TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC
BỘ MƠN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
MÃ ĐỀ: 10
TIỂU LUẬN MÔN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Tên đề tài: Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay
Họ và tên:
Mã sinh viên:
Lớp:
Hà Nội, 10/2021
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU......................................................................................................................1
B. NỘI DUNG..................................................................................................................2
I. Cơ sở lý luận.................................................................................................................2
1. Quan niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam..............................2
2. Đặc điểm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam..........................2
II. Vận dụng...................................................................................................................... 3
1. Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.............4
1.1. Thành tựu.................................................................................................................... 4
1.2. Hạn chế.....................................................................................................................10
1.3. Nguyên nhân của hạn chế..........................................................................................10
2. Một số giải pháp xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay.............................................................................................................. 13
C. KẾT LUẬN................................................................................................................15
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................16
A. MỞ ĐẦU
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân, là cơ
quan đại diện cho ý chí của nhân dân, thực hiện việc tổ chức, quản lý kinh tế, văn hóa xã
hội của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra
đời là kết quả của cuộc cách mạng do giai cấp vô sản và nhân dân lao động tiến hành
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản bảo vệ quyền lợi của nnhaan dân một cách triệt để.
Công cuộc đổi mới đất nước toàn diện trên tất cả các linh vực được Đảng Cộng
sản Việt Nam khởi xướng từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đến nay đã
đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên mọi mặt của đời sống từ phát
triển kinh tế – xã hội đến phát triển văn hoá, nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh
thần cho nhân dân, trong đó có q trình mở rộng và phát huy vai trò làm chủ của quần
chúng nhân dân. Tuy nhiên, để xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, địi hỏi cần có sự cố gắng, nỗ lực hơn nữa của cả hệ
thống chính trị, cả xã hội và mỗi cơng dân, đặc biệt là sinh viên. Trong đó, điều rất quan
trọng là mỗi sinh viên cần có những nhận thức đầy đủ về Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa từ đó xác định vai trị làm chủ của mình, tham gia tích cực, chủ động vào q
trình xây dựng, bảo vệ tổ quốc, trong đó bao hàm cả trách nhiệm xây dựng nhà nước. Nói
cách khác, thế hệ sinh viên chính là một trong những điều kiện quan trọng của việc hoàn
thành mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung ở Việt Nam hiện nay và mục tiêu
xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền nói riêng.
Tuy nhiên, sau hơn 35 năm đổi mới đất nước, bên cạnh những thành tựu là cơ bản,
thì những bất cập, hạn chế đang tồn tại, nảy sinh những lực cản, khó khăn mới trên con
đường tiến tới hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong đó, trình độ
chun mơn của một bộ phận sinh viên còn thấp, nhất là ý thức về quyền và nghĩa vụ của
sinh viên trong mối quan hệ với nhà nước còn hạn chế, sinh viên chưa thực sự chủ động
tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chưa tạo ra sự gắn kết phát
triển của cá nhân sinh viên với nhiệm vụ xây dựng nhà nước và sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc. Điều đó ảnh hưởng khơng nhỏ tới q trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Chính vì vậy, việc nghiên cứu sâu về Nhà nước xã hội chủ nghĩa, về xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là rất cần thiết.
Bởi vậy, em lựa chọn đề tài: “Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” để tiến hành nghiên cứu. Trên cơ sở nghiên cứu,
phân tích, đề xuất một số giải pháp cần thực hiện để thực hiện sự nghiệp xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
1
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Quan niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Theo quan niệm chung, nhà nước pháp quyền là nhà nước thượng tôn pháp luật,
nhà nước hướng tới những vấn đề về phúc lợi cho mọi người, tạo điều kiện cho cá nhân
được tự do, bình đẳng, phát huy hết năng lực của chính mình. Trong hoạt động của nhà
nước pháp quyền, các cơ quan của nhà nước được phân quyền rõ ràng và được mọi người
chấp nhận trên nguyên tắc bình đẳng của các thế lực, giai cấp và tầng lớp trong xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, cách tiếp cận và những đặc trưng về nhà nước pháp
quyền vẫn có những cách hiểu khác nhau. Song, từ những cách tiếp cận đó, nhà nước
pháp quyền được hiểu là nhà nước mà ở đó, tất cả mọi cơng dân đều được giáo dục pháp
luật và phải hiểu biết pháp luật, tuân thủ pháp luật, pháp luật phải đảm bảo tính nghiêm
minh; trong các hoạt động của cơ quan nhà nước, phải có sự kiểm sốt lẫn nhau, tất cả vì
những mục tiêu phục vụ nhân dân.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đưa ra những nội dung khái quát liên quan đến việc nhà nước
pháp quyền: Đề cao vai trò tối thượng của hiến pháp và pháp luật; đề cao quyền lợi và
nghĩa vụ của công dân, đảm bảo quyền con người; tổ chức bộ máy vừa đảm bảo tập
trung, thống nhất vừa có sự phân công giữa các nhánh quyền lực, phân cấp quyền hạ và
trách nhiệm giữa các cấp chính quyền nhằm đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, tránh
lạm quyền. Nhà nước có mối quan hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng
và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Có cơ chế và biện pháp
kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm,
xâm phạm quyền dân chủ của công dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà
nước theo nguyên tắc lập trung dân chủ, thống nhất quyền lực, có phân cơng, phân cấp,
đồng thời đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
Theo tiến trình của cơng cuộc đổi mới đất nước, nhận thức của Đảng ta về Nhà
nước pháp quyền ngày càng sáng tỏ. Với chủ trương: “Xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam của dân, do dân, vì dân”. Đảng ta đã xác định: Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, cơng chức, mọi cơng dân có nghĩa vụ chấp
hành Hiến pháp và pháp luật. Nhận thức đó là tiền đề để Đại hội XII (2016) của Đảng
làm rõ hơn về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XIII (2021) tiếp tục xác định việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới chính trị và phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa dựa trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh
giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng. Trong đó có các yêu
cầu như: Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước; xác định rõ vị
2
trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Nhà nước trong thực hiện
theo nguyên tắc dân chủ – pháp quyền, quản lý nhà nước bằng pháp luật, thống nhất ba
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp với sự phân công rõ ràng, phối hợp chặt chẽ và tăng
cường kiểm soát quyền lực Nhà nước; Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời,
đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định với quyền và lợi ích hợp
pháp chính đáng của người dân và doanh nghiệp làm trọng tâm, thúc đẩy đổi mới sáng
tạo, đảm bảo yêu cầu phát triển nhanh và bền vững.
