Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

LUẬN VĂN: Bàn về chế độ hạch toán doanh thu bán hàng potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.61 KB, 24 trang )










LUẬN VĂN:
Bàn về chế độ hạch toán
doanh thu bán hàng













Lời Mở Đầu


Ngày nay nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang từng
bước đi lên, thay đổi trong mọi lĩnh vực. Đặc biệt, hoạt động kinh doanh thương mại
trở nên phát triển hơn bao giờ hết, trong kinh doanh thương mại, tiêu thụ hàng hóa là


vấn đề rất quan trọng, bởi có tiêu thụ được hàng hóa, thì doanh nghiệp mới đạt được
doanh thu bán hàng, trang trải các chi phí bỏ ra trong quá trình kinh doanh, tạo tích lũy,
tái sản xuất mở rộng, thực hiện các nghĩa vụ với nhà nước.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước ở nước ta
hiện nay, nền kinh tế mở cửa, nhiều sản phẩm hàng hóa xuất hiện với sự đa dạng về
chủng loại, mẫu mã, cùng với các phương thức bán hàng phong phú làm cho việc ghi
nhận doanh thu bán hàng cũng trở nên khó khăn hơn.
Do vậy em chọn đề tài “Bàn về chế độ hạch toán doanh thu bán hàng” để
tìm hiểu về chế độ hạch toán doanh thu bán hàng trong các doanh nghiệp thương mại
trong điều kiện hiện nay, khi nền kinh tế đang từng bước đi lên làm cho việc xác định
doanh thu bán hàng ngày càng trở nên phức tạp.














I. Lý luận chung về chế độ hạch toán doanh thu bán hàng.

1, Doanh thu và các quan điểm về doanh thu
Hiện nay, có rất nhiều các quan điểm khác nhau về doanh thu. Theo chuẩn mực
kế toán quốc tế “Doanh Thu” số 18 - IAS18: Doanh thu là giá trị gộp của các lợi ích

kinh tế mà doanh nghiệp đạt được trong kì kế toán, phát sinh từ các hoạt động thông
thường của doanh nghiệp, tạo nên sự tăng vốn chủ sở hữu, ngoài phần tăng lên từ phần
đóng góp thêm của các cổ đông.
Kế toán Pháp lại cho rằng: doanh thu là dòng vào, hay sự tăng lên các loại vốn
của đơn vị, hay sự giải quyết các khoản nợ (hoặc kết hợp cả hai) từ việc giao hàng, sản
xuất hàng hóa, hoặc những hoạt động khác hình thành nên hoạt động chủ yếu của đơn
vị, trong trường hợp đơn giản nhất, chúng tương đương với giá cả hàng hóa đã bán hay
dịch vụ đã cung cấp trong một thời kì nhất định.
Tuy có nhiều quan điểm về doanh thu nhưng về bản chất các quan điểm đó đều
giống nhau, có thể thấy rằng, định nghĩa về doanh thu theo chuẩn mực kế toán là đầy
đủ nhất:
Theo chuẩn mực kế toán số 14 (VAS14): doanh thu là tổng giá trị các lợi ích
kinh tế thu được trong kì kế toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất kinh doanh thông
thường của doanh nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu.
Các khoản doanh thu phát sinh từ các dịch vụ và giao dịch sau:
(1) Bán hàng: bán sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra hoặc bán hàng hóa mua vào.
(2) Cung cấp dịch vụ: thực hiện công việc đã thỏa thuận theo hợp đồng trong một hoặc
nhiều kỳ kế toán
(3) Tiền lãi, tiền bản quyền cổ tức và lợi nhuận được chia
2, Phân biệt doanh thu và thu nhập khác
Doanh thu chỉ bao gồm tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp đã thu được
hoặc sẽ thu được, các khoản thu hộ Các khoản thu hộ bên thứ ba không phải là nguồn
lợi ích kinh tế, không làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp sẽ không được coi là


doanh thu (chẳng hạn khi người nhận đại lý thu hộ tiền bán hàng cho đơn vị chủ hàng
thì doanh thu của người nhận đại lý chỉ là tiền hoa hồng được hưởng). Các khoản góp
vốn của cổ đông hoặc chủ sở hữu làm tăng vốn chủ sở hữu nhưng không phải là doanh
thu.
Thu nhập khác là khoản thu góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu từ hoạt động

ngoài các hoạt động tạo ra doanh thu. Thu nhập khác bao gồm các khoản thu nhập phát
sinh từ các hoạt động ngoài các hoạt động tạo ra doanh thu như thu từ thanh lý, nhượng
bán TSCĐ, thu tiền phạt khách hàng do vi phạm hợp đồng, thu tiền bảo hiểm được bồi
thường, thu được các khoản nợ phải thu đã xóa sổ tính vào chi phí kì trước, khoản nợ
phải trở nay mất chủ nợ được ghi tăng thu nhập, thu các khoản thuế được giảm, được
hoàn lại, các khoản thu khác.
3, Nguyên tắc xác định và thời điểm ghi nhận doanh thu.
a. Nguyên tắc xác định doanh thu bán hàng
(1) Doanh thu được ghi nhận theo giá trị hợp lý của các khoản đã thu hoặc sẽ thu được.
(2) Doanh thu phát sinh từ giao dịch được xác định bởi thỏa thuận giữa doanh nghiệp
với bên mua hoặc bên sử dụng tài sản. Nó được xác định bằng giá trị hợp lý của các
khoản đã thu được hoặc sẽ thu được sau khi trừ các khoản chiết khấu thương mại, giảm
giá hàng bán, hàng bán bị trả lại.
(3) Đối với các khoản tiền hoặc tương đương tiền không nhận được ngay thì doanh thu
được xác định bằng cách quy đổi giá trị danh nghĩa của các khoản sẽ thu được trong
tương lai về giá trị thực tế tại thời điểm ghi nhận doanh thu theo tỷ lệ lãi suất hiện
hành. Giá trị thực tế tại thời điểm ghi nhận doanh thu có thể nhỏ hơn giá trị danh nghĩa
sẽ thu được trong tương lai.
(4) Khi hàng hóa hoặc dịch vụ được trao đổi lấy hàng hóa hoặc dịch vụ tương tự về bản
chất thì việc trao đổi đó không được coi là một giao dịch tạo ra doanh thu.
Khi hàng hóa hoặc dịch vụ được trao đổi để lấy hàng hóa hoặc dịch vụ khác
không tương tự thì việc trao đổi đó được coi là một giao dịch tạo ra doanh thu. Trường
hợp này doanh thu được xác định bằng giá trị hợp lý của hàng hóa hoặc dịch vụ nhận
về sau khi điều chỉnh các khoản tiền hoặc tương đương tiền trả thêm hoặc thu thêm.


