Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của SMEs Dệt may Việt Nam sau khi gia nhập WTO.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.24 KB, 95 trang )

PHẦN I: GIỚI THIỆU CHUNG
1. Lý do lựa chọn đề tài:
Bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam đã có nhiều khởi sắc trên tất cả các lĩnh vực
từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội. Việt Nam- một quốc gia Á Châu có một
xuất phát điểm thấp do chịu hậu quả của sự thống trị lâu năm của chế độ phong
kiến, cuộc chiến tranh kéo dài hơn 80 năm của thực dân Pháp và gần 20 năm của đế
quốc Mỹ, nhưng đến nay Việt Nam đã có vị thế đáng kể trong khu vực và quốc tế.
Những thành tựu đạt được đó phải kể đến những nỗ lực xây dựng đất nước của toàn
thể nhân dân và sự lựa chọn đúng đắn trong con đường phát triển của Đảng và Nhà
Nước. Đối với kinh tế, Đảng và Nhà nước thực hiện những chính sách tập trung
phát triển vào những ngành mũi nhọn, trọng điểm cho q trình cơng nghiệp hóa và
huy động phát triển đa dạng hóa các loại hình,thành phần kinh tế. Ngành Dệt may là
một trong số những ngành đó- được xác định là một trong những ngành công
nghiệp mũi nhọn, trọng điểm cho mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm
2020.
Trong bối cảnh hiện nay, khi kinh tế đã phát triển khơng chỉ bó hẹp trong
một quốc gia mà còn lan rộng ra khu vực và toàn cả thế giới do vậy xu thế hội nhập
là một điều tất yếu đối với các quốc gia. Việt Nam đang dần dần thực hiện việc hội
nhập với nền kinh tế thể hiện ở việc là thành viên của các tổ chức kinh tế của khu
vực và tham gia vào các diễn đàn kinh tế như ASEAN, APEC, AFTA,…Tuy nhiên,
sự kiện Việt Nam gia nhập vào WTO được đánh giá là một bước tiến mới của quá
trình hội nhập. Ngày 7/11/2006, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức
Thương mại thế giới (WTO)-dấu mốc quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam.
Việc gia nhập vào WTO đã tạo ra cho Việt Nam nhiều cơ hội nhưng cũng khơng ít
thử thách, mà đối tựợng chịu tác động trực tiếp chính là các doanh nghiệp trong
nước đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME).
Trong những năm gần đây, SME có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế
nứớc nhà. Theo con số của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện nay có trên

350 000



SME chiếm 95% tổng số công ty đang hoạt động tại Việt Nam với tổng số vốn
khoảng 85 tỷ USD, chiếm khoảng 28,92% trong tổng số vốn của tổng số các cơng
ty đang hoạt động. Các SME hàng năm đóng góp hơn 40% cho GDP, tạo ra 50%
việc làm mới và thu hút khoảng 50,13% tổng số lao động trong doanh nghiệp, tạo ra
78% mức bán lẻ. Doanh thu của các SME chiếm 22,07%, lợi nhuận chiếm 11,78%
và hàng năm nộp vào ngân sách Nhà nuớc chiếm 17,46%. Có thể nhận thấy rằng
các SME đóng góp một phần khơng nhỏ vào tăng trưởng nền kinh tế cũng như giải
quyết các vấn đề xã hội.
Sự kiện Việt Nam gia nhập vào WTO đã có ảnh huởng trực tiếp đến nhiều
ngành kinh tế, dệt may là một trong những ngành được coi là mũi nhọn và chịu
nhiều tác động sau sự kiện này. Dệt may là một ngành kinh tế lớn của Việt Nam với
trên 2000 doanh nghiệp, sử dụng khoảng 2 triệu lao động, kim ngạch xuất khẩu luôn
đứng thứ 2 sau dầu khí, chiếm khoảng 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam. Năm 2007, ngành dệt may đạt kim ngạch xuất khẩu 7,8 tỷ USD, tăng gấp 2,2
lần so với năm 2004 và xếp thứ 9 trong các nước xuất khẩu ngành hàng may mặc
trên thế giới. Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu đạt 9,3 tỷ USD. Nếu như trong
khoảng thời gian đầu 2008, ngành dệt may đã đạt được những bứớc tăng trưởng khá
mạnh thì đến cuối năm năm 2008 đầu năm 2009, Dệt may Việt Nam đang đứng
trước rất nhiều khó khăn, thách thức đặc biệt đối với các SME. Nếu những khó khăn
của các SME Dệt may khơng có những hướng giải quyết kịp thời thì sẽ không thể
lường trước những hậu quả đến tăng trưởng của ngành nói riêng và của cả nền kinh
tế nói chung.
Để có thể đạt đựợc mục tiêu “Phát triển ngành Dệt may trở thành một trong
những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; đáp ứng ngày càng
cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng
cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới” thì cần có những giải
pháp nào để hỗ trợ cho các SME Dệt may, nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều
kiện hội nhập. Bởi vì, có thể nhận thấy rằng chiếm tỷ lệ 78-80% trong số các doanh
nghiệp trong ngành DM, SMEs có một vị trí quan trọng dẫu vậy so với các doanh