2. Đặc điểm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Tại Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (11/1994) của Đảng lần
đầu tiên Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ nhà nước pháp quyền theo đó: “Nhà nước
pháp quyền thực sự của dân, do dân và vì dân” 1. Đến Hiến pháp năm 2013 và các chiến
lược phát triển kinh tế – xã hội thời kỳ đổi mới đều nhân mạnh xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu ở Việt Nam. Thể chế hoá quan
điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong Hiến pháp
năm 2013 đã khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; Nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức; Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp”2.
Từ thực tiễn nhận thức và công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam trong thời kì đổi mới tồn diện đất nước, có thể thấy Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có một số đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, xây dựng nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, đó là Nhà nước của
dân, do dân, vì dân.
Xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân, là xây dựng một nhà Nhà nước lấy
liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức làm nền tảng tư tưởng, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ
nghiêm kỷ cương pháp luật, kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm
phạm đến lợi ích của cá nhân, của người dân và đến lợi ích của Tổ quốc.
Thứ hai, Nhà nước được tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở của hiến pháp và
pháp luật. Trong tất cả các hoạt động của xã hội, pháp luật được đặt ở vị trí tối thượng để
điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Pháp luật của Nhà nước ta là kết quả của sự thể chế hố, phản ánh đường lối,
chính sách của Đảng và lợi ích của nhân dân trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hố, đối nội, đối ngoại... Vì vậy, pháp luật phải trở thành phương thức quan trọng đối
với tính chất và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là thước đo giá trị
1 Hội đồng Lý luận Trung ương: 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020, tr. 246
2 Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
3
phổ biến của xã hội. Các vấn đề công bằng, dân chủ, bình đẳng là những tố chất cần thiết
cho sự phát triển tiến bộ và bền vững của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng rõ ràng, có cơ chế phối
hợp nhịp nhàng, và có sự kiểm soát giữa các cơ quan: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Bắt đầu từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội tại Đại hội Đảng lần thứ VII (1991), quan điểm về sự tồn tại của ba quyền và sự phân
công, phối hợp giữa ba phạm vi quyền lực của Nhà nước mới được chính thức khẳng
định trên cơ sở tiếp thu, kế thừa, phát triển, vận dụng vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của
Việt Nam. Chỉ khi đến Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ XI và Cương lĩnh xây dựng đất
nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung quan tâm
vấn đề kiểm sốt quyền lực theo đó ngun tắc quyền lực nhà nước là thống nhất có sự
phân cơng, hợp tác và kiểm sốt giữa các cơ quan có quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
Thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo, phù hợp với Điều 4 Hiến pháp năm 2013. Hoạt động của nhà
nước được giám sát bới nhân dân với phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” thông qua các tổ chức, các cá nhân được ủy nhiệm.
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tôn trọng quyền con
người, coi con người là chủ thể, là trung tâm của sự phát triển. Quyền dân chủ của nhân
dân được thực hành một cách rộng rãi: “nhân dân có quyền bầu và bãi miễn những đại
biểu khơng xứng đáng”; đồng thời tăng cường thực hiện sự nghiêm minh của pháp luật.
Thứ sáu, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân
chủ, có sự phân cơng, phân cấp, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau, nhưng đảm bảo quyền
lực là thống nhất và sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
Như vậy, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không chỉ thể hiện
tinh thần của một nhà nước pháp quyền nói chung mà cịn có sự khác biệt với các nhà
nước pháp quyền khác trên thế giới. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam là Nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân, phục vụ lợi ích cho nhân dân;
nhà nước là công cụ chủ yếu để Đảng Cộng sản định hướng, thực hiện đi lên chủ nghĩa
xã hội.
II. Vận dụng
1. Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Qua hơn 30 năm đổi mới dất nước, cùng với những thành tựu nổi bật về kinh tế,
văn hố – xã hội, quốc phịng – an ninh và đối ngoại... cơng cuộc xây dựng và hồn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay cũng đạt được những thành
tựu đáng kể, đánh dấu một bước phát triển mới trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước
với một Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Cụ thể là:
1.1. Thành tựu
Thứ nhất, trong việc thực hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
Trước năm 1986 Việt Nam là một nước thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung,
quan liêu, bao cấp, sau năm 1986 Việt Nam tiến hành chuyển đổi sang nền kinh tế thị
4
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế kéo theo đó là những yêu cầu
mới trong cơ cấu xã hội – giai cấp. Có thể nói, việc thay đổi mơ hình kinh tế sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm thay đổi vai trị, vị trí, chức năng
và nhiệm vụ của Nhà nước nói chung, của bộ máy nhà nước nói riêng trong các mối quan
hệ với đời sống kinh tế – xã hội của đất nước. Đây là bước đổi mới về chất trong tư duy
lý luận về xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước. Nhà nước chỉ tham gia đảm nhiệm
những công việc đảm bảo lợi ích chung, sự phát triển chung của xã hội khi thật sự cần
thiết hoặc những khi cá nhân công dân khơng thể tự mình giải quyết vấn đề nếu thiếu sự
can thiệp, điều tiết của Nhà nước.
