LUẬN VĂN:
Kinh tế hàng hoá và sự cần thiết
phải khôi phục và phát triển kinh
tế hàng hoá ở Việt Nam
Phần mở đầu
Lý do chọn đề tài :
Có thể nói trong suốt một thời gian dài các nước xã hội chủ nghĩa ( trong đó có
cả nước ta đã không nhận thức đúng đắn vai trò của sản xuất hàng hoá, của kinh tế thị
trường, đã đồng nhất hình thức sở hữu với hình thức tổ chức kinh tế, coi nhẹ , thậm
chí phủ nhận quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, coi nhẹ quy luật cung cầu, chỉ nhìn
thấy mặt tiêu cực của kinh tế thị trường , phủ nhận quan hệ hàng hoá, tiền tệ. Do đó
đôí lập kinh tế hàng hóa và thị trường với kinh tế kế hoạch hoá, cho thị trường là
phạm trù chung của chủ nghĩa tư bản cho nên chúng ta chỉ thừa nhận sự tồn tại cảu
sản xuất hàng hóa trong khuôn khổ của “ thi đua xã hội chủ nghĩa “ , tách rời một
cách siêu hình sản xuất hàng hoá với thị trường. Bởi vậy chúng ta đã không tạo được
động lực phát triển sản xuất, vô tình hạn chế việc ứng dụng những tiến bộ của khoa
học kỹ thuật vào trong sản xuất, năng xuất nao động tăng chậm , gây rối loạn và ách
tách trong việc phân phối, lưu thông làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng kém năng
động trì trệ. Mặt khác thì sản xuất của chúng ta lúc này là sản xuất nhỏ, trạng kinh tế
tự nhiên, hiện vật tự cung tự cấp. Xã hội Việt Nam, về cơ bản dựa trên nền tảng của
nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Việt Nam vẫn là nước nghèo làn
nàn, lạc hậu, kém phát triển , cơ chế quản lý thì tập trung quan liêu bao cấp không
phát huy được sức mạnh của nền kinh tế. Khi nhìn lại những sai lầm trong thời kỳ
thời kỳ thực hiện “cơ chế tập trung quan liêu bao cấp “ Đảng và nhà nước ta đã thừa
nhận tại đại hội VI(12-1986) là “ đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế
chưa thật sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan
do đó chưa chú ý vận dụng chúng vào việc chế định các chủ chương chính sách kinh
tế “ và để khắc phục sai lâm đó thì Đảng ta đã đề ra chủ trương
(1)
“Quá trình từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn là qúa trình chuyển hóa nền kinh tế còn nhiều tính chất tự
cung, tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hoá”. Quả thực qua hơn10 năm đổi mới
phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì nhiều người trong
tầng lớp nhân dân còn chưa hiêu hết về nó. Mặt khác, nó đã bộc lộ được rất nhiều
ưu điểm nhưng không phải không có những nhược điểm mà chúng ta cần bàn đến.
Đó chính là lý do em chọn đề tài này.
B. Phần Nội Dung
I. Những vấn đề cơ chung của kinh tế hàng hoá và sự cần thiết phải khôi phục và
phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam.
1. Những vấn đề chung :
1.1. Quá trình chuyển từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá:
_Kinh tế tự nhiên (hay sản xuất tự cung tự cấp) là kiểu tổ chức kinh t ế đầu tiên mà
loài người sử dụng để giải quyết vấn đề sãn xuất cái gì ; sản xuất như thế nào và cho
ai. ở đây sản xuất ra để thoả mãn nhu câu tiêu dùng nội bộ của đơn vị kinh tế ,đây là
kiểu sản xuất tự cung tự cấp , từng gia đình hay công xã. Đây là kiểu tổ chức sản xuất
tự nhiên, kép kín trong phạm vi từng đơn vị nhỏ, không cho phép mở rộng quan hệ
với các đơn vị khác.
*Đặc điểm của kinh tế tự nhiên là :
_Sản xuất tự cung tự cấp có tích chất bảo thủ, trì trệ , bị giới hạn bởi nhu cầu hạn
hẹp.
_ Sản xuất tự cung tự cấp thích ứng với thời kỳ lực lượng sản xuất chưa phát triển,
khi mà lào động thủ công chíêm địa vị thống trị . Nó có trong thời kỳ công xã nguyên
thuỷ , và tồn tại phổ biến trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Trong thời kỳ phong kiến ,
sản xuất tự cung, tự cấp tồn tại dưới hình thái điền trang , thái ấp của địa chủ và kinh
tế nông dân gia trưởng.
Khi lực lượng sản xuất phát triển cao, phân công lao động được mở rộng thì dần
dần xuất hiên trao đổi hàng hoá. Khi trao đổi hàng hoá trở thành mục đích thường
xuyên của sản xuất thì sản xuất hàng hoá ra đời. Đó chính là lý do nền kinh tế tự
cung tự cấp đã chuyển sang nền kinh tế hàng hoá
1.2. Điều kiện ra đời của kinh tế hàng hoá:
Cơ sở kinh tế _ xã hội là sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá là sự phân
công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa người sản xuất này với người sản
xuất khác do quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất qui định.
_ Sự phân công lao động xã hội: là việc phân chia người sản xuất vào những ngành
nghề khác nhau của xã hội. Hoặc nói cách khác đó là chuyên môn hoá sản xuất.
Do phân công lao động xã hội nên mỗi người chỉ sản xuất một hay nhiều sản
phẩm nhất định. Song, nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của mỗi người đều cần có
nhiều loại sản phẩm. Vì vậy, đòi hỏi họ phải có mối liên hệ trao đổi sản phẩm cho
nhau, phụ thuộc vào nhau
Chính vì vậy mà phân công lao động là điều kiện cần của sản xuất hàng hoá.
_ Điều kiên thư hai của sản xuất hàng hoá là sự tách biệt về kinh tế giữa người sản
xuất do các quan hệ sở hữu khác nhauvề tư liệu sản xuất qui định
Dựa vào điều kiện này mà mà người chủ tư liệu sản xuất có quyền quyết định
việc sử dụng tư liệu sản xuất và những sản phẩm do họ sản xuất ra. Như vậy, quan hệ
sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã chia rẽ người sản xuất, làm cho họ tách biệt
với nhau về mặt kinh tế. Trong điều kiện đó, người sản xuất khác nhau thì phải trao
đổi sản phẩm lao động cho nhau. Sản phẩm lao động trở thành hàng hoá. Mà khi sản
phẩm lao động trở thành thì người sản xuất trở thành người sản xuất hàng hoá, lao
động của người sản xuất hàng hoá vừa có tích chất xã hội, vừa có tính chất tự nhiên,
cá biệt. Tính chất xã hội của lao động xã hội nên sản phẩm do lao động của người
này trở nên cần thiết cho người khác, cần cho xã hội. Còn tính chất tư nhân, cá biệt
thể hiện ở chỗ việc sản xuất cái gì, bằng công cụ nào, phân phôí cho ai là công việc
cá nhân của các chủ sở hữu về tư liệu sản xuất, do họ định đoạt. Tính chất xã hội
của lao động của sản xuất hàng hoá chỉ được thừa nhận khi họ tìm được người mua
trên thị trường và bán được hàng hoá do họ sản xuất ra. Vì vậy, lao động của người
sản xuất hàng hoá bao hàm sự thống nhất giữa hai mặt đối lập là tính chất xã hội và
tính chất tư nhân, cá biệt của lao động. Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội và tính chất
tư nhân, cá biệt của lao động sản xuất hàng hoá là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất
hàng hoá. Đối với hàng hoá, mẫu thuẫn đó được giải quyết trên thị trường. Đồng
thời nó được tái tạo ra một cách thường xuyên với tư cách là mâu thuẫn cảu nền
kinh tế hàng hoá nói chung. Chính mâu này là cơ sở của khủng hoảng kinh tế sản
xuất thừa.
Sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển là một quá trình lịch sử lâu dài. Đầu tiên
là sản xuất hàng hoá gỉan đơn. Sản xuất hàng hoá giản đơn là sản xuất hàng hoá của
nông dân, thợ thủ công dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sức lao động của
bản thân họ. Khi lực lượng sản xuất phát triển cao hơn, sản xuất hàng hoá giản đơn
chuyển thành sản xuất hàng háo qui mô lớn. Quá trình chuyển biến này diễn ra trong
thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản.
Ngày nay, sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế-xã hội phổ biến để phát
triển kinh tế của các quốc gia.
1.3) Ưu thế của kinh tế hàng hoá
Một là:Thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất nhanh chóng, làm cho sự phân
công lao động, chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu sắc, hình thành các mối liên
hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất, tạo tiền
đề cho sự hợp tác lao động ngàycàng chặt chẽ.
Hai là:Thúc đẩy sự phát trỉên của lực lượng sản xuất. Trong nền kinh tế hàng
hoá sự tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu buộc
người sản xuất phải năng động, luôn cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng suất
lao động, cải tiến chất lượng và hình thức mẫu mã hàng hoá cho phù hợp vơí nhu cầu
xã hội, tìm mọi cách đưa ra thị trường những loại hàng hoá mới thích hợp với thị hiếu
người tiêu dùng Kết quả là thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, gắn sản xuất với
thị trường.
Ba là:Thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung sản xuất. Mở rộng giao lưu kinh tế
trong nước và hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Bốn là:Giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự trói buộc của nền sản
xuất khép kín đã từng kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, tạo những điều
kiện cần thiết cho việc tổ chức và quảnlý một nền kinh tế phát triển ở trình độ cao
thực hiện dưới hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ.
Tuy nhiên, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật của nó.
Không được lý tưởng hoá hoặc tuyệt đối hoá những thành tựu hoặc khuyết tật. Bên
cạnh những ưu thế, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường còn có những khuyết tật như
tình trạng khủng hoảng , thất nghiệp, phân hoá bất bình đẳng, huỷ hoại môi trường
Vì vậy, để phát huy ưu thế, khắc phục những khuyết tật cần phải tăng cường sự quản
lý của Nhà nước.
1.4. Các giai đoạn phát triển của kinh tế hàng hoá.
Như chúng ta dã biết Kinh tế hàng hoá - một hình thái kinh tế thay thế hình thái
kinh tế tự nhiên. Nó là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà trong đó những người
tham gia vào sản xuất, tạo ra sản phẩm không phải để tiêu dùng mà để bán. Hình thái
kinh tế hàng hoá phát triển từ thấp đến cao diễn ra trong lịch sử qua các loại hình:
Kinh tế hàng hoá giản đơn , kinh tế thị trương tự do cổ điển và kinh tế hiện đại , hỗn
hợp , gắn liền với 3 bước chuyển biến :
_ Kinh tế hàng hoá giản đơn đây là bước chuyển từ kinh tế tự nhiên với đặc tính phổ
biến là hiện vật , tự cấp tự túc lên kinh tế hàng hoá giản đơn. Bước chuyển này gắn
với hai điều kiện cơ bản là :
+ Có sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt và tương đối về kinh tế giữa
những người sản xuất hàng hoá. Khởi thuỷ của điều kiện này là sự xuất hiện chế độ
tư hữu tư hoặc tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau. Đặc trưng của giai đoạn
kinh tế hàng hoá giản đơn này là : Dựa trên cơ sở kỹ thuật thủ công tương ứng với
văn minh nông nghiệp ; tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất ; cơ cấu kinh tế là nông nghiệp
- thủ công nghiệp ; hàng hoá chưa mang tính phổ biến ; cơ chế kinh tế vận động theo
quan hệ giữa giá cả và giá trị theo cạnh tranh và cung cầu nhưng ở trình độ thấp.
_ Kinh tế thị trường tự do (cổ điển ) là bước chuyển từ kinh tế hàng hóa giản đơn.
Kinh tế thị trường nói chung là hình thái đối lập của kinh tế hàng hoá, trái lại chúng
giống nhau về thực chất. Kinh tế thị trường một hình thức phát triển cao độ của kinh
tế hàng hoá, một hình thức mà ở đó hầu hết các quan hệ kinh tế trên diễn ra trên thị
trường, chịu sự chi phối của các qui luật kinh tế vốn có của nó , hay chịu sự chi phối
của cơ chế thị trường tự điều chỉnh. Khái niệm kinh tế thị trường nói trên gắn với
bước chuyển lên mô hình kinh tế thị trường tự do
Bước chuyển này gắn với các điều kiện như : giao thông vận tải và nói rộng hơn
kết cấu hạ tầng sản xuất phải đạt đến trình độ nhất định ; nền đại công nghiệp cơ khí
đã hình thành ; tín dụng đã phát triển nhất định ; các thị trường đất đai và thị trường
sức lao động đã hình thành.
Đặc trưng của bước chuyển giai đoạn kinh tế thị trường tự do là : Dựa trên kỹ thuật
cơ điện gắn với nền văn minh công nghiệp ; dựa trên tư hữu nhỏ và tư hữu lớn ; ứng
với cơ cấu kinh tế nông – công nghiệp và tiến tới công – nông nghiệp – dịch vụ ; vận
động theo cơ chế thị trường tự điều chỉnh.
_ Kinh tế thị trường hỗn hợp đây là bước chuyển từ kinh tế thị trường tự do lên đây
là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá , một hình thức mà ở đó hầu hết các
quan hệ kinh tế , các câu hỏi sản xuất cái gì , bằng công nghệ gì và cho ai đều được
xử lý của nhà nước. Người ta gọi kinh tế thị trường hiện đại là kinh tế thị trường hỗn
hợp , bởi lẽ nguyên tắc chi phối thị trường ở giai đoạn này không chỉ do bàn tay vô
hình – cơ chế thị trường tự điều chỉnh , mà còn do bàn tay hữu hình – sự qủan lý vĩ
mô của nhà nước.
