Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

tìm hiểu về hệ thống tài chính nhật bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.18 KB, 17 trang )

Học viện Ngân hàng
Bài thảo luận:
Tìm hiểu về hệ thống tài chính
Nhật Bản
Môn học: Tiền tệ ngân hàng – Nhóm 38 – ca 2 thứ 4
Người thực hiện: Nhóm 5
Mục lục
1. Lời nói đầu
2. Mô hình tổ chức hệ thống tài chính Nhật Bản
a. Thành phần
b. Đặc điểm
c. Thực trạng
d. Ưu điểm và nhược điểm
3. Phương thức luân chuyển vốn
4. Bài học cho Việt Nam
a. Thực trạng Việt Nam
b. Bài học cho Việt Nam
1. Lời nói đầu
Nằm ở phía Đông của châu Á, phía Tây của Thái Bình Dương, với điều kiện tự
nhiên khắc nghiệt, tài nguyên thiên nhiên khan hiếm cùng với đó là kết cấu dân số
già cùng với đó là những khủng hoảng tài chính trong giai đoạn hiện nay, nhưng
Nhật Bản vẫn là một trong những quốc gia có tầm ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế
thế giới với giá trị GDP tính theo ngang giá sức mua tương đương khoảng 4.500 tỷ
USD đứng thứ 4 trên thế giới (theo bảng xếp hạng được Ngân hàng thế giới công
bố 7/2013)
Nhật Bản là một cường quốc kinh tế đã trải qua nhiều năm phát triển thần kỳ vào
trước thập niên 90 của thế kỷ XX khiến cho cả thế giới khâm phục. Nhiều nước
trong khu vực châu Á đã phấn đấu noi theo mô hình phát triển của Nhật Bản, trong
đó một số nước và lãnh thổ Đông Á đã nhanh chóng trở thành con rồng kinh tế,
giải quyết thành công nhiều vấn đề đời sống kinh tế, xã hội chỉ trong vòng 2-3
thập niên.


Riêng với Việt Nam, hằng năm lượng vốn đầu tư vào của các doanh nghiệp Nhật
Bản chiếm một con số không nhỏ, tính đến tháng 6/2013, Nhật Bản có 1990 dự án
với tổng số vốn đăng ký gần 33 tỷ USD; bên cạnh đó, Nhật Bản hiện cũng là quốc
gia cung cấp vốn ODA nhiều nhất cho Việt Nam (khoảng 24 tỷ USD), chiếm hơn
30% tổng cam kết viện trợ cho Việt Nam.
Chính vì vậy, việc xem xét, nghiên cứu, tìm hiểu học hỏi những chính sách, giải
pháp chiến lực mà Chính phủ Nhật Bản đã sử dụng để đưa nền kinh tế phát triển
mạnh mẽ như vậy đối với Việt Nam là rất cần thiết nhằm tạo ra sự tăng trưởng cao
và bền vững cho việc phát triển kinh tế - xã hội đồng thời nắm bắt được các nhu
cầu của nền kinh tế Nhật Bản để đáp ứng các yêu cầu mà họ đề ra. Do đó chủ đề
thảo luận mà nhóm lựa chọn để nghiên cứu là “Tìm hiểu về hệ thống tài chính
Nhật Bản”
Vì kiến thức của bản thân còn hạn chế nên nội dung bài tiểu luận không thể tránh
khỏi những thiếu sót, kính mong cô chỉ bảo, góp ý để bài thảo luận của nhóm em
được hoàn chỉnh hơn.
2. Mô hình tổ chức (cấu trúc) của hệ thống tài chính Nhật Bản
Hiện nay, trên thế giới, hệ thống tài chính được phân thành hai loại: hệ thống tài
chính dựa vào thị trường và hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng. Nếu như Anh,
Mỹ là đại diện nổi bật cho hệ thống tài chính dựa vào thị trường thì Nhật Bản là
tiêu biểu cho hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng.
Hệ thống Ngân hàng chiếm 60% tổng tài sản tài chính, và so với GDP, khu vực
ngân hàng lớn hơn các nước trong khối G7 trừ Anh và Pháp. Thị trường bảo hiểm
Nhật Bản đứng thứ hai trên thế giới về bảo hiểm tổng hợp.
a. Thành phần
- Người tiết kiệm và người đầu tư
- Ngân hàng Nhật Bản và các tổ chức tài chính
Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) là ngân hàng trung ương của Nhật Bản. Ngân hàng
Nhật Bản phát hành và quản lý các loại tiền giấy. Ngân hàng tiến hành các
chính sách tiền tệ để đảm bảo sự ổn định về giá cả nhằm duy trì một nền kinh
tế không lạm phát hay giảm phát. Đồng thời cung cấp các dịch vụ thanh toán

và đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính.
- Thị trường tài chính
+ Thị trường vốn , trong đó cung cấp các phương tiện để tài trợ cho nợ công và
tư nhân và bán quyền sở hữu của công ty còn lại,
+ Thị trường tiền tệ, cung cấp cho các ngân hàng nguồn thanh khoản và cung
cấp các Ngân hàng của Nhật Bản với các công cụ để thực hiện chính sách tiền
tệ
- Các cơ quan quản lý và giám sát hệ thống tài chính
+ Ủy ban giám sát giao dịch chứng khoán Nhật Bản (SESC): thuộc thẩm quyền
của Cơ quan dịch vụ tài chính, được thành lập vào 7/1992 sau các vụ bê bối
liên quan đến các công ty chứng khoán năm 1991. Không như Ủy ban chứng
khoán và hối đoái Mỹ, SESC không có quyền lực để trừng phạt những người vi
phạm pháp luật.
+ Cơ quan dịch vụ tài chính Nhật Bản (FSA): Là tổ chức Chính phủ chịu trách
nhiệm giám sát các ngân hàng,thị trường chứng khoán, thị trường ngoại hối,
bảo hiểm để đảm bảo sự ổn định. Nó giám sát Ủy ban giám sát giao dịch chứng
khoán
b. Đặc điểm
- Đặc trưng của hệ thống này là các ngân hàng đóng vai trò chủ chốt trong các
giao dịch thực hiện trên cơ sở quan hệ giữa bên đi vay và cho vay. Mỗi doanh
nghiệp thường cố gắng xây dựng sơi dây liên kết và hiểu biết lâu dài với một
ngân hàng nhất định. Quyết định cấp vốn tín dụng của ngân hàng đối với một
doanh nghiệp được đưa ra phụ thuộc vào việc có đầy đủ thông tin về những ưu,
nhược điểm của doanh nghiệp đó.
- Với cấu trúc hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng, ở Nhật Bản vốn huy động
của các doanh nghiệp chủ yếu là vay từ những tổ chức trung gian tài chính, gấp
khoảng 10 lần so với nhận từ thị trường chứng khoán, với điều lệ sửa đổi thị
trường chứng khoán trong những năm gần đây, vốn của các công ty vay từ các
tổ chức trung gian tài chính đã giảm tương đối so với vốn nhận được từ thị
trường chứng khoán.

