Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

đánh giá về quan điểm cho rằng chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.28 KB, 38 trang )

Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

1






Tiểu luận

Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của
luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ
chức phi chính phủ







Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

2

LỜI MỞ ĐẦU 5
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ 7
1.1. Khái niệm 7
1.2. Đặc điểm 8


1.3. Quyền năng chủ thể 8
1.4. Phân loại 9
CHƯƠNG 2: NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ 10
2.1. Quan điểm truyền thống 10
2.1.1. Quốc gia 10
2.1.1.1. Các yếu tố cấu thành Quốc gia 10
2.1.1.2. Quyền năng chủ thể luật quốc tế của Quốc gia 11
2.1.2. Dân tộc đấu tranh giành quyền tự quyết 12
2.1.2.1. Khái niệm 12
2.1.2.2. Quyền năng chủ thể luật quốc tế của dân tộc đang đấu tranh giành quyền
dân tộc tự quyết 13
2.1.3. Tổ chức quốc tế liên chính phủ 14
2.1.3.1. Khái niệm 14
2.1.3.2. Quyền năng chủ thể luật quốc tế của tổ chức quốc tế liên chính phủ 15
2.1.4. Chủ thể đặc biệt 16
2.2. Quan điểm hiện đại 17
2.2.1. Cá nhân 18
2.2.1.1. Trách nhiệm pháp lý 19
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

3

2.2.1.2. Quyền của cá nhân được thỉnh cầu lên toà án quốc tế 19
2.2.1.3. Vị thế pháp lý (status) của một số nhóm cá nhân trong luật quốc tế 20
2.2.2. pháp nhân - Công ty xuyên Quốc gia 21
2.2.2.1. Khái niệm 21
2.2.2.2. Vai trò chủ thể quan hệ quốc tế của Công ty xuyên quốc gia. 21
2.2.3. Các tổ chức phi chính phủ 25
2.2.3.1. Khái niệm 25

2.2.3.2. Vai trò của tổ chức phi chính phủ trong quan hệ quốc tế 25
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ CÁC QUAN ĐIỂM VỀ CHỦ THỂ CỦA LUẬT
QUỐC TẾ 27
3.1. Ưu và nhược điểm của quan điểm truyền thống 27
3.1.1. Ưu điểm 27
3.1.2. Nhược điểm 28
3.2. Ưu và nhược điểm của quan điểm hiện đại 29
3.2.1. Ưu điểm 29
3.2.1.1. Cá nhân Error! Bookmark not defined.
3.2.1.2. Pháp nhân và các Tổ chức phi chính phủ Error! Bookmark not defined.
3.2.2. Nhược điểm 29
3.2.2.1. Cá nhân Error! Bookmark not defined.
3.2.2.2. Pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ Error! Bookmark not defined.
3.3. Đánh giá quan điểm cá nhân, pháp nhân là chủ thể của luật quốc tế…… 31
3.3.1. Về đối tượng điều chỉnh của Luật Quốc tế 33
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

4

3.3.2. Về phương pháp điều chỉnh 34
3.3.3. Về biện pháp chế tài 34
3.3.4. Về chủ thể 34
3.3.5. Nguồn luật điều chỉnh 35
3.3.6. Quan điểm về chủ thể của luật quốc tế ở Việt Nam 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO. 38








Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

5

LỜI MỞ ĐẦU

Trong bất cứ quan hệ pháp luật nào thì chủ thể luôn đóng vai trò vô cùng quan
trọng và là một trong những dấu hiệu để xác định mối quan hệ nào đó thuộc sự điều
chỉnh của hệ thống pháp luật nào. Luật Quốc tế là hệ thống pháp luật được tập hợp từ
nhiều văn bản từ nhiều nguồn khác nhau. Việc nghiên cứu về chủ thể là rất cần thiết
vì giúp tìm ra đâu là nguồn của luật, quan hệ nào thuộc sự điều chỉnh của luật.
Thực tế trên thế giới hiện nay ngoài quan điểm truyền thống cho rằng quốc gia,
các dân tộc đang đấu tranh, tổ chức liên chính phủ, chủ thể đặc biệt khác là chủ thể
của luật thì còn có quan điểm (hiện đại) cho rằng cá nhân, các công ty xuyên quốc
gia, tổ chức phi chính phủ cũng nên được xem là chủ thể của luật Quốc Tế. Đây là
quan điểm mới và cũng được một số nước trên thế công nhận. Hiện tại ở Việt Nam
mặc dù cũng có nhiều ý kiến về vấn đề mới này nhưng chưa có nhiều công trình
nghiên cứu sâu về quan hiện đại. Câu hỏi được đặt ra là: Chúng ta có suy nghĩ gì về
vấn đề này? Có nên công nhận quan niệm hiện đại?
Đây là đề tài được xem là khá mới mẻ và còn nhiều vấn đề cần phải làm rõ nên
chúng ta cần phải nghiên cứu sâu hơn để tìm ra lời giải đáp phù hợp với thực tiễn
hiện nay.
Đề tài áp dụng phương pháp thống kê để thu thập những bài viết có liên quan,
đồng thời phân tích, so sánh, đối chiếu để làm rõ các vấn đề có liên quan đến chủ thể
của Luật. Tổng hợp những nhận định, ý kiến của nhiều người để từ đó đưa ra quan
điểm chung về vấn đề này.

Việc nghiên cứu sẽ giúp chúng ta nắm được những vấn đề cơ bản về chủ thể
của luật Quốc Tế đồng thời giúp mọi người tìm ra được sự khác biệt giữa chủ thể của
luật Quốc tế với các ngành Luật khác. Giúp người đọc có cái nhìn rộng hơn về chủ
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

6

thể của Luật Quốc tế, tiếp xúc với nhiều quan điểm, ý kiến mới để từ đó có cái nhìn
bao quát hơn. Việc nên hay không nên công nhận thêm các chủ thể khác vào Luật
Quốc tế hiện nay là chuyện rất dài và tốn nhiều thời gian.
Đề tài này mong muốn giúp đọc giả có được nhiều cách nhìn nhận hơn về chủ
thể của Luật Quốc Tế. Nếu có sự thay đổi đáng kể về chủ thể của luật có thể sẽ có
nhiều vấn đề được giải quyết hiệu quả hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Nhóm thực hiện đề tài
Nhóm 6 lớp K09504

Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

7

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỦ THỂ CỦA LUẬT
QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm
Dưới góc độ lý luận khoa học pháp lý, để xác định được đối tượng của Luật Quốc tế
cần phải dựa vào các dấu hiệu cơ bản sau:
 Có sự tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế do Luật Quốc tế điều chỉnh.
 Có ý chí độc lập (không phụ thuộc vào chủ thể khác) trong sinh hoạt quốc tế.