Cho đến nay , hầu hết các quốc gia trên thế giới đều vận động theo mô hình kinh tế
thị trường hỗn hợp , mặc dầu vậy với mức độ , phạm vi ảnh hưởng có khác nhau.
Mặt khác cần ý thức sâu sắc rằng : kinh tế thị trường , một hình thức phát triển cao
của kinh tế hàng hoá và mang tính phổ biến trong xã hội tư bản , song không vì thế
mà đồng nhất kinh tế hàng hoá với kinh tế tư bản chủ nghĩa .
Bước chuyển từ kinh tế thị trường tự do lên kinh tế thị trường hiện đại gắn với các
điều kiện : sự xuất hiện sở hữu Nhà nước , thị trường chứng khoán , quốc tế hoá sản
xuất , đời sống. Đặc biệt sự xuất hiện vai trò mới – vai trò qủan lý vĩ mô - của Nhà
nước đối vơi kinh tế thị trường.
Đặc trưng của hình thức kinh tế thị trường hỗn hợp bao gồm : Dựa trên kỹ thuật
điển tử tin học gắn liền với nền văn minh hậu công nghiệp hay văn minh chí tuệ ; tồn
tại các hình thức sở hữu Nhà nứơc, sở hữu cổ phần ,sở hữu quốc tế , dựa trên cơ cấu
kinh tế công nghiệp – dịch vụ – nông nghiệp ; vận động theo cơ chế kinh tế hỗn hợp
của 2 bàn tay vô hình và hữu hình.
1.5. Những qui luật kinh tế cơ bản của kinh tế hàng hoá :
Qui luật giá trị là quy luật cơ bản kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì chừng đó còn quy luật giá trị.
1.5.1. Yêu cầu của quy luật giá trị:
Yêu cầu của quy luật giá trị là sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ
sở lượng giá trị hàng hoá hay thời gian lao đông xã hội cần thiết.
Trong kinh tế hàng hoá , vấn đề cơ quan trọng là hàng hoá sản xuất ra có bán
được hay không. Để hàng hóa có thể bán được thì hao phí lao động cá biệt để sản
xuất ra hàng hoá phải được thì hoa phí lao động xã hội cần thiết , tức là phải phù hợp
với mức hao phí lao động mà xã hôị có thể chấp nhận đựơc. Trong trao đổi hàng hoá
cũng phải dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết. Hai hàng hoá có gía trị sử dụng
khác nhau có thể trao đổi với nhau được khi lượng giá trị của chúng ngang nhau.
Theo nghĩa đó thì trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá.
Quy luật giá trị là trừu tượng. Nó thể hiện sự vận động thông qua sự biến động
của giá cả hàng hoá. Giá cả là sự biến biểu hiện bằng tiền của giá trị. Giá cả phụ
thuộc vào giá trị, vì giá trị là cơ sở của giá cả. Hàng hoá nào mà hao phí lao động để
sản xuất ra nó nhiều thì giá cả của nó lớn, và do vậy giá cả thị trường sẽ cao , và
ngược lại. Ngoài ra , giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như quan hệ cung
cầu, tình trạng độc quyền trên thị trường. Tác động của các nhân tố trên làm cho giá
cả hàng hoá trên thị trường lên xuống xoay quanh giá trị của nó. Đối với mỗi hàng
hoá riêng biệt giá của nó có thể cao hơn hay thấp hơn hay phù hợp với giá trị của nó.
Nhưng cuối cùng, tổng giá cả phù hợp với tổng giá trị của chúng.
1.5.2. Tác dụng của quy luật giá trị:
Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá
Trong sản xuất quy luật giá trị điều tiết việc phân phối tư liệu sản xuất và sức lao
động giữa các ngành sản xuất thông qua sự biến động hàng hoá. Do ảnh hưởng của
quy luật cung cầu , giá cả hàng hoá lên xuống xoay quanh gía trị của nó. Nếu có
ngành nào đó, cung không đáp ứng được cầu giá cả hàng hoá lên cao thì người sản
xuất sẽ đổ sô vào nghành đó. Và ngược lại , khi ngành đó thu hút quá nhiều lao động
xã hội , cung vượt quá cầu , gía cả hàng hoá hạ thấp xuống thì người sản xuất sẽ
chuyển bớt tư liệu sản xuất và sức lao động ra khỏi nghành này để đầu tư vào nơi có
giá cả hàng hoá cao. Nhờ vậy mà tư liệu sản xuất và sức lao động đựơc phân phối
qua lại một cách tự phát vào các nghành sản xuất khác nhau. Sự biến động của giá cả
xung quanh giá trị không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế, mà còn có tác dụng
điều tiết nền kinh tế.
Kích thích lực lượng sản xuất phát triển
Trong nền kinh tế hàng hoá , người nào có hao phí lao động cá biệt ít hơn hoặc
bằng hao hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hoá thì người
đó có lợi, còn người nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hoa phí lao động toàn bộ
lao động đã hao phí. Muốn đứng vững và thắng lợi trong cạnh tranh, mỗi người sản
xuất đều luôn luôn tìm cách rút xuống đến mức tối thiểu hoa phí lao động cá biệt.
Muốn vậy họ phải luôn luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, tăng năng xuất lao động. Vì
thế , trong nền kinh tế hàng hóa, lực lượng sản xuất được kích thích và phát triển
nhanh hơn nhiều so với trong nền kinh tế tự cung, tự cấp, tự túc.
Thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu,
người nghèo
Trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá trị, lao động cá biệt của mỗi người sản xuất có
thể không nhất trí với lao động xã hội cần thiết. Những người làm tốt, làm giỏi có
hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài,
làm giàu , mua sắm thêm tư liệu sản xuất , mở rộng thêm qui mô sản xuất , mở rộng
doanh nghiệp của mình. Bên cạnh đó, những người làm ăn kém hiệu quả , không gặp
may mắn ,hao phí lao động cá biệt cao hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nên họ
bị lỗ vốn, thậm chí đi đến phá sản.
Như vậy quy luật giá trị có ý nghĩa bình tuyển, đánh giá người sản xuất. Nó mang lại
phần thưởng cho những người làm tốt, làm giỏi và hình thức phạt cho những người
làm ăn kém cỏi. Về phương diện này thì quy luật giá trị đảm bảo sự bình đẳng đối
với người sản xuất.
1.5.3. Mặt trái của quy luật giá trị :
Ngay trong quá trình thực hiện bình tuyển tự nhiên đối với người sản xuất, quy luật
giá trị đã phân hoá thành kẻ giàu người nghèo. Người giàu thì trở thành ông chủ,
người nghèo dần trở thành người làm thuê. lịch sử phát triển của sản xuất hàng hoá
giản đơn trong xã hội phong kiến dần dần sinh ra quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Quan hệ giữa người giàu , người nghèo , quan hệ giữa chủ – thợ , quan hệ giữa tư sản
và vô sản đối kháng về lợi ích kinh tế. Sự đối kháng đó tất yếu dẫn đến cuộc đấu
tranh giữa người nghèo chống lại kẻ giàu , người thợ chống lại chủ ,vô sản chống lại
tư sản. Đó là một trong những khuyết tật của kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường.
