Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty may Hồ Gươm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.4 KB, 100 trang )

MỞ ĐẦU
Bước vào thế kỷ 21- kỷ nguyên mới đầy hứa hẹn nhưng cũng nhiều thách
thức, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế đang là một vấn đề diễn ra sôi động và cấp
bách.
Trước xu hướng đó, đối với nền kinh tế Việt Nam ngành dệt may được coi là
một trong những ngành rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước.
Mục tiêu chiến lược và nhiệm vụ của ngành là góp phần thực hiện đường lối của
Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước, đảm bảo
nhu cầu toàn xã hội đang không ngừng tăng lên về mọi mặt, không ngừng tăng
cường sản xuất, xuất khẩu, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động- vấn đề
mà toàn xã hội đang quan tâm. Việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá
tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, cùng xu thế mở
cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới. Công ty may Hồ Gươm là một doanh nghiệp
nhà nước đã được cổ phần hoá trực thuộc Tổng Công ty mayViệt Nam đang đứng
trước những cơ hội và thách thức lớn lao trong điều kiện cạnh tranh gay gắt. Để có
thể tồn tại, đứng vững và phát triển đòi hỏi Công ty phải xác định được cho mình
những phương thức hoạt động, những chính sách, những chiến lược cạnh tranh đúng
đắn
Nhận thức được tầm quan trọng của xu thế hội nhập và cạnh tranh cũng như
mong muốn được đóng góp những ý kiến để Công ty may Hộ Gươm đẩy mạnh hoạt
động sản xuất kinh doanh. Sau một thời gian thực tập tại Công ty may Hồ Gươm,
em quyết định lựa chọn đề tài “ Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh của Công ty may Hồ Gươm” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương I: Những lý luận cơ bản về cạnh tranh và nâng cao năng lực
canh tranh.
Chương II: Thực trạng và khả năng cạnh tranh của Công ty may Hồ
Gươm
Trang 1
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của
Công ty may Hồ



Trang 2
CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH VÀ NÂNG CAO
KHẢ NĂNG CẠNH TRANH
I. LÝ THUYẾT CẠNH TRANH
Khái niệm cạnh tranh
Trong sự phát triển của nền kinh tế thị trườngViệt Nam hiện nay, các khái
nệm liên quan đến cạnh trạnh còn rất khác nhau.Theo Mác“cạnh tranh là sự phấn
đấu ganh đua găy gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi
trong sản xuất và trong tiêu thụ để đạt được những lợi nhuận siêu ngạch”, có các
quan niệm khác lại cho rằng “cạnh tranh là sự phấn đấu về chất lượng sản phẩm,
dịch vụ của doanh nghiệp mình sao cho tốt hơn các doanh nghiệp khác”(Theo nhóm
tác giả cuốn “nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo hộ sản xuất trong nước”). Theo
kinh tế chính trị học “cạnh tranh là sự thôn tính lẫn nhau giữa các đối thủ nhằm
giành lấy thị trường, khách hàng cho doanh nghiệp mình”. Để hiểu một cách khái
quát nhất ta có khái niệm như sau:
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh cạnh tranh được hiểu là sự ganh
đua giữa các doanh nghiệp trên thị trường nhằm giành được ưu thế hơn về cùng
một loại sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ, về cùng một loại khách hàng so với
các đối thủ cạnh tranh .
Từ khi nước ta thực hiện đường lối mở cửa nền kinh tế, từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vấn đề cạnh tranh bắt đầu xuất hiện và
len lỏi vào từng bước đi của các doanh nghiệp. Môi trường hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp lúc này đầy sự biến động và vấn đề cạnh tranh đã trở nên cấp
bách, sôi động trên cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Như vậy,
trong nền kinh tế thị trường hiện nay, trong bất cứ một lĩnh vực nào, bất cứ một
hoạt động nào của con người cũng nổi cộm lên vấn đề cạnh tranh. Ví như các
quốc gia cạnh tranh nhau để giành lợi thế trong đối ngoại, trao đổi, các doanh

nghiệp cạnh tranh nhau để lôi cuốn khách hàng về phía mình, để chiếm lĩnh
Trang 3
những thị trường có nhiều lợi thế và con người cạnh tranh nhau để vươn lên
khẳng định vị trí của mình cả về trình độ chuyên, môn nghiệp vụ để những người
dưới quyền phục tùng mệnh lệnh, để có uy tín và vị thế trong quan hệ với các đối
tác. Như vậy, có thể nói cạnh tranh đã hình thành và bao trùm lên mọi lĩnh vực
của cuộc sống, từ tầm vi mô đến vĩ mô, từ một cá nhân riêng lẻ đến tổng thể toàn
xã hội. Điều này xuất phát từ một lẽ đương nhiên nước ta đã và đang bước vào
giai đoạn phát triển cao về mọi lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hoá, mà bên
cạnh đó cạnh tranh vốn là một quy luật tự nhiên và khách quan của nền kinh tế
thị trường, nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của mỗi người, bởi tự do là
nguồn gốc dẫn tới cạnh tranh, cạnh tranh là động lực để thúc đẩy sản xuất, lưu
thông hàng hoá phát triển. Bởi vậy để giành được các điều kiện thuận lợi trong
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên động
não, tích cực nhạy bén và năng động phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, ứng
dụng khoa học kỹ thuật công nghệ mới, bổ sung xây dựng các cơ sở hạ tầng, mua
sắm thêm trang thiết bị máy móc, loại bỏ những máy móc đã cũ kỹ và lạc hậu và
điều quan trọng phải có phương pháp tổ chức quản lý có hiệu quả, đào tạo và đãi
ngộ trình độ chuyên môn, tay nghề cho người lao động. Thực tế cho thấy ở đâu
thiếu có sự cạnh tranh thường ở đó biểu hiện sự trì trệ và yếu kém sẽ dẫn doanh
nghiệp sẽ mau chóng bị đào thải ra khỏi quy luật vận động của nền kinh tế thị
trường. Để thúc đẩy tiêu thụ và đẩy nhanh tốc độ chu chuyển hàng hoá các doanh
nghiệp cần phải nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu của khách hàng.
Do đó, cạnh tranh không chỉ kích thích tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản
xuất mà còn cải tiến mẫu mã, chủng loại hàng hoá, nâng cao chất lượng sản phẩm
và chất lượng dịch vụ làm cho sản xuất ngày càng gắn liền với tiêu dùng, phục vụ
nhu cầu xã hội được tốt hơn. Cạnh tranh là một điều kiện đồng thời là một yếu tố
kích thích hoạt động kinh doanh phát triển. Bên cạnh những mặt tích cực cạnh
tranh còn để lại nhiều hạn chế và tiêu cực đó là sự phân hoá sản xuất hàng hoá,
làm phá sản những doanh nghiệp kinh doanh gặp nhiều khó khăn do thiếu vốn, cơ