 Có đầy đủ quyền và nghĩa vụ riêng biệt đối với các chủ thể khác thuộc phạm vi
điều chỉnh của Luật Quốc tế.
 Có khả năng gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do những hành vi mà
chủ thể gây ra.
Cùng với quá trình phát triển khách quan của xã hội thì sự tồn tại và phát triển
của Luật Quốc tế cũng đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, do đó trong từng giai đoạn
lịch sử mà phạm vi điều chỉnh của Luật Quốc tế có sự thay đổi dẫn tới chủ thể của
Luật Quốc tế cũng có sự khác nhau nhất định. Trong giai đoạn chiếm hữu nô lệ thì
chủ thể của Luật Quốc tế là các quốc gia chủ nô, các liên đoàn chính trị tôn giáo của
các quốc gia thành thị. Trong thời kỳ phong kiến, chủ thể Luật Quốc tế là các quốc
gia phong kiến, các nhà thờ thiên chúa giáo. Đến giai đoạn tư bản chủ nghĩa thì chủ
thể của Luật Quốc tế là các quốc gia có chủ quyền và các tổ chức quốc tế.
1

Từ những cơ sở trên, chúng ta có thể định nghĩa tổng quát khái niệm chủ thể
của Luật Quốc tế như sau: chủ thể của Luật Quốc tế là những thực thể đang tham gia
hoặc có khả năng tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế một cách độc lập, có đầy đủ

1
Một số vấn đề lý luận cơ bản về Luật Quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia 1994, tr 30
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

8

quyền và nghĩa vụ quốc tế và khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế từ
những hành vi mà chính chủ thể thực hiện.
1.2. Đặc điểm
Xét về vị trí, tính chất, vai trò chức năng và bản chất pháp lý… thì các chủ thể
của Luật Quốc tế có sự khác nhau, tuy nhiên chúng bao giờ cũng có chung các đặc

điểm cơ bản và đặc trưng sau:
 Là thực thể đang tham gia hoặc có khả năng tham gia quan hệ pháp Luật Quốc
tế.
 Độc lập về ý chí, không chịu sự tác động của các chủ thể khác.
 Được hưởng quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế.
 Có khả năng gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do những hành vi mà
chủ thể đó gây ra.
 Không có một chủ thể nào có quyền tài phán chủ thể của Luật Quốc tế.
1.3. Quyền năng chủ thể
Quyền năng chủ thể Luật Quốc tế là thuộc tính cơ bản, là khả năng pháp lý đặc
biệt của những chủ thể được hưởng quyền và gánh vác nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý
trong quan hệ pháp Luật Quốc tế. Quyền năng chủ thể bao gồm hai phương diện và chỉ
khi có đầy đủ hai phương diện này thì mới được coi là chủ thể của Luật Quốc tế.
Năng lực pháp luật quốc tế: là khả năng chủ thể của Luật Quốc tế được mang
những quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế, khả năng này được ghi nhận trong các quy
phạm pháp luật Quốc tế.
Năng lực hành vi quốc tế: là khả năng chủ thể được thừa nhận trong Luật Quốc tế
bằng những hành vi pháp lý độc lập của mình tự tạo ra cho bản thân quyền năng chủ
thể và có khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế do các hành vi của mình gây
ra.
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

9

1.4. Phân loại
Hiện nay, trong quan hệ pháp Luật Quốc tế hiện đại thì chủ thể của Luật Quốc tế bao
gồm:
 Quốc gia, đây là chủ thể cơ bản và chủ yếu của Luật Quốc tế.
 Các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập, đây là chủ thể tiềm tàng của Luật

Quốc tế.
 Các tổ chức quốc tế liên chính phủ, đây là chủ thể phái sinh của Luật Quốc tế,
được hình thành bởi sự hợp tác của các quốc gia trên nhiều lĩnh vực hướng đến lợi
ích của các quốc gia và lợi ích chung của cộng đồng.
 Các chủ thể đặc biệt khác.
Tuy nhiên trong trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, vai trò của các cá nhân,
tập đoàn, công ty đa quốc gia, các hiệp hội phi chính phủ trong quan hệ quốc tế ngày
càng tăng cho nên việc thừa nhận các chủ thể có sự tham gia vào một số quan hệ
pháp luật quốc tế ở một số lĩnh vực nhất định, do đó có quan điểm cho rằng đây cũng
là chủ thể của Luật Quốc tế.

Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

10

CHƯƠNG 2: NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ CHỦ THỂ CỦA LUẬT
QUỐC TẾ
2.1. Quan điểm truyền thống
Theo quan điểm truyền thống thì luật quốc tế có 4 loại chủ thể sau đây:
Một là, các quốc gia có độc lập, chủ quyền – Chủ thể cơ bản và chủ yếu của Luật
quốc tế
Hai là, các tổ chức quốc tế liên chính phủ - Chủ thể hạn chế, chủ thể phái sinh của
Luật quốc tế
Ba là, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết
Bốn là, các thực thể có quy chế pháp lý – chính trị đặc biệt khác (các vùng lãnh thổ)
– Chủ thể đặc biệt của Luật quốc tế
2.1.1. Quốc gia
2.1.1.1. Các yếu tố cấu thành Quốc gia
Quốc gia là một phần tạo nên cộng đồng quốc tế, hiện nay trong khoa học pháp

lý quốc tế chưa có một định nghĩa thống nhất được chấp nhận chung về thuật ngữ
"quốc gia". Tuy nhiên, tại điều 1 Tuyên bố Montevideo về quyền và nghĩa vụ của các
quốc gia được thông qua tại Hội nghị quốc tế các nước châu Mỹ ngày 27/12/1933 có
đưa ra một vài yếu tố chính dẫn đến sự hình thành quốc gia, đó là:
Thứ nhất, có lãnh thổ xác định: đây là dấu hiệu cơ bản nhất hình thành quốc gia.
Không tồn tại lãnh thổ thì không thể có quốc gia. Lãnh thổ quốc gia được xác định là
một phần của trái đất và được coi là cơ sở vật chất cho sự tồn tại và phát triển của quốc
gia. Lãnh thổ quốc gia là ranh giới để xác định chủ quyền quốc gia đối với dân cư của
mình. Vấn đề kích thước lãnh thổ rộng hay hẹp, địa hình thuận lợi hay bất lợi đều
không có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại hay mất đi của danh nghĩa quốc gia.
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