. Qui luật cạnh tranh- Qui luật cung cầu- Qui luật lưu thông tiền tệ
Ta biết giá trị là cơ sở quyết định giá cả còn giá cả là hình thức biểu hiện của giá trị
hàng hoá trong trao đổi nhưng trong trao đổi lại có nhiêù yếu tố ảnh hưởng đến giá cả
hàng hoá. Đó là các qui luật cạnh tranh, qui luật cung cầu, qui luật lưu thông tiền tệ.
Cạnh tranh là qui luật tất yếu giữa những người sản xuất với nhau, giữa những
người sản xuất và người tiêu dùng nhằm giành được những điều kiện thuận lợi cho
bản thân mình. Cạnh tranh có vai trò tích cực trong nền sản xuất hàng hoá, nó buộc
người sản xuất phải năng động, nhạy bén, thường xuyên cải tiến kĩ thuật, ứng dụng
công nghệ mới, phương pháp tổ chức quản lí có hiệu quả, thực hành tiết kiệm, nâng
cao tay nghề cho người lao động. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, cạnh tranh cũng
động thời có những tác dụng tiêu cực như phân hoá người sản xuất hàng hoá, làm
những ngưòi gặp khó khăn trong sản xuất do trình độ công nghệ thấp, vốn ít, gặp rủi
ro v v . Mặc dù vậy, chấp nhận nền kinh tế thị trường nghĩa là phải chấp nhận có sự
cạnh tranh bởi chính cạnh tranh đã đào thải cái lạc hậu, chọn lọc cái tiến bộ để thúc
đẩy kinh tế phát triển.
Qui luật cung cầu là mối quan hệ khách quan giữa cung và cầu diễn ra trên thị
trường. Qui mô của cầu phụ thuộc vào các yếu tố: thu nhập, giá các hàng hoá liên
quan, dân số, thị hiếu sở thích, kì vọng và giá hàng hoá ta xét, cầu còn đặc biệt quan
trọng đối với người sản xuất, họ cần phải nắm được chính xác, kịp thời cầu trên thị
trường để có thể định hướng cho việc sản xuất của mình. Một yếu tố nữa không thể
thiếu được của thị trường là cung. Ta đã biết cung là tổng số hàng hoá dịch vụ mà
người sản xuất có khả năng thực tế cung cấp cho thị trường ở mức giá tương ứng.
Cung và cầu thị trường của một loại hàng hoá sẽ xác định cho ta giá cả của hàng hoá
đó trên thị trường. Căn cứ vào đó, người sản xuất và người tiêu dùng điều chỉnh hành
vi của mình để tối đa hoá lợi ích.
Một qui luật nữa tồn tại khách quan trong nền kinh tế hàng hoá là qui luật lưu
thông tiền tệ. Để thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, ở mỗi thời kì cần có
một số lượng tiền nhất định. Số lượng tiền tệ này được xác định bằng qui luật lưu
thông tiền tệ. Lạm phát xảy ra do nhiều nguyên nhân mà một trong số đó là do số tiền
phát hành thực tế nhiều hơn so với lượng tiền cần thiết trong lưu thông, từ đó đẩy
mức giá các mặt hàng lên cao để lượng hàng hoá tương ứng với lượng tiền có trong
thị trường. Thông thường một nền kinh tế lành mạnh cần tỉ lệ lạm phát từ 5-7% để
thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo thêm việc làm cho người lao động, tuy nhiên nếu
lạm phát quá cao sẽ làm giảm tiền lương thực tế của người lao động, gây nhiều khó
khăn cho đời sống nhân dân.
1.6. Cơ chế điều tiết kinh tế hàng hoá :
Cơ chế điều tiết của kinh tế hàng hoá là cơ chế thị trường ở đó sản xuất cái gì ?, sản
xuất bao nhiêu ?, sản xuất cho ai ?, số lượng bao nhiêu đều do thị trường quyết định.
Có rât nhiều định nghĩa về cơ chế thị trường. Khi phân tích cơ chế kinh tế
trongthời kỳ tự do cạnh tranh của Chủ Nghĩa Tư Bản, C.Mác đã chỉ ra những đặc
trưng sau:
Một là : Các quan hệ kinh tế hoàn toàn chịu sự chi phối của quy luật thị trường,
chưa bị biến dạng bởi các quyết định hành chính của nhà nước và các thế lực độc
quyền;
Hai là : Giá cả là kết quả khách quan của quan hệ cung cầu, nó tồn tại độc lập với
cả người mua và người bán, họ chỉ là “ những người nhận giá “;
Ba là : tư liệu sản xuất và sức lao động được tự do di chuyển từ nghành này sang
nghành khác theo cơ chế thị trường, do đó nâng cao hiệu quả đầu tư của tư bản.
Như vậy, theo tư tưởng Mác cơ chế kinh tế thị trường gồm có các bộ phận cấu thành
sau:
Quan hệ cung cầu là quan hệ trung tâm của cơ chế thị trường;
Giá cả là cốt lõi của cơ chế thị trường
Cạnh tranh là sức sống của cơ chế thị trường
Nhưng có lẽ quan điểm đúng nhất về cơ chế thị trường là tổng thể phương thức vận
hành nền kinh tế sao cho phù hợp với các quy luật khách quan của thị trường, trong
đó gồm có các quan hệ kinh tế ( mà quan hệ cung cầu là trung tâm ), các hình thức
kinh tế ( mà giá cả thị trường là cốt lõi ), các phương pháp ( mà cạnh tranh là sức
sống ), từ đó tạo ra những lực hút nhất định nhằm chi phối ba vấn đề cơ bản của nền
sản xuất xã hội: Sản xuất cái gì ?, sản xuất bằng cách nào ? , sản xuất cho ai ?.
_ Bản chất , đặc điểm của kinh tê thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở
Việt Nam.
Chuyển nền kinh từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung-hành chính – quan
liêu – bao cáp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần , vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nội dung, bản
chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế nước ta trong thời kỳ hiện đại và
tương lai. Vì thế chúng ta cần phân tích sâu thêm bản chất, đặc điểm đã được của
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta để có thể hiểu rõ và
thống nhất hơn trong nhận thức và hành động
+ Thứ nhất, nền kinh tế thị trường nước ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường
hiện đại với tính chất xã hội hiện đại ( xã hội chủ nghĩa ). Mặc dù nền kinh tế nước ta
đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển sang
phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn
kinh tế thị trường hiện đại ( do những khuyết điểm của kinh tế thị trường tự do ). Bởi
vậy mà chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng
hoá giản đơn và giai đoạn kinh tế thị trường tự do, mà đi thẳng vào phát triển kinh tế
thị trường hiện đại, đây là nôị dung và yêu cầu của sự rút ngắn .
