnh đó, nhà nước ta phải dùng các biện pháp,
chính sách hợp lý để thu hút vốn đầu tư đó vào những ngành mũi nhọn, công nghệ
cao có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và khu vực mà nước ta chưa thể tự
sản xuất được như: điện tử - tin học Đối với các liên doanh, cần tăng cường sức
mạnh về vốn của đối tác phía Việt Nam (để thông qua đó có thể thực hiện được sự
kiểm kê, kiểm soát của nhà nước) . Muốn làm được như vậy, ta có thể thông qua
sự hợp vốn giữa Nhà nước với các nhà tư sản dân tộc để trở thành một đối tác cần
thiết với các nhà tư sản nước ngoài.


Thứ hai, sự hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân trong nước được tập trung
phát triển vào một số hướng ưu tiên như sau:
Phát triển các doanh nghiệp chế biến từ nguyên liệu nông, lâm, hải sản và
doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng với công nghệ thích hợp, thu hút nhiều lao
động, thu hồi vốn nhanh, có mức doanh lợi hấp dẫn phục vụ nhu cầu trong nước
và xuất khẩu.
Mở rộng sản xuất, hiện đại hoá công nghệ ở những doanh nghiệp Nhà nước
hiện có dưới hình thức góp vốn cổ phần của tư nhân trong nước.
Tuy nhiên, trong sự hợp tác ấy nhà nước luôn phải giữ một tỷ lệ vốn nhất
định để có thể hướng sự phát triển của doanh nghiệp theo đúng định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Cuối cùng,đất nước chúng ta vẫn đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội cho nên mặc dù hình thức kinh tế tư bản nhà nước là một hình thức kinh tế
mang tính chất tất yếu song chúng ta cũng phải nhận thức được rằng đây không
phải là thành phần kinh tế chủ đạo. Vì vậy, một mặt chúng ta cần có những chính
sách để khuyến khích thành phần kinh tế này phát triển, nhưng mặt khác chúng ta
cũng phải có những biện pháp cụ thể và có hiệu quả nhằm làm cho thành phần
kinh tế nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo: “ làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng
kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội; mở đường hướng dẫn, hỗ trợ các thành
phần khác cùng phát triển, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới “. Trong quá trình

đa dạng hoá các hình thức liên doanh, liên kết với các tổ chức và công ty tư bản
nước ngoài, chúng ta cần nâng cao tỷ lệ đầu tư của phía Việt Nam để phát huy khả
năng kiểm kê, kiểm soát, cũng như để đưa những đơn vị này phát triển theo đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, chúng ta cũng cần áp dụng những phương
thức thích hợp nhằm tạo thế, tạo lực cho các doanh nghiệp trong nước phát triển,
tăng sức cạnh tranh và có đủ điều kiện khả năng để hợp tác với bên ngoài.


3.2. Điều kiện để vận dụng thành công chủ nghĩa tư bản nhà nước vào
nước ta
Điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất để có thể vận dụng thành công chủ
nghĩa tư bản nhà nước vào nước ta là nâng cao vai trò lãnh đạo của nhà nước, mà
vấn đề trọng tâm là củng cố và tăng cường sức mạnh điều tiết kinh tế của nhà
nước.Trước hết, cần tăng cường tiềm lực kinh tế của nhà nước bằng nhiều biện
pháp. Cần phát triển hơn nứa thành phần kinh tế nhà nước, làm cho kinh tế nhà
nước thực sự hoạt động có hiệu quả, phát huy tốt vai trò chủ đạo, dần dần trở
thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thứ hai, chúng ta cần phải nâng cao
năng lực điều tiết kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Những công cụ quan trọng nhất
cần được sử dụng có hiệu quả là các chính sách tài chính, tiền tệ. Với công cụ này,
Nhà nước có thể điều tiết (khuyến khích hay hạn chế) sự phát triển của bất cứ
doanh nghiệp nào. Hệ công cụ điều tiết cụ thể ở đây là chính sách thuế, lãi suất, tỉ
giá hối đoái. Không những thế, bộ máy nhà nước cần được củng cố và đổi mới
theo hướng đoạn tuyệt triệt để với các di sản của cơ chế bao cấp, thay bộ máy
quan liêu bằng bộ máy quản lý hoạt động theo nguyên tắc công nghiệp và thị
trường.
Như vậy, có thể nói, để sự phát triển “ đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà
nước ” không làm thay đổi gì bản chất chế độ xã hội ở nước ta, không đi ra ngoài
quỹ đạo của định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta cần được củng cố vững
chắc, thật sự là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước cần nắm vững các đỉnh cao
của nền kinh tế, nắm chắc các công cụ kinh tế vĩ mô (đặc biệt là chính sách tài

chính và tiền tệ) để điều tiết nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác, vai trò lãnh đạo của Đảng phải không ngừng được nâng cao. Đảng
Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, đại diện và lãnh đạo mọi tầng lớp nhân
dân đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với công cuộc đổi mới đất nước trong thời kỳ quá độ là vô cùng quan trọng, đặc
biệt là đối với thành phần kinh tế tư bản nhà nước nhằm giúp cho thành phần kinh