11

Thứ hai, có cộng đồng dân cư ổn định: Theo nghĩa rộng, dân cư của một quốc gia là
tất cả những người sinh sống trên lãnh thổ một quốc gia nhất định và tuân theo pháp
luật của nhà nước đó. Theo nghĩa hẹp, dân cư dùng để chỉ tất cả những người có quốc
tịch của quốc gia đó. Mối quan hệ pháp lý ràng buộc giữa nhà nước với cộng đồng dân
cư của quốc gia chủ yếu thông qua chế định quốc tịch.
Thứ ba, có chính phủ với tư cách là người đại diện cho quốc gia trong quan hệ quốc
tế. Chính phủ này phải là chính phủ thực thi một cách có hiệu quả quyền lực nhà nước
trên phần lớn hoặc toàn bộ lãnh thổ quốc gia một cách độc lập, không bị chi phối,
khống chế bởi quốc gia khác.
Thứ tư, có khả năng độc lập tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế: "khả
năng" này có được xuất phát từ chủ quyền quốc gia khi thực hiện chức năng đối ngoại
của mình
2.1.1.2. Quyền năng chủ thể luật quốc tế của Quốc gia
Quyền năng chủ thể LQT của quốc gia là tổng thể những quyền và nghĩa vụ mà
quốc gia có được khi tham gia vào quan hệ pháp lý quốc tế. Quốc gia là chủ thể duy

nhất có quyền năng đầy đủ khi tham gia quan hệ quốc tế, điều này thể hiện ở các quyền
và nghĩa vụ quốc tế cơ bản sau:
* Quyền quốc tế cơ bản:
 Quyền bình đẳng về chủ quyền và quyền lợi.
 Quyền được tự vệ cá nhân hoặc tự vệ tập thể.
 Quyền được tồn tại trong hòa bình và độc lập.
 Quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ.
 Quyền được tham gia vào việc xây dựng các quy phạm pháp luật quốc tế.
 Quyền được trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế phổ biến.
*Nghĩa vụ quốc tế cơ bản:
 Tôn trọng chủ quyền của các quốc gia.
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

12

 Tôn trọng sự bất khả xâm phạm về lãnh thổ của các quốc gia khác.
 Không áp dụng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực.
 Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
 Hợp tác hữu nghị với các quốc gia khác nhằm duy trì hòa bình, an ninh quốc tế.
 Tôn trọng nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ quốc tế.
 Tôn trọng những quy phạm Jus Cogens và những cam kết quốc tế.
 Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các phương pháp hòa bình.
Ngoài các quyền và nghĩa vụ trên đây, các quốc gia khi tham gia quan hệ pháp
luật quốc tế có thể tự hạn chế những quyền và nghĩa vụ của mình trong những lĩnh vực
và phạm vi nhất định, không trái với các quy ước quốc tế.
VD: Thụy Sỹ tự hạn chế quyền và nghĩa vụ của mình khi tuyên bố theo đuổi con
đường trung lập.
Cũng có trường hợp quốc gia có thể gánh vác thêm những quyền và nghĩa vụ bổ
sung nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế

2.1.2. Dân tộc đấu tranh giành quyền tự quyết
2.1.2.1. Khái niệm
Từ “ dân tộc” ở đây được hiểu là bộ phận dân tộc đại diện cho một quốc gia chứ
không phải dân tộc là chủng tộc hay một sắc tộc đơn lẻ. Dân tộc đang đấu tranh giành
quyền dân tộc tự quyết là dân tộc mới có chủ quyền dân tộc chứ chưa có chủ quyền
quốc gia. Khi tham gia quan hệ quốc tế và thực hiện các chức năng chính trị của mình,
các dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết được luật quốc tế hiện đại
thừa nhận là những chủ thể đang trong giai đoạn quá độ để tiến lên thành lập một quốc
gia dân tộc độc lập, có chủ quyền. Nói cách khác, các dân tộc đang đấu tranh giành độc
lập là chủ thể quá độ lên chủ thể cơ bản của luật quốc tế hiện đại. Tuy nhiên, với tính
chất chủ thể như vậy, nên các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập và các quốc gia đều
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

13

là những chủ thể chủ yếu của luật quốc tế hiện đại và là những chủ thể bình đẳng với
nhau về mặt pháp lý.
Các điều kiện để dân tộc được coi là chủ thể của Luật Quốc tế:
Dân tộc đó phải đang bị quốc gia, dân tộc khác áp bức, bóc lột. Nghĩa là trên thực
tế dân tộc đó đang bị một dân tộc hay quốc gia khác đô hộ, chi phối, áp đặt mọi mặt về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… của dân tộc mình. Đời sống chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội của dân tộc này hoàn toàn bị lệ thuộc vào dân tộc, quốc gia đang nắm
quyền cai trị, bóc lột họ. Dân tộc bị bóc lột không có quyền và không thể thực hiện
được ý chí của mình một cách độc lập với các dân tộc hay quốc gia đô hộ mình. Ví dụ:
dân tộc Việt Nam bị cai trị bởi quốc gia Pháp.
Trên thực tế đang tồn tại một cuộc đấu tranh với mục đích giải phóng dân tộc,
giành quyền tự quyết và thành lập một quốc gia độc lập
Đã thành lập được cơ quan lãnh đạo phong trào, đại diện cho dân tộc đó trên
trường quốc tế. Nghĩa là cuộc đấu tranh của dân tộc phải có tổ chức chặt chẽ, thống