sở hạ tầng hạn hẹp, trình độ công nghệ thấp và có thể làm cho doanh nghiệp phá
sản khi doanh nghiệp gặp những rủi ro khách quan mang lại như thiên tai, hoả
hoạn.v.v hoặc bị rơi vào những hoàn cảnh, điều kiện không thuận lợi.
Trang 4
Như vậy, cạnh tranh được hiểu và được khái quát một cách chung nhất
đó là cuộc ganh đua gay gắt giữa các chủ thể đang hoạt động trên thị trường với
nhau, kinh doanh cùng một loại sản phẩm hoặc những sản phẩm tương tự thay
thế lẫn nhau nhằm chiếm lĩnh thị phần, tăng doanh số và lợi nhuận. Các doanh
nghiệp thương mại cần nhận thức đúng đắn về canh tranh để một mặt chấp nhận
canh tranh theo khía cạnh tích cực để từ đó phát huy yếu tố nội lực nâng cao chất
lượng phục vụ khách hàng, mặt khác tranhd tình trạng cạnh tranh bất hợp lý dẫn
đến làm tổn hại đến lợi ích cộng đồng cũng như làm suy yếu chính mình.
Doanh nghiệp thương mại mang tính đặc thù phải chịu sự cạnh tranh
quyết liệt hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác.
2. Vai trò và tầm quan trọng của cạnh tranh
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây phạm trù cạnh tranh hầu
như không tồn tại giữa các doanh nghiệp, tại thời điểm này các doanh nghiệp hầu
như đã được nhà nước bao cấp hoàn toàn về vốn, chi phí cho mọi hoạt động, kể
cả khi các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ trách nhiệm này cũng thuộc về nhà nước.
Vì vậy, vô hình dung nhà nước đã tạo ra một lối mòn trong kinh doanh, một thói
quen trì trệ và ỉ lại, doanh nghiệp không phải tự tìm kiếm khách hàng mà chỉ có
khách hàng tự tìm đến doanh nghiệp. Chính điều đó đã không tạo được động lực
cho doanh nghiệp phát triển. Sau khi kết thúc Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
(1986) nước ta đã chuyển sang một giai đoạn mới, một bước ngoặt lớn, nền kinh
tế thị trường được hình thành thì vấn đề cạnh tranh xuất hiện và có vai trò đặc
biệt quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với người tiêu dùng
cũng như nền kinh tế quốc dân nói chung.
2.1. Đối với nền kinh tế quốc dân
Đối với nền kinh, tế cạnh không chỉ là môi trường và động lực của sự phát
triển nói chung, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng năng suất lao động

mà còn là yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá quan hệ xã hội, cạnh tranh còn là
điều kiện giáo dục tính năng động của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó cạnh tranh
góp phần gợi mở những nhu cầu mới của xã hội thông qua sự xuất hiện của
Trang 5
nhứng sản phẩm mới. Điều đó chứng tỏ đời sống của con người ngày càng được
nâng cao về chính trị, về kinh tế và văn hoá. Cạnh tranh bảo đảm thúc đẩy sự
phát triển của khoa học kỹ thuật, sự phân công lao động xã hội ngày càng phát
triển sâu và rộng. Tuy nhiên bên cạnh những lợi ích to lớn mà cạnh tranh đem lại
thì nó vẫn còn mang lại những mặt hạn chế như cạnh tranh không lành mạnh tạo
sự phân hoá giàu nghèo, cạnh tranh không lành mạnh sẽ dẫn đến có những manh
mối làm ăn vi phạm pháp luật như trốn thuế, lậu thuế, lậu hàng giả, buôn bán trái
phép những mặt hàng mà Nhà nước và pháp luật nghiêm cấm.
2.2. Đối với doanh nghiệp
Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng vậy, khi tham gia vào các hoạt động
kinh doanh trên thị trường thì đều muốn doanh nghiệp mình tồn tại và đứng
vững. Để tồn tại và đứng vững các doanh nghiệp phải có những chiến lược cạnh
tranh cụ thể và lâu dài mang tính chiến lược ở cả tầm vi mô và vĩ mô. Họ cạnh
tranh để giành những lợi thế về phía mình, cạnh tranh để giành giật khách hàng,
làm cho khách hàng tự tin rằng sản phẩm của doanh nghiệp mình là tốt nhất, phù
hợp với thị hiếu, nhu cầu người tiêu dùng nhất. Doanh nghiệp nào đáp ứng tốt
nhu cầu của khách hàng, kịp thời, nhanh chóng và đầy đủ các sản phẩm cũng như
dịch vụ kèm theo với mức giá phù hợp thì doanh nghiệp đó mới có khả năng tồn
tại và phát triển. Do vậy cạnh tranh là rất quan trọng và cần thiết.
Cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải phát triển công tác maketing bắt đầu
từ việc nghiên cứu thị trường để quyết định sản xuất cái gì? sản xuất như thế
nào? và sản xuất cho ai?. Nghiên cứu thị trường để doanh nghiệp xác định được
nhu cầu thị trường và chỉ sản xuất ra những gì mà thị trường cần chứ không sản
xuất những gì mà doanh nghiệp có. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải đưa
ra các sản phẩm có chất lượng cao hơn, tiện dụng với người tiêu dùng hơn. Muốn
vậy các doanh nghiệp phải áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào quá

trình sản xuất kinh doanh, tăng cường công tác quản lý, nâng cao trình độ tay
nghề cho công nhân, cử các cán bộ đi học để nâng cao trình độ chuyên môn.
Cạnh tranh thắng lợi sẽ tạo cho doanh nghiệp một vị trí xứng đáng trên thị trường
Trang 6
tăng thêm uy tín cho doanh nghiệp. Trên cơ sở đó sẽ có điều kiện mở rộng sản
xuất kinh doanh, tái sản xuất xã hội, tạo đà phát triển mạnh cho nền kinh tế.
2.3. Đối với ngành
Hiện nay đối với nền kinh tế nói chung và đối với ngành dệt may nói
riêng cạnh tranh đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển, nâng cao
chất lượng sản phẩm. Cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh sẽ tạo bước đà vững
chắc cho mọi ngành nghề phát triển. Nhất là đối vơí ngành dêth may- là một
ngành có vai trò chủ lực trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Cạnh
tranh sẽ tạo bước đà và động lực cho ngành phát triển trên cơ sở khai thác lợi thế
và điểm mạnh của ngành đó là thu hút được một nguồn lao động dồi dào và có
thể khai thác tối đa nguồn lực đó.
Như vậy, trong bất cứ một hoạt động kinh doanh nào dù là có quy mô hoạt
động lớn hay quy mô hoạt động nhỏ, dù là hoạt động đó đứng ở tầm vĩ mô hay vi
mô thì không thể thiếu sự có mặt và vai trò của yếu tố cạnh tranh .
2.4 Đối với sản phẩm.
Nhờ có cạnh tranh, mà sản phẩm sản xuất ra ngày càng được nâng cao về
chất lượng, phong phú về chủng loại, mẫu mã và kích cỡ. Giúp cho lợi ích của
người tiêu dùng và của doanh nghiệp thu được ngày càng nhiều hơn. Ngày nay
các sản phẩm được sản xuất ra không chỉ để đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn
cung cấp và xuất khẩu ra nước ngoài. Qua những ý nghĩa trên ta thấy rằng cạnh
tranh không thể thiếu sót ở bất cứ một lĩnh vực nào của nền kinh tế. Cạnh tranh
lành mạnh sẽ thực sự tạo ra những nhà doanh nghiệp giỏi và đồng thời là động
lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đảm bảo công bằng xã hội. Bởi vậy cạnh
tranh là một yếu tố rất cần có sự hỗ trợ và quản lý của nhà nước để phát huy
những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực như cạnh tranh không lành
mạnh dẫn đến độc quyền và gây lũng loạn, xáo trộn thị trường.

