LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nhằm tăng cường
công tác quản lý Ngân sách xã ở Thái
bình trong điều kiện hiện nay
lời nói đầu
Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đánh dấu sự chuyển hướng của nền
kinh tế nước ta từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò của Ngân sách Nhà nước cũng thay
đổi và trở nên hết sức quan trọng. Hoạt động của Ngân sách Nhà nước đã chuyển biến
một cách căn bản, từ chỗ chỉ gắn với khu vực kinh tế quốc doanh và các nhu cầu chi
tiêu cho bộ máy Nhà nước trong cơ chế bao cấp sang một bình diện mới với phạm vi
rộng lớn và bao quát hơn. Việc từ bỏ nguyên tắc quản lý trực tiếp theo kiểu “cấp phát
giao nộp” đã tạo điều kiện cho Ngân sách Nhà nước đảm nhận vai trò quản lý vĩ mô
đối với toàn bộ nền kinh tế xã hội.
Thực tế đó đã đòi hỏi phải thúc đẩy quá trình hoàn thiện các quy chế về Ngân
sách Nhà nước cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và công cuộc
đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước. Năm 1996 luật Ngân sách Nhà nước ra đời và
triển khai thực hiện từ ngày 01/01/1997 đã khẳng định vị trí và vai trò của Ngân sách
Nhà nước trong tình hình mới. Qua đó cũng phần nào khẳng định tính cấp thiết của
quá trình quản lý Ngân sách Nhà nước nói chung và quá trình quản lý Ngân sách xã-là
cơ quan cấp uỷ chính quyền cơ sở nói riêng.
Sau 16 năm đổi mới tốc độ phát triển kinh tế gia tăng nhanh đã tác động sâu sắc
đến công tác quản lý Ngân sách Nhà nước, đặc biệt là Ngân sách xã-là nơi trực tiếp
liên hệ với dân, giải quyết các công việc của dân. do dân và vì dân, cho nên chính
quyền cấp xã phải sử dụng Ngân sách xã như một công cụ để thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình. Thực tế từ năm 1997 đến nay, bên cạnh những thành tựu đã đạt
được trong công tác quản lý Ngân sách xã cũng còn những tồn tại cần giải quyết. Vấn
đề đặt ra là công tác quản lý Ngân sách xã phải được hoàn thiện ra sao để tập trung
được đầy đủ các khoản thu bảo đảm nhu cầu chi do xã thực hiện, các khoản chi phải
đúng mục đích để tạo nguồn thu mới. Việc cấp phát sử dụng các khoản chi đó như thế
nào để đạt được nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả trong quản lý Ngân sách Nhà nước. Do
vậy vấn đề hoàn thiện công tác quản lý Ngân sách xã được đặt ra như là nhiệm vụ
hàng đầu của công tác quản lý Ngân sách nói chung.
Thấy được vấn đề mang tính thời sự đó trong thời gian 2 tháng thực tập tại Sở Tài
chính-Vật giá Thái bình được chứng kiến và làm việc thực tế với sự giúp đỡ tận tình
của thầy, cô giáo và cán bộ trong Sở em đã lựa chọn và tập trung nghiên cứu đề tài
“Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý Ngân sách xã ở Thái bình
trong điều kiện hiện nay” làm đề tài cho luận văn của mình. Với mục đích là nghiên
cứu tìm hiểu tình hình thu chi và công tác quản lý Ngân sách xã trên địa bàn tỉnh trong
những năm 1999-2001, nhằm tìm ra những giải pháp giúp cho việc củng cố, tăng
cường công tác quản lý Ngân sách xã trong tỉnh được tốt hơn.
Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Ngân sách xã và sự cần thiết phải tăng cường công tác quản lý Ngân
sách xã.
Chương 2: thực trạng công tác quản lý Ngân sách xã ở Thái bình trong thời gian
qua.
Chương 3: Phương hướng-mục tiêu-giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý
Ngân sách xã ở Thái bình trong thời gian tới.