c. Thực trạng
- Trên thị trường có khoảng 2000 tổ chức nhận tiền gửi nhưng chỉ một số ngân
hàng lớn đã thống trị lĩnh vực này. Sáu ngân hàng thành phố (citybank) là các
ngân hàng thương mại lớn, bốn trong số đó thuộc về ba nhóm ngân hàng lớn
(megabanks) nắm giữ khoảng 51% tài sản ngành ngân hàng. Các ngân hàng
không chỉ có quan hệ chặt chẽ với các nhóm ngành công nghiệp lớn mà còn
cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ. Sáu ngân hàng tín thác (trust bank) tập
trung vào cả thương mại và tin tưởng ngân hàng, bao gồm cả các dịch vụ quản
lý tài sản cho các tập đoàn lớn (thường được định hướng xuất khẩu). Các ngân
hàng khu vực (regional bank) thường có trụ sở tại thành phố chính của tỉnh và
tài trợ chủ yếu là các doanh nghiệp địa phương và chính phủ. Kể từ đầu những
năm 2000, hợp nhất trong lĩnh vực này còn hạn chế. Ngân hàng nước ngoài
đóng một vai nhỏ trong thị trường trong nước, họ tập trung chủ yếu vào đầu tư
và dẫn vốn kinh doanh ở các ngân hàng tư nhân, và cổ phiếu của họ về tài sản
ngành công nghiệp đã giảm xuống chỉ còn 3,5 phần trăm trong năm 2010 từ 7
% trong năm 2006.Ngân hàng bưu điện Nhật Bản đại diện 12% tài sản của tất
cả các tổ chức nhận tiền gửi (bao gồm cả các ngân hàng và tổ chức tài chính
hợp tác xã), và là tổ chức nhận tiền gửi lớn nhất trên thế giới.
- Trong lĩnh vực bảo hiểm, lãi suất thấp và giá cổ phiếu giảm trong cuối những
năm 1990 và đầu những năm 2000 đã gây sức ép đáng kể về ngành công
nghiệp và dẫn đến hợp nhất. Tính đến cuối năm 2010, tổng tài sản của ngành
bảo hiểm chiếm 78% GDP, trong đó khoảng 80% là trong lĩnh vực bảo hiểm
nhân thọ. Khoảng một phần ba tài sản trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ thuộc
về Bảo hiểm bưu điện Nhật Bản, công ty bảo hiểm nhân thọ lớn nhất trên thế
giới, và hầu hết các phần còn lại một trong số ít các công ty bảo hiểm lớn. Lĩnh
vực phi nhân thọ chủ yếu là bảo hiểm xe máy (gần hai phần ba của thị trường).
Khoảng 6% doanh nghiệp phi nhân thọ và dưới 2% doanh nghiệp nhân thọ là
tái bảo hiểm, tập trung ở thị trường địa phương. Nhìn chung, dưới 1% của
doanh nghiệp bảo hiểm được tái bảo hiểm ra nước ngoài và dưới 1% phí bảo
hiểm của công ty bảo hiểm Nhật Bản liên quan đến tái bảo hiểm rủi ro nước

ngoài.
- Tham gia trực tiếp của chính phủ trong hệ thống tài chính đã giảm trong thập
kỷ qua nhưng vẫn còn đáng kể. Chính phủ giữ lại quyền sở hữu các tổ chức tài
chính quan trọng thuộc Chính phủ thông qua một công ty cổ phần, bao gồm
Ngân hàng bưu điện Nhật Bản (JPB) và Bảo hiểm bưu điện Nhật Bản (JPI).
Ngoài ra, bảo lãnh tín dụng công đã được mở rộng trong những năm gần đây
khoản nợ tương đương khoảng 8% GDP
- Đối mặt với sự tăng trưởng và nhu cầu tín dụng nội địa thấp, các tổ chức tài
chính đã ngày càng mở rộng hoạt động ra nước ngoài đặc biệt là ở châu Á. Số
tiền đòi bồi thường quốc tế của các ngân hàng Nhật Bản tăng gấp đôi từ 1,3
nghìn tỷ USD lên 2,7 nghìn tỷ USD từ năm 2004 đến năm 2010. Mỹ vẫn là
điểm đến chính, nhưng cổ phiếu của châu Á đã tăng lên khoảng 15% rủi ro
nước ngoài. Đồng yên tăng giá và hoạt động trong nước yếu có thể thúc đẩy
tiếp tục mở rộng ở nước ngoài của các tổ chức tài chính của Nhật Bản với thị
trường tài chính toàn cầu và khu vực.
- Sở hữu chéo giữa các tập đoàn tài chính hầu hết giảm, trừ các công ty bảo
hiểm. Ví dụ, các công ty bảo hiểm nắm giữ khoảng 8% cổ phiếu ngân hàng
trong năm 2001 nhưng chỉ còn 2% trong năm 2010.
- Khu vực công ty chứng khoán là tương đối nhỏ, và lợi nhuận thấp đã dẫn đến
hợp nhất. Nhìn chung, các công ty chứng khoán Nhật Bản theo đuổi mô hình
kinh doanh cũ và thu nhập xuất phát chủ yếu từ tiền hoa hồng (khoảng 70%
của doanh thu thuần từ hoạt động) chứ không phải là kinh doanh độc quyền.
Điều này trái ngược với các ngân hàng đầu tư toàn cầu khác với doanh thu
thương mại chiếm khoảng 46-60% tổng thu nhập. Đổi mới tài chính trong phân
khúc bán lẻ đã được duy trì trong một thập kỷ qua, nhưng phạm vi còn phát
triển hơn nữa. Trong khi tiếp tục duy trì hơn 50 phần trăm của tài sản tài chính
trong tiền gửi, các hộ gia đình Nhật Bản đã dần dần tìm lợi nhuận cao hơn
bằng cách đa dạng hóa sang ủy thác đầu tư (quỹ Toushin), ủy thác đầu tư bất
động sản Nhật Bản (J-REITs) -ETFs/ETNs-, và bán lẻ tài khoản giao dịch
ngoại hối. Tuy nhiên, số lượng các quỹ vẫn còn khiêm tốn so với các thị trường