Trong mối quan hệ giữa nhà nước với công dân, bộ máy nhà nước, cán bộ, cơng
chức trong hành chính nhà nước đang dần chuyển từ tư duy lãnh đạo, quyền uy sang tư
duy về nhà nước vì dân, của dân và do dân, cán bộ, cơng chức có trách nhiệm, nghĩa vụ
phục vụ nhân dân, là công bộc của nhân dân.
Trong lĩnh vực kinh tế, vai trò sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, thành
phần kinh tế – xã hội với nhiệm vụ quản lý, định hướng của Nhà nước đã được phân định
rõ. Nhà nước khơng cịn trực tiếp can thiệp mà chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
sản xuất kinh doanh theo cơ chế kinh tế thị trường nhiều thành phần, đồng thời kiểm soát
chặt chẽ và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh tế, bảo đảm sự hài
hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển ổn định xã hội.
Trong lĩnh vực xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, cơng nghệ và môi trường, Nhà
nước chủ trương phát huy nhân tố con người, coi con người là trung tâm của sự phát
triển, xây dựng và thực hiện chính sách phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế; kết hợp
hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa – xã hội; giữa đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân; giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội…
Trong lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam tiếp tục thực hiện chủ trương độc lập, tự chủ,
đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ với các nước trên thế giới. Đồng thời, mở
rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước theo nguyên tắc Việt Nam sẵn sàng làm
bạn, đối tác tin cậy, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, tơn trọng hịa bình, độc lập,
chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ của nhau, bảo đảm ổn định và phát triển. Việt Nam đã gia
nhập nhiều tổ chức quốc tế như: ASEAN, WTO, WHO… Việt Nam đã thiết lập quan hệ
Đối tác toàn diện với 13 quốc gia: Nam Phi (2004); Chile, Brazil và Venezuela (2007);
Argentina (2010); Ukraine (2011); Hoa Kỳ và Đan Mạch (2013); Myanmar và Canada
(2017); Hungary (2018); Brunei và Hà Lan (2019)…
Thứ hai, về tổ chức bộ máy nhà nước
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất, đã trở thành yếu tố cơ bản quy định mối quan hệ quyền lực và pháp luật,
yếu tố bảo đảm để ý chí của nhân dân trở thành ý chí của Nhà nước, thành các quy phạm
pháp luật có hiệu lực cao là Hiến pháp và luật. Quốc hội là cơ quan được giao quyền lập
hiến, lập pháp, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Trong đó, lập pháp là chức năng cơ bản, quan trọng nhất của Quốc hội, nhằm thể chế hóa
đường lối, chính sách của Đảng thành các quy định để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Từ
sau đổi mới năm 1986 đến nay, Quốc hội đã ban hành 2 bản Hiến pháp gồm: Hiến pháp
5
năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp năm 2013. Đồng thời thông qua
hơn 300 luật, bộ luật và nhiều nghị quyết trên tất cả các lĩnh vực đời sống, Ủy ban thường
vụ Quốc hội đã thông qua hơn 186 pháp lệnh, là cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Quốc hội còn quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước như:
Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, dự toán, quyết toán, phân bổ sử dụng
ngân sách nhà nước; quyết định chính sách dân tộc, tơn giáo; điều chỉnh địa giới hành
chính; quyết định các chính sách đối nội, đối ngoại... Có thể thấy, tổ chức, hoạt động của
Quốc hội ngày càng được đổi mới, dân chủ, hiệu quả hơn. Quốc hội ngày càng đáp ứng
tốt hơn yêu cầu và mong đợi của nhân dân.
Chủ tịch nước là người đứng đầu, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam về đối nội và đối ngoại. Hiến pháp năm 1992 đã đánh dấu bước thay đổi chế định
người đứng đầu Nhà nước từ cơ chế Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam (Hội đồng Nhà nước) sang cơ chế người đứng đầu Nhà nước là cá nhân, thay
mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại, có thẩm quyền liên quan đến việc thực hiện cả ba
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trên cơ sở các nhiệm vụ, quyền hạn quy định trong
Hiến pháp và các văn bản pháp luật có liên quan, Chủ tịch nước Cộng hồ xã hội chủ
nghĩa Việt Nam qua các nhiệm kỳ đã phát huy rất tốt vị trí, vai trị của mình, đã có những
đóng góp quan trọng vào thành tựu chung của đất nước. Trong công tác đối nội, Chủ tịch
nước đã giữ được mối quan hệ chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, các đoàn thể xã hội và lực lượng vũ trang nhân
dân. Trong công tác đối ngoại, Chủ tịch nước đã thể hiện rõ vai trò của người đại diện
cho quốc gia, thúc đẩy mối quan hệ hợp tác về nhiều mặt kinh tế - xã hội, an ninh – quốc
phòng giữa Việt Nam với các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Chính phủ đã có bước đổi mới căn bản về tổ chức và phương thức hoạt động, nếu
Hiến pháp năm 1980 là Hội đồng Bộ trưởng thì đến Hiến pháp 2013 xác định Chính phủ
là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp
hành của Quốc hội. Chính phủ đã tập trung nhiều hơn vào chức năng quản lý nhà nước,
điều hành các lĩnh vực đời sống kinh tế – xã hội theo pháp luật trong phạm vi cả nước.
