Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Ung thư biểu mô tế bào gai nguyên phát của vú: Báo cáo một trường hợp hiếm gặp và hồi cứu y văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.25 KB, 4 trang )

vietnam medical journal n01 - AUGUST - 2022

UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAI NGUYÊN PHÁT CỦA VÚ:
BÁO CÁO MỘT TRƯỜNG HỢP HIẾM GẶP VÀ HỒI CỨU Y VĂN
Ngô Thị Tuyết Hạnh1,2, Phạm Quang Thông3,
Phạm Thị Như Diễm1, Lưu Đức Tùng1, Bùi Phương Quỳnh1
TĨM TẮT

50

Ung thư biểu mơ tế bào gai được biết là khối u ác
tính thường gặp ở da và các cơ quan được phủ bởi
biểu mô gai, nhưng là thực thể hiếm gặp trong mô vú.
Chúng tôi báo cáo một trường hợp bệnh nhân nữ, 55
tuổi, nhập viện vì khối ở vú lớn nhanh lèm ấn đau.
Khám lâm sàng và siêu âm hướng tới tổn thương nang
vú nhiễm trùng. Bệnh nhân được cắt bỏ khối u, kết
quả giải phẫu bệnh là ung thư biểu mô tế bào gai
nguyên phát của vú, không liên quan tới da vú và núm
vú. Khảo sát các cơ quan khác không phát hiện bất
thường. Ung thư biểu mô tế bào gai nguyên phát của
vú được cho rằng có thể xuất nguồn từ tổn thương
viêm mạn tính ở vú, áp xe vú hoặc mơ vú chuyển
sản. Do đó, thực hiện xét nghiệm mơ bệnh học ở các
bất thường lành tính ở vú là cần thiết.
Từ khóa: Ung thư biểu mơ tế bào gai ở vú, khối u
vú dạng nang

SUMMARY
PRIMARY SQUAMOUS CELL CARCINOMA
OF THE BREAST: A RARE CASE REPORT


AND LITERATURE REVIEW

Squamous cell carcinoma is known as a malignant
tumor of the skin and other organs surrounded by
squamous cells, but it is a rare entity in the breast. We
report a fifty-five-year-old female patient, who
presented with a rapidly growing, painful breast mass.
The clinical and ultrasound showed that there was an
infection well-circumscribed cyst lesion. The lesion was
excised, and the pathological diagnosis was primary
squamous cell carcinoma of the breast, with no
involvement with the breast and nipple skin. No
abnormality in other organs was found. Primary
squamous cell carcinoma of the breast may be derived
from chronic inflammation of the breast, breast
abscess, or normal breast tissue through metaplasia.
Therefore, it is necessary to do a pathological
examination of all benign abnormalities in the breast.
Keywords: squamous cell carcinoma, breast cyst

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Ung thư biểu mô tế bào gai nguyên phát ở vú
là khối u ác tính hiếm gặp, chỉ chiếm khoảng
0,1% ung thư ở vú(1). Nguồn gốc và cơ chế sinh

bệnh học của khối u này chưa được hiểu rõ. Để
chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gai nguyên
phát ở vú cần phải loại trừ di căn từ các vị trí
khác đến vú và tế bào gai ác tính phải chiếm hơn

90% khối u(2). Ung thư biểu mô tế bào gai
nguyên phát tại vú không biểu hiện thụ thể nội
tiết tương tự như ung thư tuyến vú tam âm và
không đáp ứng với điều trị nội tiết thông
thường(3). Như hiểu biết của chúng tôi, chỉ có
một trường hợp ung thư tế bào gai thuần túy
nguyên phát ở vú tại Việt Nam(4). Bởi vì xuất độ
hiếm gặp, khối u thường chỉ được báo cáo ca lẻ
tẻ, nên phác đồ điều trị không thống nhất và
hiệu quả vẫn chưa rõ ràng. Tiên lượng của bệnh
nhân có ung thư biểu mô tế bào gai nguyên phát
tại vú được báo cáo thường xấu hơn so với ung
thư biểu mô tuyến vú thông thường và phụ
thuộc vào độ mô học của khối u(5).
Y đức: Bài báo đã được sự đồng ý của bệnh
nhân.