phát triển khác.
- Khu vực hưu trí, bao gồm cả lương hưu công cộng và tư nhân, là một phần
quan trọng của hệ thống tài chính. Quỹ hưu trí nắm giữ một lượng tài sản lớn-
tổng cộng khoảng 287 tỷ Yên tính đến cuối năm 2011, bao gồm cả các khoản
đầu tư đáng kể vào trái phiếu Chính phủ (JGB).
- Ngoài thị trường trái phiếu thị trường vốn tại Nhật Bản là nhỏ so với các quốc
gia khác trong nhóm G7. Thị trường nợ công của Nhật Bản là lớn nhất trên thế
giới, cả về quy mô tuyệt đối và tương đối so với GDP. Trong năm 2011, lượng
trái phiếu chính phủ Nhật Bản đứng ở mức khoảng 12 nghìn tỷ USD, vượt tổng
mức tín dụng ngân hàng trong nước. Hoạt động trong thị trường tài trợ ngắn
hạn vẫn còn hạn chế cho sự phong phú của tính thanh khoản trong nước. Thị
trường bán buôn tài trợ của các tổ chức tài chính và các công ty xuyên quốc gia
là hai chìa khóa quan trọng cho sự phát triển thị trường vốn cho các quốc gia
G7 khác có quy mô nhỏ ở Nhật Bản. Giá trái phiếu quốc tế bằng tiền yên Nhật
đã giảm từ 6% trái phiếu tài chính toàn cầu năm 2001 xuống còn 2,5% trong
năm 2011. Đổi mới tài chính, đặc biệt là chứng khoán, bắt đầu phát triển vào
giữa những năm 2000, nhưng thị trường bất ổn và suy giảm kinh tế từ năm
2008 đã dẫn tới một sự đảo ngược của xu hướng đó.
Japanese financial system
d. Ưu điểm và nhược điểm
- Ưu điểm:
+ Cung cấp, phân tích thông tin, giám sát các khoản vay tốt hơn, hỗ trợ cho
tăng trưởng hiệu quả hơn hệ thống tài chính dựa vào tài chính nhất là đối với
các quốc gia đang phát triển.
+ Biến đổi tài sản, giảm rủi ro cho doanh nghiệp, tăng tính thanh khoản của các
công cụ tài chính.
- Nhược điểm:
+ Doanh nghiệp phải trả chi phí huy động vốn cao hơn vì vốn doanh nghiệp
chủ yếu dựa vào ngân hàng.
+ Các doanh nghiệp nhỏ, uy tín thấp khó có thể tiếp cận vốn của ngân hàng.