Các hình thức cạnh tranh
Cạnh tranh được phân loại theo các hình thức khác nhau:
Trang 7
3.1 Căn cứ vào các chủ thể tham gia cạnh tranh
Cạnh tranh được chia thàn ba loại:
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Là cuộc cạnh tranh diễn ra
theo quy luật mua rẻ bán đắt, cả hai bên đều muốn tối đa hoá lợi ích của mình.
Người bán muốn bán với giá cao nhất để tối đa hoá lợi nhuận còn người mua
muốn mua với giá thấp nhưng chất lượng vẫn được đảm bảo và mức giá cuối
cùng vẫn là mức giá thoả thuận giữa hai bên.
- Cạnh tranh giữa người mua và người mua: Là cuộc cạnh tranh trên cơ
sở quy luật cung cầu, khi trên thị trường mức cung nhỏ hơn mức cầu. Lúc này
hàng hóa trên thị trường sẽ khan hiếm, người mua để đạt được nhu cầu mong
muốn của mình họ sẽ sẵn sàng mua với mức giá cao hơn do vậy mức độ cạnh
tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn giữa những người mua, kết quả là giá cả hàng hoá sẽ
tăng lên, những người bán sẽ thu được lợi nhuận lớn trong khi những người mua
bị thiệt thòi cả về giá cả và chất lượng, nhưng trường hợp này chủ yếu chỉ tồn tại
ở nền kinh tế bao cấp và xảy ra ở một số nơi khi diễn ra hoạt động bán đấu giá
một loại hàng hoá nào đó.
- Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Đây là cuộc cạnh tranh
gay go và quyết liệt nhất khi mà trong nền kinh tế thị trường sức cung lớn hơn
sức cầu rất nhiều, khách hàng được coi là thượng đế của người bán, là nhân tố có
vai trò quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do vậy
các doanh nghiệp phải luôn ganh đua, loại trừ nhau để giành những ưu thế và lợi
thế cho mình.
3.2 Căn cứ theo tính chất và mức độ cạnh tranh
Theo tiêu thức này cạnh tranh được chia thành bốn loại:
- Cạnh tranh hoàn hảo: Là cạnh tranh thuần tuý, là một hình thức đơn
giản của cấu trúc thị trường trong đó người mua và người bán đều không đủ lớn
để tác động đên giá cả thị trường. Nhóm người mua tham gia trên thị trường này

Trang 8
chỉ có cách thích ứng với mức giá đưa ra vì cung cầu trên thị trường được tự do
hình thành, giá cả do thị trường quyết định.
- Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: Đây là hình thức cạnh tranh
phổ biến trên thị trường mà ở đó doanh nghiệp nào có đủ sức mạnh có thể chi
phối được giá cả của sản phẩm thông qua hình thức quảng cáo, khuyến mại các
dịch vụ trong và sau khi bán hàng. Cạnh tranh không hoàn hảo là cạnh tranh mà
phần lớn các sản phẩm không đồng nhất với nhau, mỗi loại sản phẩm mang nhãn
hiệu và đặc tính khác nhau dù xem xét về chất lượng thì sự khác biệt giữa các sản
phẩm là không đáng kể nhưng mức giá mặc định cao hơn rất nhiều. Cạnh tranh
không hoàn hảo có hai loại:
+ Cạnh tranh độc quyền: Là cạnh tranh mà ở đó một hoặc một số chủ
thể có ảnh hưởng lớn, có thể ép các đối tác của mình phải bán hoặc mua sản
phẩm của mình với giá rất cao và những người này có thể làm thay đổi giá cả thị
trường. Có hai loại cạnh tranh độc quyền đó là độc quyền bán và độc quyền mua.
Độc quyền bán tức là trên thị trường có ít người bán và nhiều người mua, lúc
này người bán có thể tăng giá hoặc ép giá khách hàng nếu họ muốn lợi nhuận thu
được là tối đa, còn độc quyền mua tức là trên thị trường có ít người mua và nhiều
người bán khi đó khách hàng được coi là thượng đế, được chăm sóc tận tình và
chu đáo nếu không những người bán sẽ không lôi kéo được khách hàng về phìa
mình. Trong thực tế có tình trạng độc quyền xảy ra nếu không có sản phẩm nào
thay thế , tạo ra sản phẩm độc quyền hoặc các nhà độc quyền liên kết với nhau
gây trở ngại cho quá trình phát triển sản xuất và làm tổn hại đến người tiêu dùng.
Vì vậy phải có một đạo luật chống độc quyền nhằm chống lại liên minh độc
quyền của một số nhà kinh doanh.
+ Độc quyền tập đoàn: Hình thức cạnh tranh này tồn tại trong một số
ngành sản xuất mà ở đó chỉ có một số ít người sản xuất. Lúc này cạnh tranh sẽ
xảy ra giữa một số lực lượng nhỏ các doanh nghiệp. Do vậy mọi doanh nghiệp
phải nhận thức rằng giá cả các sản phẩm của mình không chỉ phụ thuộc vào số
lượng mà còn phụ thuộc vào hoạt động của những đối thủ cạnh tranh khác trên

thị trường. Một sự thay đổi về giá của doanh nghiệp cũng sẽ gây ra những ảnh
Trang 9
hưởng đến nhu cầu cân đối với các sản phẩm của doanh nghiệp khác. Những
doanh nghiệp tham gia thị trường này là những người có tiềm lực kinh tế mạnh,
vốn đầu tư lớn. Do vậy việc thâm nhập vào thị trường của các đối thủ cạnh tranh
thường là rất khó.
3.3. Căn cứ vào phạm vi kinh tế
- Cạnh tranh nội bộ ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong cùng một ngành, sản xuất và tiêu dùng cùng một chủng loại sản phẩm.
Trong cuộc cạnh tranh này có sự thôn tính lẫn nhau, các doanh nghiệp phải áp
dụng mọi biện pháp để thu được lợi nhuận như cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng
suất lao động, giảm chi phí cá biệt của hàng hoá nhằm thu được lợi nhuận siêu
ngạch. Kết quả là trình độ sản xuất ngày càng phát triển, các doanh nghiệp không
có khả năng sẽ bị thu hẹp, thậm chí còn có thể bị phá sản.
- Cạnh tranh giữa các ngành: Là cạnh tranh giữa các ngành kinh tế
khác nhau nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất, là cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp hay đồng minh các doanh nghiệp của một ngành với ngành khác. Như vậy
giữa các ngành kinh tế do điều kiện kỹ thuật và các điều kiện khác khác nhau như
môi trường kinh doanh, thu nhập khu vực, nhu cầu và thị hiếu có tính chất khác
nhau nên cùng một lượng vốn đầu tư vào ngành này có thể mang lại tỷ suất lợi
nhuận cao hơn các ngành khác. Điều đó dẫn đến tình trạng nhiều người sản xuất
kinh doanh ở những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận thấp có xu hướng chuyển dịch
sang sản xuất tại những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao hơn, đó chính là biện pháp
để thực hiện cạnh tranh giữa các ngành. Kết quả là những ngành trước kia có tỷ
suất lợi nhuận cao sẽ thu hút các nguồn lực, quy mô sản xuất tăng. Do đó cung
vượt quá cầu làm cho giá cả hàng hoá có xu hướng giảm xuống, làm giảm tỷ suất
lợi nhuận. Ngược lại những ngành trước đây có tỷ suất lợi nhuận thấp khiến cho
một số nhà đầu tư rút vốn chuyển sang lĩnh vực khác làm cho quy mô sản xuất
của ngành này giảm, dẫn đến cung nhỏ hơn cầu, làm cho giá cả hàng hoá tăng và
làm tăng tỷ suất lợi nhuận.