Khi không xác định được giá trị hợp lý của hàng hóa hoặc dịch vụ nhận về thì doanh
thu được xác định bằng giá trị hợp lý của hàng hóa hoặc dịch vụ đem trao đổi, sau khi
điều chỉnh các khoản tiền hoặc tương đương tiền trả thêm hoặc thu thêm.
b, Thời điểm ghi nhận doanh thu

Theo VAS14, doanh thu bán hàng được ghi nhận khi đồng thời thỏa mãn cả (5)
điều kiện sau:
(1) Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu
sản phẩm hoặc hàng hóa cho người mua.
(2) Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hóa như người sở hữu hàng
hóa hoặc quyền kiểm soát hàng hóa.
(3) Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn.
(4) Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng.
(5) Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng.
Doanh nghiệp phải xác định thời điểm chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích
gắn liền với quyền sở hữu hàng hóa cho người mua trong từng trường hợp cụ thể.
Trong trường hợp doanh nghiệp vẫn còn chịu phần lớn rủi ro gắn liền với quyền
sở hữu hàng hóa thì giao dịch không được coi là hoạt động bán hàng và doanh thu
không được ghi nhận. Doanh nghiệp còn phải chịu rủi ro gắn liền với quyền sở hữu
duới nhiều hình thức khác nhau như:
- Doanh nghiệp còn phải chịu trách nhiệm để đảm bảo cho tài sản được hoạt động bình
thường mà việc này không nằm trong các điều khoản bảo hành thông thường.
- Khi việc thanh toán tiền bán hàng còn chưa chắc chắn vì phụ thuộc vào người mua
hàng hóa đó.
- Khi hàng hóa được giao còn chờ lắp đặt và việc lắp đặt đó là phần quan trọng của hợp
đồng mà doanh nghiệp chưa hoàn thành.
- Khi người mua có quyền hủy bỏ việc mua hàng vì một lý do nào đó được nêu trong
hợp đồng mua bán và doanh nghiệp chưa chắc chắn về khả năng hàng bán có bị trả lại
hay không.


- Nếu doanh nghiệp chỉ còn phải chịu một phần nhỏ rủi ro gắn liền với quyền sở hữu
hàng hóa thì việc bán hàng được xác định và doanh thu được ghi nhận. VD: doanh
nghiệp còn nắm giữ giấy tờ về quyền sở hữu hàng hóa chỉ để đảm bảo nhận được đủ
các khoản thanh toán.

- Doanh thu bán hàng được ghi nhận chỉ khi đảm bảo là doanh nghiệp nhận được lợi
ích kinh tế từ giao dịch. Trường hợp lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng còn phụ
thuộc vào yếu tố không chắc chắn thì chỉ ghi nhận doanh thu khi các yếu tố không chắc
chắn này đã xử lý xong.
- Doanh thu và chi phí liên quan đến cùng một giao dịch phải được ghi nhận đồng thời
theo nguyên tắc phù hợp.
3, Các khoản giảm trừ doanh thu.
Doanh thu bán hàng thuần mà doanh nghiệp thu được (doanh thu thuần) có thể
thấp hơn doanh thu bán hàng. Doanh thu thuần là khoản chênh lệch giữa doanh thu bán
hàng và các khoản giảm trừ doanh thu, bao gồm:
- Chiết khấu thương mại là khoản doanh nghiệp bán giảm giá niêm yết cho khách hàng
mua hàng với khối lượng lớn. Khoản giảm giá có thể phát sinh trên khối lượng từng lô
hàng mà khách hàng đã mua, cũng có thể phát sinh trên tổng khối lượng hàng lũy kế
mà khách hàng đã mua trong một quãng thời gian nhất định tùy thuộc vào chính sách
chiết khấu thương mại của bên bán.
- Giảm giá hàng bán là khoản giảm trừ cho người mua do toàn bộ hay một phần hàng
hóa kém phẩm chất, sai quy cách hoặc lạc hậu thị hiếu. Như vậy giảm giá hàng bán và
chiết khấu thương mại có cùng bản chất như nhau, đều là giảm giá cho người mua,
song lại phát sinh trong những tình huống hoàn toàn khác nhau.
- Giá trị hàng bán bị trả lại là giá trị khối lượng hàng bán đã xác định là tiêu thụ bị
khách hàng bị trả lại và từ chối thanh toán do các nguyên nhân như: vi phạm cam kết,
vi phạm hợp đồng kinh tế, hàng bị mất, kém phẩm chất, không đúng chủng loại, quy
cách. Khi doanh nghiệp ghi nhận giá trị hàng bán bị trả lại cần đồng thời ghi giảm
tương ứng trị giá vốn hàng bán trong kì.


- Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế giá trị gia tăng tính theo phương pháp
trực tiếp là các khoản thuế được xác định trực tiếp trên doanh thu bán hàng theo quy
định hiện hành của các luật thuế tùy thuộc vào từng mặt hàng khác nhau. Thuế tiêu thụ
đặc biệt phát sinh khi doanh nghiệp cung cấp các loại sản phẩm do doanh nghiệp sản

xuất (hoặc các loại dịch vụ) thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt cho khách
hàng, khi đó doanh thu bán hàng được ghi nhận trong kì theo giá bán trả ngay đã bao
gồm thuế tiêu thụ đặc biệt (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng).

