Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN “TẠM GIAM” THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.87 KB, 21 trang )

KHOA CHÍNH TRỊ HỌC

BÀI TẬP HỌC KÌ
MƠN: LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

ĐỀ SỐ 10
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN “TẠM GIAM” THEO QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
MSSV:
Lớp:

Hà Nội, tháng 11 năm 2020
1


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Th.S Ngô Thị Vân
Anh. Trong q trình học tập và tìm hiểu bộ mơn Luật tố tụng hình sự, em đã nhận
được sự quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn rất tận tình, tâm huyết của cơ. Cơ đã giúp em
tích lũy thêm nhiều kiến thức để có cái nhìn sâu sắc và hồn thiện hơn trong cuộc
sống. Từ những kiến thức mà cô truyền tải, em đã dần trả lời được những câu hỏi
trong cuộc sống thơng qua những lí luận về Luật tố tụng hình sự. Thơng qua bài
tiêu luận này, em xin trình bày lại những gì mà mình đã tìm hiểu về vấn đề biện
pháp ngăn chặn “Tạm giam” theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự gửi đến
cơ.
Có lẽ kiến thức là vô hạn mà sự tiếp nhận kiến thức của bản thân mỗi người
luôn tồn tại những hạn chế nhất định. Do đó, trong q trình hồn thành bài tiểu
luận, chắc chắn khơng tránh khỏi những thiếu sót. Bản thân em rất mong nhận


được những góp ý đến từ cơ để bài tiểu luận của em được hồn thiện hơn.
Kính chúc cơ sức khỏe, hạnh phúc thành cơng trên con đường sự nghiệp.

2


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT

Viết tắt

Viết đầy đủ

1

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

2

BPNC

Biện pháp ngăn chặn

3

BPTG


Biện pháp tạm giam

4

CQĐT

Cơ quan điều tra

5

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

6

HĐXX

Hội đồng xét xử

7

TAND

Tòa án nhân dân

8

TAQS


Tịa án qn sự

9

TTHS

Tố tụng hình sự

10

VKS

Viện kiểm sát

11

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

12

VKSQS

Viện kiểm sát quân sự

13

XHCN


Xã hội chủ nghĩa

3


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC

4


A. LỜI MỞ ĐẦU
Xuất phát từ quan điểm của Đảng và Nhà nước là nhà nước của dân do, dân
và vì dân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân nên quyền và nghĩa vụ của công dân
luôn được quy định rõ ràng trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) để bảo vệ
quyền lợi của mọi công dân được công bằng. BLTTHS nêu rõ một số biện pháp
ngăn chặn (BPNC) để phục vụ cho việc điều tra truy tố, xét xử bảo đảm tính trung
thực cơng minh, đúng người, đúng tội, không gây oan ức cho người vô tội và
không bỏ sót kẻ phạm tội.
Việc xây dựng hệ thống pháp luật có liên quan cũng như áp dụng biện pháp
tạm giam trên thực tế đang ngày càng được hoàn thiện. Tuy nhiên các quy định về
biện pháp tạm giam vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập dẫn đến nhiều vấn đề vướng
mắc trong việc áp dụng. Vậy biện pháp tạm giam được quy định như thế nào trong
BLTTHS và việc áp dụng biện pháp đó như thế nào trong thực tế đang là vấn đề
cần được quan tâm của xã hội.
Trong bài viết dưới đây em xin được tìm hiểu về vấn đề: “Biện pháp ngăn
chặn “Tạm giam” theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự”. Qua đó, mong
muốn có thể mang lại những nhận thức cơ bản về biện pháp tạm giam trong

BLTTHS cũng như có thể tìm ra những khiếm khuyết, những bất cập trong quy
định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam trong tố tụng
hình sự (TTHS) đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm năng cao hiệu quả của
biện pháp này.