4. Các công cụ cạnh tranh.
Trang 10
Công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu tập hợp các yếu tố, các
kế hoạch, các chiến lược, các chính sách, các hành động mà doanh nghiệp sử
dụng nhằm vượt trên các đối thủ cạnh tranh và tác động vào khách hàng để thoả
mãn mọi nhu cầu của khách hàng. Từ đó tiêu thụ được nhiều sản phẩm, thu được
lợi nhuận cao. Nghiên cứu các công cụ cạnh tranh cho phép các doanh nghiệp lựa
chọn những công cụ cạnh tranh phù hợp với tình hình thực tế, với quy mô kinh
doanh và thị trường của doanh nghiệp. Từ đó phát huy được hiệu quả sử dụng
công cụ, việc lựa chọn công cụ cạnh tranh có tính chất linh hoạt và phù hợp
không theo một khuân mẫu cứng nhắc nào. Dưới đâylà một số công cụ cạnh tranh
tiêu biểu và quan trọng mà các doanh nghiệp thương mại thường phải dùng đến
chúng.
4.1. Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những thuộc tính của sản
phẩm thể hiện mức độ thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác
định, phù hợp với công dụng lợi ích của sản phẩm. Nếu như trước kia giá cả
được coi là quan trọng nhất trong cạnh tranh thì ngày nay nó phải nhường chỗ
cho tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. Khi có cùng một loại sản phẩm, chất lượng
sản phẩm nào tốt hơn, đáp ứng và thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng thì
họ sẵn sàng mua với mức giá cao hơn. Nhất là trong nền kinh tế thị trường cùng
với sự phát triển của sản xuất, thu nhập của người lao động ngày càng được nâng
cao, họ có đủ điều kiện để thoả mãn nhu cầu của mình, cái mà họ cần là chất
lượng và lợi ích sản phẩm đem lại. Nếu nói rằng giá cả là yếu tố mà khách hàng
không cần quan tâm đến là hoàn toàn sai bởi giá cả cũng là một trong những yếu
tố quan trọng để khách hàng tiêu dùng cho phù hợp với mức thu nhập của mình.
Điều mong muốn của khách hàng và của bất cứ ai có nhu cầu mua hay bán là
đảm bảo được hài hoà giữa chất lượng và giá cả.
Để sản phẩm của doanh nghiệp luôn là sự lựa chọn của khách hàng ở hiện
tại và trong tương lai thì nâng cao chất lượng sản phẩm là điều cần thiết. Nâng

cao chất lượng sản phẩm là sự thay đổi chất liệu sản phẩm hoặc thay đổi công
nghệ chế tạo đảm bảo lợi ích và tính an toàn trong quá trình tiêu dùng và sau khi
Trang 11
tiêu dùng. Hay nói cách khác nâng cao chất lượng sản phẩm là việc cải tiến sản
phẩm có nhiều chủng loại, mẫu mã, bền hơn và tốt hơn. Điều này làm cho khách
hàng cảm nhận lợi ích mà họ thu được ngày càng tăng lên khi duy trì tiêu dùng
sản phẩm của doang nghiệp. Làm tăng lòng tin và sự trung thành của khách hàng
đối với doanh nghiệp.
Chất lượng sản phẩm được coi là một vấn đề sống còn đối với doanh
nghiệp nhất là đối với doanh nghiệp Việt Nam khi mà họ phải đương đầu đối với
các đối thủ cạnh tranh từ nước ngoài vào Việt Nam. Một khi chất lượng hàng hoá
dịch vụ không được bảo đảm thì có nghĩa là khách hàng sẽ đến với doanh nghiệp
ngày càng giảm, doanh nghiệp sẽ mất khách hàng và thị trường dẫn tới sự suy
yếu trong hoạt động kinh doanh. Mặt khác chất lượng thể hiện tính quyết định
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ở chỗ nâng cao chất lượng sẽ làm tăng tốc
độ tiêu thụ sản phẩm, tăng khối lượng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kỳ sống của
sản phẩm. Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp,
mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Do vậy cạnh tranh bằng
chất lượng sản phẩm là một yếu tố rất quan trọng và cần thiết mà bất cứ doanh
nghiệp nào dù lớn hay nhỏ đều phải sử dụng nó.
4.2. Cạnh tranh bằng giá cả.
Giá cả được hiểu là số tiền mà người mua trả cho người bán về việc cung
ứng một số hàng hoá dịch vụ nào đó. Thực chất giá cả là sự biểu hiện bằng tiền
của giá trị hao phí lao động sống và hao phí lao động vật hoá để sản xuất ra một
đơn vị sản phẩm chịu ảnh hưởng của quy luật cung cầu. Trong nền kinh tế thị
trường có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, khách hàng được tôn vinh là
“Thượng đế” họ có quyền lựa chọn những gì họ cho là tốt nhất, khi có cùng hàng
hoá dịch vụ với chất lượng tương đương nhau thì chắc chắn họ sẽ lựa chọn mức
giá thấp hơn, để lợi ích họ thu được từ sản phẩm là tối ưu nhất. Do vậy mà từ lâu
giá cả đã trở thành một biến số chiến thuật phục vụ mục đích kinh doanh. Nhiều

doanh nghiệp thành công trong việc cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường là do sự
khéo léo, tinh tế chiến thuật giá cả. Giá cả đã thể hiện như một vũ khí để cạnh
Trang 12
tranh thông qua việc định giá sản phẩm: định giá thấp hơn giá thị trường, định giá
ngang bằng giá thị trường hay chính sách giá cao hơn giá thị trường.
Với một mức giá ngang bằng với giá thị trường: giúp doanh nghiệp đánh
giá được khách hàng, nếu doanh nghiệp tìm ra được biện pháp giảm giá mà chất
lượng sản phẩm vẫn được đảm bảo khi đó lượng tiêu thụ sẽ tăng lên, hiệu quả
kinh doanh cao và lợi sẽ thu được nhiều hơn.
Với một mức giá thấp hơn mức giá thị trường: chính sách này được áp
dụng khi cơ số sản xuất muốn tập trung một lượng hàng hoá lớn, thu hồi vốn và
lời nhanh. Không ít doanh nghiệp đã thành công khi áp dụng chính sách định giá
thấp. Họ chấp nhận giảm sút quyền lợi trước mắt đến lúc có thể để sau này chiếm
được cả thị trường rộng lớn, với khả năng tiêu thụ tiềm tàng. Định giá thấp giúp
doanh nghiệp ngay từ đầu có một chỗ đứng nhất định để định vị vị trí của mình
từ đó thâu tóm khách hàng và mở rộng thị trường.
Với chính sách định giá cao hơn giá thị trường: là ấn định giá bán sản
phẩm cao hơn giá bán sản phẩm cùng loại ở thị trường hiện tại khi mà lần đầu
tiên người tiêu dùng chưa biết chất lượng của nó nên chưa có cơ hội để so sánh,
xác định mức giá của loại sản phẩm này là đắt hay rẻ chính là đánh vào tâm lý
của người tiêu dùng rằng những hàng hoá giá cao thì có chất lượng cao hơn các
hàng hoá khác. Doanh nghiệp thường áp dụng chính sách này khi nhu cầu thị
trường lớn hơn cung hoặc khi doanh nghiệp hoạt động trong thị trường độc
quyền, hoặc khi bán những mặt hàng quý hiếm cao cấp ít có sự nhạy cảm về giá.
Như vậy, để quyết định sử dụng chính sách giá nào cho phù hợp và thành
công khi sử dụng nó thì doanh nghiệp cần cân nhắc và xem xét kỹ lưỡng xem
mình đang ở tình thế nào thuận lợi hay không thuận lợi, nhất là nghiên cứu xu
hướng tiêu dùng và tâm lý của khách hàng cũng như cần phải xem xét các chiến
lược các chính sách giá mà đối thủ đang sử dụng.
4.3. Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối.