Cơ cấu tổ chức bộ máy Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước được cải tiến,
tình trạng phân tán, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, nhiều tầng nấc trung gian được
khắc phục. Thủ tục hành chính được chú trọng cải cách theo hướng hành chính một cửa
liên thơng; vị trí và vai trị của cơ quan hành chính nhà nước trong mối quan hệ với người
dân và doanh nghiệp đã được đổi mới theo hướng phục vụ và quản lý. Có thể nói, hoạt
động của Chính phủ ngày càng chun nghiệp hơn, công khai, minh bạch hơn, đáp ứng
tốt hơn các nhiệm vụ quản lý và điều hành đất nước theo các yêu cầu, đòi hỏi của nền
kinh tế thị trường, góp phần đưa đất nước vượt qua những giai đoạn khó khăn, vượt qua
khủng hoảng kinh tế để đạt được nhiều thành cơng lớn nhất là trong đại dịch covid-19.
Tịa án nhân dân được xác định là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, cơ quan xét
xử của nhà nước. Tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án trong thời gian qua đang
được nghiên cứu để đổi mới, cải cách hơn nữa theo hướng “tổ chức hệ thống Tòa án theo
6
thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính” 3, mở rộng thẩm quyền xét
xử của Tồ án, đặc biệt là thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính, qua đó, tăng cường
khả năng kiểm sốt của tư pháp đối với hệ thống cơ quan hành chính. Việc xét xử các vụ
án hình sự, giải quyết các vụ việc dân sự và các vụ án hành chính của Tịa án bảo đảm
đúng pháp luật, cơ bản bảo đảm đúng người, đúng tội trong vụ án hình sự và bảo vệ kịp
thời các quyền, lợi ích chính đáng của các bên; yêu cầu tranh tụng đã bước đầu được thực
hiện trong hoạt động tố tụng, qua đó các quyền con người, quyền công dân ngày càng
được đề cao, tơn trọng và đảm bảo. Trách nhiệm của Tịa án, cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được xác định rõ ràng, cụ thể hơn. Chế
độ bổ nhiệm Thẩm phán tiếp tục được thực hiện có kết quả. Những kết quả này đã góp
phần bảo đảm các mục tiêu, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Viện kiểm sát nhân dân với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp ngày càng được đổi mới cả về nhận thức và tổ chức thực hiện. Kết quả thực
hiện chức năng của Viện kiểm sát đã góp phần bảo đảm các mục tiêu, yêu cầu của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, góp phần vào việc hình thành và thực hiện
cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, tránh sự lạm quyền, xâm phạm các quyền dân chủ
của công dân, bảo đảm sự tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc giải quyết các vụ án, vụ việc.
Kiểm toán nhà nước với địa vị là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài
chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, là
công cụ phục vụ cho sự minh bạch về tài chính ngân sách thơng qua việc cơng khai kết
quả kiểm tốn báo cáo tài chính của các tổ chức, các cấp ngân sách. Trong những năm
vừa qua, Kiểm toán nhà nước đã góp phần tích cực vào việc phát hiện, xử lý vi phạm đối
với nhiều vụ việc xảy ra thất thoát, tham nhũng trong đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý đất
đai, thu – chi ngân sách, quản lý tài sản công và hệ thống ngân hàng thương mại... Chính
vì vậy, để nâng cao vị trí, vai trị của cơ quan này, Hiến pháp năm 2013 đã có một điều
quy định về chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán nhà nước.
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân là những cơ quan chính quyền địa
phương. Qua quá trình đổi mới, thể chế về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương ngày càng được chú trọng. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân
năm 2003, các luật chuyên ngành đã được xây dựng theo tinh thần kiện toàn tổ chức, tăng
cường chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân; phân định thẩm quyền giữa Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân cùng cấp, giữa mỗi cấp chính quyền địa phương tỉnh – huyện
– xã, giữa tập thể Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân. Trong thời gian qua,
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp đã từng bước đổi mới và nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động đạt được nhiều kết quả, tạo cơ sở cho việc quản lý, điều hành
kinh tế – xã hội ở địa phương; hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với Ủy ban
nhân dân ngày càng được tăng cường, góp phần thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phát
triển kinh tế – xã hội ở địa phương, Ủy ban nhân dân đã thực hiện đúng vai trị là hành
3 Nghị quyết sơ 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp.
7
chính nhà nước ở địa phương, đề xuất để Hội đồng nhân dân quyết định các chủ trương,
chính sách xây dựng, phát triển địa phương; chủ động thực hiện chức năng quản lý nhà
nước trên các lĩnh vực và chỉ đạo, điều hành các mặt kinh tế – xã hội, an ninh, quốc
phòng ở địa phương.
Thứ ba, về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, khoản 3 Điều 2 Hiến
pháp năm 2013 quy định nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp”. Với cơ sở pháp lý Hiến pháp năm 2013, nhiều văn bản quy
phạm pháp luật được ban hành thời gian qua đã bước đầu cụ thể hóa nguyên tắc hiến định
về kiểm sốt quyền lực nhà nước. Có thể khẳng định, thể chế và các thiết chế kiểm soát
quyền lực nhà nước ngày càng được hoàn thiện. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII vừa qua Đảng đánh giá: “Cơ chế phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
ngày càng rõ hơn và có nhiều chuyển biến tích cực” 4. Quốc hội có nhiều đổi mới, chất
lượng và hiều quả hoạt động xây dựng pháp luật, giám sát tối cao và quyết định những
vấn đề quan trọng của đất nước hơn trước đây. Hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp
có nhiều đổi mới. Đảng cầm quyền kiểm soát quyền lực nhà nước bằng việc định ra chủ
trương, đường lối và lãnh đạo, kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện chủ trương, đường
lối đó.