nghiệp lớn trong nước và SMEs DM của các nước trong khu vực thì năng lực cạnh
tranh của SMEs DMVN cịn thấp hơn nhiều. Do vậy, cơng tác nâng cao năng lực
cạnh tranh cho SMEs DMVN là một bài toán khó khơng những của riêng ngành Dệt
may mà cịn là của Chính phủ mà hiện tại vẫn chưa có lời giải phù hợp. Đặc biệt,
sau 2 năm gia nhập WTO nhưng SMEs Dệt may Việt Nam vẫn chưa nhận thức hết
được những thách thức, áp lực cạnh tranh khi hội nhập, dẫn đến việc thiếu chuẩn bị,
thiếu phương án đối phó khi sản xuất kinh doanh khó khăn do phải cạnh tranh với
hàng ngoại và mức thuế nhập khẩu Dệt may đã giảm tới 2/3.
Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh của SMEs Dệt may Việt Nam sau khi gia nhập WTO” làm đề tài cho chuyên
đề thực tập của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Với việc phân tích về thực trạng năng lực cạnh tranh của SMEs Dệt may Việt
Nam vào thời điểm trước và sau khi gia nhập WTO để từ đó đưa ra một số giải pháp
để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các SME Dệt may trong điều kiện
hội nhập sâu. Bởi vì, việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho các SMEs DMVN đồng
nghĩa với việc góp phần nâng cao khả năng đóng góp trong GDP của SMEs ngành
Dệt may nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tựơng nghiên cứu trong đề tài này là các Doanh nghiệp nhỏ và vừa
(SMEs) trong ngành Dệt may Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu về thực trạng năng lực cạnh
tranh của các SMEs Dệt May Việt Nam sau thời điểm Việt Nam là thành viên của
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
4. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về SMEs nói chung và SMEs
DMVN nói riêng, các lý luận về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và các yếu



tố đo lường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, các cam kết và hiệp định của
ngành DMVN khi gia nhập WTO.
Đề tài đi vào phân tích về thực trạng năng lực cạnh tranh của các SMEs
DMVN thời điểm trước và sau khi gia nhập WTO.
Từ những thực trạng về năng lực cạnh tranh của các SMEs DMVN đã phân
tích ở trên từ đó đưa ra một vài giải pháp nhằm nâng cao năng lực của các SMEs
DM trong giai đoạn nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu.
Phương pháp nghiên cứu: đề tài sử dụng các phương pháp thống kê mơ tả,
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp suy luận
logic.
5. Kết quả dự kiến
Đề tài hy vọng sẽ đưa ra được một vài giải pháp mang tính thực tiễn và tính
hiệu quả cao trong việc góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các SMEs
DMVN. Nâng cao năng lực cạnh tranh đồng thời với việc nâng cao chất lượng tăng
trưởng của ngành Dệt may nói riêng và của tồn bộ nền kinh tế nói chung.


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG.
I.

Khái niệm, đặc điểm và vai trò của SME.

1.

Khái niệm

Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được sử dụng ở các nước trên thế

giới từ những năm đầu của thế kỷ XX và đựợc phát triển vào giữa những năm 50
của thế kỷ này. Tuy vậy, ở VN khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ mới được
biết đến vào đầu những năm 1990. Trong từng giai đoạn khác nhau có những khái
niệm và quan điểm khác nhau về doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Trong thời kỳ bao cấp, các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước được phân
loại dựa vào tiêu chí số lao động trong biên chế và theo phân cấp Trung ương- địa
phương có doanh nghiệp loại 1, 2, 3. Theo cơ sở phân loại đó thì doanh nghiệp nhỏ
và vừa tương ứng với doanh nghiệp loại 2 và loại 3.
Theo công văn số 681/CP-KCN của Chính phủ ban hành ngày 20/6/1998 về
việc định hướng chiến lược và chính sách phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Trong đó quy định “doanh nghiệp nhỏ và vừa là những doanh nghiệp có vốn đăng
ký dưới 5 tỷ đồng và lao động thường xuyên dưới 200 người”. Đây có thể coi là văn
bản đầu tiên đưa ra tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa, là cơ sở để cho phép
thực hiện các biện pháp hỗ trợ cho khu vực này.
Theo nghị định số 90/2001/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 23/11/2001
về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong Điều 3 của Nghị định đã đưa
ra khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau:
“Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng
ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký khơng q 10 tỷ đồng hoặc
số lao động trung bình hằng năm khơng quá 300 người”.
Đây được xem là văn bản pháp luật đầu tiên chính thức quy định về doanh
nghiệp nhỏ và vừa, là cơ sở để các chính sách và biện pháp hỗ trợ của các cơ quan
nhà nước, các tổ chức trong và ngoài nước thực hiện các biện pháp hỗ trợ cho các
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khái niệm trên được áp dụng thống nhất trên phạm vi cả


nước. Trong đề tài này sử dụng khái niệm trên để nghiên cứu về doanh nghiệp nhỏ
và vừa.
2.