Chương một
Ngân sách xã và sự cần thiết phải tăng cường
công tác quản lý Ngân sách xã
1.1: Sự ra đời, tồn tai và Quá trình phát triển Ngân sách xã là tất yếu
khách quan:
1.1.1. Quá trình hình thành Ngân sách xã:
Lịch sử phát triển của nước ta cũng như các nước khác trên thế giới đều có quỹ
xã, nay gọi là Ngân sách xã. Mặc dù trong quá trình hình thành và cơ chế quản lý có
sự khác nhau nhưng đều xem ngân sách xã là một bộ phận không thể thiếu của hệ
thống tài chính quốc gia. Đến nay ngân sách xã của dân tộc ta đã trải qua hàng nghìn
năm lịch sử và gắn liền với nhiều triều đại khác nhau như Đinh, Lê, Lý, Trần,
Nguyễn cho đến ngày nay. Tuy mỗi thời kỳ xã có tên gọi khác nhau nhưng chức
năng và nhiệm vụ của xã ít có sự thay đổi, chủ yếu là quản lý pháp luật, quản lý dân
và xây dựng cơ sở hạ tầng cho xã. Đặc biệt Ngân sách xã phục vụ cho bộ máy chính
quyền Nhà nước cấp xã thực hiện 3 nhiệm vụ chủ yêú sau:
Một là: Quản lý nhân khẩu, ruộng đất để thu tô, thu thuế, thu phen tạp dịch và
binh lính.
Hai là: Giữ gìn phép nước, trị an.
Ba là: Chăm lo lợi ích công cộng, đê điều, tưới tiêu, đường xá, cứu tế xã hội.
Công tác quản lý tài chính ngân sách xã ở thời kỳ nào cũng được coi trọng, có
chức năng, chức danh, nhiệm vụ và kỷ luật tài chính cụ thể như: Xã trưởng thời nhà
Lê, xã quan thời nhà Trần Đến thời nhà Nguyễn, chính quyền thực dân pháp quy
định chức sắc 3 kỳ khác nhau ở Bắc kỳ là tiên chỉ; Trung kỳ là hương bản; Nam kỳ là
hương bộ; nhưng đều phụ trách công tác tài chính và có hội đồng kỳ mục(Bắc kỳ);
đại hội đồng kỳ mục (Nam kỳ); thường trực hội đồng kỳ mục (Trung kỳ) có nhiệm vụ
lập ngân sách xã.
Như vậy, lịch sử phát triển của ngân sách xã ở mỗi thời kỳ đều được coi trọng,
công tác quản lý mỗi thời kỳ đều có sự đổi mới hoàn thiện. Điều đó khẳng định rằng
ngân sách xã là một cấp ngân sách hoàn chỉnh trong hệ thống ngân sách Nhà nước.
Mỗi thời kỳ kỷ luật tài chính ngân sách xã đều được coi trọng và có chế độ
quản lý cụ thể quy định quy mô chi ngân sách xã như thời nhà Lê quy định quy mô
ngân sách xã đối với xã lớn 50 quan, xã vừa 30 quan, xã nhỏ 20 quan. Có chế độ quản
lý quỹ và tiền mặt, xã chỉ được giữ lại 30 quan để chi tiêu, số dư phải gửi vào nhà
giàu cất giữ.
Trải qua quá trình phát triển với những thăng trầm của lịch sử, gắn với các
triều đại thịnh, suy khác nhau, đến nay Ngân sách xã thực sự trở thành công cụ,
phương tiện vật chất bằng tiền có tác dụng to lớn trong sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Điều lệ ngân sách xã ra đời ngày 08/04/1972
của Hội đồng Chính phủ số 64/CP, cũng trong thời gian đó Bộ tài chính ban hành liên
tiếp Quyết định số 13/TT/TDT ngày 27/07/1972 quy định chế độ kế toán ngân sách
xã và thông tư số 14 TC/TDT ngày 04/11/1972 hướng dẫn thi hành điều lệ ngân sách
xã, từ đó ngân sách xã thực sự được quản lý theo luật lệ thống nhất của Nhà nước.