5


B. NỘI DUNG
I. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.
1. Khái niệm và các vấn đề cơ bản của biện pháp tạm giam trong BLTTHS
Việt Nam.
1.1 Khái niệm biện pháp ngăn chặn.
BPNC là biện pháp cưỡng chế trong TTHS được áp dụng đối với bị can, bị
cáo, người bị truy nã hoặc đối với người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn
cấp hoặc phạm tội quả tang), nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội
của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây
cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Những BPNC khi
áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận
trong hiến pháp và các văn bản pháp luật khác. Vì vậy, việc áp dụng các BPNC
không thể áp dụng tràn lan, tuỳ tiện mà khi áp dụng phải tuân theo những căn cứ
nhất định.
Ý nghĩa của việc quy định những BPNC trong TTHS là để đảm bảo cho việc
đấu tranh, phòng chống tội phạm đạt hiệu quả cao. Nó đảm bảo sự hoạt động của
các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi, thể hiện sự chuyên chính của nhà
nước Xã hội chủ nghĩa (XHCN). BLTTHS hiện hành quy định những BPNC trong
chương VI gồm: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam, bảo
lãnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
1.2. Khái niệm của biện pháp ngăn chặn tạm giam.

Tạm giam là BPNC trong TTHS do cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toàn án áp
dụng đối với bị can, bị cáo về tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng hay bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiễm trọng theo quy định của
pháp luật.

6


Tạm giam là một trong những BPNC có tính chất nghiêm khác nhất trong các
BPNC của TTHS. Người bị áp dụng BPTG bị cách li với xã hội trong một thời gian
nhất định, bị hạn chế một số quyền của cơng dân.
1.3. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn tạm giam.
1.3.1. Mục đích:
Tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các giai đoạn khác nhau
của TTHS. Vì vậy, ngồi mục đích chung là ngăn chặn khơng để bị can, bị cáo có
điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án
thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng BPNC tạm giam cịn có mục
đích riêng nhằm bảo đảm thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng.
Ví dụ: Việc áp dụng BPTG trong giai đoạn điều tra tạo điểu kiện thuận lợi cho
Cơ quan điều tra (CQĐT) tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ từ lời khai của bị
can vào bất cứ khi nào nếu thấy cần thiết mà không phải mất thời gian triệu tập
nhiều lần, giúp cho quản lý giám sát bị can được chặt chẽ; còn việc tạm giam bị cáo
sau khi tuyên án nhằm đảm bảo cho việc thi hành bản án có hiệu lực pháp luật được
thuận lợi.
1.3.2. Ý nghĩa:
Với vai trò là một BPNC, tạm giam có ý nghĩa rất lớn trong việc đấu tranh và
phòng chống các loại tội phạm cũng như bảo đảm các quyền tự do dân chủ của
cơng dân, cụ thể:
Một là, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, củng cố tăng cường
pháp chế XHCN, thể hiện sự kiên quyết của nhà nước trong việc đấu tranh phòng

chống tội phạm. Đảm bảo cho trật tự xã hội được ổn định, pháp luật được giữ vững,
chế độ XHCN được bảo vệ.
Hai là, tạm giam tạo cơ sở pháp lý vững chắc nhằm đảm bảo sự tôn trọng các
quyển cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Khi áp dụng
BPTG không đúng pháp luật quy định, cơng dân có quyền khiếu nại đến các chủ
thể có thẩm quyền.

7


Ba là, tạm giam là biện pháp hữu hiệu bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án đạt hiệu quả cao nhất. Bảo đảm sự có mặt của bị can, bị
cáo theo giấy triệu tập, đảm bảo sự chính xác, khách quan của hoạt động tố tụng,
ngăn ngừa các đối tượng tiếp tục phạm tội hoặc tìm cách xóa dấu vết phạm tội,
chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án, đảm bảo cho việc thi hành đúng pháp luật.
Cuối cùng, tạm giam thể hiện tính ưu việt của nhà nước ta. Bảo đảm cho mọi
công dân được sống trong xã hội mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ được tơn
trọng và bảo vệ, bảo đảm cho mọi công dân yên tâm sinh sống, học tập, làm việc,
đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả cao nhất.
2. Nội dung quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về biện pháp
ngăn chặn tạm giam.
2.1. Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam.
Về đối tượng có thể bị áp dụng BPNC tạm giam là bị can, bị cáo. Bị can là
“Người hoặc pháp nhân bị khởi tổ về hình sự” (Khoản 1 Điều 60 BLTTHS 2015).
Còn bị cáo là “Người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử”
(Khoản 1 Điều 61 BLTTHS 2015). Tuy nhiên, không phải tất cả bị can, bị cáo đều
bị áp dụng BPTG, theo quy định của Điều 119 BLTTHS 2015 thì trường hợp có thể
áp dụng BPTG như sau:
Trường hợp thứ nhất (Khoản 1 Điều 119 BLTTHS 2015): Bị can, bị cáo về tội
đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng. Đây là trường hợp mà bị can, bị