II. BÁO CÁO CA

Bệnh nhân nữ, 55 tuổi đến khám tại Bệnh
viện Nguyễn Tri Phương vì một khối u nang kèm
đau ở vú phải. Bệnh nhân không có tiền căn
bệnh lý hoặc chấn thương vú trước đây, khơng
có tiền căn ung thư các cơ quan khác. Thăm
khám lâm sàng cho thấy tổn thương vị trí ¼
dưới ngồi, dạng nang, di động, sờ chạm đau,
da trên vú và núm vú khơng có tổn thương, các
cơ quan khác chưa phát hiện bất thường. Bệnh
nhân được làm siêu âm vú, vùng ¼ dưới ngồi
vú phải có tổn thương dạng nang, kích thước

24x30mm, bờ đều, giới hạn rõ với xung quanh,
bên trong có hồi âm, các ống tuyến vú khơng
dãn (Hình 1), nghĩ nhiều nang vú nhiễm trùng,
vú trái bình thường.

1Trường

Đại học Y Dược TP.HCM
viện Nguyễn Tri Phương
3Bệnh viện Chợ Rẫy
2Bệnh

Chịu trách nhiệm chính: Phạm Thị Như Diễm
Email:
Ngày nhận bài: 2.6.2022
Ngày phản biện khoa học: 24.7.2022
Ngày duyệt bài: 2.8.2022

208

Hình 1: Hình ảnh siêu âm vú: tổn thương dạng
nang (mũi tên), kích thước 24x30mm, bờ đều,


TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 517 - THÁNG 8 - SỐ 1 - 2022

giới hạn rõ với xung quanh, bên trong có hồi âm,
các ống tuyến vú khơng dãn.

Bệnh nhân được sử dụng kháng sinh và phẫu

thuật cắt bỏ tổn thương. Đại thể cho thấy tổn
thương dạng nang có kích thước 60x60mm, vách
dày, bên trong chứa dịch lợn cợn giống hoại tử,
khối u được lấy mẫu toàn bộ. Về vi thể, khối u có

dạng nang (Hình 2.A), lót vách nang tồn bộ là
hình ảnh ung thư biểu mơ tế bào gai, biệt hóa vừa
(Hình 2.B) với các đám tế bào nhân lớn, đa diện,
dị dạng, màng nhân không đều, hạt nhân rõ, bào
tương nhiều, nhiều phân bào, hiện diện các cầu
sừng (Hình 2.D). Các đám tế bào u này xâm
nhiễm mơ vú bình thường xung quanh (Hình 2.C).

Hình 2: (A) Mẫu mô dạng nang (HE x1). (B) Mô u lót vách nang (HE x40). (C) Mơ u xâm nhập mơ
tuyến vú bình thường xung quanh (HE x100). (D) đám tế bào nhân lớn, đa diện, dị dạng, màng nhân
không đều, hạt nhân rõ, bào tương nhiều, hiện diện cầu sừng (mũi tên) (HE x400).

Hóa mơ miễn dịch cho thấy tế bào u âm tính với estrogen (ER), progesteron (PR) và Human
epidermal growth factor receptor 2 (HER2), chỉ số Ki67 khoảng 50% (Hình 3).

Hình 3: Hóa mơ miễn dịch: Tế bào u âm tính với (A) ER, (B) PR, (C) HER2. (D) Chỉ số Ki67 50% (D)
209


vietnam medical journal n01 - AUGUST - 2022

Sau đó bệnh nhân được chụp CT-scan, khơng
thấy bất kì tổn thường ở cơ quan khác. Bệnh
nhân được phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ vú phải
kèm nạo hạch nách phải. Chẩn đoán giải phẫu

bệnh cuối cùng là ung thư biểu mô tế bào gai,
biệt hóa vừa ngun phát của vú. Khơng liên
quan đến da, núm vú và cơ vân, không di căn
hạch nách phải.