Đặc điểm của SME

2.1 Đặc điểm của SMEs Việt Nam
Đặc điểm về vốn: đối với các SMEs có quy mơ về vốn nhỏ, theo quy định thì
SMEs có quy mơ vốn dưới 10 tỷ đồng, bởi xuất phát của SMEs chủ yếu là từ các
doanh nghiệp tư nhân. Với quy mô vốn nhỏ nên các SMEs gặp khó khăn trong việc
đầu tư để thay đổi công nghệ, mở rộng sản xuất hơn nữa SMEs cũng rất ít có cơ hội
để tiếp cận với các nguồn vốn bên ngồi trừ các nguồn từ chính sách của nhà nước.
Đặc điểm về lao động: lao động ít và trình độ tay nghề thấp là đặc điểm nổi
bật nhất của SMEs VN.
Đặc điểm về công nghệ: công nghệ sử dụng trong các SMEs VN đều là các
công nghệ cũ kỹ đã lạc hậu từ rất lâu. Có những SMEs công nghệ đã lạc hậu từ
khoảng 10 năm thậm chí là 15 năm. Mức đổi mới cơng nghệ chỉ bằng 5% so với
SMEs trong nước cũng như khu vực. Tỷ lệ dành cho đổi mới công nghệ so với tổng
doanh thu hàng năm rất ít thậm chí là khơng có.
Đặc điểm về thị trường: với quy mơ nhỏ năng lực tài chính hạn hẹp tuy nên
sản phẩm của SMEs chỉ đáp ứng với nhu cầu của một vài đối tượng nên phân đoạn
thị trường của SMEs cũng được coi là hẹp.
2.2 Đặc điểm của SMEs Dệt may Việt Nam.
Cũng giống như các SMEs Việt Nam thì SMEs DMVN cũng có những đặc
điểm chung giống với SMEs khác, tuy nhiên lại có những đặc điểm khác biệt đặc
trưng riêng cho ngành của mình đó là:
Đặc điểm về lao động: một đặc điểm nổi bật đặc trưng cho SMEs DM VN
đó là có số lượng lao động đơng, trong đó tỷ lệ nữ giới chiếm một tỷ trọng lớn. Về
chất lượng của người lao động trong SMEs DMVN đang còn non kém về trình độ
tay nghề, về kỹ thuật chuyên môn. Chủ yếu lao động trong SMEs DM là lao động
phổ thơng, chỉ có rất ít lao động phụ trách bộ phận kỹ thuật là có trình độ nghề cơ
bản.



Đặc điểm về vốn: nếu các doanh nghiệp lớn về DM là những doanh nghiệp
đã tồn tại từ lâu nên đồng nghĩa với việc họ có một nguồn vốn tương đối lớn thì
ngược lại các SMEs DM lại sở hữu nguồn vốn nhỏ hơn. Tuy nhiên do đặc điểm của
ngành thì vốn sở hữu trong SMEs DM được đánh giá là ở mức trung bình so với các
SME cơng nghiệp khác.
Đặc điểm về nguyên liệu: đối với ngành Dệt may một đặc điểm rất quan
trọng và khác biệt với các ngành khác đó là sử dụng khối lượng nguyên phụ liệu lớn
tuy nhiên phải đến 90% nguyên phụ liệu này lại phải nhập khẩu từ nước ngoài.
SMEs phải đối mặt với khó khăn đó là năng lực tài chính hạn chế nhưng hầu hết các
nguyên phụ liệu phục vụ cho q trình sản xuất phải nhập khẩu từ nước ngồi. Đây
là một đặc điểm khác biệt, nổi bật và rất quan trọng của SMEs DMVN.
Đặc điểm về công nghệ: cũng giống như các SME trong các ngành công
nghiệp khác thiết bị máy móc của SME rất lạc hậu, cơng nghệ thị chậm cải tiến.
Hầu hết các công nghệ trong SMEs DM phải lạc hậu đến 20 năm các nhà máy phân
xưởng của nhiều SMEs được xây dựng từ thời chiến tranh và đang xuống cấp
nghiêm trọng. Theo đánh giá của các chuyên gia, nếu như cho mức thang điểm 10
về cơng nghệ của ngành Dệt may thì cơng nghệ của SMEs chỉ đạt điểm 3-3,5 tức là
nằm ở vị trí sau so với SMEs DM của các nước trong khu vực. Một đặc điểm nổi
bật của SMEs DMVN đó là sự phát triển không cân đối giũa thiết bị công nghệ của
ngành may và ngành Dệt. Nếu như công nghệ may trong SMEs đạt tới tầm hiện đại
của thế giới thì cơng nghệ Dệt lại rất lạc hậu và cũ kỹ. Sự phát triển không cân đối
này đã làm giảm năng lực cạnh tranh của SMEs DM so với doanh nghiệp lớn trong
nội bộ ngành cũng như SMEs DM của các nước trong khu vực có quy mơ tương
đương.
3.

Vai trị của SME.

3.1 Vai trị của SMEs Việt Nam
Đóng góp quan trọng vào GDP của nền kinh tế: các SME ngày càng có

những đóng góp quan trọng vào GDP của nền kinh tế. Nếu vào những năm 1990


những đóng góp này cịn chưa đáng kể thì đến năm 2005, tỷ lệ đóng góp vào GDP
của các SME vào khoảng 24-25,5%, năm 2007 thì tỷ lệ này là xấp xỉ 40%.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: các SME được thành lập tại khu vực nông thôn,
vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa làm giảm tỷ trọng nông nghiệp tăng tỷ trọng của
các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ góp phần chuyển dịch cơ
cấu của nền kinh tế.
Nâng cao năng lực cạnh tranh và tính hiệu quả của nền kinh tế: sự ra đời của
các SME trên cùng một ngành sẽ làm giảm bớt tính độc quyền buộc các doanh
nghiệp phải cạnh tranh và liên tục đổi mới thì mới có thể tồn tại và phát triển được.
Chính điều này đã nâng cao tính hiệu quả của nền kinh tế.
Đóng góp quan trọng vào ngân sách nhà nước: tỷ lệ đóng góp vào ngân sách
nhà nước (NSNN) của các SME đang có xu hướng tăng dần trong thờigian tới đây.
Tỷ lệ đóng góp vào NSNN theo các năm 2001,2002 và 2007 lần lượt là 6,4%, 7,2%
và 17,46%.
Góp phần tăng tốc độ áp dụng cơng nghệ: các SME linh hoạt trong việc áp
dụng các phát minh mới và sáng kiến kỹ thuật. Do phái đối mặt với cạnh tranh của
các doanh nghiệp lớn nên thường xuyên cải tiến công nghệ để tạo ra sự khác biệt.
Tăng thu hút vốn: tỷ lệ vốn của các SME trong tổng số các doanh nghiệp của
nền kinh tế tăng nhanh theo thời gian. Tỷ lệ này trong năm 2008 là 28,92%.
Tạo ra một khối lượng việc làm lớn, giải quyết việc làm và bảo đảm an sinh
xã hội: theo thống kê của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, năm 2007 các SME tạo ra
50% việc làm mới và số lao động của các SME chiếm đến 50,13% tổng số lao động
trong các doanh nghiệp.
3.2 Vai trò của SMEs Dệt may Việt Nam
Cũng giống như các SMEs VN, SMEs DM cũng có những vai trị tương tự
như các SMEs. Tuy nhiên, với đặc điểm của ngành DM thì SMEs DM có những
đóng góp quan trọng và nổi bật sau đây