+ Vấn đề về rủi ro đạo đức các ngân hàng cấu kết với các giám đốc doanh
nghiệp gây thiệt hại cho chủ sở hữu doanh nghiệp, lựa chọn đối nghịch
3. Phương thức luân chuyển vốn của hệ thống tài chính Nhật Bản
Trước khi tìm hiểu về sự luân chuyển của dòng vốn, ta cùng tìm hiểu về đồng
YEN và chu trình di chuyển trong “cuộc đời” của đồng tiền này.
Đồng YEN khi bắt đầu được in ra tại sở in ấn quốc gia Nhật Bản sẽ chuyển tới
Ngân hàng Trung ương Nhật Bản, bằng các chính sách tiền tệ mà đồng tiền này sẽ
được tung ra nền kinh tế thông qua các tổ chức tài chính (Financial institution)
bằng việc mua lại trái phiếu chính phủ đã phát hành. Từ các tổ chức tài chính, tiền
được phân bổ cho các thành phần kinh tế qua các khoản cho vay, thu mua lại trái
phiếu do tổ chức đó phát hành…; ngược lại tiền từ các thành phần kinh tế cũng trơ
lại các tổ chức tài chính thông qua các khoản gửi tiết kiệm… Sau một thời gian sử
dụng, di chuyển từ các tổ chức kinh tế tới các thành phần khác như các cá nhân, hộ
gia đình, doanh nghiệp…cũng như các thành phần kinh tế kể trên với nhau, đồng
YEN không còn lưu thông được nữa do hỏng hóc sẽ được Ngân hàng Trung ương
thu hồi lại từ các tổ chức tín dụng và các thành phần kinh tế bằng việc đổi tiền
hoặc bán trái phiếu chính phủ, những đồng tiền bị hỏng không lưu thông được nữa
sẽ được đem đi tiêu hủy.
Qua mô hình về “cuộc đời” của một đồng YEN ta có thể thấy được các cách luân
chuyển vốn khác nhau của nền kinh tế (không chỉ là tiền mặt), đó là luân chuyển
trực tiếp giữa các chủ thể của nền kinh tế với nhau và luân chuyển thông qua các
trung gian, tổ chức tài chính. Để hiểu sự vận động của nguồn vốn qua hai phương
thức trên, chúng ta sẽ tìm hiểu sự vận động của nguồn vốn thông qua các thị
thường tài chính đại diện cho các phương thức đó.
Thị trường tiền tệ (Money maket)
Thị trường tiền tệ là nơi trao đổi và mua bán các công cụ tài chính ngắn hạn, bao
gồm thị trường liên ngân hàng và thị trường tiền tệ mở rộng. Hình dưới đây mô tả
sự chu chuyển của dòng vốn trên thị trường liên ngân hàng. Ở đây, dòng tiền được
Ngân hàng Trung ương Nhật Bản phát hành hay thu hồi thông qua các công cụ tài
chính của mình như trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc…tới các tổ chức tài

chính như ngân hàng thương mại… Các ngân hàng hình thành các quan hệ tài
chính với nhau từ việc vay các khoản tiền từ nhau để bù đắp việc thiếu hụt vốn
tạm thời hay là để đảm bảo lượng tiền yêu cầu của Ngân hàng trung ương khi tới
thời điểm kết thúc giao dịch của một ngày, từ đó hình thành nên thị trường liên
ngân hàng.
Ở thị trường liên hàng chủ yếu là các khoản vay qua đêm với lãi suất nhất định, lãi
suất này được các ngân hàng tự thỏa thuận với nhau trên cơ sở đáp ứng nhu cầu
của cả hai bên, ngoài ra mức lãi suất này còn chịu ảnh hưởng từ lãi suất của thị
trường Mỹ. Hình bên dưới cho thấy xu hướng biến động của lãi suất dần trở nên
ổn định hơn và có xu hướng giảm, từ 07/2008 tới nửa cuối năm 2009 thì lãi suất
qua đêm (Repo rate) luôn ở trên mức 0,1% và biến động khá mạnh, từ đầu năm
2010 thì mức lãi suất này luôn duy trì ở mức dưới 0,1%.
Thị trường tín dụng (Credit markets)
Thị trường tín dụng ở Nhật Bản đóng vai trò vô cùng quan trọng trong kênh huy
động vốn cho các doanh nghiệp, hộ gia đình cũng như các thành phần kinh tế
khác, nó chiếm tới hơn 70% lượng vốn huy động. Như hình trên ta có thể thấy
được mức lãi suất từ các khoản vay từ ngân hàng (Basic loan rate) luôn được giữ ở
mức thấp (0,3% từ năm 2009 trở đi), mức lãi suất này do ngân hàng trung ương
Nhật Bản quy định, và nó chịu sự ảnh hưởng rất lớn từ mức lãi suất của thị trường
Mỹ.
Một kênh huy động vốn khác cho doanh nghiệp cũng đóng vai trò quan trọng khác
tại Nhật Bản đó là phát hành trái phiếu doanh nghiệp, mức lãi suất của các trái
phiếu này phụ thuộc vào hạng mức tín nhiệm của các doanh nghiệp đó, các doanh
nghiệp có hạng mức tín nhiệm cao thì lãi suất sẽ ở mức thấp hơn so với các doanh
nghiệp có mức độ tín nhiệm thấp.
Ngoài ra thì mức lãi suất của các trái phiếu này còn phụ thuộc vào lĩnh vực mà
doanh nghiệp kinh doanh, lĩnh vức phi ngân hàng (Non bank) thì lãi suất ở mức rất
cao, tiếp đó là xây dựng (Construction) và bất động sản (Real estate) thì lãi suất lại
ở mức khá thấp.
Thị trường chứng khoán (Stock markets)