cáo phạm tội mà theo quy định của BLHS, mức cao nhất của khung hình phạt áp
dụng đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình (tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng - Khoản 4 Điều 9 BLHS 2015) hoặc tội phạm mà mức cao nhất của
khung hình phạt đến 15 năm tù (tội phạm rất nghiêm trọng - Khoản 3 Điều 9 BLHS
2015 ). Việc áp dụng BPTG trong TH này cần 02 điều kiện: Người bị áp dụng phải
là bị can hoặc bị cáo; Bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất
nghiêm trọng.

8


Trường hợp thứ hai (Khoản 2 Điều 119 BLTTHS 2015): Bị can, bị cáo về tội
nghiêm trọng hoặc tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 02 năm
và có căn cứ xác định người đó ở vào một trong các trường hợp sau:
+ Đã bị áp dụng BPNC khác nhưng vi phạm. Đây là trường hợp bị can, bị cáo
đã được áp dụng BPNC khác ít nghiêm khắc nhưng đã vi phạm nghĩa vụ đã cam
kết như tiếp tục phạm tội, khơng có mặt khi được triệu tập...;
+ Khơng có nơi cư trú rõ ràng hoặc khơng xác định được lí lịch của bị can, bỏ
trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn, tiếp tục phạm tội
hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội. Để xác định điều kiện này phải căn cứ vào nhân
thân bị can, bị cáo, thái độ của họ sau khi phạm tội hoặc những vi phạm nghĩa vụ
của bị can, bị cáo khi được áp dụng BPNC khác ít nghiêm khắc.
+ Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi dục người khác khai báo gian dối,
cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giải mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án,
tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị
hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Ngoài ra, theo Khoản 3 Điều 119 BLTTHS 2015 tạm giam có thể áp dụng đối
với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt từ đến 02
năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn vè bị bắt theo quyết định truy nã.
Khi phạm tội thuộc những trường hợp trên, bị can, bị cáo bị áp dụng BPTG.

Tuy vậy, Khoản 4 Điều 119 BLTTHS 2015 quy định đối với bị can, bị cáo là phụ
nữ có thai hoặc đang ni con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh
nặng mà có nơi cứ trú và lí lịch rõ ràng thì khơng tạm giam mà áp dụng BPNC
khác, trừ những trường hợp sau đây:
+ Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
+ Bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi
giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giải mại
chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa,
khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân
thích của những người này;
9


+ Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác
định nếu khơng tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
2.2. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam.
Theo quy định tại Khoản 5, Điều 119, BLTTHS 2015, những người có thẩm
quyền quy định tại Khoản 1, Điều 113, BLTTHS 2015 có quyền ra lệnh bắt bị can,
bị cáo để tạm giam:
- Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp. Trong trường hợp này, lệnh bắt
tạm giam phải được Viện kiểm sát (VKS) cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;
- Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) và Viện
trưởng, phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu (VKSQS) các cấp;
- Chánh án, Phó chánh án Tịa án nhân dân (TAND) và Chánh án, Phó Chánh
án Tịa án nhân qn sự (TAQS) các cấp; Hội đồng xét xử;
Như vậy, thẩm quyền áp dụng BPTG được quy định cho nhiều cơ quan với
nhiều chủ thể khác nhau tùy thuộc vào các giai đoạn tố tụng. VKS với chức năng là
cơ quan kiêm sát các hoạt động tư pháp sẽ kiêm tra, giám sát hoạt động này, đặc
biệt với lệnh tạm giam của thủ trưởng, phó thủ trưởng CQĐT các cấp cần phải
được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Thời hạn mà VKS phải xem xét