+ Thứ hai, nền kinh tế của chúng là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai
trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong một số lĩnh vực, một số khâu quan trọng có ý
nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nền kinh tế hàng
hoá, nền kinh tế thị trường phải là nền kinh tế đa phần, đa hình thức sở hữu. Thế
nhưng, nền kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện
đại, cho nên chúng cần có sự tham gia bởi “ bàn tay hữu hình “ của Nhà Nước trong
việc điều tiết, quản lý nền kinh tế đó. Đồng thời chính nó cũng bảo đảm sự định
hướng phát triển của nền kinh tế thị trường, của nhà nứơc thông qua các công cụ kinh
tế vĩ mô và vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nứơc. Cùng với việc nhấn mạnh
vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nứơc, cần coi trọng vai trò của khu vực kinh
tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp. Đặt chúng trong mối quan hệ hữu cơ, thống nhất
không tách rời, biệt lập.
+ Thứ ba, Nhà Nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta là nhà nước pháp quyền, do dân vì dân. Thành tố quan trọng mang
tính quyết định trong nền kinh tế thị trường hiện đại là nhà nước tham gia vào các
quá trình kinh tế. Nhưng khác với nhà nước của nhiều nước nền kinh tế thị trường
trên thế giới, nhà nước ta là nhà nước của dân do dân và vì dân, nhà nước công nông,
nhà nước của đa số nhân dân lao động Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam.
+ Thứ tư, mở cửa hội nhập nên kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, trên cơ sở
giữ vững độc lập tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là nội dung quan trọng của nền
kinh tế thị trường ở nước ta. Một trong những đặc trưng quan trọng của kinh tế thị
trường hiện đại là việc mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Để phát trong điều
kiện của kinh tế thị trường hiện đại, Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền
kinh tế trong trạng thái tự cung tự cấp, mà phải mở cửa, hội nhập với nền kinh thế
giới, sự mở cửa, hội nhập được thể hiện trên ba nội dung chính là : thương mại ; đầu
tư và chuyển giao khoa học – công nghệ.
+ Thứ năm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời với việc đảm bảo công bằng xã
hội cũng là một nội dung quan trọng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Phải
đảm bảo cho sự công bằng xã hội tức là tạo cho mọi tầng lớp trong nhân dân đều có
cơ hội tham gia vào quá trình phát triển và được hưởng những thành tương xứng với
sức lực, khả năng và trí tuệ của họ bỏ ra, là giảm khoảng cách giữa người giàu và
người nghèo giữa các tầng lơp dân cư và giữa các vùng. Nhưng trong điều kiện nền
kinh tế nước ta còn kém phát triển, ngân sách eo hẹp, thì không thể nhấn mạnh quá
tới sự công bằng xã hội vì nếu không nó sẽ làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế-
xã hội của đất nước.
+ Thứ sáu,giải quyết mối quan hệ giữa lao động và tư bản( vốn), thông qua phân
phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta,
được thực hiện theo kết quả của lao động là chủ yếu kết hợp với một phần theo vốn
và tài sản. Khác với chủ nghĩa tư bản thì chủ nghĩa xã hội đặt con người ở vị trí
trung tâm của sự phát triển vì thế phân phối thu nhập và thành quả lao động chúng ta
chú ý tới nhân tố lao động và yếu tố tiền lương – thu nhập của người lao động. Tuy
nhiên chúng ta cần phải coi trọng đến vai trò của tiền vốn của tích luỹ và đầu tư ( cả
và nhà nước và tư nhân). Vì thế thu nhập theo vốn và tài sản kinh doanh bây giờ đã
trở thành bình thường. Chỉ có trên cơ sở đó mới tăng được số người giàu có trong xã
hội. Tăng số người có thu nhập cao đồng thời giảm số người có thu nhập thấp trong
xã hội và thu hẹp dần khoảng cách giữa giàu-nghèo vừa là mục tiêu, vừa là nội dung
quan trọng của chính sách thu nhập của nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh
tế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở nước ta.
Tóm lại vai trò của kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở
nước ta là
(2)
“ quá trình thực hiện dân giàu, nứơc mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã
hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá,có kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất công , tạo
điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do , hạnh phúc”.( chiến lược ổn định
và phát triển kinh tế –xã hội năm 2000,nxb sự thật Hà Nội, 1991,tr8.
2.Sự cần thiết phải khôi phục và phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam:
2.1 Đặc điểm kinh tế chỉ huy
Một là:Nhà nước quản lý nền kinhtế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều
đó thể hiện ở sự chi tiết hoá các nhiệm vụ do trung ương giao bằng một hệ thống chỉ
tiêu pháp lệnh từ một trung tâm.
Hai là :Các cơ quan hành chính-kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất
kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về mặt
vật chất với các quyết định của mình.
Ba là:Bỏ qua quan hệ hàng hoá-tiền tệ và hiệu quả kinh tế, quảnlý nền kinh tế và
kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ
yếu, do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các
hình thức. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức: bao cấp qua giá, bao
cấp qua tiền lương hiện vật và bao cấp qua cấp phát vốn của ngân sách, mà không
ràng buộc vật chất đối với người được cấp vốn
2.2. Tính tất yếu khách quan phải phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt nam
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam, sự tồn tại của sản xuất hàng
hoá là một tất yếu khách quan. Bởi vì, trong nền kinh tế nước ta lực lượng sản xuất xã
hội còn rất thấp, đang tồn tại nhiều thành phầnkinh tế khác nhau, sự phân công lao
động xã hội gắn với sự tồn tại nhiều chủ thể sở hữu khác nhau như các thực thể kinh
tế độc lập. Đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thànhphần ở thời kỳ quá độ
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước là một định hướng chiến lược cực kỳ quan trọng mang tính khách quan và
có khả năng thực hiện thắng lợi ở nước ta vì:
+) Chỉ có phát triển nền kinh tế nhiều thành phần mới phù hợp với thực trạng của lực
lượng sản xuất chưa đồng đều ở Việt nam.
+) Nó phù hợp với xu thế phát triển kinh tế khách quan của thời đại ngày nay-thời đại
các nước đều hướng về phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà
nước. Sự phù hợp này sẽ giúp nước ta có thêm thế và lực để phát triển kinh tế nhanh
hơn.
+)Phù hợp với lòng mong muốn thiết tha của nhân dân ta là được đem hết tài năng,
sức lực để lao động làm giầu cho đất nước và cho cả bản thân mình, có thu nhập ngày
càng cao làm cho cuộc sống càng ấm no và hạnh phúc.