tế này có đủ điều kiện để phát triển, song không đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Chỉ có vậy, chúng ta mới có thể vừa phát triển kinh tế vừa cải thiện đời sống của
nhân dân vừa kiên định đi theo chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy, Đại hội Đảng lần thứ
VIII đã khẳng định: “ Đảng phải nghiêm túc xem xét những sai lầm, khuyết điểm
và yếu kém của mình, đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao sức chiến đấu và năng
lực lãnh đạo xác định trong giai đoạn hiện nay lãnh đạo kinh tế là nhiệm vụ
trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt ”.
Bên cạnh đó cần đẩy mạnh và hoàn thiện hệ thống luật pháp, cũng như cải
cách nền hành chính quốc gia. Vấn đề này hiện nay đang là vấn đề cấp bách, quyết
định đến việc ổn định môi trường đầu tư, tạo nên sức thu hút vốn đầu tư. Đảng và
Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay đã rất quan tâm và đang từng bước tập trung
xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp mặc dù cho đến thời điểm này vẫn còn
thiếu và chưa đồng bộ, gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển thành phần
kinh tế này. Việc cải cách nền hành chính quốc gia cũng góp phần rất to lớn vào
việc nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước pháp quyền nên cũng cần được quan
tâm để việc cải cách thực sự đạt kết quả như mong muốn.
Cuối cùng là việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Mở rộng quan hệ hợp
tác kinh tế với nước ngoài là một tất yếu khách quan, vừa phù hợp với xu thế của
thời đại vừa phù hợp với nhu cầu rút ngắn quá trình phát triển của Việt Nam chúng
ta. Thông qua việc gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực như WTO,
AFTA, ASEAN cũng như việc mở rộng quan hệ với nước ngoài nhằm tranh thủ
nắm bắt những ngành, những mũi nhọn gắn với công nghệ mới, đồng thời đáp ứng

được nhu cầu của thị trường thế giới, giúp chúng ta nhanh chóng rút ngắn khoảng
cách về trình độ kinh tế so với thế giới, tạo ra những điều kiện thuận lợi để cho
thành phần kinh tế tư bản nhà nước có điều kiện phát triển, đặc biệt là hình thức có
thu hút vốn đầu tư nước ngoài và sản xuất hàng xuất khẩu.



Kết luận

Qua tất cả các phần đã nghiên cứu ở trên, chúng ta đã phần nào nắm được tư
tưởng của Lê nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong hệ thống chính sách “ Kinh
tế mới ” cũng như vai trò của chủ nghĩa tư bản nhà nước đối với thực tiễn hiện nay
của nước ta.
Như vậy, chủ nghĩa tư bản nhà nước là sự can thiệp một cách tích cực của
nhà nước xã hội chủ nghĩa vào quá trình kinh tế của các nhà tư bản. Nó khác hẳn
chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ còn tồn tại nhà nước tư sản. Tính chất
hoạt động của nó đã thay đổi: nó không chỉ chịu sự kiểm soát và chi phối của nhà
nước xã hội chủ nghĩa mà còn hợp tác với nhà nước xã hội chủ nghĩa để cùng sản
xuất kinh doanh. Chính vì vậy, Lê nin đã cho rằng việc sử dụng chủ nghĩa tư bản
nhà nước là “ bước đệm quan trọng để tiến tới chủ nghĩa xã hội ”. Và việc sử dụng
chủ nghĩa tư bản nhà nước “ sẽ đưa chúng ta tới chủ nghĩa xã hội bằng con đường
chắc chắn nhất ”.
Hiện nay, nước ta đang từng bước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn
cảnh mới. Trong đường lối đổi mới của mình, chúng ta đã đặt kinh tế tư bản nhà
nước đứng ở vị trí thứ ba trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Như vậy, kinh tế
tư bản nhà nước không chỉ được coi như một thành phần kinh tế cùng tồn tại bình
đẳng với các thành phần kinh tế khác, mà nó còn mang ý nghĩa như những “ nấc
thang trung gian cần thiết ” để liên kết các thành phần kinh tế tư bản tư nhân trong
nước, kể cả tầng lớp tiểu tư sản hướng sự phát triển đó theo tay lái Nhà nước
XHCN. Với ý nghĩa như vậy, kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta không thể chỉ coi

như là một giải pháp mang tính chất tình thế mà là một nội dung tổng quát có ý


nghĩa chiến lược xuyên suốt thời kỳ quá độ cũng như quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Như vậy, có thể nói vận dụng các hình thức kinh tế tư bản nhà nước chính là
phương thức để chúng ta huy động sức mạnh dân tộc, của các thành phần kinh tế
nhằm giải phóng sức sản xuất, kết hợp nội lực bên trong với các yếu tố bên ngoài
để đưa nước ta thoát khỏi đói nghèo, hướng tới mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng văn minh như đại hội VIII của Đảng đã khẳng định.
Tuy nhiên, vận dụng kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta đang còn là vấn đề
mới mẻ và phức tạp. Những gì nhận thức và đạt được đến nay mới chỉ là bước
đầu. Vì vậy, cần xuất phát từ thực tiễn đổi mới để tìm ra con đường, biện pháp phù
hợp đưa nước ta từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc. Những
vấn đề mà trong đề án này đã đề cập còn rất hạn hẹp và cần phải được tiếp tục
nghiên cứu.


×