Tạo ra một khối lượng việc làm lớn: tính đến cuối năm 2008, có 2350 SMEs
DM thì có đến 706 657 lao động, số lao động này chiếm đến 13-17% lao động làm


việc trong các DN công nghiệp VN, sử dụng đến 13% lao động của cả nước. Các
SME DM đã tạo ra khối lượng việc làm lớn đặc biệt là lao động ở nơng thơn, giảm
tỷ lệ thất nghiệp.
Đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu: mặc dù chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 78%
nhưng SMEs DM có những đóng góp đáng kể cho kim ngạch xuất khẩu. Hàng năm
mức đóng góp của SMEs DM vào kim ngạch xuất khẩu vào khoảng 6,1-6,5 tỷ USD
và có xu hướng tăng dần theo thời gian. Đặc biệt năm 2007, ngành DM được xếp
vào Top 10 nhà xuất khẩu Dệt may lớn nhất thế giới.
Đóng góp vào GDP của nền kinh tế: giá trị sản xuất của SMEs DM hàng
năm vào khoảng 40 nghìn tỷ VND, chiếm 6,24% tổng giá trị sản xuất công nghiệp
của cả nước.
II.

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

1.

Khái niệm về lý thuyết cạnh tranh doanh nghiệp:

Cạnh tranh là một hiện tượng phổ biến trong tự nhiên, xã hội và kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường theo xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập ngày càng sâu
thì cạnh tranh lại càng trở nên gay gắt. Trong điều kiện đó, năng lực cạnh tranh thể
hiện khả năng “chiến đấu” trong quá trình tồn tại và phát triển của các sản phẩm,
các doanh nghiệp và cả quốc gia. Cạnh tranh của doanh nghiệp là một loại hình
cạnh tranh trong kinh doanh. Hiện nay vẫn còn nhiều vẫn còn nhiều vấn đề lý luận
và thực tiễn dang đặt và cần được làm rõ như: cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của

doanh nghiệp là gì? Hệ thống chỉ tiêu để đo lường năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp bao gồm những hệ thống nào? Các yếu tố nào tác động đến năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp? các yếu tố để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp?
Khái niệm năng lực cạnh tranh được sử dụng cả ở phạm vi vĩ mô và vi
mô. Năng lực cạnh tranh trong nền kinh tế được chia làm ba cấp độ: năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh
của sản phẩm.


Nếu như năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được thể hiện bằng năng lực
cạnh tham gia vào quá trình phân cơng lao động và hợp tác quốc tế của nền kinh tế
quốc gia, khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Cịn năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp thể hiện khả năng của doanh nghiệp trong việc duy trì lợi thế
cạnh tranh, mở rộng thị phần để thu lợi nhuận. Năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp là cơ sở của năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đã được nghiên cứu từ lâu trên thế
giới và cũng có nhiều quan điểm cũng như nhiều hệ thống tiêu thức đo lường về năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
Đến nay, khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vẫn còn chưa
được hiểu một cách thống nhất. Sau đây, đề tài đưa ra một vài khái niệm cơ bản và
đáng chú ý về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp do các tổ chức và các doanh
nghiệp đưa ra.
Khái niệm thứ nhất, “năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy
trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp”. Đây là một khái niệm
được sử dụng khá phổ biến hiện nay trong các doanh nghiệp trên phạm vi toàn thế
giới. Theo khái niệm này thì năng lực cạnh tranh chính là khả năng tiêu thụ hàng
hóa, dịch vụ so với các đồi thủ và khả năng thu lợi của doanh nghiệp. Đây là cách
tiếp cận tương đồng với Lý thuyết thương mại truyền thống nghĩa là nghiên cứu
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dựa trên cách tiếp cận của “kinh tế trọng

cung”, chú trọng tới mặt cung, chủ yếu quan tâm đến khâu bán hàng của người sản
xuất kinh doanh. Do vậy, hạn chế trong khái niệm này đó là chưa bao hàm được các
phương thức, các yếu tố duy trì năng lực cạnh tranh, chưa phản ánh một cách bao
quát năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Khái niệm thứ hai, do Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế(OECD) có trích
dẫn khái niệm về năng lực cạnh tranh theo Từ điển Thuật ngữ chính sách thương
mại(1997). Theo đó “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là năng lực của một
doanh nghiệp không bị các doanh nghiệp khác đánh bại về năng lực kinh tế”. Như
vậy, hiểu theo khái niệm này thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng


chống chịu trước sự tấn công của các doanh nghiệp khác. Hạn chế của khái niệm
này là khái niệm này mang tính định tính cao và rất khó đo lường bằng định lượng.
Khái niệm thứ ba, là khái niệm do Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
(OECD) “năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là sức sản xuất tương đối cao trên
cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm cho các doanh nghiệp phát triển
bền vững trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”. Theo Poter, năng suất lao động là
thước đo duy nhất về năng lực cạnh tranh.
Có thể nhận thấy rằng các khái niệm trên chưa gắn kết được việc thực hiện
các mục tiêu và các nhiệm vụ của các doanh nghiệp lại với nhau.
Đối với Việt Nam một nước có nền kinh tế còn non kém nhưng hiện nay khi
đã gia nhập WTO phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gắt gao, thì việc đưa ra
một khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một vấn đề quan trọng
và không hề đơn giản.Ở đây qua việc tổng hợp các quan niệm và khái niệm khác
nhau từ đó đưa ra khái niệm cuối cùng về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
như sau:
“Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi
thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và
sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt được lợi ích kinh tế cao và bền
vững”.

Tóm lại, có thể nhận thấy rằng năng lực cạnh tranh là một chỉ tiêu tổng hợp,
bao gồm nhiều chỉ tiêu tạo thành và có thể xác định cho một doanh nghiệp hay một
nhóm doanh nghiệp trong một nhóm ngành.
2.Các tiêu thức để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có nhiều hệ thống tiêu
thức đánh giá. Tuy nhiên, có 2 hệ thống tiêu thức hay được sử dụng hiện nay trên
thế giới là hệ thống 6 Ms của Philip Kolter và theo mơ hình “Kim cương” của
Micheal Porter.
2.1 Mơ hình “ Kim cương”- Micheal Porter


Trong mơ hình “Kim cương” về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp do
Giáo sư Micheal Porter- Đại học Harvard đề xuất, mơ hình “Kim Cương” đưa ra
khung khổ phân tích để hiểu bản chất và đo lường năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Theo mơ hình “Kim Cương”năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phụ
thuộc vào 4 nhóm yếu tố, mối nhóm yếu tố làm thảnh một đỉnh của cấu trúc “Kim
Cương”.
-

Các điều kiện yếu tố: bao gồm con người, các yếu tố vật chất, tri thức.

-

Các điều kiện nhu cầu: bao gồm quy mô, cơ cấu và sự tinh tế của thị

trường nội địa.
-

Các ngành cung cấp và các ngành có liên quan: là sự hiện diện hay


khơng có sự cạnh trạnh quốc tế đối với ngành kinh doanh hoặc các ngành có liên
quan.
-

Hiện trạng của doanh nghiệp: bao gồm chiến lược, cơ cấu, sự cạn

tranh trong nước.
Như vậy, theo mơ hình “Kim Cương”, việc đo lường năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp vừa dựa vào khả năng bên trong của doanh nghiệp vừa phụ
thuộc vào các yếu tố bên ngoài của doanh nghiệp
Ngẫu nhiên

Ngữ cảnh của
doanh nghiệp

Các điều kiện yếu tố
ngnnguwnnn

Các điều kiện nhu
cầu

Các ngành cung ứng
liên quan

Nhà nước

Hình 1: Mơ hình Kim Cương của Porter, 1990(Nguồn: Porter, 1990)


2.2 Hệ thống tiêu thức 6 Ms- Phillip Kolter

Trong hệ thống của Phillip Kolter, có 6 tiêu thức để đánh giá năng lực cạnh
tranh.
- Vốn (Money).
- Nguyên vật liệu (Material).
- Thiết bị công nghệ (Machinery).
- Nhân lực (Manpower).
-

Quản lý (Manegement).

-Thị trường (Marketing)
Vốn: vốn chính là yếu tố đầu vào của doanh nghiệp và là một yếu tố sản xuất
cơ bản của doanh nghiệp. Vốn ở đây được hiều bao gồm: quy mô vốn, khả năng
huy động vốn, khả năng sử dụng vốn có hiệu quả, năng lực quản lý tài chính,... Hơn
thế nữa, vốn là tiền đề đối với các yếu tố sản xuất khác, bởi vì việc huy động vốn
kịp thời sẽ đảm bảo cho việc đáp ứng đầy đủ các nhu cầu về nguyên vật liệu, thuê
nhân công, mua thiết bị, tổ chức bán hàng, marketing sản phẩm,…Bên cạnh đó, sử
dụng vốn có hiệu quả như là quay vịng vốn nhanh có vai trị quan trọng giảm chi
phí vốn, giảm giá thành sản phẩm. Như vậy, có thể thấy rằng vốn có một yếu tố
quan trọng hàng đầu đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nguyên vật liệu: là một yếu tố đầu vào hết sức quan trọng đối với các doanh
nghiệp đặc biệt là đối với các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm. Đối với các doanh
nghiệp có thể nói, nguyên vật liệu chính là cơ sở cho việc sản xuất cho doanh
nghiệp mình. Ngun vật liệu ở đây, bao gồm có khả năng tìm các nguồn cung cấp
nguyên vật liệu, khă năng dự trữ nguyên vật liệu,.., Nguyên vật liệu ảnh hưởng đến
quy trình sản xuất, chất lượng sản phẩm cũng như sự khác biệt với các doanh
nghiệp khác. Do vậy, khi nói đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp khơng thể
bỏ qua nhân tố này.
Thiết bị công nghệ: đối với các doanh nghiệp thiết bị công nghệ tác động
đến việc giảm tiêu hao năng lượng, rút ngắn thời gian sản xuất, nâng cao chất lượng