II. Chế độ kế toán hiện hành về doanh thu bán hàng (Quyết định số 15/2006/ QĐ-
BTC).
Ngày 20/3/2006, BTC đã ban hành quyết định số 15/2006/QĐ-BTC, quyết định về việc
ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp thay thế chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành
theo quyết định số 1141/TC/QĐ/CĐKT ngày 1/11/2005 của BTC.

1, Các chứng từ sử dụng
Khi bán hàng phải lập hóa đơn để người mua làm căn cứ ghi sổ, người bán làm
căn cứ ghi nhận doanh thu và sổ sách kế toán của mình.
- Hóa đơn bán hàng thông thường cần phản ánh giá bán (đã có thuế GTGT), các khoản
phụ thu, phí tính ngoài tiền bán (nếu có), tổng giá thanh toán (đã có thuế GTGT)
- Hóa đơn GTGT cần phản ánh giá bán (chưa có thuế GTGT), các khoản phụ thu, phí
tính ngoài tiền bán (nếu có), thuế GTGT, tổng giá thanh toán (đã có thuế GTGT)
- Phiếu thu, phiếu chi để ghi nhận các khoản thu chi bằng tiền
- Giấy báo nợ, giấy báo có của ngân hàng
- Các chứng từ khác liên quan (nếu có)
2, Các tài khoản sử dụng
a, Kế toán “doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ” (TK 511)
Tài khoản 511 “Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ” sử dụng để phản ánh
doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp.
Tài khoản này có kết cấu và nội dung ghi như sau:


Bên Nợ:
- Số thuế tiêu thụ đặc biệt, hoặc thuế xuất khẩu phải nộp tính trên doanh thu bán hàng
thực tế của sản phẩm, hàng hóa, bất động sản đầu tư, và dịch vụ đã cung cấp cho khách

hàng và đã được xác định là tiêu thụ trong kỳ kế toán;
- Số thuế GTGT phải nộp NSNN đối với doanh nghiệp áp dụng phương pháp trực tiếp;
- Khoản chiết khấu thương mại kết chuyển cuối kỳ;
- Trị giá hàng bán bị trả lại kết chuyển cuối kỳ;
- khoản giảm giá hàng bán kết chuyển cuối kỳ;
- Kết chuyển doanh thu thuần vào Tài khoản 911 “Xác định kết quả kinh doanh”;
Bên Có:
- Doanh thu bán sản phẩm, hàng hóa, bất động sản dầu tư,và cung cấp dịch vụ của
doanh nghiệp thực hiện trong kỳ kế toán
Tài khoản 511 không có số dư cuối kỳ, và có 5 tài khoản cấp 2 sau:
- Tài khoản 5111 - doanh thu bán hàng hóa: phản ánh doanh thu và doanh thu thuần
của khối lượng hàng hóa đã được xác định là tiêu thụ trong một kỳ kế toán của doanh
nghiệp.
- Tài khoản 5112 - doanh thu bán các thành phẩm: Phản ánh doanh thu và doanh thu
thuần của khối lượng sản phẩm (Thành phẩm, bán thành phẩm) đã được xác định là
tiêu thụ trong một kỳ kế toán của doanh nghiệp.
- Tài khoản 5113 - doanh thu cung cấp dịch vụ: Phản ánh doanh thu và doanh thu thuần
của khối lượng dịch vụ đã hoàn thành, đã cung cấp cho khách hàng và đã được xác
định là tiêu thụ trong một kỳ kế toán.
- Tài khoản 5114 - doanh thu trợ cấp, trợ giá: dùng để phản ánh các khoản doanh thu từ
trợ cấp, trợ giá của Nhà nước khi doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ cung cấp sản phẩm,
hàng hóa, dịch vụ theo yêu cầu của Nhà nước.
- Tài khoản 5117 - doanh thu kinh doanh bất động sản đầu tư, dùng để phản ánh
doanh thu kinh doanh bất động sản đầu tư của doanh nghiệp.
b, Kế toán “doanh thu nội bộ” (TK 512)


Doanh thu tiêu thụ nội bộ là số tiền thu được do đơn vị bán hàng hóa sản phẩm,
cung cấp dịch vụ tiêu thụ nội bộ giữa các đơn vị trong một công ty, tổng công ty…
Kế toán sử dụng tài khoản 512 “Doanh thu nội bộ” để phản ánh doanh thu của

sản phẩm, hàng hóa tiêu thụ trong nội bộ doanh nghiệp
Tài khoản này có kết cấu và nguyên tắc ghi như sau:
Bên Nợ:
- Trị giá hàng bán bị trả lại, khoản giảm giá hàng bán đã chấp nhận trên khối lượng sản
phẩm, hàng hóa, dịch vụ và tiêu thụ nội bộ kết chuyển cuối kỳ kế toán;
- Số thuế tiêu thụ nội bộ phải nộp của số sản phẩm, hàng hóa tiêu thụ nội bộ;
- Số thuế GTGT phải nộp tính theo phương pháp trực tiếp của số sản phẩm, hàng hóa,
dịch vụ tiêu thụ nội bộ;
- Kết chuyển doanh thu tiêu thụ nội bộ thuần vào tài khoản 911 “xác định kết quả kinh
doanh”
Bên Có:
- Tổng số doanh thu bán hàng nội bộ của đơn vị thực hiện trong kỳ kế toán
Tài khoản 512 không có số dư cuối kỳ, và có 3 tài khoản cấp 2 sau:
- Tài khoản 5121 - doanh thu bán hàng hóa: Phản ánh doanh thu của khối lượng hàng
hóa đã được xác định là tiêu thụ nội bộ trong kỳ kế toán.
- Tài khoản 5122 - doanh thu bán các thành phẩm: Phản ánh doanh thu của khối lượng
sản phẩm, dịch vụ cung cấp giữa các đơn vị trong cùng một công ty hay tổng công ty.
- Tài khoản 5123 - doanh thu cung cấp dịch vụ: Phản ánh doanh thu khối lượng dịch vụ
cung cấp cho các đơn vị trong cùng công ty hay tổng công ty. 3, Phương pháp hạch
toán doanh thu bán hàng.
a. Doanh thu của khối lượng hàng hóa, dịch vụ đã được xác định là bán trong kỳ kế
toán:
(1) Đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT, và doanh nghiệp nộp thuế
theo phương pháp khấu trừ, doanh thu bán hàng được ghi nhận theo giá bán chưa có
thuế GTGT:
Nợ TK 111, 112, 131 (tổng giá thanh toán)