Đây là một phương thức hữu hiệu trong kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp
bằng cách phát hành cổ phiếu, huy động được lượng vốn nhàn rỗi trong dân cư.
Thị trường chứng khoán cũng là nơi mua bán, trao đổi các công cụ tài chính, trái
phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp… tạo tính lỏng cho các công cụ tài chính
này, thúc đẩy thị trường sơ cấp nơi phát hành các công cụ tài chính lần đầu phát
triển.
Trong khoảng thời gian gần đây, cùng với sự chững lại của thị trường chứng
khoán với tâm lý dè dặt của các nhà đầu tư, thị trường chứng khoán tại Nhận Bản
cũng lâm vào tình cảnh tương tự khi chỉ số quan trọng hàng đầu Nikkei Index
chưa cho thấy dấu hiệu ổn định trở lại như thời kỳ trước khủng hoảng năm 2008.
Thị trường ngoại hối
Như hình trên ta thấy được tỉ giá USD/JPY có xu hướng giảm dần qua thời gian,
vào nửa cuối năm 2010 duy trì ở mức 1USD= 80,0 – 80,5 YEN, tỉ giá đồng YEN
giảm tạo ra những sự bất lợi không nhỏ đối với việc xuất khẩu hàng hóa, hay việc
thu hút các nguồn vốn từ nước ngoài cũng gặp trở lại rất lớn do tỉ giá thấp, chính
vì vậy trong giai đoạn gần đây chính phủ Nhật đã thi hành hàng loạt chính sách
tiền tệ mở rộng với mục tiêu đẩy tỉ giá đồng YEN lên cao để có lợi cho xuất khẩu
và thu hút dòng vốn nước ngoài tới đất nước Nhật Bản.
Nhận xét: Trong các phương thức luân chuyển vốn thì sự luân chuyển vốn gián
tiếp thông qua các trung gian tài chính là chủ yếu. Phần lớn các nguồn vốn được
huy động phục vụ cho các doanh nghiệp Nhật Bản được lấy từ các tổ chức tài
chính như ngân hàng thương mại, chiếm tới hơn 70%. Bên cạnh đó, cùng với sự
bất ổn của thị trường chứng khoán trong vài năm trở lại đây, thì các ngân hàng,
bảo hiểm, trái phiếu… là những nơi đáng tin cậy dành cho những khoản tiết kiệm
của người dân.
Hình thức luân chuyển này có những ưu điểm đó là độ an toàn cao, tính thanh
khoản cao đối với nhà đầu tư, còn đối với người có vốn, thì đó chính là sự ổn định
với các khoản vay, cũng như khối lượng và thời hạn vốn được họ tận dụng một
cách linh hoạt.
Tuy nhiên, hình thức này vẫn còn những điểm hạn chế như đối với các nhà đầu tư