nhất thể hiện thông qua một cơ quan đại diện cho quyền lợi, ý chí của dân tộc đó trong
các quan hệ quốc tế, độc lập với quốc gia, dân tộc đang đô hộ họ. cơ quan lãnh đạo
phong trào sẽ vạch ra đường lối, chủ trương kháng chiến giải phóng dân tộc, thành lập
một quốc gia độc lập trong tương lai
2.1.2.2. Quyền năng chủ thể luật quốc tế của dân tộc đang đấu tranh
giành quyền dân tộc tự quyết
Đặc trưng quyền năng chủ thể luật quốc tế của các dân tộc đang đấu tranh có
những điểm riêng biệt so với các chủ thể khác của Luật Quốc tế. Các quyền và nghĩa
vụ cơ bản của dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết phát sinh từ chủ
quyền dân tộc, được dân tộc đó thực hiện và bảo vệ. Xuất phát từ chủ quyền dân tộc và
nguyên tắc dân tộc tự quyết, các dân tộc đang đấu tranh nhằm thành lập một quốc gia
dân tộc độc lập có những quyền dân tộc cơ bản sau:
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

14

 Được thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình trong bất cứ hình thức nào, dưới bất
cứ dạng nào, kể cả việc áp dụng những biện pháp để chống lại nước đang cai trị
mình;
 Được pháp luật quốc tế bảo vệ và bảo đảm trong phạm vi và mức độ nhất định
như việc Luật Quốc tế đang bảo vệ và bảo đảm cho quyền năng chủ thể như
những quốc gia độc lập khác. Được các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, các
tổ chức quốc tế giúp đỡ;
 Quyền được thiết lập những quan hệ với các chủ thể khác của LQT hiện đại;
 Được tham gia vào hoạt động của các tổ chức quốc tế và hội nghị quốc tế liên
chính phủ;
 Được tham gia vào quá trình xây dựng các quy phạm luật quốc tế và độc lập
trong quá trình thực thi luật quốc tế.
 Cũng như các chủ thể khác của luật quốc tế hiện đại, đi đôi với các quyền quốc

tế cơ bản, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết cũng có
những nghĩa vụ quốc tế cơ bản. Đó là nghĩa vụ tôn trọng các nguyên tắc cơ bản
của luật quốc tế, tôn trọng các quyền của các dân tộc khác, của các chủ thể khác
của luật quốc tế hiện đại
2.1.3. Tổ chức quốc tế liên chính phủ
2.1.3.1. Khái niệm
Trong thời đại ngày nay, tổ chức quốc tế giữ vai trò rất quan trọng trong việc hợp tác
quốc tế, giải quyết các vấn đề quốc tế quan trọng, duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
Tổ chức quốc tế là chủ thể của luật quốc tế được hiểu là tổ chức quốc tế liên chính phủ-
là tổ chức do các quốc gia thành lập lên trên cơ sở một điều ước quốc tế nhằm thực
hiện các quyền năng nhất định theo tôn chỉ, mục đích thành lập tổ chức đó, phù hợp
với pháp luật quốc tế hiện đại.
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

15

Như vậy, khác với quốc gia, tổ chức quốc tế liên chính phủ có được quyền năng chủ
thể luật quốc tế không phải căn cứ vào thuộc tính tự nhiên vốn có là chủ quyền, mà do
sự thỏa thuận của các quốc gia thành viên. Phạm vi quyền năng chủ thể của các tổ chức
quốc tế liên quốc gia được xác định cụ thể trong điều lệ của chính tổ chức đó. Do đó,
số lượng các quyền và nghĩa vụ của các tổ chức quốc tế khác nhau sẽ khác nhau Điểm
khác biệt này thể hiện ở chỗ: Quốc gia có thể tham gia ký kết bất kỳ điều ước quốc tế
nào xuất phát từ lợi ích của chính mình. Còn tổ chức quốc tế không tự xác định được
phạm vi quyền và nghĩa vụ cho mình khi tham gia quan hệ pháp lý quốc tế, mà tham
gia trong phạm vi được các thành viên trao quyền. Do đó, tổ chức quốc tế là chủ thể
phái sinh, chủ thể có quyền năng hạn chế (không đầy đủ) của luật quốc tế.
Ví dụ: WTO không được tham gia ký kết các điều ước quốc tế liên quan đến vấn đề
an ninh, quốc phòng theo thỏa thuận của các thành viên, WTO chỉ tham gia các điều
ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực thương mại hành hoá, thương mại dịch vụ, sở hữu

trí tuệ
2.1.3.2. Quyền năng chủ thể luật quốc tế của tổ chức quốc tế liên chính
phủ
Các tổ chức quốc tế liên chính phủ có được quyền năng chủ thể Luật Quốc tế
không phải căn cứ vào “những thuộc tính tự nhiên” vốn có như quốc gia mà do thỏa
thuận của những quốc gia thành viên trao cho. Các tổ chức quốc tế liên chính phủ xuất
hiện vào khoảng giữa thế kỉ XIX nhưng vấn đề quyền năng chủ thể luật quốc tế của
thực thể này chỉ được đặt ra trong lý luận và thực tiễn sinh hoạt quốc tế từ nửa đầu thế
kỷ XX. Quyền năng chủ thể Luật Quốc tế của tổ chức quốc tế liên chính phủ dựa trên
điều kiện (hiến chương, quy chế…) của mỗi tổ chức, trong đó quy định rõ phạm vi
quyền và nghĩa vụ cơ bản của tổ chức này. Như vậy, các tổ chức quốc tế liên chính phủ
khác nhau thì sẽ có những phạm vi quyền năng chủ thể Luật Quốc tế không giống
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