+)Nó cho phép có điều kiện thuận lợi để khai thác có hiệu quả các tiềm năng hiện có
và đang còn tiểm ẩn ở trong nước, có thể tranh thủ tốt nhất sự giúp đỡ, hợp tác từ bên
ngoài nhằm phát triển nền kinh tế nước ta hướng vào mục tiêu tăng trưởng nhanh và
hiện đại hoá. Chỉ có nhiều thành phần kinh tế, chúng ta mới có khả năng huy động
mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật; mới phát huy được mọi tiềm năng của người Việt
nam
+)Chỉ có phát triển nềnkinh tế nhiều thành phần, chúng ta mới có khả năng giải quyết
được vấn đề việc làm trên đất nước chúng ta. Một quốc gia giầu có bao nhiêu chăng
nữa, mà đẩy một tỷ lệ quá cao người lao động ra ngoài quá trình sản xuất thì quốc
gia ấy sẽ nghèo đi.
Như vậy, phát triển sản xuất hàng hoá đối với nước ta là một tất yếu kinh tế, một
nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế hiện đại,
hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển
lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng đất nước để thực hiện nhiệm
vụ côngnghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực hiện nhất quán đường lối phát triển kinh tế
trên đây của Đảng và Nhà nước đề ra, qua hơn 10 năm đổi mới chúng ta đã đạt được
những thành tựu đáng kể: Mở rộng được quan hệ kinh tế hợp tác với bên ngoài, thu
hút vốn đầu tư kỹ thuật hiện đại của nhiều nước vào để phát triển kinh tế trong nước.
tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân hàng năm 8,2%, giảm tỷlệ lạm phát từ 74,7% ở
năm 1986 xuống 12,7% ở năm 1995 và khoảng 5% ở năm 1996. Sản lượng thực tế
đạt trên 29 triệu tấn ở năm 1996. Kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm đạt 17 tỷ đôla và
năm 1996 đạt trên 7 tỷ đôla.
2.3. Ưu thế của kinh tế hàng hoá so với kinh tế chỉ huy.
- Đảm bảo cho sự thích ứng của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Quan hệ
sản xuất được điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của phát triển của lực lượng sản
xuất.
- Nhiều chủ thể sở hữu về tư liệu sản xuất ( sự năng động của nền kinh tế )
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất thì, của phân công lao động xã hội thì
thì các hình thức sở hữu trong nên kinh tế hàng hoá cũng trở nên đa dạng hơn. Trong
xã hội nguyên thuỷ, do lực lượng sản xuât kém phát triển nên chỉ có một hình thức
duy nhất về tư liệu sản xuất là sở hữu thị tộc, bộ lạc. Nhưng từ xã hội nô lệ phong
kiến đến xã hội tư bản thì phân công lao động xã hội ngày càng phát triển, các hình
thức sở hữu về tư liệu sản xuất ngày càng đa dạng. Ngày nay khi mà cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật làm thay đổi cơ bản lực lượng sản xuất thì dẫn đến các hình thức
sở hữu về tư liệu sản xuất cũng trở nên đa dạng hơn, từ hình thức sở hữu của người
sản xuất nhỏ cá thể đến sở hữu tư bản tư nhân , sở hữu tập thể, sở hữu Nhà nước và
các hình thức sở hữu hỗn hợp. Sự hình thành phát triển một cách đa dạng các hình
thức sở hữu đó đã cho phép giải phóng được các năng lực sản xuất, thúc đẩy sản xuất
phát triển, cải thiện đời sống nhân dân. Rõ ràng rằng xu hướng ngày càng đa dạng
hóa các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất gắn liền với sự phát triển của lực lượng
sản xuất, của phân công lao động trong xã hội là một xu hướng tất yếu của xã hội, là
một quá trình “lịch sử tự nhiên “ và là một quy luật phát triển của xã hội. Do đó mà
ta thấy được ưu điểm của hình thức sở hữu trong nền kinh tế chỉ huy so với nền kinh
tế hàng hoá, từ đó mà thấy được
II. Đặc điểm của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
1) Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém phát
triển, mang nặng tính tự cung, tự cấp, và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế hàng hóa, vận hành theo cơ chế thị trường.
Chuyển từ thói quen quản lý nền kinh tế hàng hoá tập trung quan sang quản lý
nền kinh tế thị trường là một công việc không dễ dàng cùng một lúc nhà nước phải
vừa “ bứt ra “ khỏi những ràng buộc của thói quen quản lý nền kinh tế kế hoạch tập
trung, lại phải vừa tìm ra phương thức, phương pháp quản lý cho bối cảnh kinh tế
mới, việc tìm ra những phương thức, phương pháp mới là một công việc hoàn toàn
mới mẻ và khó khăn. Mặt khác đi lên chủ nghĩa xã hội chúng ta đã không qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên nước ta thiếu cái cốt vật chất của một nền kinh
tế phát triển. Thực trạng kinh tế được biểu hiện ở những mặt cơ bản như: cơ cấu hạ
tầng và xã hội thấp kém, trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các doanh nghiệp
lạc hậu, kém khả năng cạnh tranh, sản xuất phân tán, nhỏ lẻ, kỹ thuật thủ công, mang
nặng tính bảo thủ, trì trệ, phân công lao động chưa sâu sắc, các mối liên hệ kinh tế
kém phát triển, thị trường còn sơ khai, thu nhập của dân cư qúa thấp, nhu cầu tăng
chậm dẫn đến đình trệ sản xuất kinh doanh là khó tránh khỏi, thiếu một đội ngũ
những người quản lý sản xuất có khả năng tham gia cạnh tranh trong và nước
ngoài.Ngoài ra, kiểu quản lý nền kinh tế chỉ huy đã làm xơ cứng các mối liên hệ kinh
tế, điều đó biểu hiện:
Từ 1986 trở về trước dù trên thực tế vẫn thừa nhận sản xuất hàng hoá, thừa nhận
quan hệ hàng hoá-tiền tệ nhưng thực chất đó chỉ là kinh tế hàng hóa một thành phần-
thành phần xã hội chủ nghĩa, dựa trên chế độ công hữu tư liệu sản xuất dưới hai hình
thức: toàn dân và tập thể. Quy luật trung tâm chi phối sự vận động của kinh tế hàng
hoá xã hội chủ nghĩa là quy luật có kế hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân, đã biến
nền kinh tế thực tế là kinh tế chỉ huy. Những quan niêm ấu trĩ về xây dựng và phát
triển kinh tế là biểu hiện sai lầm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan,
mà đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, không tuân thủ một quá trình lịch sử tự nhiên trong sự
phát triển xã hội nói chung và trong nền kinh tế nói riêng. Đó là một trong những
nguyên nhân làm cho sự trì trệ kéo dài, đồng thời làm xuất hiện yêu cầu của quy luật
khách quan, phù hợp với xu thế thời đại ngày nay là chuyển sang cơ chế thị trường.