Có TK 511 - (giá bán chưa co thuế GTGT)
Có TK 3331 - thuế GTGT phải nộp

(2) Đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế GTGT, và doanh nghiệp
nộp thuế theo phương pháp trực tiếp trên GTGT, doanh thu bán hàng được ghi nhận
theo giá bán gồm thuế GTGT:
Nợ TK 111, 112, 131 (tổng giá thanh toán gồm cả VAT)
Có TK 511 (tổng giá thanh toán: giá bán gồm cả VAT)
(3) Đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT, doanh thu
bán hàng được ghi nhận theo giá bán không có thuế GTGT:
Nợ TK 111, 112, 131 (giá bán không có thuế GTGT)
Có TK 511 (tổng giá thanh toán: giá bán không có VAT)
b, Trường hợp doanh thu bán hàng thu bằng ngoại tệ, thì ngoài việc ghi sổ kế toán chi
tiết số nguyên tệ đã thu hoặc phải thu, kế toán phải ghi khoản doanh thu này bằng
Đồng Việt Nam hoặc bằng đơn vị tiền tệ chính thức sử dụng trong kế toán theo tỷ giá
giao dịch thực tế, hoặc tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng tại thời điểm phát
sinh nghiệp vụ kinh tế đó với các bút toán đã nêu trên.
c, Trường hợp bán hàng theo phương thức đổi hàng
(1) Đối với doanh nghiệp nộp thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ thuế, khi
xuất sản phẩm, hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế GTGT tính theo phương pháp khấu
trừ đổi lấy hàng hóa không tương tự về tính chất và giá trị sử dụng cho hoạt động
SXKD hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo PP khấu trừ:
- Ghi nhận doanh thu được xác định theo giá trị hợp lý của sản phẩm, hàng hóa đưa ra
trao đổi chưa gồm thuế GTGT đầu ra:
Nợ TK 131 - Phải thu của khách hàng
Có TK 511 - Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
Có TK 33311 - Thuế GTGT đầu ra
- Ghi nhận giá trị vật tư, hàng hóa, TSCĐ nhận về từ giao dịch trao đổi theo giá trị hợp
lý của chúng:
Nợ TK 152, 153, 156, 211,…(Giá trị hợp lý của tài sản nhận về)


Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (nếu có)

Có TK 131 - (tổng giá thanh toán)
- Số tiền thu thêm do giá trị hợp lý của hàng đưa đi trao đổi lớn hơn giá trị hợp lý của
hàng nhận về, kế toán ghi:
Nợ TK 111, 112 (Số tiền thu thêm)
Có TK 131 (Phải thu của khách hàng)
- Số tiền phải trả thêm do giá trị hợp lý của hàng đưa đi trao đổi nhỏ hơn giá trị hợp lý
của hàng nhận về, kế toán ghi:
Nợ TK 131 - Phải thu của khách hàng
Có TK 111, 112 (số tiền đã trả thêm)
(2) Đối với doanh nghiệp nộp thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp, khi xuất sản
phẩm, hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ đổi
lấy hàng khác không tương tự về tính chất và giá trị sử dụng cho hoạt động SXKD
hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp:
- Ghi nhận doanh thu được xác định theo giá trị hợp lý của sản phẩm, hàng hóa đưa
trao đổi gồm thuế GTGT đầu ra:
Nợ TK 131 - Phải thu khách hàng (tổng giá thanh toán)
Có TK 511 (tổng giá thanh toán)
- Ghi nhận giá trị vật tư, hàng hóa, TSCĐ nhận về từ giao dịch trao đổi theo giá trị hợp
lý của chúng:
Nợ TK 152, 153, 156, 211,…(tổng giá thanh toán)
Có TK 131 (tổng giá thanh toán)
- Trường hợp thu thêm tiền hoặc phải trả thêm tiền do có sự chênh lệch giữa giá trị hợp
lý hàng đem đổi và hàng nhận về thì ghi như đã hướng dẫn ở trên.
d, Kế toán doanh thu bán hàng theo phương thức trả chậm, trả góp:
(1) Đối với hàng hóa chịu thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ
- Doanh thu bán hàng trả chậm, trả góp, được ghi nhận theo giá bán trả ngay, và lãi trả
chậm, trả góp được ghi nhận vào doanh thu chưa thực hiện, sau đó khoản lãi này được
ghi nhận vào doanh thu hoạt động tài chính của các kì tương ứng:



Nợ TK 131 - Phải thu khách hàng
Có TK 511 (Giá bán trả ngay chưa có VAT)
Có TK 333 (3331-thuế GTGT phải nộp)
Có TK 3387 (lãi trả chậm, trả góp)
- Tiền lãi bán hàng trả chậm, trả góp của kỳ này hoặc từng kỳ sau được ghi nhận vào
doanh thu hoạt động tài chính:
Nợ TK 3387 - Doanh thu chưa thực hiện
Có TK 515 - Doanh thu hoạt động tài chính (lãi trả chậm, trả góp)
- Khi thực hiện thu tiền bán hàng trả chậm:
Nợ TK 111, 112,…
Có TK 131 - Phải thu của khách hàng.
(2) Đối với hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp:
- Doanh thu bán hàng trả chậm, trả góp, được ghi nhận theo giá bán trả ngay gồm thuế
GTGT đầu ra, và lãi trả chậm, trả góp được ghi nhận vào doanh thu chưa thực hiện, sau
đó khoản lãi này được ghi nhận vào doanh thu hoạt động tài chính của các kỳ tương
ứng:
Nợ TK 131 - Phải thu khách hàng
Có TK 511 (Giá bán trả ngay có VAT)
Có TK 3387 (Lãi trả chậm, trả góp)
- Tiền lãi bán hàng trả chậm, trả góp của kỳ này hoặc từng kỳ sau được ghi nhận vào
doanh thu hoạt động tài chính:
Nợ TK 3387 - Doanh thu chưa thực hiện
Có TK 515 - Doanh thu hoạt động tài chính
- Khi thực hiện thu tiền bán hàng trả chậm:
Nợ TK 111, 112,…
Có TK 131 - Phải thu khách hàng
- Cuối kỳ, kế toán tính toán, xác định thuế GTGT phải nộp theo phương pháp trực tiếp:
Nợ TK 511
Có TK 3331 - thuế GTGT phải nộp



(3) Đối với hàng hóa không thuộc diện chịu thuế GTGT:
- Doanh thu bán hàng trả chậm, trả góp, được ghi nhận theo giá bán trả ngay không có
thuế GTGT đầu ra, và lãi trả chậm, trả góp được ghi nhận vào doanh thu chưa thực
hiện, sau đó khoản lãi này được ghi nhận vào doanh thu hoạt động tài chính của các kỳ
tương ứng.
Nợ TK 131 - Phải thu khách hàng
Có TK 511 (giá bán trả ngay không có thuế GTGT)
Có TK 3387 (lãi trả chậm, trả góp)
- Tiền bán hàng trả chậm, trả góp của kỳ này hoặc từng kỳ sau được ghi nhận vào
doanh thu hoạt động tài chính:
Nợ TK 3387
Có TK 515
- Khi thu tiền bán hàng trả chậm:
Nợ TK 111, 112,…
Có TK 131
e, Doanh thu của khối lượng hàng hóa thuộc diện chịu thuế GTGT đã được xác định là
tiêu thụ trong kỳ kế toán chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, được ghi nhận theo giá bán đã có
thuế tiêu thụ đặc biệt nhưng chưa bao gồm thuế GTGT (theo quy định của luật thuế
tiêu thụ đặc biệt):
Nợ TK 111, 112, 131 - tổng giá thanh toán gồm cả thuế TTĐB và thuế
GTGT
Có TK 511 - giá bán có thuế TTĐB nhưng chưa có thuế GTGT
Có TK 3331 - thuế GTGT phải nộp nếu có
f, Doanh thu của khối lượng hàng hóa thuộc diện chịu thuế GTGT đã được xác định là
tiêu thụ trong kỳ kế toán, chịu thuế xuất khẩu, được ghi nhận theo giá bán đã có thuế
xuất khẩu nhưng không gồm thuế GTGT (Theo quy định của luật thuế GTGT: thuế
suất của hàng hóa dịch vụ xuất khẩu là 0%):
Nợ TK 111, 112, 131 (tổng giá thanh toán gồm cả thuế xuất khẩu)



Có TK 511 (giá bán có thuế xuất khẩu nhưng chưa bao gồm thuế
GTGT)
g, Kế toán doanh thu bán hàng bằng phương thức bán qua các đại lý bán đúng giá
được hưởng hoa hồng:
(1) Kế toán ở đơn vị giao đại lý:
Khi xuất kho sản phẩm hàng hóa giao cho các đại lý, ghi nhận trị giá hàng gửi
bán đại lý:
Nợ TK 157 - Hàng gửi bán
Có TK 155, 156
Khi hàng hóa giao cho các đại lý đã được bán, căn cứ vào bảng kê hóa đơn đã
bán của hàng hóa đã tiêu thụ do các đại lý hưởng hoa hồng lập gửi về, tùy theo phương
pháp nộp thuế của doanh nghiệp bán để ghi nhận doanh thu:
- Đối với hàng hóa, dịch vụ chịu thuế theo phương pháp khấu trừ và doanh nghiệp nộp
thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, doanh thu bán hàng được ghi nhận theo giá
bán chưa có thuế GTGT:
Nợ TK 111, 112, 131 (tổng giá thanh toán)
Có TK 511 (giá bán chưa thuế GTGT)
Có TK 3331 (thuế GTGT phải nộp)
Đồng thời phản ánh giá vốn của hàng bán ra:
Nợ TK 632 - giá vốn hàng bán
Có TK 157 - Hàng gửi bán
- Đối với hàng hóa dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT hoặc chịu thuế GTGT
theo phương pháp trực tiếp, hoặc hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp
khấu trừ nhưng doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, doanh thu
bán hàng được ghi nhận theo tổng giá thanh toán:
Nợ TK 111, 112, 131 (tổng giá thanh toán)
Có TK 511 (tổng giá thanh toán)
Đồng thời phản ánh giá vốn của hàng bán ra:
Nợ TK 632