để tra quyết định phê chuẩn lệnh tạm giam của CQĐT là 03 ngày kể từ ngày nhận
được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ tài liệu liên quan đến việc tạm
giam. VKS phải hoàn trả hồ sơ cho CQĐT ngay sau khi kết thúc việc xét phê
chuẩn.
2.3. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam.
Hiện nay, BLTTHS chưa quy định cụ thể về căn cứ áp dụng BPTG mà chỉ
quy định về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung trong TTHS. Như vậy,
có thể xác định căn cứ áp dụng BPTG như sau:
- Để kịp thời ngăn chặn tội phạm khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây
khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thể hiện qua việc sau khi thực hiện
hành vi phạm tội, người thực hiện tội phạm có thể bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ, v.v...

10


- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội. Được thể hiện qua
các yếu tố phản ánh về nhân thân của các bị can, bị cáo: bị can, bị cáo là những
phần tử xấu, là những kẻ tái phạm, tái phạm nguy hiểm, là những tên tội phạm có
tính chất chun nghiệp,... cịn được thế hiện qua hành vi của bị can, bị cáo như đe
dọa trả thù người làm chứng, người bị hại và sự đe dọa đó có khả năng trở thành
hiện thực.
- Khi cần đảm bảo thi hành án, tùy theo tính chất của từng vụ án, tùy theo
nhân thân của người bị kết án, Tịa án có thể áp dụng BPNC thích hợp. Tịa án có
thể áp dụng BPNC bắt bị can, bị cáo để tạm giam, áp dụng BPNC tạm giam đối với
bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án (trong những trường hợp mà luật định), cịn
nếu có đủ cơ sở cho rằng bị cáo sẽ khơng bỏ trốn, khơng gây cản trở khó khăn cho
việc thi hành án thì khơng cần áp dụng BPTG mà áp dụng những BPNC ít nghiêm
khắc hơn.
2.4. Thủ tục tạm giam.
Với tính chất là BPNC nghiêm khắc nhất, hạn chế tự do của người bị áp dụng

trong một khoảng thời gian nhất định, vì vậy việc áp dụng BPTG cần phải tuân
theo một trình tự, thủ tục rất chặt chẽ.
Thủ tục tạm giam được quy định tại khoản 2, khoản 3 điều 113 của BLTTHS:
Lệnh bắt, quyết định phê chuẩn lệnh, quyết định bắt phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của
người bị bắt; lý do bắt và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật
này. Người thi hành lệnh, quyết định phải đọc lệnh, quyết định; giải thích lệnh,
quyết định, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt;
giao lệnh, quyết định cho người bị bắt.
Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền
xã, phường, thị trấn và người khác chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi
người đó làm việc, học tập phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc,
học tập chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của
đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người; Không được bắt

11


người vào ban đêm, trừ trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy
nã quy định tại Điều 111 và Điều 112 của Bộ luật này.
Theo quy định tại khoản 5, khoản 6 Điều 119 BLTTHS lệnh tạm giam của
CQĐT phải được Viện trưởng VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Tạm
giam không chỉ hạn chế quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do, danh dự
của cơng dân mà cịn ảnh hưởng đến cả nhân thân của họ. Chính vì vậy, CQĐT
phải kiểm tra phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam, tranh trường hợp
nhầm lẫn. Đồng thời thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam, chính quyền
xã, phường, thị trấn nơi người bị tạm giam cứ trú hoặc cơ quan tổ chức nơi người
bị tam giam làm việc, học tập biết để gia đình họ cũng như các cơ quan tổ chức biết
được sự việc và không phải tiến hành những thủ tục tìm kiếm khơng cần thiết, gây
tốn kém.
2.5. Chế độ tạm giam.

Việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam không phải nhằm trừng trị người
phạm tội mà để ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn
cho việc giải quyết vụ án của người phạm tội. Vì vậy, người bị tạm giữ, tạm giam
không phải chấp hành chế độ của người thi hành hình phạt tù mà chỉ chấp hành các
quy định về chế độ đi lại, sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình trong thời gian bị
tạm giữ, tạm giam.
Hiện nay theo quy định tại Luật thi hành tạm giữ, tạm giam. Nghị định số
120/2017/ND-CP quy định chi tiết một số điều của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam
thì chế độ tạm giữ, tạm giam được xác định rất cụ thể, chi tiết về: Chế độ ăn, mặc,
chăm sóc y tế (gọi chung là chế độ) đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam;
kinh phí bảo đảm thực hiện chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam;
kinh phí bảo đảm chăm sóc, ni dưỡng đối với trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng
mẹ trong cơ sở giam giữ; việc thăm gặp, tiếp xúc lãnh sự đối với người bị tạm giữ,
người bị tạm giam là người nước ngoài... Về chế độ chăm nom người thân thích và
bảo quản tài sản của người bị tạm giam, tạm giữ quy định cụ thể tại Điều 120
BLTTHS 2015.
12


2.6. Thời hạn tạm giam.
Trong bộ luật TTHS 2015 thời hạn tạm giam không được quy định tập trung ở
một điều luật mà được quy định theo từng giai đoạn của quá trình tố tụng. Cụ thể:
- Tạm giam để điều tra.
Điều 173 BLTTHS 2015 quy định thời hạn tạm giam để điều tra không quá 2
tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, khơng q 3 tháng đối với tội phạm nghiêm
trọng, không quá 4 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng.
Trường hợp vụ án có nhiểu tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn
cho việc điều tra và khơng có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ BPTG thì chậm nhất
là 10 ngày trước khi hết thời hạn tạm giam, CQĐT phải có văn bản đề nghị VKS

gia hạn tạm giam. Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau: Đối với tội phạm
ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 1 lần khơng q 1 tháng; Đối với tội
phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 1 lần không quá 2 tháng; Đối với
tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 1 lần không quá 3 tháng;
Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 2 lần, mỗi
lần không quá 4 tháng.
Trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng
VKSND tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá 4 tháng (Khoản 5
Điều 173). So sánh thời hạn tạm giam để điều tra (quy định tại Điều 173) với thời
hạn điều tra (quy định tại Điều 172) thì thời hạn tạm giam để điều tra bằng với thời
hạn điều tra còn thời hạn gia hạn tạm giam để điều tra đối với các tội ít nghiêm
trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng ngắn hơn thời hạn gia hạn để điều tra.
- Tạm giam để truy tố.
Điều 241 BLTTHS 2015 quy định: “Thời hạn áp dụng BPNC trong giai đoạn
truy tố không được quá thời hạn quy định tại Khoản 1 Điều 240 của Bộ luật này”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 240: Trong thời hạn 20 ngày đối với tội phạm ít
nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng
và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều
13


tra, VKS phải ra một trong các quyết định: truy tố bị can trước Tòa án; trả hồ sơ để
yêu cầu điều tra bố sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; đình chỉ hoặc tạm đình
chỉ vụ án đối với bị can. Trong trường hợp cần thiết, Viện trưởng VKS có thể gia
hạn thời hạn quyết định việc truy tố nhưng không quá 10 ngày đối với tội phạm ít
nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, khơng q 15 ngày đối với tội phạm rất
nghiêm trọng; không quá 30 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trong.
- Tạm giam để xét xử sơ thẩm.
Khoản 2, Điều 278 BLTTHS 2015 quy định: “Thời hạn tạm giam để chuẩn bị
xét xử không được quá thời hạn chuẩn hị xét xứ quy định tại khoản 1 Điều 277 của

Bộ luật này”. Theo quy định tại Điều 277, thời hạn chuẩn bị xét xử là 30 ngày đối
với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đổi với tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng đối
với tội phạm rất nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể
từ ngày thụ lý vụ án. Đối với những vụ án phức tạp, Chánh án Tịa án có thể quyết
định gia hạn nhưng khơng q 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội
phạm nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng.
- Tạm giam để xét xử phúc thẩm.
Điều 347 BLTTHS 2015 quy định: “Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử
không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 346 Bộ luật
này. Theo quy định tại Điều 346 BLTTHS 2015, TAND cấp tỉnh, TAQS cấp quân
khu phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 60 ngày; TAND cấp cao, TAQS
trung ương phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận
được hồ sơ vụ án. Trong thời hạn 45 ngày đối với TAND cấp tỉnh, TAQS cấp quân
khu, 75 ngày đối với vụ án TAND cấp cao, TAQS trung ương kể từ ngày thụ lý vụ
án. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án
phải mở phiên tòa phúc thẩm. Chậm nhất 10 ngày trước khi mở phiên tòa, Tòa án
cấp phúc thẩm phải gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử cho VKS cùng cấp, người
bào chữa, bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự,