Sự phân cấp rõ ràng trong quản lý thu chi cho xã đã tạo điều kiện cho ngân
sách xã khẳng định vị trí, vai trò to lớn của mình trong việc huy động nguồn lực tài
chính để trang trải các khoản chi tiêu cho sự nghiệp giải phóng Miền nam thống nhất
đất nước.
Sau giải phóng, thời điểm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH ở nông
thôn, ngân sách xã đóng góp một phần quan trọng trong công cuộc xây dựng nông
thôn mới. Tiếp đó thông qua nghị quyết 138-HĐBT ngày 19/11/1983 thì vai trò ngân
sách xã ngày càng được khẳng định. Đến nay cơ chế quản lý ngân sách xã đã ngày
càng được hoàn thiện qua các văn bản mới về quản lý tài chính ngân sách xã nhằm
củng cố và khẳng định vai trò của đơn vị hành chính cơ sở.
Như vậy, lịch sử phát triển của ngân sách xã ở mỗi thời kỳ đều được coi trọng,
công tác quản lý mỗi thời kỳ đều có sự đổi mới, hoàn thiện. Đến năm 1996 khi luật
ngân sách nhà nước được ban hành thì ngân sách xã chính thức được thừa nhận là cấp
ngân sách hoàn chỉnh trong hệ thống ngân sách Nhà nước .
1.1.2. Khái niệm - Đặc điểm ngân sách xã .
Trong điều kiện ngày nay việc thừa nhận sự tồn tại và hoạt động của ngân sách
xã được coi là điều tất yếu. Chính vì vậy, trong cơ cấu tổ chức hệ thống ngân sách
nhà nước ở hầu hết các quốc gia đều có ngân sách xã (hoặc vùng); song quan niệm về
ngân sách xã lại chưa có sự đồng nhất.
ở nước ta điều lệ ngân sách xã (ban hành ngày 08/04/1972) ghi ngân sách xã là
kế hoạch thu chi tài chính của chính quyền cấp xã, để đảm bảo việc chấp hành pháp
luật, giữ vững an ninh, trật tự trị an, bảo đảm tài sản công cộng, quản lí mọi hoạt
động kinh tế, văn hoá, xã hội trong xã, động viên giám sát các hợp tác xã và công dân
thi hành nghiêm chỉnh các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Theo điều 4 luật ngân sách nhà nước và thông tư 14-TC/NSNN ngày
08/03/1997 của Bộ tài chính về hướng dẫn quản lý thu-chi ngân sách xã, phường, thị
trấn (Sau đây gọi chung là ngân sách cấp xã) là một bộ phận của ngân sách Nhà nước
do UBND xã, phường xây dựng, quản lý và HĐND xã quyết định, giám sát thực hiện.
Chính vì vậy, đòi hỏi phải có một khái niệm về ngân sách xã một cách đầy đủ, thống
nhất làm cơ sở cho việc xác định các yêu cầu, nhiệm vụ của ngân sách xã sau này.
Do vậy, ngân sách xã được định nghĩa như sau: Ngân sách xã là toàn bộ các
quan hệ kinh tế giữa các chủ thể phát sinh trong quá trình tạo lập phân phối và sử
dụng quỹ tiền tệ của chính quyền Nhà nước cấp xã nhằm phục vụ cho việc thực hiện
các chức năng của Nhà nước cấp cơ sở trong khuôn khổ được phân công quản lý.
Từ định nghĩa đã đưa ra về ngân sách xã ta có thể rút ra một số đặc điểm về
ngân sách xã như sau:
Thứ nhất: Ngân sách xã là một quỹ tập trung của cơ quan chính quyền Nhà
nước cấp cơ sở. Hoạt động của quỹ này thể hiện trên hai phương diện: Huy động
nguồn thu vào quỹ (gọi là thu ngân sách xã ) và phân phối sử dụng nguồn vốn của
quỹ ( gọi là chi ngân sách xã ) .