Có TK 157
Số tiền hoa hồng phải trả cho đơn vị nhận bán hàng đại lý hưởng hoa hồng:
Nợ TK 641 - chi phí bán hàng
Có TK 111, 112, 131
(2) Kế toán ở đơn vị nhận đại lý:
Hàng hóa nhận bán đại lý bán đúng giá hưởng hoa hồng, được ghi nhận theo giá
trị hàng hóa nhận bán đại lý vào tài khoản 003 “Hàng hóa nhận bán hộ, nhận ký gửi, ký
cược”. Khi nhận hàng đại lý, ký gửi ghi bên Nợ, khi xuất bán hoặc xuất trả lại kho cho
bên giao hàng, ghi bên Có TK 003.
Khi bán hàng hóa nhận đại lý:
- Khi xuất bán hàng nhận đại lý, phải lập hóa đơn GTGT hoặc hóa đơn bán hàng theo
chế độ quy định căn cứ vào hóa đơn GTGT hoặc hóa đơn bán hàng và các chứng từ
liên quan, và ghi nhận số tiền bán hàng đại lý phải trả cho bên giao hàng:
Nợ TK 111, 112, 131
Có TK 331 - Phải trả người bán (tổng giá thanh toán)
- Định kỳ, khi xác nhận doanh thu bán hàng đại lý là hoa hồng được hưởng, đơn vị
nhận bán đại lý phải lập hóa đơn GTGT hoặc hóa đơn bán hàng theo quy định và phản
ánh doanh thu bán hàng đại lý:
Nợ TK 331
Có TK 511 (hoa hồng bán hàng đại lý)
Có TK 3331 (nếu có)
- Khi trả tiền bán hàng đại lý cho bên giao hàng
Nợ TK 331
Có TK 111, 112.
h, Cuối kỳ kế toán, kết chuyển các khoản giảm trừ doanh thu
Nợ TK 511
Có TK 531 - hàng bán bị trả lại
Có TK 532 - giảm giá hàng bán

Có TK 521 - chiết khấu thương mại


i, Cuối kỳ kế toán, kết chuyển doanh thu thuần sang TK 911 “xác định kết quả kinh
doanh”
Nợ TK 511
Có TK 911
4, Phương pháp hạch toán doanh thu bán hàng nội bộ
Nguyên tắc doanh thu bán hàng nội bộ được thực hiện như quy định đối với
doanh thu bán hàng.






Sơ đồ 1a
Kế toán doanh thu bán hàng nội bộ chịu thuế GTGT tính theo phương pháp
khấu trừ


Sơ đồ 1b
Kế toán DTBH nội bộ chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp
3331

(1)doanh thu bán
(4) k
ết chuyển

(2)Dthu HB b




đầu
ra

Thu
ế GTGT



doanh thu
nội bộ
(3)

k
ế chuyển doanh thu HB
phát sinh trong kỳ
53
112,
512

911






Sơ đồ 1c

Kế toán doanh thu bán hàng nội bộ không chịu thuế GTGT


III. Một số kiến nghị đóng góp với chế độ kế toán doanh thu hiện hành.

1, Vấn đề thương mại điện tử hiện nay - chế độ kế toán doanh thu hiện nay chưa có
hướng dẫn cụ thể.
Từ năm 2005, các điều kiện cần thiếu cho sự phát triển mạnh mẽ của thương
mại điện tử ở Việt Nam đã được xác lập, điều này làm cho hoạt động kinh doanh của

911

Thuế GTGT phải nộp theo
phương pháp tr
ực tiếp

Dthu bán hàng
nội bộ chịu thuế
GTGT theo phương
pháp trực tiếp
Kết chuyển doanh
thu
thu
ần

Kết chuyển doanh thu HB
b
ị trả lại
phát sinh trong k



Kết chuyển doanh

thu
thuần
Dthu bán hàng
nội bộ
Doanh thu hàng
bán

b
ị trả lại

Kết chuyển doanh thu HB bị
trả lại
911
512
111,
112





531
33311

512

112,

136
531



các doanh nghiệp trở nên phong phú hơn, với những đổi mới cả về hình thức lẫn nội
dung. Nếu chỉ căn cứ vào những chuẩn mực và quy định kế toán hiện hành thì không
đủ cơ sở để xác định thời điểm ghi nhận, cũng như giá trị ghi nhận.
Thứ nhất, vấn đề xác định thời điểm ghi nhận doanh thu.
Một trong những yếu tố quan trọng khi kế toán doanh thu là phải xác định đúng
thời điểm ghi nhận, đảm bảo thông tin phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp là trung thực và đầy đủ.
Chế độ kế toán doanh thu quy định, doanh thu được ghi nhận khi thỏa mãn 5
điều kiện đã nêu ở trên, tuy nhiên trong lĩnh vực kinh doanh hàng công nghệ cao, với
thông lệ bán hàng hóa hay dịch vụ trọn gói thì việc xác định thời điểm này tương đối
phức tạp.
Trọn gói là việc doanh nghiệp tích hợp nhiều hoạt động tạo ra doanh thu có mối
quan hệ ràng buộc vào trong một giao dịch, chẳng hạn bán đầu thu kỹ thuật số kèm
dịch vụ truyền hình, bán phần mềm kèm cập nhật. Giao dịch trọn gói này không chỉ
làm tăng doanh thu mà còn kéo dài sự ràng buộc giữa nhà cung cấp và khách hàng. Sau
khi hoàn tất việc lắp đặt đầu thu, nhà cung cấp phải đảm bảo việc phát sóng liên tục.
Như vậy kế toán sẽ ghi nhận toàn bộ doanh thu của gói ngay sau thời điểm bán hàng
thông thường hay sẽ tách giao dịch này thành từng hoạt động riêng biệt và ghi nhận
doanh thu cho từng hoạt động?
Việc ghi nhận toàn bộ doanh thu ngay sau thời điểm bán hàng thông thường là
không phù hợp với chế độ kế toán. Trong các trường hợp bán hàng hóa dịch vụ trọn
gói trên, một phần dịch vụ hay hàng hóa vẫn chưa được thực hiện nên không thể coi là
doanh thu trong kì. Nếu kế toán tách riêng biệt từng hoạt động để ghi nhận doanh thu
thì trong nhiều trường hợp, việc nhận diện từng phần riêng biệt của giao dịch là không
thể.