14


người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng
nghị.
Trường hợp còn thời hạn tạm giam bị cáo mà xét thấy cần phải tiếp tục tạm
giam bị cáo thì Tịa án cấp phúc thẩm sử dụng thời hạn tạm giam theo quyết định
tạm giam của Tòa án cấp sơ thẩm. Trường hợp hết thời hạn tạm giam theo quyết
định tạm giam của Tòa án cấp sơ thẩm thì Chánh án, Phó Chánh án Tịa án ra quyết
định tạm giam mới. Tại phiên tòa phúc thẩm, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để

hoàn thành việc xét xử thì HĐXX ra quyết định tạm giam cho đến khi kết thúc
phiên tòa.
- Tạm giam đế đảm bảo thi hành án.
Ngay sau khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm, Hội đồng xét xử (HĐXX) có
thể quyết định việc tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án. Trường hợp bị
cáo đang bị tạm giam mà bị xử phạt tù nhưng xét thấy cần tiếp tục tạm giam để bảo
đảm thi hành án thì HĐXX ra quyết định tạm giam bị cáo, trừ trường hợp được quy
định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 328 của Bộ luật này; Trường hợp bị cáo không bị
tạm giam nhưng bị xử phạt tù thì họ chỉ bị bắt tạm giam để chấp hành hình phạt khi
bản án đã có hiệu lực pháp luật. HĐXX có thể ra quyết định bắt tạm giam bị cáo
ngay tại phiên tòa nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội.
Thời hạn tạm giam bị cáo là 45 ngày kể từ ngày tuyên án.
Điều 38 BLHS 2015 quy định: “Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào
thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù.”.
2.7. Quyền của người bị tạm giam.
Người bị tạm giam là bị can, bị cáo, người bị kết án tù hoặc tử hình bỏ trốn bị
bắt để tạm giam và đối với họ đã có lệnh tạm giam. Từ khái niệm trên có thể khẳng
định, người bị tạm giam có đầy đủ các quyền của bị can, bị cáo quy định tại Điều
60, Điều 61. Theo đó, mặc dù bị can, bị cáo có thể đang bị tạm giam để đảm bảo
cho công tác điều tra, truy tổ, xét xử nhưng cơ CQTHTT vẫn phải đảm bảo các
điều kiện cần thiết để cho bị can, bị cáo thực hiện được các quyền của mình, bảc vệ
quyền và lợi ích chính đáng của bản thân. Việc quy định các quyền của bị can, bị
15


cáo ngồi mục đích để bị can, bị cáo chủ động tham gia tổ tụng cịn góp phần vào
việc tránh bỏ lọt tội phạm, tránh bắt giam người vô tội trong khi CQTHTT thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
3. Một số điểm mới về biện pháp ngăn chặn “Tạm giam” theo quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

Thứ nhất, về đối tượng áp dụng: Ngoài 2 nhóm đối tượng được quy định
trong
BLTTHS 2003 là “bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng” và “bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ
luật Hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm” (nếu thuộc một trong những căn
cứ luật định) thì BLTTHS 2015 bổ sung thêm 01 nhóm đối tượng nữa cũng có thể
bị áp dụng BPNC tạm giam, đó là “bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà
BLHS quy định hình phạt tù đến hai năm” nhưng phải thuộc một trong các trường
hợp “nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã”.
Việc mở rộng thêm đối tượng bị áp dụng BPNC tạm giam là phù hợp với thực tiễn
và chính sách hình sự của nước ta vì trong trường hợp đối tượng phạm tội nhiều lần
hoặc sau khi phạm tội bỏ trốn là thể hiện mức cao hơn tính chất nguy hiểm của
hành vi phạm tội, cần phải được áp dụng BPNC tạm giam nếu xét thấy cần thiết.
Thứ hai, về căn cứ áp dụng: Khắc phục tính định tính trong cách quy định
căn cứ trong BLTTHS 2003, BLTTHS 2015 đã quy định áp dụng BPTG rõ ràng, cụ
thể, mang tính định lượng hơn như: “đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác
nhưng vi phạm”, “khơng có căn cứ rõ ràng hoặc khơng xác định được lý lịch của
bị can”. Bên cạnh đó, đã cụ thể hóa căn cứ “cản trở việc điều tra, truy tố, xét
xử” của BLTTHS 2003 thành “có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người
khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ,
tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế,
trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của
những người này”. Cách quy định như trên giúp cho các CQTHTT, người tiến