16

nhau. Nhìn chung các tổ chức quốc tế liên chính phủ có các quyền quốc tế cơ bản sau
đây:
 Quyền được ký kết các Điều ước quốc tế;
 Quyền được tiếp nhận cơ quan đại diện của các quốc gia thành viên và nhận các
quan sát viên thường trực của các quốc gia chưa là thành viên của tổ chức cử
đến;
 Quyền được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao;
 Quyền được trao đổi đại diện tại các tổ chức của nhau;
 Quyền được yêu cầu có các kết luận tư vấn của tòa án quốc tế của Liên hợp
quốc;
 Quyền được giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các thành viên với nhau và
giữa thành viên với tổ chức quốc tế.
 Hưởng các quyền theo quy định của điều ước quốc tế mà tổ chức tham gia ký

kết với các quốc gia hoặc các tổ chức quốc tế khác.
Ngoài các quyền cơ bản nêu trên, tổ chức quốc tế liên chính phủ có nghĩa vụ tôn
trọng các nguyên tắc của luật quốc tế, tôn trọng các quyền của tổ chức quốc tế và các
chủ thể khác của luật quốc tế; thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của một chủ thể luật quốc
tế.
2.1.4. Chủ thể đặc biệt
Ngoài các loại chủ thể trên thì Luật Quốc tế còn có 1 loại chủ thể đạc biệt khác, đó là
các thực thể có quy chế pháp lý – chính trị đặc biệt khác (các vùng lãnh thổ) như
Vatican, Đài Loan, Ma Cao, Hồng Kông.
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm cho rằng Vatican là quốc gia nhỏ nhất thế giới. Tuy
nhiên, trên thực tế Vatican không phải là một quốc gia độc lập theo đúng nghĩa. Nhìn
dưới góc độ các yếu tố cấu thành ta thấy: Tòa thánh Vatican có lãnh thổ xác dịnh với
diện tích rất nhỏ khoảng 0,4km
2
và nằm trọn trong lãnh thổ của Italia, có dân cư sinh
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

17

sống khoảng 1000 người, có bộ máy điều hành, có khả năng tham gia một cách độc lập
vào các quan hệ pháp luật quốc tế nhất định (Tòa thánh Vatican đã tham gia một số
công ước quốc tế như: Công ước Viên 1961 về thiết lập quan hệ ngoại giao, tòa thánh
còn tham gia với tư cách quan sát viên của một số tổ chức quốc tế như Liên hợp
quốc ). Nhìn vào hình thức bên ngoài, Tòa thánh giống như một quốc gia tồn tại độc
lập, nhưng nếu xem xét sâu xa các yếu tố này, Vatican lại không phải một quốc gia, vì:
 Về lãnh thổ mà Vatican đặt trụ sở thực chất thuộc về Italia, Vatican có được
lãnh thổ này là do một điều ước quốc tế được ký kết giữa Italia và Vatican.
 Về dân cư, thực chất những người dân sống tại Vatican đều là công dân của rất
nhiều quốc gia khác nhau: Thụy Sỹ, Italia họ chỉ được coi là dân cư của

Vatican khi họ phục vụ cho Giáo hoàng. Yếu tố dân cư không mang tính ổn
định, họ xuất hiện chủ phục vụ cho Giáo hoàng yếu mang tính thực hiện công
vụ với Vatican.
 Về Chính phủ: Giáo hoàng của Vatican không phải là một thiết chế quyền lực
và Vatican không có các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước. Do đó, khi cần
để duy trì quyền lực nhà nước hay trật tự, Vatican cần phải có sự trợ giúp của
Italia. Chính Phủ này không giống Chính phủ khác trên thế giới.
Từ những phân tích trên đây có thể thấy, Vatican chỉ là một thiết chế mang tính tôn
giáo. Sở dĩ nó đựợc cho là chủ thể của Luật Quốc tế vì trong các giai đoạn lịch sử phát
triển của Luật Quốc tế, Vatican đóng vai trò quan trọng khi trở thành trung gian hòa
giải một số tranh chấp, bất hoà trong quan hệ quốc tế. Do đó, họ được phép tham gia
vào một số điều ước quốc tế nhất định
2.2. Quan điểm hiện đại
Theo quan điểm hiện đại, chủ thể của luật quốc tế ngoài 4 loại trên còn có thêm 3
loại nữa là cá nhân, pháp nhân (các công ty xuyên quốc gia), tổ chức phi chính phủ
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

18

2.2.1. Cá nhân
Trong suốt lịch sử phát triển của mình, luật quốc tế, trong một thời gian dài, đã phủ
nhận cá nhân con người và chỉ quan tâm đến những vấn đề có liên quan đến quốc gia.
Từ đầu thế kỷ XX, đặc biệt là sau Đại chiến thế giới thứ hai tình thế đã thay đổi, Luật
quốc tế hiện đại gắn chặt với vấn đề nhân quyền. Hiến chương Liên hợp quốc xác định
một trong những mục đích chính của mình là tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
Nhiều điều ước, quốc tế về quyền con người đã được ký kết. Thế nhưng điều đó có
đồng nghĩa với tính chủ thể pháp lý quốc tế của cá nhân con người hay không? Cá
nhân là chủ thể của Luật quốc tế là một vấn đề đang được tranh cãi chưa ngã ngũ.
Nhà luật học quốc tế người Anh A.Brownlee có những quan điểm trái ngược nhau về

vấn đề này. Một mặt ông cho rằng theo điều luật chung cá nhân không thể là chủ thể
của luật quốc tế được, nhưng trong một số lĩnh vực nhất định cá nhân được xem xét
như chủ thể của luật quốc tế; mặt khác theo ý kiến của Brownlee thì “thật là vô ích nếu
như xếp cá nhân vào “hàng ngũ” những chủ thể của luật quốc tế, bởi vì làm như vậy là
vô hình chung công nhận một số quyền của cá nhân mà trên thực tế không có, phủ
nhận tính tất yếu của sự khác biệt giữa cá nhân và các chủ thể khác trong luật quốc
tế”.
L.Oppenhame từ năm 1947 đã để ý rằng: “Mặc dù chủ thể chính của luật quốc tế là
quốc gia nhưng nhà nước có thể xem cá nhân như một chủ thể của các quyền và nghĩa
vụ quốc tế và trong khuôn khổ đó công nhận cá nhân là một chủ thể của luật quốc tế”.
Tiếp đó ông đã làm rõ ý kiến của mình bằng ví dụ: Những cá nhân làm nghề cướp biển
trước hết chịu trách nhiệm pháp lý theo những qui tắc của luật quốc tế, chứ không phải
nội luật của nhiều quốc gia khác nhau.
Quan điểm mới cho rằng cá nhân có thể là chủ thể của Luật Quốc tế vì các nguyên
nhân sau:
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