Chẳng hạn, đối với giao dịch bán đầu thu kỹ thuật số kèm cung cấp dịch vụ phát
sóng, trên bảng giá của nhà cung cấp đưa ra thì toàn bộ số tiền nhận từ người mua là
giá trị của đầu thu, miễn phí dịch vụ chương trình. Nhưng chắc rằng khách hàng sẽ
không mua đầu thu nếu không có dịch vụ truyền hình kèm theo. Đối với giao dịch phần


mềm kèm cung cấp cập nhật, có thể khách hàng chỉ trả với giá thấp hơn, thậm chí
không tiến hành giao dịch nếu không được cập nhật và cung cấp các bản vá lỗi. Như
vậy mặc dù thỏa thuận là miễn phí, về bản chất các hàng hóa các hàng hóa và dịch vụ
đi kèm này là phần không thể thiếu của giao dịch chiếm một tỷ lệ nhất định trong tổng
giá trị giao dịch, mà kế toán không thể tách biệt khi ghi nhận doanh thu.
Thứ hai, là việc xác định giá trị khi ghi nhận doanh thu.
Yếu tố thứ hai cũng không kém quan trọng là kế toán xác định được giá trị để
ghi nhận doanh thu. Theo chế độ kế toán hiện hành thì doanh thu được ghi nhận theo
giá trị hợp lý, nhưng với một số giao dịch trên internet thì giá trị hợp lý không phải lúc
nào cũng xác định được, điển hình là thương mại “hàng đổi hàng”.
Thương mại hàng đổi hàng đã xuất hiện từ rất lâu, trong quá trình này, người
bán là người cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho người mua, đổi lại người mua sẽ phải trả
cho người bán một giá trị hàng hóa dịch vụ tương đương nào đó. Khi giao dịch diễn ra
trong môi trường kinh doanh thông thường, việc xác định giá trị hợp lý của giao dịch
hàng đổi hàng tương đối đơn giản, chẳng hạn một công ty Xuất Nhập Khẩu trong nước
thực hiện giao dịch đổi hải sản lấy thép với một công ty nước ngoài. Mặc dù đây là
giao dịch hàng đổi hàng nhưng giá trị của hải sản đem trao đổi và giá trị của thép nhận
về đều được ghi trên hợp đồng ký kết giữa hai bên, nếu không có sự thỏa thuận thì kế
toán vẫn có thế xác định được giá trị hợp lý của các hàng hóa này trên cơ sở các hàng
hóa tương tự trên thị trường.
Trong môi trường thương mại điện tử, việc xác định này đôi khi trở nên phức
tạp, điển hình là đối với giao dịch “đổi quảng cáo lấy quảng cáo” trên các trang web,
một công ty A cho một công ty B đặt quảng cáo trên trang web của mình không lấy
tiền, đổi lại công ty B lại cho công ty A đặt quảng cáo của A lên trang web của B cũng

miễn phí. Dưới góc độ kinh doanh, việc trao đổi này càng mở rộng, các công ty càng
tận dụng được nhiều hơn khả năng của internet trong quá trình thông tin, quảng cáo
đến khách hàng. Dưới góc độ kế toán, giá trị mỗi quảng cáo trên các mạng web là khác
nhau, và không đồng nhất, như vậy việc trao đổi này là trao đổi giữa các hàng hóa


không tương tự, nói cách khác đây là giao dịch đủ điều kiện để ghi nhận doanh thu.
Nhưng doanh thu sẽ được ghi nhận với giá trị bao nhiêu?.
Quay trở lại với việc trao đổi quảng cáo trên trang web giữa hai công ty A và B.
Hợp đồng giữa hai bên chỉ thỏa thuận về thời hạn mỗi bên được đặt quảng cáo trên
trang web của đối tác, không đề cập đến giá trị bằng tiền của việc đặt quảng cáo đó là
bao nhiêu. Trong trường hợp này để ghi nhận doanh thu trên cơ sở chế độ kế toán hiện
hành thì phải xác định giá cả hợp lý theo giá cả của hàng hóa tương đương trên thị
trường. Mặt khác, vì giá trị quảng cáo trên mỗi trang web khác nhau là khác nhau,
trong điều kiện chưa có tổ chức đủ uy tín đưa ra một chuẩn chung để lượng giá mọi
trang web thì giá trị quảng cáo trên mỗi trang web chỉ có thể so sánh với chính nó hay
nói cách khác chỉ có hàng hóa tương đương duy nhất là chính nó.
Đặt giả thiết rằng đây là lần đầu tiên cả hai công ty đồng ý để một đối tượng bên
ngoài đặt quảng cáo trên trang web của mình, và đây là một giao dịch đơn thuần “đổi
quảng cáo lấy quảng cáo”. Như vậy cả hai công ty đều không thể xác định được giá trị
hợp lý của quảng cáo đem trao đổi.
Phương hướng để giải quyết những vấn đề trên
Để giải quyết những vấn đề trên, chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm của
một số nước đi trước.
Đối với giao dịch bán hàng hóa dịch vụ trọn gói, kế toán phải tách biệt từng
phần của gói hàng hóa dịch vụ nếu thoả mãn điều kiện sau:
- Thành tố được xem là riêng biệt nếu thành tố đó có thể được đem bán một cách riêng
rẽ
- Kế toán có căn cứ xác định giá trị hợp lý của doanh thu đối với từng thành tố.
- Nếu thành tố chưa được giao cho người mua là thiết yếu đối với một thành tố khác đã

phân phối, kế toán không được ghi nhận doanh thu cho đến khi yếu tố thiết yếu này
được giao cho khách hàng.
Đối với giao dịch đổi quảng cáo lấy quảng cáo trên internet
Giá trị hợp lý của quảng cáo đem trao đổi có thể xác định được nếu trước đấy
doanh nghiệp đã tiến hành bán quảng cáo lấy tiền với một đối tượng khác trong một