Phân phối sản phẩm hợp lý là một trong những công cụ cạnh tranh đắc lực
bởi nó hạn chế được tình trạng ứ đọng hàng hoá hoặc thiếu hàng. Để hoạt động
Trang 13
tiêu thụ của doanh nghiệp được diễn ra thông suốt, thường xuyên và đầy đủ
doanh nghiệp cần phải lựa chọn các kênh phân phối nghiên cứu các đặc trưng của
thị trường, của khách hàng. Từ đó có các chính sách phân phối sản phẩm hợp lý,
hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Chính sách phân phối sản phẩm hợp
lý sẽ tăng nhanh vòng quay của vốn, thúc đẩy tiêu thụ, tăng khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp. Thông thường kênh phân phối của doanh nghiệp được chia
thành 5 loại:
+ Kênh ngắn: Người sản xuất => Người bán lẻ => Người tiêu dùng
+ Kênh cực ngắn: Người sản xuất => Người tiêu dùng
+ Kênh dài: Người sản xuất=>Người buôn bán=>Người bán lẻ=>Người
tiêu dùng
+ Kênh cực dài: Người sản xuất=>Đại lý=> Người buôn bán=> Người bán
lẻ=> Người tiêu dùng.
+ Kênh rút gọn: Người sản xuất=>Đại lý=> Người bán lẻ=> Người tiêu
dùng.
Tuỳ theo từng mặt hàng kinh doanh, tuỳ theo vị trí địa lý, tuỳ theo nhu cầu
của người mua và người bán, tuỳ theo quy mô kinh doanh của doanh nghiệp mà
sử dụng các kênh phân phối khác nhau cho hợp lý và mang lại hiệu quả bởi nhiều
khi kênh phân phối có tác dụng như những người môi giới nhưng đôi khi nó lại
mang lại những trở ngại rườm rà.
4.4. Cạnh tranh bằng chính sách Maketing
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thì chính sách
maketing đóng một vai trò rất quan trọng bởi khi bắt đầu thực hiện hoạt động
kinh doanh, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu khách
hàng đang có xu hướng tiêu dùng những sản phẩm gì?, thu thập thông tin thông
qua sự phân tích và đánh giá doanh nghiệp sẽ đi đến quyết định sản xuất những
gì ? kinh doanh những gì mà khách hàng cần, khách hàng có nhu cầu. Trong khi

thực hiện hoạt động kinh doanh thì doanh nghiệp thường sử dụng các chính sách
Trang 14
xúc tiến bán hàng thông qua các hình thức quảng cáo, truyền bá sản phẩm đến
người tiêu dùng. Kết thúc quá trình bán hàng, để tạo được uy tín hơn nữa đối với
khách hàng, doanh nghiệp cần thực hiện các hoạt động dịch vụ trước khi bán,
trong khi bán và sau khi bán.
Như vậy chính sách maketing đã xuyên suốt vào quá trình hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, nó vừa có tác dụng chính và vừa có tác dụng phụ để hỗ
trợ các chính sách khác. Do vậy chính sách maketing không thể thiếu được trong
bất cứ hoạt động của doanh nghiệp.
5. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh.
Cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. ở đâu có
nền kinh tế thị trường thì ở đó có nền kinh tế cạnh tranh. Bất kỳ một doanh
nghiệp nào cũng vậy, khi tham gia vào kinh doanh trên thị trường muốn doanh
nghiệp mình tồn tại và đứng vững thì phải chấp nhận cạnh tranh. Trong giai đoạn
hiện nay do tác động của khoa học kỹ thuật và công nghệ, nền kinh tế nước ta
đang ngày càng phát triển, nhu cầu cuộc sống của con người được nâng lên ở
mức cao hơn rất nhiều.Con người không chỉ cần có nhu cầu “ăn chắc mặc bền”
như trước kia mà còn cần “ăn ngon mặc đẹp”. Để đáp ứng kịp thời nhu cầu đó,
doanh nghiệp phải không ngừng điều tra nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu
của khách hàng, doanh nghiệp nào bắt kịp và đáp ứng đầy đủ nhu cầu đó thì sẽ
chiến thắng trong cạnh tranh. Chính vì vậy cạnh tranh là rất cần thiết, nó giúp cho
doanh nghiệp:
- Tồn tại và đứng vững trên thị trường: Cạnh tranh sẽ tạo ra môi trường
kinh doanh và những điều kiện thuận lợi để đáp ứng nhu cầu khách hàng, làm
cho khách hàng tin rằng sản phẩm của doanh nghiệp mình là tốt nhất, phù hợp
với thị hiếu nhu cầu của người tiêu dùng nhất. Doanh nghiệp nào càng đáp ứng
tốt nhu cầu của khách hàng thì doanh nghiệp đó mới có khả năng tồn tại trong
nền kinh tế thị trường hiện nay.
- Doanh nghiệp cần phải cạnh tranh để phát triển

Trang 15
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một điều kiện và là
một yếu tố kích thích kinh doanh. Quy luật cạnh tranh là động lực thúc đẩy hát
triển sản xuất, sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, hàng hoá sản xuất ra
nhiều, số lượng người cung ứng ngày càng đông thì cạnh tranh ngày càng khốc
liệt, kết quả cạnh tranh là loại bỏ những Công ty làm ăn kém hiệu quả, năng suất
chất lượng thấp và ngược lại nó thúc đẩy những Công ty làm ăn tốt, năng suất
chất lượng cao. Do vậy, muốn tồn tại và phát triển thì doanh nghiệp cần phải
cạnh tranh, tìm mọi cách nâng cao khả năng cạnh tranh của mình nhằm đáp ứng
tốt hơn nhu cầu khách hàng. Các doanh nghiệp cần phải tìm mọi biện pháp để
đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng như sản xuất ra nhiều loại hàng hoá
có chất lượng cao, giá cả phù hợp với chất lượng sản phẩm, phù hợp với mức thu
nhập của từng đối tượng khách hàng. Có như vậy hàng hoá của doanh nghiệp bán
ra mới ngày một nhiều, tạo được lòng tin đối với khách hàng. Muốn tồn tại và
phát triển được thì doanh nghiệp cần phải phát huy hết ưu thế của mình, tạo ra
những điểm khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh từ đó doanh nghiệp mới có
khả năng tồn tại, phát triển và thu được lợi nhuận cao.
Trong nền kinh tế thị trường muốn tồn tại và phát triển thì cạnh tranh luôn
là mục tiêu của mỗi doanh nghiệp. Cũng trong nền kinh tế đó khách hàng là
người tự do lựa chọn nhà cung ứng và cũng chính là những người quyết định cho
doanh nghiệp có tồn tại hay không. Họ không phải tìm đến doanh nghiệp như
trước đây nữa và họ cũng không phải mất thời gian chờ đợi để mua hàng hoá
dịch vụ, mà đối ngược lại trong nền kinh tế thị trường khách hàng được coi là
thượng đế, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải tìm đến khách
hàng và khai thác nhu cầu nơi họ. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có những
chương trình giới thiệu truyền bá và quảng cáo sản phẩm của mình để người tiêu
dùng biết đến, để họ có sự xem xét, đánh giá và quyết định có nên tiêu dùng sản
phẩm của doanh nghiệp hay không?. Ngày nay việc chào mời để khách hàng tiêu
thụ sản phẩm của mình đã là vấn đề khó khăn nhưng việc giữ lại được khách
hàng còn khó khăn hơn rất nhiều. Bởi vậy mà doanh nghiệp nên có những dịch