2)Nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần
Đường lối phát triển khinh tế hàng hoá nhiều thành phần tất yếu sẽ cấu trúc lại nền
kinh tế thuần khiết chủ yếu với hai thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể
sang nền kinh tế thị trường hỗn hợp gồm nhiều thành phần, nhiều khu vực kinh tế và
nhiều hình thức sở hữu tồn tại đan xen lẫn nhau. Quan hệ, hình thức , quy mô sở hữu
đối với tư liệu sản xuất luôn là căn cứ cho vệc phân định các thành phần kinh tế khác
nhau. ở dạng tổng quát nhất có thể nói rằng trong nền kinh tế nước ta đang tồn tại 3
hình thức sở hữu cơ bản; sở hữu nhà nước (toàn dân), sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn
hợp( gồm giữa nhà nước với nước ngoài, giữa nhà nứơc với tư nhân ngòai tư nhân
trong nước; giữa tư nhân với tư nhân; giữa nhà nước với tư nhân và người lao động.
Từ 3 hình thức sở hữu cơ bản đó đã hình thành nên kinh tế hàng hoá nhìêu thành
phần và những loại hình doanh nghiệp đa dạng, phong phú.
Phân tích thực trạng và xu hướng vận động của nền kinh tế nước ta trong bước đầu
chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế hoạt động có thể rút
ra nhận xet sơ bộ :
Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường ở nước ta là
nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém, đưa nền
kinh tế hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách nhà nước eo hẹp. Để hạn
chế và khắc phục những hậu quả của mặt trái nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường mang lại, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng
và phát huy bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước phải thực hiện tốt vai
trò quản lý kinh tế-xã hội bằng luật pháp,kế hoạch, chính sách, thông tin, tuyên
truyền
Sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cũng có nghĩa là còn có
các quy luật kinh tế khác nhau hoạt động. Sự vận động và phát triển của các thành
phần kinh tế trong giai đoạn này chịu sự chi phối trực tiếp của các quy luật kinh tế.
Thông qua hoạt động của các quy luật kinh tế mà nó đào thải những mặt, những yếu
tố bất hợp lý và thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất.
3)Nền kinh tế phát triển theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất của khoa học và công nghệ đang có xu hướng
quốc tế hóa đời sống nhân loại. Xu hướng này chứa đựng một “nghịch lý “, nghịch lý
đó là yếu tố “ nội sinh”của xu hướng. Nó là sự tác động “hai mặt “ phát triển và phản
phát triển, tích cực và tiêu cực thẩm thấu đến từng người, từng quốc gia, từng dân tộc.
Xu hướng này đòi hỏ phải giao lưu, hợp tác để hiểu biết lẫn nhau nhưng lại xảy ra
xung đột, áp đặt, nô dịch nhau ngay trong quá trình giao lưu hợp tác để hiểu biết lẫn
nhau nhưng lại xảy ra xung đột, áp đặt nhau, nô dịch nhau ngay trong quá trình giao
lưu hợp tác. Đây là mâu thuẫn nội sinh của xu hướng. Giải quyết mâu thuẫn này đòi
hỏi phải kết hợp sự tăng trưởng kinh tế, mở rộng quan hệ quốc tế với đấu tranh cho
bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc.
Nước ta đang trên con đường đi lên con đường xã hội chủ nghĩa, vì vậy phải
giữ vững tăng trưởng của mình, hội nhập quốc tế nhưng không làm mất độc lập tự
chủ, cùng đi lên với thế giới nhưng vẫn theo mục tiêu đã chọn. Vì vậy chúng ta cần
vạch ra những bước đi vững chắc ngay từ đầu tiên trên con đường quốc tế hoá và
thực tiễn đã chứng minh điều đó: chúng ta đã tạo chính sách thương mại tự do theo
hướng tạo điều kiện dễ dàng cho các doanh nghiệp được xuất khẩu trực tiếp các hàng
hoá không còn bị cấm, thực hiện giảm thuế nhập khẩu tối đa xuống 50% đối với 6
nhóm mặt hàng ngoại lệ và tiếp tục nghiên cứu đối với một số mặt hàng khác; nới
lỏng quy định về hạn chế ngoại hối …nhằm tăng cường sức mạnh cạnh tranh của nền
kinh tế Việt Nam. Mặt khác chúng ta còn có tạo ra cơ hội thuận lợi để thu hút vốn của
các đối tác nước ngoài và dây truyền công nghệ tiên tiến của các đối tác nước ngoài.
4. Vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế hàng hoá phát triển
theo theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa .
Kinh tế thị trường có thể tự phát theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa
trong đó người với người trở thành “cá lơn nuốt cá bé “. Ngày cả nền kinh tế hàng
hoá vận hành theo cơ chế thị trương mà chúng ta tạo ra cũng không thể tránh khỏi
mặt trái của kinh tế thị trương như: tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng
phân hoá bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân số cũng như các hiện
tượng xã hôị khác. Những tình trạng và hiện tượng trên ở các mức độ khác nhau, trực
tiếp hày gián tiếp đều có tác động ngược trở lại, làm cản trở sự phát triển bình thường
của một xã hội nói chung và của một nền kinh tế hàng hoá nói riêng. Vì vậy sự tác
động của Nhà nước-một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quyluật
khách quan-vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế-xã hôi. Mặt khác
thì muốn nền kinh tê hàng hoá ngày càng phát triển và ổn đinh thì cần phải có một sự
lãnh đạo đúng đắn của một Đảng cách mạng tự giác nhận thức ra quy luật mà tổ chức
toàn xã hội đi lên chứ không phải là tự phát. Đảng cộng sản Việt Nam do quá trình
lịch sử ở Việt Nam, do truyền thống cách mạng Việt Nam , do thành quả mà Đảng
đem lại nên đã có uy tín to lớn tron nhân dân. Cho đến nay không một thế lực nào có
thể cạnh tranh với Đảng cộng sản Việt Nam về quyền lãnh đạo đất nước. Đảng lãnh
đạo đất nước trước hết là xác định mục tiêu chính trị, định hướng cho sự phát triển
bằng cương lĩnh, đường lối chiến lược phát triển bằng những nguyên tắc và những
chính sách lớn trong đối nội và đối ngoại bằng công tác tổ chức cán bộ và kiểm tra
cán bộ trong việc thực hiện đường lối của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội thông qua nhà nứơc ( tức là Đảng cầm quyền ). Nhà nứơc thể
chế hoá đường lối chủ chương của Đảng, đồng thời quản lý điều chỉnh các quan hệ xã
hội theo cách đặc trưng của nhà nước. Tất nhiên là một thành tố của xã hội Đảng
cũng phải hoạt động trong khuông khổ pháp luật.
Yêu cầu của sự phát triển kinh tế nhiều thành phần theo theo định hướng Xã Hội
Chủ Nghĩa đói hỏi Đảng phải có bản lĩnh vững vàng, có trí tuệ, năng động, sáng tạo;
phải có phẩm chất trong sáng, hoạch định những đường lối, chiến lựơc, sách lược, các
khẩu hiệu khoa học theo đúng quy luật, từng bước hiện đại hoá bản chất tốt đẹp của
chủ nghĩa xã hội trong cuộc sống. Tính bức thiết cảu vấn đề đặt ra là phải tiếp tục đổi
mới lãnh đạo Đảng đối với hệ thống chính trị, với xã hội mà khâu đặc biệt quan trọng
là đối với nhà nước và nâng cao phẩm chất đảng viên trong cơ chế thị trường. Nếu
đảng viên luôn luôn vì sự nghiệp, thoái hoá về chính trị ,về đạo đức chạy theo đồng
tiền thì chúng ta sẽ mất tất cả.