Thứ tư, về bảo đảm vai trò của Hiến pháp và hệ thống pháp luật
Ở Việt Nam Hiến pháp giữ vị trí tối thượng trong hệ thống pháp luật quy định
những vấn đề cơ bản của Nhà nước như: chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa xã hội;
hình thức và bản chất nhà nước; tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước; quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân; mọi văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp và
không được trái với Hiến pháp. Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước năm
1986 đến nay, Quốc hội đã 2 lần tiến hành hoạt động lập hiến Hiến pháp năm 1992 và
Hiến pháp năm 2013. Đây là sự kiện chính trị – pháp lý đặc biệt quan trọng, đánh dấu
bước phát triển mới trong lịch sử lập hiến. Hiến pháp năm 2013 thể hiện rõ và đầy đủ hơn
bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân, quy định rõ ràng, đúng đắn, đầy đủ và khái quát hơn về kinh tế, xã hội, văn
hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, bảo vệ Tổ quốc, tổ chức bộ máy nhà
nước, về hiệu lực và quy trình sửa đối Hiến pháp.
Cùng với hoạt động lập hiến, Nhà nước cũng không ngừng xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật, tạo khung pháp lý cho sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Hệ thống pháp luật Việt Nam sau hơn 30 năm đổi
mới nhìn chúng đã dần hoàn thiện cả về nội dung và hình thức, số lượng và chất lượng
4 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia Sự thật, Hà Nội. tr.72
8
bảo đảm tính thống nhất nội tại, rõ ràng, cụ thể, minh bạch và có tính khả thi cao. Hoạt
động pháp điển hoá được chú trọng, một số lĩnh vực trong cuộc sống đã được điều chỉnh
bằng pháp luật và pháp lệnh. Tính đến nay Quốc hội đã ban hành hơn 300 đạo luật, trong
đó có nhiều đạo luật quan trọng như Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân
sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật lao động, Luật nhà ở, Luật đất đai, Luật doanh nghiệp,
Luật phòng, chống tham nhũng, Luật sở hữu trí tuệ... Cơng tác soạn thảo và ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật dần đi vào nề nếp, theo trình tự, dân chủ và đáp ứng được
yêu cầu của thực tiễn. Trong mỗi giai đoạn phát triển của xã hội, để phù hợp với thực tế,
Quốc hội đã quyết định sửa đổi, bổ sung nhiều đạo luật quan trọng như Bộ luật dân sự
2015 thay thế bộ luật dân sự 2005, Luật đất đai 2013 thay thế luật đất đai 2003... Hoạt
động thông tin, phổ biến và giáo dục pháp luật có chuyển biến tích cực, giáo dục pháp
luật từng bước được đưa vào nhà trường, từng địa phương, vùng đồng bào góp phần nâng
cao ý thức pháp luật của người dân, hạn chế hành vi vi phạm pháp luật, giữ vũng ổn định
xã hội. Việc thi hành Hiến pháp và các đạo luật được bảo đảm bởi Nhà nước, cán bộ,
công chức và mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội. Các hành vi vi phạm pháp luật đều được
phát hiện và xử lý kịp thời, đúng người, đúng tội bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Ở Việt Nam chỉ có duy nhất một Đảng cầm quyền và lãnh đạo đó là Đảng Cộng
sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp
luật, chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về các quyết định
của mình khơng có “ngoại lệ”, “vùng cấm”. Trong hơn 30 năm đổi mới, phương thức
lãnh đạo của Đảng đã có những bước tiến nhất định, ngày càng phân định rõ vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước với chức năng, nhiệm vụ của các các cơ quan,
tổ chức đảng. Các nghị quyết của Đảng đã từng bước làm rõ mối quan hệ lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước trên các lĩnh vực dời sống xã hội, có ý nghĩa chiến lược trong xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách hành chính và phát triển kinh tế –
xã hội, quốc phòng, an ninh, mở rộng hội nhập sâu rộng. Những năm qua, công tác tuyên
truyền đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật trong quần chúng nhân dân đã được
đẩy mạnh. Phong cách, tác phong làm việc của Đảng được đổi mới bám sát thực tiễn, sâu
sát cơ sở hơn. Cải cách hành chính trong Đảng được quan tâm, việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành bước đầu đạt kết quả tích cực, có ý nghĩa
quan trọng. Các đồn kiểm tra việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Trung ương
các khóa được thành lập, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, chấn chỉnh những nơi
thực hiện chưa tốt. Nhờ vậy, quyền làm chủ và lợi ích của nhân dân được thực hiện ngày
một tốt hơn.
Đối với Quốc hội, sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở việc Đảng xác định định
hướng, nguyên tắc, quan điểm, chủ trương, giải pháp lớn, cịn để Qc hội thảo luận và
quyết định chứ khơng áp đặt. Đối với Chính phủ, Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở việc
Đảng chỉ quyết định những vấn đề về tư tưởng, quan điểm và các chủ trương lớn để chỉ
đạo, định hướng cho Chính phủ tổ chức thực hiện theo khuôn khổ của pháp luật. Đảng
không quyết định những chủ trương cụ thể thuộc phạm vi quản lý của Chính phủ, khơng
“bao biện” chính quyền. Đối với Viện kiểm sát và Toà án, Đảng đã chủ trương cải cách tư
9
pháp, nhiều quy định về tổ chức và hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát đã được sửa đổi,
bổ sung hoặc xây dựng mới, tạo hành lang pháp lý cho việc đổi mới tổ chức và hoạt
động. Mặc dù Đảng là cơ quan lãnh đạo Tòa án nhưng Đảng vẫn tơn trọng tính độc lập
trong xét xử của Tịa án “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán,
Hội thẩm”5. Đồng thời, những năm qua tình trạng cấp ủy can thiệp vào cơng tác xét xử
của Tịa án đã giảm nhiều.