19

2.2.1.1. Trách nhiệm pháp lý
Điều lệ của Toà án binh quốc tế 1945 khẳng định cá nhân là chủ thể của trách nhiệm
pháp lý quốc tế. Theo Điều 6 thì kẻ lãnh đạo, chủ mưu, tòng phạm, tham gia vào việc
soạn thảo hay trực tiếp thực hiện kế hoạch, âm mưu chống hoà bình, chống loại người,
tội phạm chiến tranh phải chịu trách nhiệm về những hành động đó. Các công chức cao
cấp thậm chí là người đứng đầu các nhà nước cũng không thể được miễn truy tố trách
nhiệm pháp lý hay được giảm nhẹ mức độ hình phạt (Điều 8). Kẻ bị xét xử nếu hành
động theo lệnh của cấp trên hay của Chính phủ cũng không được miễn trách nhiệm
pháp lý.
Theo Công ước quốc tế 1968 về việc không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm

pháp lý đối với những tội phạm chiến tranh và tội phạm chống loài người, trong trường
hợp các tội phạm chiến tranh và tội phạm chống loài người, không phụ thuộc vào việc
các tội phạm đó diễn ra vào thời bình hay thời chiến, không áp dụng thời hiệu truy cứu
trách nhiệm.
Theo Công ước quốc tế về ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng 1948, những cá
nhân gây nên nạn diệt chủng, đồng phạm diệt chủng, âm mưu, kích động và những ý
định thực hiện việc diệt chủng sẽ bị trừng phạt mà không phụ thuộc vào việc kẻ đó là
lãnh đạo một quốc gia hay tư nhân. Tội phạm diệt chủng bị xử bởi toà án quốc gia bị
diệt chủng hoặc Toà án hình sự quốc tế. Toà do các nước thành viên tham gia Công
ước hoặc Liên hợp quốc lập ra.
2.2.1.2. Quyền của cá nhân được thỉnh cầu lên toà án quốc tế
Theo Điều 25 của Công ước Châu Âu về bảo vệ quyền con người 1950 bất kỳ cá
nhân nào đều có quyền gửi đơn thỉnh cầu đến Hội đồng Châu Âu về quyền con người.
Đơn cần phải đưa ra những dẫn chứng cụ thể, thuyết phục về việc vi phạm nhân quyền
đối với người làm đơn do Nhà nước tham gia Công ước gây ra. Đơn được lưu trữ tại
Ban thư ký của Hội đồng Châu Âu và được xem xét chỉ sau khi mọi biện pháp, phương
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

20

tiện pháp lý đã được áp dụng trong nước theo khuôn khổ của luật quốc tế nhưng không
có tác dụng, trong thời hạn sáu tháng kể từ khi các cơ quan pháp lý trong nước có
quyết định cuối cùng về vụ việc này.
Theo Điều 190 Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982 cá nhân có quyền
được đưa đơn kiện nhà nước tham gia Công ước và đòi hỏi được xét xử tại Toà án
quốc tế về biển.
Quyền của cá nhân được thỉnh cầu lên các toà án quốc tế cũng được công nhận ở
nhiều tài liệu khác của luật quốc tế.
2.2.1.3. Vị thế pháp lý (status) của một số nhóm cá nhân trong luật

quốc tế
Theo Công ước về vị thế của người tị nạn 1951, vị thế pháp lý của người dân bị nạn
được xác định bởi pháp luật của nước mà họ đang sống. Công ước quy định cho người
tị nạn có những quyền như quyền lao động theo hợp đồng, quyền lựa chọn nghề
nghiệp, quyền tự do di chuyển…
Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của các kiều dân và thành viên trong gia đình họ
1990 tuyên bố: Mỗi kiều dân lao động và thành viên trong gia đình có quyền được
công nhận là chủ thể pháp lý, trước hết là những chủ thể pháp lý quốc tế. Theo Điều 35
của Công ước thì Nhà nước không được cản trở sự di dân quốc tế của nhân dân lao
động và các thành viên trong gia đình họ. Luật quốc tế cũng được xác định vị thế pháp
lý quốc tế của người phụ nữ có chồng, của trẻ em và nhiều nhóm cá nhân khác.
Qua những chứng cứ và ví dụ trên đây chúng ta có thể tạm cho rằng Nhà nước trong
một số lĩnh vực (mặc dù không nhiều lắm) đã tạo cho cá nhân một số đặc thù của tính
chủ thể pháp lý quốc tế. Phạm vi của tính chủ thể pháp lý đó ngày càng được mở rộng
hơn bởi vì mỗi thời đại lịch sử lại sản sinh ra những chủ thể mới của luật quốc tế.
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

21

2.2.2. pháp nhân - Công ty xuyên Quốc gia
2.2.2.1. Khái niệm
Công ty Xuyên quốc gia là một trong
những chủ thể phi quốc gia quan trọng nhất.
Đó là những tổ chức kinh doanh có quyền sở hữu hoặc hoạt động kinh doanh diễn ra
trên địa bàn nhiều quốc gia. Trong kinh tế, thường có sự phân biệt giữa Công ty Quốc
tế (International Corporation) với Công ty Đa quốc gia (Multunational Corporation)
và Công ty xuyên quốc gia (Transnational Corporation). Trong đó, Công ty Quốc tế
là công ty có sự quốc tế hoá thị trường, tức là hoạt động ở cả thị trường nội địa lẫn thị
trường nước ngoài. Công ty Đa quốc gia là công ty có sự quốc tế hóa nguồn vốn, tức là