sản phẩm nhờ việc tăng năng suất tạo ra những lợi thế cạnh tranh so với đối thủ. Do


vậy, yếu tố công nghệ sẽ là một yếu tố quan trọng đối với năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp. Trong đó vấn đề mà các doanh nghiệp cần phải chú ý hiện nay đó
là cần phải cập nhật các thông tin về công nghệ, chuyển giao công nghệ, tăng cường
cải tiến công nghệ, tập trung vào R&D,…
Nhân lực: nhân lực ở đây là một khái niệm tổng hợp được nói đến bao gồm
lực lượng lao động của doanh nghiệp và năng lực tay nghề của lao động. Lao động
là lực lượng sản xuất trực tiếp sử dụng các phương tiện, thiết bị máy móc để tạo ra
sản phẩm và lao động cũng là yếu tố đầu vào của doanh nghiệp. Trình độ của lao
động là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và tính đặc trưng riêng của sản
phẩm, dẫn đến ảnh hưởng tới chi phí và giá thành của sản phẩm. Như vậy, có thể
nhận thấy rằng nhân lực chính là yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp.
Quản lý: Trong một doanh nghiệp, năng lực tổ chức và quản lý của daonh
nghiệp chính là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp hay
nói rộng ra chính là năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế. Quản
lý của doanh nghiệp ở đây được hiểu là trình độ của đội ngũ quản lý bao gồm trình
độ tổ chức, quản lý và điều hành doanh nghiệp. Tất cả các nhiệm vụ trên của đội
ngũ quản lý đều tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, do vậy quản lý
chính là một yếu tố khôn thể thiếu để đo lường năng lực cạnh tranh của một doanh
nghiệp.
Thị trường: được hiểu ở đây có thể là đầu ra của doanh nghiệp khả năng nắm
nhu cầu của thị trường, khả năng trong việc thực hiện các hoạt động marketing. Khả
năng Marketing tác động trực tiếp đến việc tiêu thụ sản phẩm, đáp ứng nhu cầu
khách hàng, góp phần tăng doanh thu, tăng thị phần của sản phẩm, nâng cao vị thế
của doanh nghiệp. Chính vì vậy, đây là một nhân tố quan trọng tác động tới năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Hệ thống tiêu thức này được sử dụng ở cả 3 cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp

và sản phẩm.


Hiện nay, hệ thống tiêu thức 6 Ms của Philip Kolter vẫn được sử dụng khá
phổ biến trên thế giới và các doanh nghiệp trong nước. Trong đề tài này, sử dụng hệ
thống 6 Ms làm tiêu thức đánh giá năng lực cạnh tranh của các SMEs DMVN.
III.Các cam kết khi gia nhập WTO có ảnh hường tới SMEs DMVN.
1.
Giới thiệu chung về WTO
WTO có tên đầy đủ là

Tổ chức thương mại thế giới- World Trade

Organization. Tổ chức này được thành lập và đi vào hoạt động từ 1/1/1995 với mục
tiêu thiết lập và duy trì một nền thương mại tự do thuận lợi và minh bạch.
WTO là tổ chức này kế thừa và phát triển các quy định và thực tiễn thực thi
hiệp định chung về thương mại và thuế quan-GATT 1947(chỉ giới hạn về thương
mại hàng hóa) và là kết quả trực tiếp của “Vòng đàm phán URugoay”(bao trùm các
lĩnh vực thương mại hàng hóa, dịch vụ, sở hữu trí tuệ và đầu tư). Tính đến ngày
11/1/2007, thời điểm Việt Nam chính thức là thành viên của WTO tổ chức này đã
có 150 thành viên. Thành viên của WTO là các quốc gia ví dụ như Việt Nam, Hoa
kỳ… hoặc các vùng lãnh thổ tự trị về quan hệ ngoại thương ví dụ EU, Đài Loan,
Hồng Kơng…
1.1

Nhiệm vụ của WTO:

WTO được thành lập với 4 nhiệm vụ chủ yếu:



Thúc đẩy việc thực hiện các hiệp định và cam kết đã đạt được trong

khổi WTO và cả những cam kết trong tương lai nếu có


Tạo diễn đàn để các thành viên tiếp tục đàm phán, ký kết các hiệp

định, cam kết mới về tự do hóa và tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại.


Giải quyết các tranh chấp thương mại phát sinh giữa các thành viên

của WTO


Rà soát định kỳ các chính sách thương mại của các thành viên

1.2

Các quy định của WTO.


WTO là một tập rất nhiều quy định, được sắp xếp theo một hệ thống nhất
định. Cụ thể, hệ thống các quy định tronmg WTO được chia thành 3 nhóm, bao
gồm:
-

Nhóm các hiệp định chung(Hiệp định đa biên)

-


Nhóm các biểu cam kết riêng

-

Nhóm các hiệp định nhiều bên



Nhóm các hiệp đinh chung: cho đến nay, WTO có tổng cộng 16 hiệp

định chung là tập hợp các nguyên tắc thương mại có hiệu lực áp dụng bắt buộc đối
với tất cả các thành viên WTO, tập trung vào 3 lĩnh vực:
-

Thương mại hàng hóa (Hiệp định GATT và các hiệp định bổ sung)

-

Thương mại dịch vụ(hiệp định GATS và các phụ lục)

-

Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp

định TRIPS)