IV. BÀN LUẬN

Ung thư biểu mô tế bào gai nguyên phát tại
vú là khối u có độ ác cao và hầu hết xảy ra ở
phụ nữ sau mãn kinh. Các trường hợp được báo
cáo có độ tuổi trung bình là 50.5 tuổi, xuất hiện
muộn hơn so với ung thư biểu mô tuyến vú
thông thường(6). Một số tác giả cho rằng có hai
giả thuyết về nguồn gốc của ung thư biểu mơ tế
bào gai ngun phát tại vú(5):
- Khối u có thể xuất nguồn từ tình trạng viêm
mạn tính của vú và áp xe vú
- Khối u này cùng tồn tại với các loại bệnh lý
vú khác, và có nguồn gốc từ mơ vú bình thường
chuyển sản gai.
Chen Z. và cộng sự(5) báo cáo rằng hầu hết
các bệnh nhân bị ung thư biểu mơ tế bào gai
ngun phát tại vú có tổn thương được nhận
diện dưới siêu âm là khối dạng nang với thành
dày mỏng không đều và thường được chẩn đoán
nhầm là nang vú hoặc áp xe vú. Bệnh nhân của
chúng tôi đến khám với khối ở vú ấn đau nhiều,
siêu âm cũng cho thấy tổn thương dạng nang.
Chẩn đoán lâm sàng ban đầu là nang vú nhiễm
trùng. Bệnh nhân không được làm chọc hút tế

bào bằng kim nhỏ. Khối u được chẩn đốn xác
định là carcinơm tế bào gai nguyên phát ở vú
nhờ giải phẫu bệnh sau cắt bỏ tổn thương. Sau
đó, bệnh nhân được thực hiện phẫu thuật cắt bỏ
vú kèm nạo hạch nách phải. Qua đó cho thấy,
việc thực hiện các thủ thuật ít xâm lấm nên được
chỉ định đối với các tổn thương ở vú để loại trừ
ác tính, đặc biệt là ở những bệnh nhân lớn tuổi,
nhằm giảm thiểu số lần phẫu thuật có thể tránh
được cho bệnh nhân.
Để chẩn đốn ung thư biểu mơ tế bào gai
nguyên phát tại vú, khối u cần phải thỏa các điều
kiện sau(7-11):
- Bệnh phẩm sau mổ phải được khảo sát đầy
đủ, và ung thư tế bào gai phải chiếm hơn 90%
khối u, bao gồm cả cả phần chuyển dạng tế bào
hình thoi.
- Khối u khơng xuất phát từ da vú hoặc núm vú.
- Bệnh nhân cần được kiểm tra chụp cắt lớp
vi tính tổng quát (CT) hoặc chụp cắt lớp phát xạ
(PET)/CT trước khi phẫu thuật để loại trừ các
210

khối u từ phổi, đầu và cổ hoặc cổ tử cung di căn
đến vú.
Bệnh nhân của chúng tôi thỏa các tiêu chuẩn
này và được chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào
gai nguyên phát tại vú. Ung thư tế bào gai di căn
đến vú từ các cơ quan khác như phổi, da thường
gặp hơn nguyên phát tại vú, do đó, cần phải loại

trừ ung thư di căn trước khi chẩn đốn ngun
phát tại vú.
Hóa mơ miễn dịch của ung thư biểu mô tế
bào gai nguyên phát ở vú cho thấy khối u âm
tính với ER, PR, HER2 như trong ung thư tuyến
vú tam âm(3,5,12), tương tự với bệnh nhân của
chúng tơi. Các tác giả này cho rằng bởi vì khối u
thường xảy ra ở độ tuổi sau mãn kinh nên lượng
nội tiết sụt giảm dẫn dến mô u không biểu hiện
các thụ thể nội tiết (5). Do đó, khối u này thường
không đáp ứng với điều trị nội tiết thông thường.
Chiến lược điều trị đối với ung thư biểu mô tế
bào gai nguyên phát tại vú đến nay vẫn chưa rõ
ràng và cịn đang trong q trình nghiên cứu.
Nghiên cứu của Aparicio và cộng sự (13) cho thấy
khối u khơng đáp ứng với hóa trị liệu thơng
thường như trong ung thư biểu mô ống tuyến
vú. Tuy nhiên, phẫu thuật vẫn là phương pháp
điều trị quan trọng và đầu tay đối với mọi loại
ung thư vú.
Bởi vì rất ít trường hợp được báo cáo, tiên
lượng đối với bệnh nhân mắc ung thư biểu mô tế
bào gai nguyên phát tại vú có số liệu rất hạn
chế. Hầu hết các báo cáo cho rằng khối u này có
độ ác cao, tiên lượng xấu hơn nếu khối u có độ
biệt hóa kém. Bệnh nhân của chúng tôi đã được
phẫu thuật, khối u cho thấy mơ học có độ biệt
hóa tốt và đang được theo dõi thêm.