có chủ đầu tư thuộc các
quốc tịch khác nhau. Công ty xuyên quốc gia
là công ty có sự
quốc tế hoá hoạt động kinh doanh nhưng chủ đầu tư thường thuộc một quốc tịch.
Nhìn chung, các cách phân loại nói trên
không được sử dụng phổ biến trong
nghiên cứu Quan hệ quốc tế. Đối với Quan hệ quốc tế, một sự xếp hạng theo quy mô
địa lý và doanh số, sự phân biệt quốc tịch của công ty mẹ hay mức độ ảnh hưởng trong
Quan hệ quốc tế thường có ý nghĩa nhiều hơn sự phân loại bởi những tiêu chí trên giúp
đánh giá được khả năng tương tác và vai trò của chúng trong Quan hệ quốc tế. Tuy
nhiên, trong bài này, xuất phát từ góc độ có ảnh hưởng xuyên quốc gia trong Quan hệ
quốc tế, thuật ngữ Công ty xuyên quốc gia được sử dụng chung để chỉ tất cả các công
ty hoạt động trên quy mô quốc tế, tức là bao gồm cả ba loại nói trên
2.2.2.2. Vai trò chủ thể quan hệ quốc tế của Công ty xuyên quốc gia.
Sự tăng trưởng mạnh mẽ cả về lượng lẫn chất, vai trò to lớn đối với sự phát triển
kinh tế cùng với các tác động ngày càng tăng trong Quan hệ quốc tế đang đem lại cho
Công ty xuyên quốc gia khả năng của một chủ thể Quan hệ quốc tế. Điều này được thể
hiện trên 4 tiêu chí của chủ thể Quan hệ quốc tế là tham gia, mục đích, năng lực và ảnh
hưởng.
Thứ nhất, xét trên tiêu chí tham gia, về mặt thời gian, Công ty xuyên quốc gia
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

22

bắt đầu ghi dấu ấn lớn trong Quan hệ quốc tế với việc vươn ra thị trường nước ngoài từ
nửa cuối thế kỷ XIX, phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Về mặt
không gian, ngày nay, các Công ty xuyên quốc gia đã “phủ sóng” hầu như khắp mọi
quốc gia trên thế giới. Thậm chí, nhiều Công ty xuyên quốc gia có tầm hoạt động trên
quy mô toàn cầu. Về

kênh quan hệ, các Công ty xuyên quốc gia tham gia vào Quan
hệ quốc tế

không chỉ qua quan hệ giữa Công ty xuyên quốc gia với quốc gia khác, giữa Công
ty xuyên quốc gia với công ty khác mà còn trong nội bộ công ty qua quan hệ giữa trụ
sở với các chi nhánh của mình ở nước ngoài. Về hình thức quan hệ, đó là sự phân công
lao động quốc tế, đầu tư nước ngoài, thương mại xuyên quốc gia, giao dịch tài chính
quốc tế, chuyển giao công nghệ, thu hút lao động nước ngoài,… Về lĩnh vực tham gia,
hoạt động của Công ty xuyên quốc gia không chỉ diễn ra trong mọi ngành kinh tế lớn
mà còn đi sâu vào các lĩnh vực chuyên môn hẹp. Bên cạnh đó, sự tham gia của Công
ty xuyên quốc gia trong chính trị - lĩnh vực quan trọng trong Quan hệ quốc tế - là rất
đáng kể như đã trình bày trong phần trên. Ngoài ra, Công ty xuyên quốc gia còn hiện
diện khá lớn một cách trực tiếp hoặc gián tiếp trong nhiều lĩnh vực khác nhau của
Quan hệ quốc tế như khoa học, văn hoá, xã hội,…. Không chỉ về bề rộng, mức độ tham
gia Quan hệ quốc tế của các Công ty xuyên quốc gia cũng rất sâu sắc, đặc biệt trong
kinh tế. Điều này tạo khả năng cho Công ty xuyên quốc gia tham gia sâu hơn nữa vào
đời sống kinh tế, chính trị và xã hội quốc tế.
Thứ hai, xét trên tiêu chí mục đích, tất cả các Công ty xuyên quốc gia đều có mục
đích lợi nhuận. Lợi nhuận chính là mục đích cơ bản, bao trùm và xuyên suốt của các
Công ty xuyên quốc gia và được phản ánh trong điều lệ, trong tổ chức và mọi hoạt
động kinh doanh. Không có mục đích lợi nhuận, không phải là Công ty xuyên quốc
gia. Trên phương diện Quan hệ quốc tế, mục đích này là động lực chính hướng hoạt
động của Công ty xuyên quốc gia ra bên ngoài nhằm khai thác hơn nữa lợi nhuận trên
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

23

thị trường quốc tế. Trước kia, mục đích lợi nhuận đã khiến Công ty xuyên quốc gia
góp phần đưa quan hệ bóc lột, sự nô dịch thực dân và sự can thiệp chính trị vào Quan

hệ quốc tế. Ngày nay, mục đích lợi nhuận vẫn tiếp tục quy định cố gắng mở rộng thị
trường, tăng cường hoạt động và phát triển các hình thức tác động khác nhau của
chúng trong Quan hệ quốc tế. Thông qua quá trình kinh doanh quốc tế, các Công ty
xuyên quốc gia có những đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế các nước như
đầu tư vốn, kích thích xuất khẩu, mở rộng sản xuất, cải tổ cơ cấu, chuyển giao công
nghệ, phát triển kỹ năng quản lý, tạo việc làm,… Các tác dụng tích cực đó đã khiến
mục đích lợi nhuận của Công ty xuyên quốc gia dễ hoà hợp hơn với mục đích phát
triển của các nước. Đồng thời, việc giảm thiểu sự can thiệp chính trị thô bạo như trước
kia cũng góp phần làm giảm mâu thuẫn với mục đích an ninh chính trị của các nước
đang phát triển. Và từ đó, sự nghi ngại, chống đối Công ty xuyên quốc gia ở các nước
này cũng giảm theo. Đó chính là cơ hội cho Công ty xuyên quốc gia mở rộng hoạt
động ra khắp thế giới để thực hiện mục đích lợi nhuận.
Thứ ba, xét trên tiêu chí năng lực, các Công ty xuyên quốc gia có nguồn tài lực và
nhân lực riêng từ các chủ sở hữu và những người tham gia khác. Nguồn tài chính của
chúng rất lớn

và nguồn nhân lực của chúng cũng dồi dào. Thậm chí, có những Công
ty xuyên quốc gia có số tài sản vượt xa GDP của nhiều nước phát triển. Đó là chưa kể
xu hướng M&A đang tạo ra những Công ty xuyên quốc gia khổng lồ trong nền kinh
tế quốc tế. Các Công ty xuyên quốc gia được luật pháp chính quốc cũng như nước sở
tại trao cho quyền tự chủ và những thẩm quyền riêng trong hoạt động kinh doanh. Luật
pháp của chính quốc thì rộng rãi,
luật pháp nước sở tại thì khuyến khích, luật
pháp
quốc tế thì còn thiếu và phụ thuộc nhiều vào các nước phát triển vốn lại là chính quốc
nên càng tạo điều kiện cho sự tự trị của Công ty xuyên quốc gia. Cơ sở tài chính,
nguồn nhân lực và những thẩm quyền như vậy đem lại cho các Công ty xuyên quốc
gia khả năng độc lập trong quyết định và tự chủ trong hoạt động kinh doanh. Công ty
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ


24

xuyên quốc gia tự quyết định thị trường, mặt hàng, đối tác, tổ chức, nhân lực, chính
sách và biện pháp kinh doanh của nó ở bất kỳ nước nào mà không chịu sự áp chế của
ai, miễn là phù hợp với luật pháp. Sự độc lập và tự chủ của Công ty xuyên quốc gia
còn được thể hiện qua khả năng tác động lên quốc gia và can thiệp vào một số khu vực
thuộc thẩm quyền quốc gia. Hiện nay, cho dù vẫn phải chịu sự điều chỉnh nhất định
của quốc gia, năng lực này của Công ty xuyên quốc gia vẫn đang được củng cố nhờ xu
hướng tự do hoá thương mại, sự chào đón của các quốc gia nhận đầu tư, sự phát triển
năng lực của bản thân các Công ty xuyên quốc gia và cả xu hướng tăng cường hợp tác
giữa chúng.
Thứ tư, xét trên tiêu chí ảnh hưởng trong Quan hệ quốc tế, Công ty xuyên quốc gia
có được vị trí khá lớn trong Quan hệ quốc tế không chỉ nhờ thực lực to lớn và khả năng
kiến tạo các quan hệ xuyên quốc gia. Ảnh hưởng này còn được quy định bởi nhu cầu
phát triển ngày càng tăng của mọi quốc gia trên thế giới. Nhu cầu phát triển này đã
đem lại vị thế quan trọng cho Công ty xuyên quốc gia trong chính sách đối ngoại của
các quốc gia. Hơn nữa, các Công ty xuyên quốc gia chủ yếu xuất phát từ các trung tâm
chính trị và kinh tế lớn của thế giới như Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản. Nhờ sự hậu
thuẫn của các thế lực này, ảnh hưởng kinh tế và tiếng nói chính trị của Công ty xuyên
quốc gia trong Quan hệ quốc tế được tăng lên đáng kể. Đáng chú ý, sau Chiến tranh
Lạnh, ảnh hưởng của Công ty xuyên quốc gia trong Quan hệ quốc tế có chiều hướng
tăng lên. Nếu sự nổi lên của yếu tố kinh tế
trong Quan hệ quốc tế đem lại vị thế
quốc tế cao hơn
cho Công ty xuyên quốc gia, thì xu thế thống nhất của thị trường thế
giới đem lại ảnh hưởng toàn cầu cho chúng. Trong khi đó, do khả năng chi phối chính
trị của kinh tế ngày một lớn nên khả năng tác động tới quốc gia và Quan hệ quốc tế của
Công ty xuyên quốc gia cũng rất đáng kể. Nhìn chung, Công ty xuyên quốc gia vẫn có
khả năng tác động lên quốc gia, kể cả chính quốc lẫn nước sở tại, buộc chúng thay đổi

hay điều chỉnh hành vi đối nội và đối ngoại.
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ

25

2.2.3. Các tổ chức phi chính phủ
2.2.3.1. Khái niệm
Các tổ chức phi chính phủ, viết tắt tiếng Anh là NGO (Non governmental
Organizations) là từ dùng để chỉ chung cho các tổ chức đứng ngoài chính phủ, hoạt
động tự nguyện, phi lợi nhuận, song song và bổ trợ cho các chương trình kinh tế, xã
hội của nhà nước. Ở một số nước, khái niệm này được mở rộng hơn, có thể là sự pha
trộn giữa tính tự nguyện và tính thương mại. Các nước trên thế giới ngày nay đều có
nhiều tổ chức phi chính phủ, chủ yếu hoạt động nội quốc. Số các tổ chức phi chính phủ
quốc tế trên thế giới có khoảng vài chục ngàn.
Hiện nay có 3 loại hình tổ chức NGO phổ biến là:
(1) Tổ chức phi chính phủ mang tính quốc gia (NNGO), chiếm đa số tuyệt đối,
là tổ chức mà các thành viên có cùng một quốc tịch, hoat động trong phạm vi một
nước, chủ yếu phục vụ cộng đồng. Tuy nhiên, hiện nay đã có một số NNGO hoạt động
ra ngoài phạm vi lãnh thổ một quốc gia;
(2) Các NGO mang tính quốc tế: chiếm số lượng ít hơn nhiều, là tổ chức có đa
quốc tịch các thành viên, hoạt động rộng khắp trên thế giới và chịu sự điều chỉnh của
pháp luật nước sở tại nơi nó hợp tác;
(3)Tổ chức NGO mang tính chất chính phủ (GNGO), mặc dầu có tính tự
nguyện, phi lợi nhuận nhưng lại do Chính phủ lập ra hoặc dựa hoàn toàn vào ngân sách
chính phủ.
2.2.3.2. Vai trò của tổ chức phi chính phủ trong quan hệ quốc tế
Ngày nay, tiếng nói của các tổ chức phi chính phủ đối với các vấn đề thuộc mối
quan tâm của cộng đồng quốc tế càng được các nước và các tổ chức quốc tế lớn (như
Liên Hiệp quốc) quan tâm. Hàng năm, Ngân hàng thế giới (WB) đều tổ chức các hội

nghị tư vấn với các tổ chức phi chính phủ. Còn với Liện Hiệp quốc, Theo Điều 71 Hiến
chương Liên Hiệp quốc, Hội đồng Kinh tế và Xã hội có thể ký kết các hiệp ước phù

×