Thứ sáu, về đội ngũ cán bộ, công chức
Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm sâu sắc đến
việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Trải qua q trình phát
triển, đội ngũ cán bộ, cơng chức đã từng bước trưởng thành, công tác quản lý đã dần đi
vào nền nếp, từng bước khắc phục tình trạng cửa quyền, quan liêu, bao cấp. Việc tuyển
dụng cán bộ, công chức, viên chức được chuyển từ chế độ phân phối theo kế hoạch sang
chế độ thi tuyển cạnh tranh, công khai; việc thăng tiến về mặt chức nghiệp của cán bộ,
công chức, viên chức đều phải qua các kỳ thi nâng ngạch; tư duy về việc bổ nhiệm cán
bộ, công chức, viên chức giữ các chức danh lãnh đạo, quản lý theo hướng động với quy
định thời hạn bổ nhiệm có nhiệm kỳ 5 năm, hết thời hạn có đánh giá, bổ nhiệm lại hoặc
không bổ nhiệm lại; quy định và đưa vào nền nếp về chế độ đánh giá cán bộ, công chức,
viên chức và thực hiện chế độ khen thưởng, kỷ luật và các quy trình, thủ tục, thẩm quyền
cụ thể; chế độ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức được coi trọng; việc sử
dụng cán bộ, công chức, viên chức phải căn cứ vào tiêu chuẩn, nhu cầu... Về cơ bản, đội
ngũ cán bộ, công chức trong Đảng và Nhà nước hiện nay là những người có bản lĩnh
chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, quan điểm lập
trường đúng đắn, trung thành với Tổ quốc, với nhân dân góp phần thúc đẩy sự nghiệp
phát triển kinh tế – xã hội, tạo tiền đề cho việc hội nhập kinh tế quốc tế sâu, rộng và trên
các lĩnh vực văn hóa – xã hội với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá
trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, trung thành với mục
tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân và vì
dân. Đại hội XIII (2021) đánh giá: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có
nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và
hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” 6.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XIII, Bộ Chính trị đã thành lập
Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045” với 21 thành viên,
bao gồm 8 đồng chí là Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch
nước Nguyễn Xuân Phúc làm Trưởng Ban Chỉ đạo.
5 Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam năm 2013.
6 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia Sự thật, Hà Nội. tr.71
10
1.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam sau hơn 30 năm đổi mới, thực tiễn công tác tổ chức
và hoạt động của nhà nước vẫn tồn tại và đang bộc lộ những hạn chế cần tiếp tục được
quan tâm giải quyết, cụ thể:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật vẫn chưa đáp ứng kịp với yếu cầu của thực tiễn tình
hình đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, thiếu thống nhất, đồng bộ vẫn cịn tình
trạng văn bản chồng chéo, mâu thuẫn nhau mặc dù Quốc hội đã ban hành nhiều đạo luật
mới, sửa đổi và bổ sung nhiều Bộ luật hiện hành. Tuy nhiên, một số luật được ban hành
nhưng chất lượng chưa cao, chưa đi sâu vào thực tiễn dẫn đến tính khả thi thấp, phải điều
chỉnh, sửa đổi, bổ sung nhiều lần. Một số đạo luật cụ thể hóa Hiến pháp về quyền con
người chưa được Quốc hội ban hành kịp thời. Một số luật còn nhiều quy định mang tính
nguyên tắc, thiếu cụ thể nên khi có hiệu lực áp dụng bị hiểu sai, tạo lỗ hổng pháp luật,
khả năng thi hành thấp, chậm đi vào cuộc sống do phải chờ văn bản quy định chi tiết,
hướng dẫn. Việc tổ chức thực hiện pháp luật còn hạn chế, có nơi, có lúc chưa xử lý
nghiêm các hành vi xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân từ phía cơ quan
cơng quyền, đặc biệt là những vụ án oan tuy khơng nhiều, nhưng có những vụ, việc rất
nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến quyền con người, đến niềm tin của nhân dân đối với
nên tư pháp nước nhà.
Thứ hai, quản lý nhà nước chưa đáp ứng được đòi hỏi của thời kỳ đổi mới; chưa
phát huy đầy đủ các mặt tích cực và chưa hạn chế được tính tự phát, mặt trái tiêu cực của
nền kinh tế thị trường. Các nguồn tài nguyên như: Đất đai, vốn và tài sản nhà nước…
chưa được sử dựng và quản lý chặt chẽ dẫn đến việc sử dụng lãng phí và thất thốt
nghiêm trọng. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước vẫn cịn tình trạng bng lỏng, bao
biện và chồng chéo, phương thức lãnh đạo của một số cấp uỷ Đảng còn chậm đổi mới,
một số nơi còn lúng túng nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực
điều hành của bộ máy nhà nước.
Thứ ba, tổ chức bộ máy nhà nước còn một số bất cập như: tổ chức bộ máy hiện
nay cịn nặng nề, sự phân cơng và phối hợp việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp giữa các cơ quan nhà nước còn lúng túng, chưa rõ về chức năng, nhiệm vụ, mối
quan hệ, phân cấp trung ương, địa phương chưa cụ thể như: quy định về chức năng,
nhiệm vụ và mối quan hệ Chính phủ và các cơ quan hành chính trên một số lĩnh vực còn
chưa rõ, hay về quản lý đầu tư, tài chính, tổ chức bộ máy, kết hợp quản lý theo ngành và
lãnh thổ... làm cho tình trạng tập trung quan liêu, sự phân tán, cục bộ chậm khắc phục.
Ngoài ra, trong bộ máy nhà nước chưa trong sạch, vững mạnh; tình trạng tham nhũng,
lãng phí, quan liêu cịn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn; hiệu lực quản lý, điều hành
chưa cao; kỷ cương xã hội cịn bị bng lỏng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với
Đảng và nhà nước.