III) Các giải pháp để phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam
Các thành tựu kinh tế đã thu được qua hơn 10 năm đổi mới thật sự đã đưa nước ta ra
khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế kéo dài mấy thập kỷ và tạo ra những tiền đề quan
trọng, đưa nền kinh tế bước vào một giai đoạn mới-giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước để không bị tụt hậu và nhanh chóng đuổi kịp các nước
tiên tiến trên thế giới. Để đưa nền kinh tế Việt Nam ra khỏi khủng hoảng, để phát
triển nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải
pháp. Dưới đây là những giải pháp chủ yếu nhất:
1) Đa dạng hoá các hình thức sở hữu, tạo điều kiện phát triển mạnh nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần
Như đã biết , cơ sở tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường là sự tách
biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định. Vì vậy để
phát triển kinh tế thị trường, trước hết phải đa dạng hoá các hình thức sở hữu trong
nền kinh tế.
+) Đối với kinh tế Nhà nước. Đây là thành phần kinh tế đóng vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế nước ta. Vai trò này được thể hiện ở chỗ nó chi phối được các thành
phần kinh tế khác, làm biến đổi các thành phần kinh tế khác theo đặc điểm, đặc tính
của nó. Để đảm bảo vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước, trong những năm tới
cần thiết phải củng cố lại hệ thống kinh tế Nhà nước, thực hiện sắp xếp lại các doanh
nghiệp Nhà nước, cải tiến quản lý, nâng cao tính hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của chúng thông qua việc nghiên cứu và phát triển một cách phù hợp các hình
thức tổ chức kinh doanh.
+) Đối với kinh tế hợp tác. Cần thiết phải có sự tổng kết, rút kinh nghiệm về
bài học hợp tác xã kiểu cũ và xây dựng mô hình kinh tế hợp tác và hợp tác xã kiểu
mới đang được phát triển hiện nay, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đổi
mới phương thức quảnlý, đẩy nhanh sự phát triển của các thành phần kinh tế trong
các lĩnh vực của nền kinh tế để huy động nguồn lực vào phát triển kinh tế hàng hoá,
kinh tế thị trường ở nước ta.
+) Đối với các loại hình sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân, thợ thủ công,
người buôn bán nhỏ. Một mặt thông qua cơ chế, chính sách và hướng dẫn phát triền
của thành phần kinh tế này. Mặt khác cần tăng cường công tác quản lý để xây dựng
nề nếp sản xuất kinh doanh theo quy định của luật pháp.
+) Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Cần có chính sách khuyến
khích thành phần kinh tế này để các nhà tư bản yên tâm và mạnh dạn đầu tư vào nền
kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực sản xuất hàng hóa tiều dùng và xuất khẩu.
+) Đối với kinh tế tư bản Nhà nước. Nhà nước cần có chính sách khuyến
khích thành phần kinh tế này phát triển kể cả với tư bản Nhà nước trong nước và tư
bản Nhà nước với nước ngoài.
Ngoài ra, hiện nay ở nông thôn đặc biệt là vùng núi có tồn tại khả năng nền sản
xuất tính chất của nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Vì vậy, cần có chính sách thúc
đẩy sự phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng hoá ở các vùng này, đặc biệt chú ý tới việc
xây dựng cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh lưu thông hàng hoá với các vùng phát triển trong
nước.
2) Đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội ở nước ta
ỏ nước ta, đẩy mạnh phân công lại lao động xã hội cũng đồng nghĩa với quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện chiến lược này,
phải phân công lại lao động để phát triển những nghành, những lĩnh vực mà đất nước
có lợi thế so sánh trong việc sản xuât, thúc đẩy xuất khẩu. Trước mắt là các ngành
nông nghiêp, công nghiệp,dệt-may, công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản,công
nghiệp lắp ráp điện tử và một số lĩnh vực khác. Thông qua việc phát triển và xuất
khẩu những hàng hoá này, cần tranh thủ nhập được những công nghệ thích hợp để cải
tiến thiện trình,độ công nghệ và kỹ thuật sản xuất hiện nay.
3) Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường
Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ; phát huy vai trò nòng cốt, định hướng và
điều tiết của kinh tế nhà nước trên thị trường. Đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao
sức mua của thị trường trong nước, cả ở thành thị và nông thôn, chú ý thị trường các
vùng có nhiều khó khăn. Mở thêm thị trường mới ở nước ngoài. Xác định thời hạn
bảo hộ hợp lý và có hiệu quả đối với một số sản phẩm cần thiết, tích cực chuẩn bị để
mở rộng,hội nhập thị trường quốc tế. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.
Mở rộng thị trường sức lao động trong nước có sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước,
bảo vệ lợi ích của người lao động, đẩy mạnh xuất khẩu lao động có tổ chức và có
hiệu quả. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách tạo cơ hội bình đẳng về việc
làm cho người lao động, tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích người lao động tự
tìm việc làm, nâng cao trình độ đào tạo lại, học nghề mới.
Khẩn trương tổ chức thị trường khoa học và công nghệ, thực hiện tốt bảo hộ sở hữu
trí tuệ; đẩy mạnh phát triển các dịch vụ về thông tin, chuyển giao công nghệ.
Phát triển nhanh và bền vững thị trường vốn, nhất là thị trường vốn dài vay
trung hạn. Tổ chức và vận hành thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm an toàn,
hiệu quả. Hình thànhđồng bộ thị trường tiền tệ; tăng khả năng chuyển đổi của đồng
tiền Việt nam.
Hình thành và phát triển thị trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử dụng
đất theo quy định của pháp luậtl; từng bước mở thị trường bất động sản cho người
Việt nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia đầu tư.
4) Tiếp tục đổi mới, nâng cao vai trò quảnlý vĩ mô của Nhà nước
Trong những năm đổi mới kinh tế vừa qua, ta đã đổi mới một bước vai trò
quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, chuyển từ quản lý theo kế hoạch hoá
tập trung sang sử dụng các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô để quảnlý nền kinh tế.
Những thành tựu trong mười năm đổi mới kinh tế vừa qua về lĩnh vực này mới là
bước đầu. Trong những năm tới, đặc biệt trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế
giới và khu vực, cần thiết phải đổi mới các công cụ, chính sách vĩ mô, đặc biệt là hệ
thống tài chính, tín dụng và lưu thông tiền tệ, chinh sách phân phối thu nhập và phát
triển kinh tế xã hội.