V. KẾT LUẬN


Ung thư biểu mô tế bào gai nguyên phát của
vú là khối u ác tính hiếm gặp và có tiên lượng
xấu hơn ung thư biểu mơ tuyến vú thông
thường. Lâm sàng thường không đặc hiệu và dễ
nhầm với các tổn thương lành tính của vú. Chẩn
đốn cần được xác định bằng giải phẫu bệnh và
cần thiết phải loại trừ trường hợp di căn từ nơi
khác đến vú. Phẫu thuật là phương pháp điều trị
chính trong ung thư vú. Tuy nhiên, đối với với
bệnh nhân có ung thư biểu mô tế bào gai
nguyên phát tại vú, cần thêm nhiều dữ liệu và
nghiên cứu để xây dựng phác đồ điều trị cũng
như xác định vai trị của hóa xạ trị và điều trị nội
tiết trong bệnh này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Gupta C, Malani AK, Weigand RT, Rangineni
G (2006). Pure primary squamous cell carcinoma


TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 517 - THÁNG 8 - SỐ 1 - 2022

2.
3.

4.

5.


6.

7.

of the breast: a rare presentation and
clinicopathologic comparison with usual ductal
carcinoma
of
the
breast.
Pathol
Res
Pract.202(6):465-469.
Hennessy BT, Krishnamurthy S, Giordano S,
et al. (2005). Squamous cell carcinoma of the
breast. J Clin Oncol.23(31):7827-7835.
Behranwala KA, Nasiri N, Abdullah N, Trott
PA, Gui GP (2003). Squamous cell carcinoma of
the breast: clinico-pathologic implications and
outcome. Eur J Surg Oncol.29(4):386-389.
Hứa Thị Ngọc Hà, Nguyễn Văn Thái, Bùi Chí
Viết, Nguyễn Hữu Hòa, Dương Thị Thúy Vy,
Nguyễn Sào Trung, Phan Thanh Hải. Báo cáo
một trường hợp carcinôm tế bào gai ở vú, Tạp chí
Y Dược Học - Trường Đại học Y Dược Huế (2016),
Số đặc biệt, tr: 183-189
Chen Z, An N, Zhang L, Cui H, Jiang Y, Zhang
Y (2022). Clinicopathological and therapeutic
analysis of primary breast squamous cell

carcinoma. Gland Surg.11(1):125-135.
Siegelmann-Danieli N, Murphy TJ, Meschter
SC, Stein ME, Prichard J (2005). Primary pure
squamous cell carcinoma of the breast. Clin Breast
Cancer.6(3):270-272.
Dejager D, Redlich PN, Dayer AM, Davis HL,
Komorowski RA (1995). Primary squamous cell
carcinoma of the breast: sensitivity to cisplatinum-

based chemotherapy. J Surg Oncol.59(3):199-203.
8. Ribeiro-Silva A, Luzzatto F, Chang D,
Zucoloto S (2001). Limitations of fine-needle
aspiration cytology to diagnose metaplastic
carcinoma
of
the
breast.
Pathol
Oncol
Res.7(4):298-300.
9. Prasad N, Prasad P (1988). A case of pure
primary squamous cell carcinoma of the breast
diagnosed by fine needle aspiration biopsy. Indian
J Pathol Microbiol.31(2):71-72.
10.
Gupta S, Usha (1982). Primary squamous
cell carcinoma of the breast arising within an
abscess. J Indian Med Assoc.79(1-2):12-13.
11.
Cappellani A, Di Vita M, Zanghi A, et al.