thì phần lãi mà họ thu được thường thấp hơn so với việc đầu tư ngoài thị trường,
bù lại việc đầu tư ở thị trường thì rủi ro cao hơn, còn đối với các thành phần cần
vốn, với sự ổn định của đồng YEN và sự giảm phát liên tục kéo dài trong suốt một
thập kỷ của Nhật Bản đã khiến cho lãi suất từ các khoản vay luôn duy trì ở mức
thấp, tuy nhiên sự tiếp cận với các khoản vay đó không phải lúc nào cũng dễ dàng.
4. Bài học cho Việt Nam
a. Khái quát thực trạng Việt Nam
- Là một quốc gia đang phát triển, hệ thống tài chính của nước ta cũng được tổ
chức giống với mô hình với Nhật Bản là hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng.
- Việt Nam đã lấy lại sự ổn định kinh tế vĩ mô trong năm qua. Xuất khẩu đang
hoạt động tốt, đặc biệt là đầu tư nước ngoài doanh nghiệp, nhưng các khu vực
trong nước, mặc dù cải thiện, vẫn chưa tìm thấy một nền tảng vững chắc do
nhiều yếu tố, bao gồm cả năng suất thấp, cơ cấu phân bổ nguồn lực, bảng cân
đối ngân hàng suy giảm và kém hiệu quả trong nhiều doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) Tăng trưởng tín dụng ở mức khiêm tốn, chủ yếu tập trung trong các
lĩnh vực định hướng xuất khẩu và nông nghiệp. Lạm phát đã giảm đáng kể,
nhưng áp lực cơ bản vẫn tồn tại. Doanh thu tài chính trong nước và nhập khẩu
liên quan đã được phần nào yếu trong những tháng gần đây. Thặng dư tài
khoản vãng lai tăng lên 9,1 tỷ USD trong năm 2012 từ 0,2 tỷ USD trong năm
2011 cho thấy sự suy giảm trong nhập khẩu và hoạt động xuất khẩu mạnh
mẽ. Tỷ giá hối đoái đã ổn định, và dự trữ ngoại hối tăng hơn gấp đôi trong
tháng 2 năm 2013 từ cuối năm 2011, mặc dù họ vẫn còn thiếu khoảng 2,5
tháng nhập khẩu tiềm năng. Trong hai năm tới, thặng dư tài khoản vãng lai dự
kiến sẽ vẫn khá lớn, và đầu tư (FDI) trực tiếp nước ngoài sẽ vẫn mạnh mẽ, hỗ
trợ dự trữ quốc tế.
- Thị trường tài chính đã ổn định sau khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(NHNN) cung cấp thanh khoản và tạo điều kiện cho các ngân hàng nhỏ và yếu
kém hợp nhất trong hai năm qua. Hơn nữa, để giảm bớt rủi ro từ đầu cơ vàng,
Ngân hàng Nhà nước cũng đã thực hiện các biện pháp để ngăn chặn hoạt động
huy động và cho vay vàng. Trong khi một số ngân hàng yếu kém không thể

đáp ứng các điều kiện cần thiết để tiếp cận thị trường liên ngân hàng và phải
dựa trên cơ sở tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước và nghiệp vụ thị trường
mở để hỗ trợ thanh khoản khi cần thiết thì chức năng của thị trường liên ngân
hàng đã phần lớn được phục hồi. Thanh khoản hệ thống ngân hàng đã giảm
bớt, bằng chứng là tốc độ tăng trưởng tiền gửi cao hơn và chi phí vốn thấp hơn
đáng kể. Chính phủ đã đưa ra kế hoạch tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước,
khoảng 1.200 doanh nghiệp nhà nước được dự kiến sẽ được tái cơ cấu, trong
đó một số đang làm ăn thua lỗ thậm chí là rơi vào nguy cơ phá sản. Chiến lược
cải cách giai đoạn 2011-2015 tập trung vào việc duy trì quyền sở hữu khoảng
50% doanh nghiệp nhà nước mà chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ
công cộng hoặc mang tính chiến lược, một số trong đó có sức mạnh độc quyền
đáng kể. Khoảng 43% doanh nghiệp nhà nước sẽ được cổ phần hóa, và phần
còn lại cơ cấu lại, bán, hoặc thanh lý.
- Quyền sở hữu chéo giữa các ngân hàng và giữa ngân hàng và doanh nghiệp
được lưu tâm và đang nỗ lực để giải quyết và ngăn chặn nguy cơ lây lan. Hạn
chế dữ liệu và những thách thức trong khung pháp lý và giám sát, cản trở sự
hiểu biết về tình trạng thực sự của hệ thống tài chính. Doanh nghiệp nhà nước
thống trị ngành công nghiệp quan trọng,số dư lợi nhuận cao, mặc dù tình trạng
tài chính thực sự của họ vẫn còn công khai không rõ. Ước tính gần đây cho
thấy doanh nghiệp nhà nước chiếm một phần ba của tổng tài sản các doanh
nghiệp, và một phần sáu lao động. Họ chiếm một nửa doanh thu thuế thu nhập
doanh nghiệp và một phần ba số thuế giá trị gia tăng trong nước.
b. Bài học cho Việt Nam
- Trước hết ta cần phải xây dựng hệ thống giám sát tài chính làm việc có hiệu
quả đảm bảo mục tiêu thị trường tài chính hiệu quả, ổn định, có khả năng cạnh
tranh và có khả năng phát hiện sớm các rủi ro tại các trung gian tài chính cũng
như cảnh báo sớm các rủi ro hệ thống và mức độ biến động của kinh tế vĩ mô
trong mối quan hệ của luồng vốn quốc tế.
- Thành lập một ban chỉ đạo cấp cao sẽ là rất quan trọng để thúc đẩy tái cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cần được đẩy