vụ cả trước khi bán, trong khi bán và dịch vụ sau khi bán hàng hoá cho khách
hàng để những khách hàng đó là những khách hàng truyền thống của doanh
Trang 16
nghiệp, chính họ là những nhân tố quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp phải cạnh tranh để thực hiện các mục tiêu
Bất kỳ một doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ khi thực hiện hoạt động kinh
doanh đều có những mục tiêu nhất định. Tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển
của doanh nghiệp mà doanh nghiệp đặt ra cho mình những mục tiêu khác nhau.
Trong giai đoạn đầu khi mới thực hiện hoạt động kinh doanh thì mục tiêu của
doanh nghiệp là muốn khai thác thị trường nhằm tăng lượng khách hàng truyền
thống và tiềm năng, giai đoạn này doanh nghiệp thu hút được càng nhiều khách
hàng càng tốt. Còn ở giai đoạn trưởng thành và phát triển thì mục tiêu của doanh
nghiệp là tăng doanh thu, tăng lợi nhuận và giảm chi phí, giảm bớt những chi phí
được coi là không cần thiết, để lợi nhuận thu được là tối đa, uy tín của doanh
nghiệp và niềm tin của khách hàng đối với doanh nghiệp là cao nhất. Đến giai
đoạn gần như bão hoà thì mục tiêu chủ yếu của doanh nghiệp là gây dựng lại hình
ảnh đối với khách hàng bằng cách thực hiện trách nhiệm đối với Nhà nước, đối
với cộng đồng, củng cố lại thêm niềm tin cho của khách hàng đối với doanh
nghiệp. Để đạt được các mục tiêu doanh nghiệp cần phải cạnh tranh, chỉ có cạnh
tranh thì doanh nghiệp mới bằng mọi giá tìm ra phương cách, biện pháp tối ưu để
sáng tạo, tạo ra những sản phẩm đạt chất lượng cao hơn, cung ứng những dịch vụ
tốt hơn đối thủ cạnh tranh, thỏa mãn nhu cầu khách hàng ngày càng tăng. Chỉ có
cạnh tranh thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển.
II. KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
Cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay đổi, thay thế những
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, sử dụng lãng phí nguồn lực của xã hội bằng các
doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội,
thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Tuy nhiên để cạnh tranh được và cạnh
tranh một cách lành mạnh không phải là dễ bởi nó phụ thuộc vào tiềm năng, lợi

thế và nhiều yếu tố khác của doanh nghiệp hay một quốc gia, đó chính là khả
năng cạnh tranh của mỗi quốc gia, hay một ngành, một công ty xí nghiệp.
Trang 17
1. Khái niệm về khả năng cạnh tranh
Phải nói rằng thuật ngữ “khả năng cạnh tranh” được sử dụng rộng rãi trên
các phương tiện thông tin đại chúng, trong sách báo, trong giao tiếp hàng ngày
của các chuyên gia kinh tế, các chính sách của các nhà kinh doanh. Nhưng cho
đến nay vẫn chưa có sự nhất trí cao trong các học giả và giới chuyên môn về khả
năng cạnh tranh của công ty
*Theo cách tiếp cận khả năng cạnh tranh ở tầm quốc gia
+ Cách tiếp cận này dựa trên quan điểm diễn đàn kinh tế thế giới (gọi
tắt là WEF). Theo định nghĩa của WEF thì khả năng cạnh tranh của một quốc gia là
khả năng đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế
vững vàng tương đối và các đặc trưng kinh tế khác (WEF-1997).
Như vậy khả năng cạnh tranh của một quốc gia được xác định trước hết bằng
mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc đân và sự có mặt ( hay thiếu vắng) các yếu
tố quy định khả năng tăng trưởng kinh tế dài hạn trong các chính sách kinh tế đã
được thực hiện. Ví dụ điển hình là Nhật bản, sau chiến tranh thế giới thứ hai, nền
kinh tế Nhật Bản trở nên hoang tàn, nhân dân chìm trong cảnh mất mùa, thiếu thốn.
Vậy mà đến năm 1968 Nhật bản đã trở thành một nước có nền kinh tế đứng thứ hai
trên thế giới ( sau Mỹ) và được xếp hàng các cường quốc kinh tế lớn nhất, kỷ lục về
sự tăng trưởng kinh tế này là một trong những đỉnh cao để xác định năng lực cạnh
tranh lớn của nền kinh tế Nhật bản. Cũng theo WEF thì các yếu tố xác định khả
năng cạnh tranh được chia làm 8 nhóm chính bao gồm 200 chỉ số khác nhau, các
nhóm yếu tố xác định khả năng cạnh tranh tổng thể chủ yếu có thể kể ra là:
Nhóm 1: Mức độ mở cửa nền kinh tế thế giới bao gồm các yếu tố thuế quan,
hàng rào phi thuế quan, hạn chế nhập khẩu, chính sách tỷ giá hối đoái.
Nhóm 2: Nhóm các chỉ số liên quan đến vai trò và hoạt động của chính phủ
bao gồm mức độ can thiệp của Nhà nước, năng lực của Chính phủ, thuế và mức độ
trốn thuế, chính sách tài khoá.

Trang 18
Nhóm 3: Các yếu tố về tài chính bao gồm các nội dung về khả năng thực
hiện các hoạt động trung gian tài chính, hiệu quả và cạnh tranh, rủi ro tài chính đầy
đủ và tiết kiệm.
Nhóm 4: Các yếu tố về công nghệ bao gồm năng lực phát triển công nghệ
trong nước, khai thác công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, phát triển
công nghệ thông qua các kênh chuyển giao công nghệ khác.
Nhóm 5: Các yếu tố và kết cấu hạ tầng như giao thông liên lạc và kết cấu hạ
tầng khác.
Nhóm 6: Quản trị bao gồm các chỉ số và quản trị nguồn nhân lực và các yếu
tố quản trị không liên quan đến nguồn nhân lực.
Nhóm 7: Các yếu tố về lao động bao gồm các chỉ số về trình độ tay nghề và
năng suất lao động, độ linh hoạt của thị trường lao động, hiệu quả của các chương
trình xã hội , quan hệ lao động trong một ngành.
Nhóm 8: Các yếu tố về thể chế gồm các yếu tố về chất lượng, các thể chế về
pháp lý, các luật và văn bản pháp quy khác.
Dựa vào các nhóm chỉ số này có thể đánh giá, xem xét để rút ra kết luận về
việc định liệu các chính sách, biện pháp đã được sử dụng ở một Quốc gia có thực sự
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế không. Chẳng hạn những năm qua chính
phủ Việt Nam đã đưa ra chủ trương khuyến khích phát triển các loại hình doanh
nghiệp hợp tác liên doanh, liên kết với nước ngoài nhằm học hỏi kinh nghiệm
chuyển giao công nghệ và tăng trưởng kinh tế. Thế nhưng hiệu quả kinh tế đem lại
không lấy gì làm chắc chắn.
+ Cách tiếp cận dựa trên quan điểm của M.Poter về chỉ số năng suất
Ông cho rằng chỉ có chỉ số năng suất là có ý nghĩa cho khái niệm về năng
lực cạnh tranh quốc gia bởi vì đây là yếu tố cơ bản cho việc nâng cao sức sống của
một đất nước. Xét về dài hạn chỉ số năng suất này phụ thuộc vào trình độ phát triển
và tính năng động của các doanh nghiệp. Do đó khả năng cạnh tranh của một quốc
gia phụ thuộc vào việc các yếu tố nào trong nền kinh tế quốc dân, giữ vai trò quyết
Trang 19