Nhóm các bảng cam kết về mở cửa thị trường của từng thành viên


Các bảng cam kết vê mở cửa thị trường là tập hợp các cam kết giảm thuế
quan và lộ trình mở cửa đồi với từng loại dịch vụ của từng thành viên
Mỗi thành viên WTO có bảng cam kết riêng với mức cam kết và lộ trình
thực hiện riêng (là kết quả của đàm phán được với các thành viên khác trong WTO)


Nhóm các hiệp định nhiều bên

Trong WTO có một số hiệp định mà chỉ một số thành viên WTO ký kết và
chỉ có hiệu lực với các thành viên này. Người ta gọi các hiệp định này là hiệp định
thương mại nhiều bên(để phân biệt với 16 hiệp định chung mà tất cả các thành viên
WTO đều có nghĩa vụ thực hiện). Hiện nay, chỉ còn 02 hiệp định trong số này có
hiệu lực.
1.3

Các nguyên tắc cơ bản của WTO

Mặc dù khá dài và phức tạp, các hiệp định trong WTO tuân thủ theo một số
nguyên tắc chủ đạo, trong đó có những nguyên tắc trực tiếp tác động đến quyền và
lợi ích của các doanh nghiệp.




Nguyên tắc tối huệ quốc(MFN) theo nguyên tắc này mỗi nước thành

viên, phải dành sự đối xử không phân biệt cho hàng hóa và dịch vụ đến từ các nước
thành viên WTO khác nhau.
Như vậy, đối với các doanh nghiệp xuất khẩu vào một thị trường theo
nguyên tắc này sẽ được cạnh tranh công bằng với các doanh nghiệp xuất khẩu đến

từ nước khác.


Nguyên tắc đối xử quốc gia(NT): nguyên tắc này đòi hỏi mỗi nước

thành viên phải đối xử hàng hóa, dịch vụ đến từ các nước thành viên khác(sau khi
đã hồn tất các thủ tục thuế quan) khơng kém thuận lợi hơn hàng hóa dịch vụ nội
địa của mình.
Với nguyên tắc này, doanh nghiệp xuất khẩu vào một thị trường nhập khẩu
về cơ bản sẽ được cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp nội địa nước nhập khẩu
đó


Ngun tắc cắt giảm thuế quan và không sử dụng các biện pháp phi

thuế quan.
Theo nguyên tắc này, các thành viên WTO phải cam kết cắt giảm dần thuế
quan và chỉ sử dụng hệ thống thuế quan này để bảo vệ sản xuất trong nước, phải bãi
bỏ các biện pháp bảo hộ phi thuế quan(hạn ngạch, cấp phép nhập khẩu)..trừ một số
trường hợp hạn hữu được phép.
Với nguyên tắc này, việc nhập khẩu hàng hóa sẽ trở nên rõ ràng và dễ dự
đoán hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu và nhập khẩu.


Nguyên tắc minh bạch: nguyên tắc này địi hỏi các thành viên trong

WTO phải cơng khai, rõ ràng, dễ dự đoán trong các thủ tục, quy trình hay quy định
liên quan đến thương mại.
Với nguyên tắc này, doanh nghiệp sẽ dễ dàng tìm kiếm thơng tin cần thiết
cho hoạt động kinh doanh của mình mà khơng phải mất q nhiều chi phí. Ngồi ra,

minh bạch hóa cũng giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn trong việc nhận biết và bảo vệ
lợi ích hợp pháp của mình.


2.Các cam kết của ngành Dệt may
2.1 Cam kết đa phương:
Về dệt may, các thành viên WTO sẽ không đựơc áp dụng hạn ngạch dệt may
đối với Việt Nam khi vào WTO (riêng trường hợp ta vi phạm quy định WTO về trợ
cấp bị cấm đối với hàng dệt may thì một số nước có thể biện pháp trả đũa nhất
định). Ngồi ra thành viên WTO cũng sẽ khơng đựơc áp dụng tự vệ đặc biệt đối với
hàng dệt may của nước ta.
2.2 Cam kết về cắt giảm thuế suất theo lộ trình
Gia nhập WTO, Việt Nam phải cam kết mở cửa thị trường trong nước cho hàng hóa
nước ngồi, chủ yếu thông qua cắt giảm thuế nhập khẩu.
Cam kết về thuế nhập khẩu đối với hàng dệt may(từng nhóm sản phẩm và trong so
sánh với cam kết cắt giảm thuế quan đối với tất cả các mặt hàng) được tóm tắt trong
bảng sau:
Bảng 1: Cam kết về cắt giảm thuế nhập khẩu trong WTO đối với hàng DMVN
STT Chỉ tiêu

Thuế suất
MFN trước gia
nhập(%)

Thuế suất cam kết trong gia nhập
WTO

1

Thuế suất bình qn


17,4%

Khi gia
nhập
17,2%

2

Thuế suất bình qn
sản phẩm cơng
nghiệp
Thuế suất bình quân
ngành dệt may
Vải

16,7%

16,2%

12,4%

37,3 %

13,7%

13,7%

40%


12%

12%

Quần áo

50%

20%

20%

Sợi

20%

5%

5%

3

Thuế suất
cuối cùng
13,4%

Thời hạn thực
hiện
Cơ bản sau 3-5
năm

Cơ bản sau 3-5
năm
Ngay khi gia
nhập WTO
Ngay khi gia
nhập WTO
Ngay khi gia
nhập WTO
Ngay khi gia
nhập WTO

Nhìn vào biểu cam kết thuế quan đối với sản phẩm dệt may, có thể thấy một số
điểm quan trọng như sau:


Khơng có lộ trình cho việc cắt giảm: Việt Nam phải cắt giảm thuế quan đối với
hàng dệt may xuống mức cuối cùng ngay khi Việt Nam gia nhập WTO(ngày
11/1/2007) trong khi lộ trình cắt giảm thuế quan đối với các hàng hóa khác thường
là từ 5-7 năm; do đó ngành dệt may sẽ khơng có thời gian chuẩn bị mà phải lập tức
cạnh tranh nay với hàng nhập khẩu được cắt giảm thuế quan kể từ ngày 11/1/2007.
Mức cắt giảm thuế cao: hàng dệt may có mức cắt giảm thuế nhập khẩu cao nhất
trong toàn bộ Biểu cam kết về cắt giảm thuế quan đối với tất cả các loại hàng hóa,
trong đó có nhóm hàng giảm thuế nhiều nhất là xơ, sợi, vải, quần áo, đồ may sẵn.
Tuy nhiên mức cam kết này vẫn là thấp so với các cam kết cắt giảm thuế quan đối
với hàng dệt may trong các cam kết tự do hóa thương mại mà Việt Nam đã ký kết
và đã thực hiện theo lộ trình( khu vực mậu dịch tự do ASEAN- AFTA; khu vực
mậu dịch tự do ASEAN- Trung Quốc ACFTA; khu vực mậu dịch tự do ASEANHÀn Quốc AKFTA). Ngoài ra, Việt Nam cũng đang đàm phán các hiệp định về khu
vực mậu dịch tự do giữa Việt Nam và Nhật Bản, Úc, Ấn Độ và New Zealand. Như
vậy, doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt nhiều hơn với hàng Dệt may từ các nước
có cam kết tự do hóa thương mại với Việt Nam so với hàng dệt may đến từ các

nước thành viên WTO khác.
Bảng 2: Cam kết cắt giảm thuế quan đối với hàng DMVN trong các hiệp định thương mại khu vực

Năm
2006
2015
2.3

Thuế suất theo
AFTA
5%
0%

Thuế suất theo
ACFTA
27,8%
1,97%

Thuế suất theo
AKFTA
33,4%
9,3%

Hiệp định tự do hóa thương mại theo ngành: Hiệp định dệt may

Theo cam kết của WTO, các nước mới tham gia vào WTO th́ phải tham gia
hiệp định tự do một số ngành. Dệt may là một trong số 3 ngành đầu tiêm tham gia
vào hiệp định thương mại tự do ngành.
Việc tham gia Hiệp định dệt may, thực hiện đa phương hóa mức thuế đã cam
kết theo các Hiệp định thương mại dệt may với EU, Hoa Kỳ đã dẫn đến giảm thuế

đáng kể đối với các mặt hàng này: vải từ 40% xuống còn 12%, quần áo từ 50%
xuống 20%,sợi từ 20% xuống 5%. Theo Hiệp định Dệt may, số dòng thuế tham gia
Hiệp định là 1.170, với mức thuế suất hiện hành là 37,2% thì thuế suất cam kết cuối
cùng sẽ giảm còn 13,2%.


Theo các cam kết của WTO, khi việt Nam là thành viên của WTO, các nước thành
viên khác có nghĩa vụ đối xử binh đẳng theo nguyên tăc tối huệ quốc và đối xử quốc
gia. Khi Việt Nam thực hiện hiệp định Dệt may sẽ có những tác động chủ yếu sau
đối với ngành Dệt may, xét theo khía cạnh xuất khẩu và sản xuất trong nước:
Đối với xuất khẩu:
Về số lượng xuất khẩu: hạn ngạch vào các thị trường được dỡ bỏ, doanh nghiệp dệt
may có thể tự do xuất khẩu theo nhu cầu thị trường.
Về thuế quan: theo nguyên tắc Tối huệ quốc(MFN), hàng Dệt may Việt Nam nhập
khẩu vào các nước thành viên WTO sẽ được áp dụng các mức thuế tương tự như
thuế đối với hàng Dệt may nhập khẩu từ các nước khác vào nước đó.
Về việc mua bán trên thị trường: theo nguyên tắc Đối xử quốc gia(NT), hàng dệt
may Việt Nam khi nhập khẩu vòa một nước thành viên WTO sẽ được đối xử bình
đẳng với hàng Dệt may nội địa của họ(về thuế, lệ phí, phí, các quy định liên quan
đến việc bán hàng, cạnh tranh…)
Đối với sản xuất trong nước
Những thuận lợi từ việc xuất khẩu của hàng dệt may khi Việt Nam gia nhập WTO
được dự báo kéo theo dòng đầu tư nước ngoài(trực tiếp và gián tiếp) lớn hơn vào
ngành dệt may và hạ tầng phục vụ sản xuất dệt may. Điều này mang lại cho ngành
nhiều lợi thế như:
Khả năng cạnh tranh có thể được tăng cường: với việc bổ sung vốn cho các doanh
nghiệp đang tồn tại và sự xuất hiện của các doanh nghiệp mới.
Cơ hội tiếp cận với công nghệ: tăng thêm cơ hội tiếp cận với khả năng quản lý và
công nghệ kỹ thuật mới.
Tuy nhiên, những lợi lợi ích và cơ hội nói trên lớn chỉ ở dạng tiềm năng. Việc biến

các tiềm năng này thành lợi ích kinh tế thực sự phụ thuộc vào năng lực và sự chủ
động của từng doanh nghiệp.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC
SMEs DỆT MAY VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO.



×