16


hành tố tụng dễ dàng hơn trong việc áp dụng pháp luật, hạn chế thấp nhất sự tùy
tiện, lạm dụng việc áp dụng biện pháp tạm giam trong giải quyết các vụ án hình sự.
Thứ ba, về thời hạn tạm giam: Theo quy định tại BLTTHS 2003: Đối với tội

phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 2 lần, lần thứ nhất không quá 02
tháng và lần thứ 2 không quá 01 tháng; Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể
được gia hạn tạm giam 2 lần, lần thứ nhất không quá 03 tháng và lần thứ 2 không
quá 02 tháng; Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm
giam 3 lần, mỗi lần không quá 04 tháng; Theo quy định tại BLTTHS 2015 thì: Đối
với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 1 lần không quá 02 tháng;
Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 1 lần không quá
03 tháng; Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm
giam 2 lần, mỗi lần không quá 04 tháng. Việc giảm bớt số lần và rút ngắn thời hạn
gia hạn tạm giam để điều tra như trên chính là sự thể chế hóa tinh thần của Hiến
pháp năm 2013 đề cao quyền con người, quyền cơng dân.
Ngồi ra, BLTTHS 2015 còn quy định bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc
đang ni con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng phải có đủ
2 điều kiện “có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng” thì mới khơng áp dụng BPTG mà áp
dụng BPNC khác. Trong trường hợp họ “tiếp tục phạm tội” thì có thể áp dụng
BPTG, khơng kể đã áp dụng các BPNC khác. Quy định về việc chăm sóc, nuôi
dưỡng trẻ em là con của người bị tạm giữ, tạm giam được tách riêng và được thực
hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành (Luật thi hành tạm giữ, tạm giam).
II. MỘT SỐ HẠN CHẾ VỀ CÁC QUY ĐỊNH TẠM GIAM TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VÀ ĐỀ XUẤT HƯỚNG HOÀN THIỆN.
1. Những hạn chế trong việc áp dụng các quy định về tạm giam trong tố tụng
hình sự ở nước ta hiện nay.
Việc áp dụng BPTG trong thời gian qua về cơ bản chặt chẽ, đúng pháp luật,
đáp ứng u cầu, mục đích của một BPNC, góp phần đảm bảo chất lượng, hiệu quả
của công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Tuy nhiên, cũng có khơng ít

17


vướng mắc, trở ngại hoặc vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích của cơng