định cơ bản cho phép các công ty sáng tạo và duy trì và lợi thế cạnh tranh trên mọi
lĩnh vực cụ thể. Với cách nhìn nhận vấn đề như vậy M.Poter đã đưa ra một khuôn
khổ các yếu tố tạo nên lợi thế canh tranh của một quốc gia và Ông gọi đó là “khối
lượng kim cương các lợi thế cạnh tranh” bao gồm các nhóm được phân chia một
cách tương đối.
- Nhóm các điều kiện về nhân tố sản xuất (thể hiện vị thế của một quốc gia về
nguồn lao động được đào tạo, có tay nghề, về tài nguyên, kết cấu hạ tầng, tiềm năng
khoa học và công nghệ).
- Nhóm các điều kiện về cầu: Phản ánh bản chất của nhu cầu thị trường trong
nước đối với sản phẩm và dịch vụ của một ngành.
- Nhóm các yếu tố liên quan đến cơ cấu, chiến lược của doanh nghiệp và của
đối thủ cạnh tranh.
- Nhóm các yếu tố về các ngành phụ trợ và các ngành có liên quan có khả
năng cạnh trạnh quốc tế.
*Tiếp cận khả năng tranh ở cấp ngành, cấp công ty.
+ Quan điểm của M.Poter
Dựa theo quan điểm quản trị chiến lược được phản ánh trong các cuốn sách
của M.Poter, khảnăng cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu là năng chiếm lĩnh
thị trường, tiêu thụ các sản phẩm cùng loại (hay sản phẩm thay thế) của công ty đó.
Với cách tiếp cận này mỗi ngành dù là trong hay ngoài nước năng lực cạnh tranh
được quy định bởi các yếu tố sau:
- Số lượng các doanh nhgiệp mới tham gia.
- Sự có mặt của các sản phẩm thay thế
- Vị thế của khách hàng
- Uy tín của nhà cung ứn
Tính quyết liệt của đối thủ cạnh tranh
Trang 20
Nghiên cứu những yếu tố cạnh tranh này sẽ là cơ sở cho doanh nghiệp xây
dựng và lựa chọn chiến lược kinh doanh cạnh tranh phù hợp với trong giai đoạn,
thời kỳ phát triển thời kỳ phát triển của nền kinh tế.

+ Quan điểm tân cổ điển về khả năng cạnh tranh của một sản phẩm
Quan điểm này dựa trên lý thuyết thương mại truyền thống, đã xem xétkhả
năng cạnh tranh của một sản phẩm thông qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và
năng suất. Như vậy khả năng cạnh tranh của một ngành, công ty được đánh giá cao
hay thấp tuỳ thuộc vào chi phí sản xuất có giảm bớt hay không vì chi phí các yếu tố
sản xuất thấp vẫn được coi là điều kiện cơ bản của lợi thế cạnh tranh
+ Quan điểm tổng hợp của VarDwer, E.Martin và R.Westgren
VarDwer, E.martin và R.Westgren là những đồng tác giả của cuốn
“Assessing the competiviveness of Canada’s agrifood Industry”- 1991. Theo các tác
giả này thì khả năng cạnh tranh của một ngành, của công ty được thể hiện ở việc
tạo ra và duy trì lợi nhuận, thị phần trên các thị trường trong nước và nước ngoài.
Như vậy lợi nhuận và thị phần, hai chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của công
ty. Chúng có mối quan hệ tỷ lệ thuận, lợi nhuận và thị phần càng lớn thể hiện khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao. Ngược lại, lợi nhuận và thị phần giảm
hoặc nhỏ phán ánh năng lực cạnh tranh của công ty bị hạn chế hoặc chưa cao. Tuy
nhiên chúng chỉ là những chỉ số tổng hợp bao gồm chỉ số thành phần khác nhau
như:
- Chỉ số về năng suất bao gồm năng suất lao động và tổng năng suất các yếu
tố sản xuất
- Chỉ số về công nghệ bao gồm các chỉ số về chi phí cho nghiên cứu và triển
khai
- Sản phẩm bao gồm các chỉ số về chất lượng, sự khác biệt
- Đầu vào và các chi phí khác: giá cả đầu vào và hệ số chi phí các nguồn lực.
Nói tóm lại có rất nhiều quan điểm, khái niệm khác nhau về khả năng cạnh
tranh. Song bài viết này không nhằm mục đích phân tích ưu nhược điểm của quan
Trang 21
điểm đó mà chỉ mong muốn giới thiệu khái quát một số quan niệm điển hình giúp
cho việc tiếp cận một phạm trù phổ biến nhưng còn nhiều tranh cãi về khái niệm
được dễ dàng hơn.
2. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh

Để đánh giá được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ta có thể dựa vào
một số chỉ tiêu sau:
2.1. Thị phần
Doanh thu là số tiền mà doanh nghiệp thu được khi bán hàng hoá hoặc dịch
vụ. Bởi vậy mà doanh thu có thể được coi là một chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh
tranh. Hơn khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và tăng thêm
lợi nhuận. Căn cứ vào chỉ tiêu doanh thu qua từng thời kỳ hoặc qua các năm ta có
thể đánh giá được kết quả hoạt động kinh doanh là tăng hay giảm, theo chiều hướng
tốt hay xấu. Nhưng để đánh giá được hoạt động kinh doanh đó có mang lại được
hiệu quả hay không ta phải xét đến những chi phí đã hình thành nên doanh thu đó.
Nếu doanh thu và chi phí của doanh nghiệp đều tăng lên qua các năm nhưng tốc độ
tăng của doanh thu lớn hơn tốc độ tăng của chi phí thì hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp được đánh giá là tốt, doanh nghiệp đã biết phân bổ và sử dụng hợp lý
yếu tố chi phí, bởi một phần chi phí tăng thêm đó được doanh nghiệp mở rộng quy
mô kinh doanh, đầu tư mua sắm trang thiết bị và xây dựng cơ sở hạ tầng. v.v.
Trên thực tế có rất nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác, trong đó thị phần là một chỉ
tiêu thường hay được sử dụng. Thị phần được hiểu là phần thị trường mà doanh
nghiệp chiếm giữ trong tổng dung lượng thị trường. Do đó thị phần của doanh
nghiệp được xác định:
Thị phần của doanh nghiệp =
Trang 22
Doanh thu của doanh nghiệp
Tæng doanh thu toµn ngµnh
Chỉ tiêu này càng lớn nói lên sự chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp càng
rộng. Thông qua sự biến động của chỉ tiêu này ta có thể đánh giá mức động hoạt
động của doanh nghiệp có hiệu quả hay không bởi nếu doanh nghiệp có một mảng
thị trường lớn thì chỉ số trên đạt mức cao nhất và ấn định cho doanh nghiệp một vị
trí ưu thế trên thị trường. Nếu doanh nghiệp có một phạm vi thị trường nhỏ hẹp thì
chỉ số trên ở mức thấp, phản ánh tình trạng doanh nghiệp đang bị chèn ép bởi các