Thứ tư, chất lượng cán bộ, công chức trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa đáp
ứng được yêu cầu thực thi chức năng, nhiệm vụ theo vị trí việc làm; năng lực và trình độ
đội ngũ cán bộ, cơng chức vẫn chưa đáp ứng được những địi hỏi của sự nghiệp công
11
nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế
quốc tế sâu rộng. Mức độ chuyên nghiệp, tính chuyên sâu và các kỹ năng hành chính của
các cán bộ, cơng chức ở một số địa phương cịn thấp. Cơng tác tổ chức quản lý, tuyển
dụng, sử dụng, thi nâng ngạch, đánh giá xếp loại, luân chuyển, đề bạt cán bộ, cơng chức
cịn theo lối cũ chậm thay đổi. Văn hóa ứng xử, thái độ trong công sở và trong giao tiếp
hành chính của một bộ phận cán bộ, cơng chức chưa đạt yêu cầu trong thực thi công vụ,
phục vụ nhân dân. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức đã bị suy thoái về phẩm
chất đạo đức, thiếu gương mẫu, thiếu trách nhiệm nói khơng đi đơi với làm trong cơng
việc, cịn có biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu nhân dân.
1.3. Nguyên nhân của hạn chế
Những hạn chế trong công tác xâu dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam nếu trên xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan cơ bản sau:
Thứ nhất, xuất phát điểm của Việt Nam thấp còn chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề
của cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, bao cấp điều đó đã tác động khơng nhỏ đến
q trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trong điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, hơn nữa đây cịn là vấn đề mới về lý luận,
chưa có nước nào trên thế giới đã xây dựng thành cơng hồn, địi hỏi sự tìm tịi, khai phá,
đúc kết kinh nghiệm của các nước đi trước một cách bền bỉ và kiên trì.
Thứ hai, nhiều vấn đề lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa
được nghiên cứu một cách có hệ thống, chưa xác định rõ vai trị, chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng và Nhà
nước còn lúng túng trong việc xác định vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; chưa tạo sự
gắn kết, đồng bộ giữa cải cách hành chính với cải cách lập pháp, tư pháp. Quốc hội nước
ta là cơ quan hoạt động không thường xuyên, đại biểu Quốc hội phần lớn kiêm nhiệm
nhiều chức danh, cơng việc nên vai trị giám sát tối cao của Quốc hội đối với Chính phủ,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tồ án nhân dân tối cao cịn hạn chế. Các hình thức giám
sát chủ yếu là xem xét báo cáo, chất vấn tuy về bản chất đặt Quốc hội vào tình huống bị
động trước những sự việc đã rồi nên hiệu quả giám sát chưa cao.
Thứ ba, tuy Đảng và Nhà nước ta đã sớm nhận thấy yêu cầu đổi mới và kiện toàn
tổ chức, bộ máy, song các chủ trương và việc tổ chức thực hiện lại thiếu đồng bộ, thiếu
kiên quyết, chưa kịp thời đổi mới tổ chức, nâng cao năng lực, hiệu quả của bộ máy nhà
nước, việc sắp xếp tổ chức, bộ máy không đi đơi với đổi mới thể chế chính chị, chính
sách, phương thức hoạt động nên kết quả thực hiện còn bị hạn chế, chưa thực sự thay đổi
được tổ chức bộ máy. Đó là ngun nhân chính khiến cơ cấu tổ chức, bộ máy Nhà nước
lúc giảm, lúc tăng đầu mối, khi tách, khi nhập tổ chức bộ máy; biên chế ngày càng tăng
mà hiệu quả hoạt động không đổi.
Thứ tư, hoạt động tổng kết lý luận và thực tiễn về phân định và mối quan hệ giữa
sự quản lý của Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng còn chậm; sự đổi mới về nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng trong các lĩnh vực xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, xây dựng và tổ chức thực thi pháp luật, nhất là cải cách hành chính, cải
12
cách tư pháp, xây dựng Đảng và chính quyền chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Việc rà soát các quy định pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn, triệt tiêu lẫn nhau hay tạo ra
những “lỗ hổng” trong hoạt động quản lý theo pháp luật trở thành vấn đề quan trọng
trong nâng cao hiệu lực hoạt động của bộ máy Nhà nước cũng như giá trị, hiệu lực thực
sự của luật do Quốc hội ban hành.
Thứ năm, công tác quy hoạch, tuyển dụng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
chưa ổn định, thiếu hệ thống, thiếu đồng bộ nên việc bố trí, sử dụng cơng chức cịn bị
động. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức đnag bị suy thoái về đạo đức, nhũng
nhiễu dân gây mất niềm tin của nhân dân vào cơ quan công quyền.
2. Một số giải pháp xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay
Ngồi những thành tựu to lớn đã đạt được thì công cuộc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và
quản lý đất nước trong tình hình mới. Tiếp tục xây dựng và hồn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng
lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị, cần thực hiện một số giải
pháp sau:
Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mang bản chất giai cấp công
nhân, đồng thời cũng gắn bó chặt chẽ với dan tộc, với nhân dân. Tổ chức quyền lực của
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Theo đó Đại hội Đảng XIII đã nhấn mạnh: “Xác định rõ hơn
vai trị, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp
quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng rành mạch, phối hợp
chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”7.
Hai là, cải cách thể chế và phương pháp hoạt động của nhà nước.
Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc
Hội để đảm bảo đây là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân, đại diện cho nhân dân.
Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất ở nước ta, là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp và hiến pháp: thực hiện
một số nhiệm vụ thuộc quyền hành pháp và tư pháp, quyền giám sát tối cao đối với toàn
bộ hoạt động của nhà nước.
Xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước
hiện đại hóa. Đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm mạnh và bãi bỏ các thủ tục hành
chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Nâng cao năng lực, chất lượng và tổ chức
thực hiện các cơ chế, chính sách. Đẩy mạnh xã hội hóa các ngành dịch vụ công phù
7, 6 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia Sự thật, Hà Nội. tr.175. tr.173.
13
hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phát huy dân chủ, Đại hội lần
thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ
theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại
diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở dựa trên phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”8.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức trong sạch, có năng lực.
Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng
định: “Ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo quản lý” 9. Theo đó, cần
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức
năng lực lãnh đạo, điều hành quản lý đất nước, có chính sách đãi ngộ, động viên khuyến
khích cán bộ, cơng chức, khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực để mọi
cán bộ, công chức, viên chức hồn thành tốt nhiệm vụ được giao; khuyến khích bảo vệ
cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó
khăn, thử thách, dám đổi mới sáng tạo trong công tác và quyết liệt trong hành động vì lợi
ích chung của nhân dân. Đồng thời cũng phải xây dựng được cơ chế loại bỏ, miễn nhiệm
những người khơng hồn thành nhiệm vụ, vi phạm kỉ luật, đạo đức công vụ.
Bốn là, đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm.
Phịng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm là nhiệm vụ cấp bách, lâu
dài ủa quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Với quan
điểm đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương: tiếp tục hoàn thiện các thể chế và đẩy mạnh
cải cách hành chính phục vụ nhiệm vụ, phịng chống tham nhũng, lãng phí; xây dựng và
hồn thiện cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người đấu tranh chống tham nhũng; xây
dựng các chế tài để xử lý các cá nhân và tổ chức vi phạm; động viên và khuyến
khích tồn Đảng, tồn dân thực hành tiết kiệm.
Dựa trên quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nghị quyết Đại hội XIII chỉ rõ định hướng
giai đoạn 2021 – 2030 là: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục
vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải
trình; kiểm sốt quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà
nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”10.
Năm là, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp
Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định:“xây dựng được hệ thống pháp luật thống
nhất, đồng bộ, khả thi, cơng khai, minh bạch, ổn định, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy
8
9, 8, 9 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia Sự thật, Hà Nội. tr.203-204, tr.173. tr.285.
10
14
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân là trung tâm, thúc đẩy đổi mới
sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh
trong điều kiện mới”11. Đồng thời, gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức
thi hành pháp luật. Bởi một phần nguyên nhân hạn chế là xuất phát từ khâu tổ chức thực
hiện pháp luật. Do đó, phải: tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội,... “thượng
tôn pháp luật”; cùng với đó là đẩy nhanh tiến độ ban hành các luật trực tiếp triển khai thi
hành Hiến pháp năm 2013. Hệ thống pháp luật phải tương thích, đáp ứng được yêu cầu
của đời sống hiện đại không chỉ trong nước mà cịn cả trong mơi trường quốc tế.
C. KẾT LUẬN
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước mà ở đó sự thống trị chính
trị thuộc về giai cấp cơng nhân, là nhà nước mà ở đó, tất cả mọi quần chúng nhân dân đều
được giáo dục pháp luật và mọi người phải hiểu biết pháp luật, tuân thủ pháp luật, đồng
thời pháp luật phải đảm bảo tính nghiêm minh; trong mọi hoạt động của cơ quan nhà
nước, phải có sự kiểm sốt lẫn nhau, tất cả vì những mục tiêu phục vụ nhân dân.
Theo quan niệm chung, nhà nước pháp quyền được hiểu là nhà nước thượng tôn
pháp luật, mọi hoạt động của nhà nước hướng tới những vấn đề về phúc lợi cho mọi
người, tạo điều kiện cho cá nhân được tự do, bình đẳng, phát huy hết năng lực của mình.
Trong hoạt động của nhà nước, các cơ quan của nhà nước được phân quyền rõ ràng thành
3 nhóm hành pháp, tư pháp và lập pháp, mọi người chấp nhận các quyền đó trên nguyên
tắc bình đẳng của các thế lực, giai cấp và tầng lớp trong xã hội. Con đường đi lên xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, nhất là trong hơn 30 năm đổi mới toàn diện, đất nước đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và
suy thoái kinh tế tồn cầu. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết
quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, của tồn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam là những minh chứng khoa học và cách mạng
của con đường đi lên nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập trong hệ
thống pháp luật, tổ chức bộ máy nhà nước và chất lượng cán bộ, công chức trong Đảng,
Nhà nước hiện nay.
Trong Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng các khóa trình Đại
hội đều nhấn mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm của tồn bộ hệ thống chính trị. Xác định nhiệm vụ này,
Đảng và Nhà nước đã đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới và pháp luật kiểu mới mà còn thể hiện sâu sắc thái
độ trân trọng, kế thừa có chọn lọc những nhân tố hợp lý trong các học thuyết và thực tiễn
công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân loại.
Với đề tài: “Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay”, em muốn nhấn mạnh thêm rằng xây dựng Nhà nước pháp quyền của
11
15
dân, do dân và vì dân chính là điều kiện cho nhân dân có một cuộc sống ấm no, hanh
phúc.Vì vậy, với tư cách là một công dân Việt Nam thế hệ sinh viên cần phải phát huy
tích cực, chủ động trong việc rèn luyện và phát triển năng lực tư duy của mình. Đặc biệt
là Nâng cao nhận thức về thực hiện và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Hồng Chí Bảo, Thái Ninh (1991), Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XIII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
6. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình cao cấp lý
luận chính trị, tập 3 – Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
7. GS, TS. Phan Trung Lý -Nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội,
Nguyễn Trung Thành - Phó Viện trưởng Viện Khoa học Mơi trường và Xã hội (2020),
Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối với việc
thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, Tạp chí nghiên cứu lập pháp,
đăng ngày 23/11/2020.
16