dân khi thực hiện quy định này ở một số vụ án.
Thống kê của chúng tôi cho thấy, nhiều trường họp CQĐT ra lệnh tạm giam,
lệnh bắt tạm giam khơng có căn cứ nên khơng được VKS phê chuẩn; khơng ít
trường hợp các cơ quan THTT lạm dụng áp dụng BPTG trong khi có thể áp dụng
các biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn. Theo báo cáo của các CQTHTT,
hàng năm vẫn có gần 7% số ngưòi bị tạm giữ, tạm giam cuối cùng chỉ bị xử lý
hành chính; khoảng 85% người bị kết án, bị can, bị cáo bị tạm giam, trong khi chỉ
từ 70% - 75% bị Tòa án phạt tù. Đó là những con số cần suy nghĩ về thực trạng áp
dụng biện pháp tạm giam trong hoạt động TTHS.
Hiện nay việc thực hiện biện pháp tạm giam vẫn theo hướng dẫn của nghị
quyết số: 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao. Tuy nhiên, trong q trình thực hiện, vẫn cịn khó khăn trong
quan điểm của người áp dụng. Ví dụ: Đối với vụ án có nhiều bị can bị truy tố về
nhiều tội phạm khác nhau, các bị can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Tạm giam”
thì theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP trường hợp trong vụ án
có nhiều bị can bị truy tố về nhiều tội phạm khác nhau (tội phạm ít nghiêm trọng,
tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng), thì thời hạn tạm giam đối với từng bị can không được quá thời hạn chuẩn bị
xét xử đối với tội phạm nặng nhất mà bị can đó bị truy tố. Trong trường hợp, vụ án
có nhiều bị can cùng bị truy tố về một tội phạm nhưng theo các khoản khác nhau,
khung hình phạt khác nhau thì việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam như thế
nào? Hiện nay, chưa có hướng dẫn cụ thể để thực hiện thống nhất.
Khi vụ án được đưa ra xét xử, tại phiên tòa căn cứ Điều 297 BLTTHS năm
2015 thì thẩm phán chủ tọa phiên tịa thay mặt HĐXX ra quyết định hỗn phiên
tịa. Thời hạn hỗn phiên tịa sơ thẩm khơng được quá 30 ngày kể từ ngày ra quyết
định hoãn phiên tòa. Nếu bị cáo bị áp dụng BPNC tạm giam, thì lệnh tạm giam tiếp
theo được thực hiện như thế nào? Và căn cứ vào những quy định nào để ra lệnh
tạm giam tiếp theo? Thời hạn hỗn phiên tịa có được tính vào thời hạn chuẩn bị xét
18



xử hay không? Đây cũng là vấn đề mà một số người áp dụng còn boăn khoăn muốn
được cơ quan cơ quan cấp trên hướng dẫn, giải đáp.
2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng của biện
pháp tạm giam trong tố tụng hình sự trên thực tế
Cần sửa khoản 2 Điều 278 theo hướng “Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử
không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 277 của Bộ luật này.”
Về thời hạn quyết định tạm giữ đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp phải được tính từ khi lập biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp, có như
thế mới đảm bảo quyền của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
Cần thay thế Nghị quyết số: 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 ngày
02/10/2004; Nghị quyết số: 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng
Thẩm phán TANDTC và Ban hành các biểu mẫu mới về các biện pháp ngăn chặn
để phù hợp với quy định của Bộ luật Tố tụng mới và với thực tiễn xét xử của
ngành.

C. KẾT LUẬN
Trong hệ thống các BPNC, BPTG chiếm một vị trí quan trọng. Chúng là sự
thể hiện khá rõ nét của biện pháp cưỡng chế nhà nước và là một phương tiện hữu
hiệu để CQTHTT hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Nhìn chung, hoạt động áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện
pháp ngăn chặn tạm giam nói riêng trong thời gian qua đã tuân thủ đầy đủ các quy
định của pháp luật TTHS, bảo đảm các quyền của công dân và cơ bản đã đáp ứng
u cầu của q trình đấu tranh phịng và chống tội phạm. Tuy nhiên bên cạnh kết
quả đã đạt được, quá trình áp dụng BPNC tạm giam đã bộc lộ những hạn chế làm
giảm đi hiệu quả của quá trình tố tụng. Trước u cầu đổi mới tồn diện của đất
19


nước, diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm địi hỏi phải tiếp tục và kịp thời

hồn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật và trong đó có BPNC tạm giam.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Chính phủ (2017), Nghị định số 120/2017/ND-CP quy định chi tiết một số
điều của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam.
2. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
3. Quốc hội (2015), Luật số 94/2015/QH13 về thi hành tạm giữ, tạm giam.
4. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
5. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt
nam. Nxb.Cơng an nhân dân, Hà nội.
6.

Triệu Văn Mẫn - Luận văn thạc sĩ luật học (2016), Các

biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam, thực
trạng nguyên nhân và giải pháp, Hà nội.
7. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb Từ điển Bách khoa,
Hà Nội.
20


Website:
- />- />- />
21



×