giao dịch ngang giá. Tuy nhiên giao dịch này không được diễn ra trước quá 6 tháng so
với giao dịch đổi quảng cáo lấy quảng cáo. Công ty chỉ ghi nhận doanh thu quảng cáo
đổi quảng cáo tối đa bằng tổng giá trị của giao dịch bán quảng cáo đã được dùng làm
cơ sở tính giá trị hợp lý.
Hướng giải quyết trên vẫn chưa thực sự giải quyết hoàn toàn những vấn đề nêu
trên, do đó sẽ phát sinh nhiều vấn đề phức tạp khi ghi nhận doanh thu đối với hình thức
trên internet cả về thời điểm ghi nhận lẫn giá trị ghi nhận.
Do đó chế độ kế toán cần có những hướng dẫn cụ thể hơn, phù hợp hơn nữa để
đảm bảo thông tin phản ánh doanh thu của các doanh nghiệp là trung thực khách quan
và đầy đủ.
2, Sự không phù hợp giữa chính sách Thuế thu nhập doanh nghiệp với chế độ kế
toán hiện hành.
Thực tế luôn luôn tồn tại sự cách biệt giữa chính sách thuế với các quy định
trong chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành. Các doanh nghiệp trong nền kinh tế phải
hiểu và có cách ứng xử thích hợp với sự khác biệt này, tuy nhiên điều này cũng gây
nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình hạch toán.
Thứ nhất, trong một số trường hợp, theo chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp
ghi nhận là doanh thu tính thuế trong năm, nhưng lại chưa đủ điều kiện để ghi nhận
doanh thu theo chế độ kế toán. Chẳng hạn trong trường hợp đã viết hóa đơn bán hàng,
nhưng lại chưa đủ điều kiện để ghi nhận doanh thu theo chế độ kế toán.
Thứ hai, trong nhiều trường hợp, các hàng hóa, dịch vụ được trao đổi, không
được xác định là doanh thu theo chế độ kế toán, nhưng lại là doanh thu để tính thu
nhập chịu thuế theo quy định của luật thuế thu nhập doanh nghiệp.

Thứ ba, các khoản giảm trừ doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ theo chế độ
kế toán, nhưng không được loại trừ khỏi doanh thu để tính thu nhập chịu thuế theo quy
định của luật thuế thu nhập doanh nghiệp, chẳng hạn các khoản chiết khấu được giảm
trừ doanh thu theo chế độ kế toán, nhưng lại không có đủ chứng từ hợp pháp để giảm
trừ doanh thu tính thuế theo quy định của luật thuế thu nhập doanh nghiệp trong trường
hợp thanh toán bằng tiền mặt.


Thứ tư, khi thực hiện quyết toán thuế có những khoản cơ quan thuế loại hoàn
toàn ra khỏi doanh thu hay chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế trong kì căn cứ theo
luật và chính sách thuế hiện hành, chẳng hạn như những khoản chi phí quảng cáo, tiếp
thị vuợt mức khống chế 10% tổng chi phí trong kì, khoản chi phí không có hóa đơn,
chứng từ hợp lệ chứng minh, các khoản tổn thất tài sản…
Thực trạng trên cho thấy, giữa chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp và chế độ
kế toán còn tồn tại nhiều sự mâu thuẫn với nhau, không phù hợp. Điều này sẽ gây khó
khăn cho doanh nghiệp trong quá trình hoạch toán. Vì vậy cần phải hoàn thiện dần chế
độ hạch toán kế toán cũng như chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp để thu hẹp dần
sự khác nhau giữa thu nhập chịu thuế và thuế thu nhập doanh nghiệp.
Trên đây là một số kiến nghị của em về một số vấn đề còn chưa thực sự đầy đủ,
rõ ràng và hộp lý về chế độ kế toán doanh thu hiện hành, em nghĩ rằng chế độ kế toán
doanh thu nên bổ sung thêm để dần hoàn thiện hơn các chính sách, giúp cho các doanh
nghiệp có thể phản ánh thông tin về doanh thu được đầy đủ và hợp lý.





Kết luận

Nền kinh tế ngày càng phát triển làm cho nhu cầu thông tin ngày càng đòi hỏi

một cách cấp thiết. Do đó kế toán với tư cách là công cụ cung cấp những thông tin hữu
hiệu cho các nhà quản lý, lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Thương mại hiện nay đang là ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân.
Thương mại Việt Nam đang có những bước phát triển vượt bậc và vươn xa trên những
thị trường rộng lớn. Để bền vững tồn tại và phát triển, thì việc quản lý vốn, quản lý tài
sản, và các quá trình kinh doanh trong doanh nghiệp cần được thực hiện một cách chặt


chẽ, đặc biệt là đối với việc quản lý doanh thu bán hàng, bởi đó là yếu tố quan trọng để
đảm bảo hoạt động của doanh nghiệp.
Với việc ban hành chế độ, thể lệ kế toán về doanh thu, kế toán đã góp phần
không nhỏ vào sự quản lý điều hành quá trình kinh doanh trong các doanh nghiệp
thương mại, dịch vụ, thống nhất công tác kế toán doanh thu đối với tất cả các doanh
nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên chế độ kế toán doanh thu hiện nay còn
chưa thực sự đầy đủ, rõ ràng, vì vậy vấn đề đặt ra là cần phải dần hoàn thiện các chế độ
kế toán về doanh thu, giúp các doanh nghiệp không gặp khó khăn trong công tác hạch
toán doanh thu, để đảm bảo các thông tin được phản ánh đầy đủ, trung thực và hợp lý.






Các tài liệu sử dụng trong đề án



(1) Chế độ kế toán doanh nghiệp
Quyển 2 - Nhà xuất bản tài chính
(2) Hướng dẫn thực hiện chế độ kế toán doanh nghiệp

(ban hành theo quyết định số 15/2006/ QĐ - BTC ngày 20/3/2006)
Nhà xuất bản tài chính
(3) Kế toán thương mại dịch vụ và kinh doanh xuất nhập khẩu
Nhà xuất bản thống kế
(4) Giáo trình kế toán tài chính doanh nghiệp
Nhà xuất bản Đại học Kinh Tế Quốc Dân













×