(2004). A pure primary squamous cell breast
carcinoma presenting as a breast abscess: case
report and review of literature. Ann Ital
Chir.75(2):259-262; discussion 262-253.
12.
Bouchalova K, Cizkova M, Cwiertka K,
Trojanec R, Hajduch M (2009). Triple negative
breast cancer--current status and prospective
targeted treatment based on HER1 (EGFR), TOP2A
and C-MYC gene assessment. Biomed Pap Med Fac
Univ Palacky Olomouc Czech Repub.153(1):13-17.
13.
Aparicio I, Martinez A, Hernandez G,
Hardisson D, De Santiago J (2008). Squamous
cell carcinoma of the breast. Eur J Obstet Gynecol
Reprod Biol.137(2):222-226.

CHI PHÍ TỰ CHI TRẢ CỦA NGƯỜI BỆNH HIV/AIDS
ĐIỀU TRỊ ARV THANH TOÁN BẢO HIỂM Y TẾ
TẠI 6 CƠ SỞ Y TẾ TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2020
Vũ Hồng Anh1, Nguyễn Văn Hà2
TĨM TẮT

51

Với người bệnh HIV/AIDS, điều trị bằng thuốc
kháng retrovirus (ARV) cần liên tục và suốt đời. Mặc
dù các chi phí điều trị hỗ trợ thơng qua BHYT và
nguồn tài trợ, nhưng người bệnh HIV ở Việt Nam vẫn
phải chịu gánh nặng về chi phí tự chi trả cho các dịch

vụ khám chữa bệnh nhiễm trùng cơ hội. Nghiên cứu
mô tả cắt ngang được tiến hành tại 6 cơ sở y tế Thành
phố Hồ Chí Minh năm 2020” với mục tiêu xác định chi
phí tự chi trả của người bệnh điều trị ARV. Kết quả cho
thấy, số tiền tự chi trả trung bình cho cho các lần
khám ngoại trú liên quan đến HIV/AIDS của mỗi người
bệnh là 185.000 đồng/năm. Số tiền trung bình được
chi trả cho chăm sóc và điều trị người bệnh nội trú liên
quan đến HIV mỗi năm là 37.000 đồng. Người bệnh
sử dụng BHYT điều trị ARV/HIV khơng phải chịu chi
phí “thảm họa”.
1Trường
2Phịng

Đại học Đại Nam
Y tế huyện Cần Giờ

Chịu trách nhiệm chính: Vũ Hoàng Anh
Email:
Ngày nhận bài: 30.5.2022
Ngày phản biện khoa học: 23.7.2022
Ngày duyệt bài: 29.7.2022

Từ khố: Chi phí tự chi trả, HIV/AIDS, ARV và bảo

hiểm y tế.

SUMMARY

OUT-OF-POCKET EXPENSES FOR HIV/AIDS

PATIENTS ARV TREATMENT PAYING
HEALTH INSURANCE AT 6 HEALTH
FACILITIES IN HCMC IN 2020

Treatment with antiretroviral (ARV) drugs should
be continued and lifelong for people living with
HIV/AIDS. Despite the availability of supportive
treatment through health insurance and funding, HIV
patients in Vietnam must bear the burden of out-ofpocket costs for opportunistic infections. In 2020, a
cross-sectional study was conducted at six health
facilities in Ho Chi Minh City with the goal of
determining the out-of-pocket costs of ART patients.
According to the findings, the average out-of-pocket
expense
for
each
patient's
HIV/AIDS-related
outpatient visits is VND 185,000 per year. The average
annual payment for HIV-related inpatient care and
treatment is VND 37,000. Patients who use health
insurance for ARV/HIV treatment do not have to bear
"catastrophic" costs.
Keywords: Out-of-pocket expenses, HIV/AIDS,
ARV and health insurance.

211




×