mạnh, tăng tính trách nhiệm và tăng cường kỷ luật tài chính. Cần tạo ra một
sân chơi bình đẳng cho các công ty tư nhân và nhà nước, đảm bảo tiếp cận bình
đẳng về nguồn vốn, cơ sở hạ tầng góp phần tăng sức cạnh tranh của các doanh
nghiệp với nhau.
- Tạo môi trường đầu tư trong nước có khả năng hấp thụ được số vốn ngoại tệ
hiện có trong dân và thu hút được từ nước ngoài để tránh tình trạng đô la hóa.
Thúc đẩy phát triển môi trường kinh tế vĩ mô, tạo môi trường cạnh tranh thực
sự giữa các thành phần kinh tế trong cả sản xuất, thương mại, dịch vụ và kể cả
lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Phát triển các công cụ tài chính như cổ phiếu,
trái phiếu, đa dạng hoá các danh mục đầu tư trong nước; thay cho dự kiến phát
hành trái phiếu ngoại tệ trên thị trường quốc tế bằng việc mở rộng phát hành
trái phiếu ngoại tệ ở trong nước, huy động vốn ngoại tệ ở trong dân
- Tăng tính độc lập của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong việc thi hành các
chính sách tiền tệ. Ở Nhật Bản, để ra các quyết định liên quan đến thực thi
chính sách tiền tệ, luật cho phép BOJ thiết lập một Hội đồng chính sách với 9
thành viên bao gồm thống đốc, hai phó thống đốc, và sáu thành viên khác
(không nhất thiết là người của ngân hàng trung ương và điểm quan trọng nhất
ở đây là không cho phép đại diện của chính phủ trong hội đồng này). Với hội
đồng này, kết hợp với mục tiêu được ấn định, BOJ không bị chi phối và đi lệch
hướng trong quyết định thực thi chính sách tiền tệ. Ở Việt Nam, Chủ tịch Hội
đồng tư vấn chính sách tiền tệ của Việt Nam là một phó thủ tướng, các thành
viên khác là thống đốc, bộ trưởng các bộ có liên quan và thành viên khác. Điều
này hạn chế đáng kể tính độc lập trong quyết định chính sách tiền tệ của Ngân
hàng nhà nước Việt Nam. Ngân hàng nhà nước Việt Nam cũng cần đảm bảo
nhất quán về mục tiêu (chẳng hạn như ổn định giá cả), độc lập tương đối về
mặt nhân sự (bổ nhiệm và miễn nhiệm) cũng như vấn đề tài chính (cơ chế
chính sách cụ thể về tài trợ ngân sách)
Ngân hàng nhà nước phải đủ sức và đủ công cụ để bảo đảm ổn định sức mua
của VNĐ, đủ sức kiểm soát và làm chủ các nghiệp vụ chính của Ngân hàng
nhà nước như điều hành thị trường tiền tệ; điều hành và kiểm soát toàn bộ hệ

thống thanh toán quốc gia; đổi mới cơ chế và quyền lực trong hoạt động thanh
tra- giám sát hoạt động ngân hàng của mọi loại định chế tài chính
- Tái cơ cấu vốn các ngân hàng, tăng cường giám sát và điều tiết ngân hàng, và
thực hiện tính toán để giải quyết nợ xấu. Tăng cường phân tích rủi ro tín dụng
và quản trị bằng cách thúc đẩy sự minh bạch lớn hơn, nên tiếp tục là một ưu
tiên hàng đầu.

×