đối thủ cạnh tranh. Bằng chỉ tiêu thị phần, doanh nghiệp có thể đánh giá sơ bộ khả
năng chiếm lĩnh thị trường so với toàn ngành.
Để đánh giá được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp so với các đối thủ
ta dùng chỉ tiêu thị phần tương đối: đó là tỷ lệ so sánh về doanh thu của công ty so
với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất để từ đó có thể biết được những mặt mạnh hay
những điểm còn hạn chế so với đối thủ. Ưu điểm của chỉ tiêu này là đơn giản, dễ
hiểu nhưng nhược điểm của nó là khó nắm bắt được chính xác số liệu cụ thể và sát
thực của đôí thủ.
2.2. Năng suất lao động
Năng suất lao động là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất
kinh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi thông qua năng suất lao động
ta có thể đánh giá được trình độ quản lý, trình độ lao động và trình độ công nghệ
của doanh nghiệp.
2.3. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
Lợi nhuận là một phần dôi ra của doanh thu sau khi đã trừ đi các chi phí
dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận được coi là một chỉ tiêu tổng
hợp đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì nếu doanh nghiệp thu
được lợi nhuận cao chắc chắn doanh nghiệp có doanh thu cao và chi phí thấp. Căn
cứ vào chỉ tiêu lợi nhuận các doanh nghiệp có thể đánh giá được khả năng cạnh
tranh của mình so với đối thủ. Nếu lợi nhuận cao thì khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp cao và được đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp rất khả quan.
Nếu xét về tỷ suất lợi nhuận:
Trang 23
Tỷ suất lợi nhuận =
Chỉ tiêu ny cho thấy nếu có 100 đồng doanh thu thì sẽ thu được bao nhiêu
đồng lợi nhuận. Nếu chỉ tiêu này thấp tức là tốc độ tăng của lợi nhuận nhỏ hơn tốc
độ tăng của doanh thu, chứng tỏ sức cạnh tranh của doanh nghiệp thấp. Hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả cao. Đã có quá nhiều đối thủ thâm
nhập vào thị trường của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp phải không ngừng mở
rộng thị trường để nâng cao khả năng cạnh tranh. Nhằm mục đích nâng cao lợi

nhuận. Nếu chỉ tiêu này cao tức là tốc độ tăng lợi nhuận lớn hơn tốc độ tăng của
doanh thu. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được đánh giá là có hiệu quả.
Điều này chứng tỏ khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cao. Doanh nghiệp cần
phát huy lợi thế cảu mình một cách tối đa và không ngừng đề phòng đối thủ cạnh
tranh tiềm ẩn thâm nhập vào thị trường của doanh nghiệp bất cứ lúc nào do sức hút
lợi nhuận cao.
Ngoại trừ các chỉ tiêu có thể đo lường được, khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp còn được biểu hiện qua một số các chỉ tiêu định tính như
2.4 . Uy tín của doanh nghiệp
Uy tín của doanh nghiệp là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có uy tín sẽ có nhiều bạn
hàng, nhiều đối tác làm ăn và nhất là có một lượng khách hàng rất lớn. Mục tiêu của
các doanh nghiệp là doanh thu, thị phần và lợi nhuận .v.v. Nhưng để đạt được các
mục tiêu đó doanh nghiệp phải tạo được uy tín của mình trên thị trường, phải tạo
được vị thế của mình trong con mắt của khách hàng. Cơ sở, tiền đề để tạo được uy
tín của doanh nghiệp đó là doanh nghiệp phải có một nguồn vốn đảm bảo để duy trì
và phát triển hoạt động kinh doanh, có một hệ thống máy móc, cơ sở hạ tầng đáp
ứng đầy đủ yêu cầu của hoạt động kinh doanh. Yếu tố quan trọng nhất để tạo nên uy
Trang 24
Tổng lợi nhuận
Tổng doanh thu
tín của doanh nghiệp đó là “ con người trong doanh nghiệp” tức doanh nghiệp đó
phải có một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, đội ngũ nhân
viên giỏi về tay nghề và kỹ năng làm việc, họ là những con người có trách nhiệm và
nhiệt tình trong công việc, biết khơi dậy nhu cầu của khách hàng.
Trong nền kinh tế thị trường yếu tố nổi bật nhất để đánh giá khả năng cạnh
tranh, uy tín của doanh nghiệp đó là nhãn hiệu sản phẩm
- Thiết kế nhãn hiệu sản phẩm: Khi xây dựng một sản phẩm, các nhà quản
trị sẽ lưu tâm đến rất nhiều đến nhãn hiệu sản phẩm, một nhãn hiệu sản phẩm hay và
ấn tượng góp phần không nhỏ vào sự thành công của sản phẩm, nó giúp phân biệt

sản phẩm của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh khác và là cộng cụ để doanh
nghiệp định vị sản phẩm trên thị trường mục tiêu. Khi thiết kế nhãn hiệu doanh
nghiệp phải xem xét đến các thành phần gồm: đặt tên sản phẩm, xây dựng biểu
tượng(logo), khẩu hiệu và hình ảnh cho nhãn. Đồng thời phải có chiến lược về nhãn
hiệu đối với sản phẩm của doanh nghiệp.
- Các giá trị tài sản nhãn hiệu: Tài sản nhãn hiệu là giá trị của một nhãn
hiệu của sản phẩm do uy tín của nhãn hiệu sản phẩm đó đem lại. Quản trị giá trị
nhãn là một trong các công việc mang tính chiến lược quan trọng nhất, nó được xem
là một trong những dạng tầm tiềm năng có giá trị cao. Trong những năm gần đây,
khi các nhãn hiệu sản phẩm của các doanh nghiệp cạnh tranh mạnh mẽ trên thị
trường, hình thức khuyến mại định hướng vào gía là hình thức phổ biến được nhiều
doanh nghiệp áp dụng, điều này làm tổn thương nhiều doanh nghiệp.
2.5. Năng lực quản trị
Năng lực của nhà quản trị được thể hiện ở việc đưa ra các chiến lược, hoạch
định hướng đi cho doanh nghiệp. Nhà quản trị giỏi phải là người giỏi về trình độ,
giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng giao tiếp, biết nhìn nhận và giải quyết
các công việc mộ cách linh hoạt và nhạy bén, có khả năng thuyết phục để người
khác phục tùng mệnh lệnh của mình một cách tự nguyện và nhiệt tình.Biết quan
tâm, động viên, khuyến khích cấp dưới làm việc có tinh thần trách nhiệm. Điều đó
sẽ tạo nên sự đoàn kết giữa các thành viên trong doanh nghiệp. Ngoài ra nhà quản trị
Trang 25

×