Thứ hai : Các hoạt động thu chi của ngân sách xã luôn gắn với chức năng,
nhiệm vụ của chính quyền xã theo luật định, đồng thời luôn chịu sự kiểm tra giám sát
của cơ quan quyền lực Nhà nước ở cấp xã. Chính vì vậy các chỉ tiêu thu chi của ngân
sách xã luôn mang tính pháp lý.
Thứ ba: Đằng sau các hình thức thu, chi của ngân sách xã chính là các quan hệ
lợi ích giữa một bên là lợi ích chung của cộng đồng các cơ sở mà chính quyền xã là
người đại diện với một bên là lợi ích của các chủ thể kinh tế xã hội khác (tổ chức
hoặc cá nhân). Các quan hệ này phát sinh trong cả quá trình thu và chi ngân sách xã.
Thứ tư: Các quan hệ thu-chi ngân sách xã rất đa dạng và biểu hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau, nhưng các khoản thu- chi này chỉ được thừa nhận khi được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Thứ năm: Ngân sách xã vừa là một cấp trong hệ thống NSNN vừa là một đơn vị
dự toán. Bởi vì ngân sách xã vừa thực hiện nhiệm vụ thu chi của một cấp ngân sách
nói chung (mặc dù nguồn thu và nhiệm vụ chi là rất nhỏ)vừa là đơn vị nhận bổ sung
từ ngân sách cấp trên mà không phải cấp bổ sung cho cấp ngân sách khác và sử dụng
luôn nguồn vốn đó. Với đặc thù là đơn vị hành chính cấp cơ sở có mối liên hệ trực
tiếp với dân, do dân, vì dân, giải quyết các mối liên hệ giữa Nhà nước và nhân dân,
cho nên đây là đơn vị hành chính giúp Nhà nước thực hiện chức năng nhiệm vụ trực
tiếp tới mọi người dân .
1.1.3. Nội dung nguồn thu và nhiệm vụ chi của Ngân sách Xã:
Nguồn thu và nhiệm vụ chi của ngân sách xã được hình thành dựa trên cơ sở khả
năng và nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương kết hợp với các nhiệm vụ
về quản lý kinh tế-xã hội mà chính quyền xã được phân công, phân cấp đảm nhiệm.
Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phân cấp quản lý về kinh tế - xã hội với phân
cấp quản lý tài chính-ngân sách. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế-xã hội và
sự phân cấp quản lý ngân sách xã mà trong từng thời kỳ cụ thể nguồn thu và nhiệm
vụ chi có những thay đổi, bổ sung cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế quốc
gia.
Trong điều kiện hiện nay kể từ khi thực hiện luật ngân sách Nhà nước, nguồn
thu, nhiệm vụ chi, của ngân sách được quy định cụ thể tại điều 34 và 35 của luật này
và các văn bản pháp quy khác nhằm hướng dẫn thi hành luật này. Cụ thể theo luật sửa
đổi bổ sung một số điều của luật ngân sách Nhà nước thông qua ngày 20/05/1998 và
Thông tư số 118/2000/TT-BTC ngày 22/12/2000 quy định về quản lý ngân sách xã và
các hoạt động tài chính khác ở xã, phường, thị trấn quy định như sau:
1.1.3.1. Nguồn thu của Ngân sách Xã gồm:
+ Các khoản thu mà ngân sách xã được hưởng 100 %:
- Thuế môn bài thu từ các cá nhân, hộ kinh doanh từ bậc 4 đến bậc 6 kể cả số
thu khoán (không áp dụng đối với phường).
- Các khoản phí, lệ phí quy định thu vào ngân sách xã.
- Chênh lệch thu lớn hơn chi từ các hoạt động sự nghiệp có thu của xã.
- Thu đấu thầu, thu khoán theo mùa vụ từ quỹ đất công ích 5% và hoa lợi
công sản khác do xã quản lý.
- Các khoản đóng góp của tổ chức, cá nhân gồm: Các khoản đóng góp theo
pháp luật quy định, các khoản đóng góp trên nguyên tắc tự nguyện để đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng do Hội đồng nhân dân xã quyết định đưa vào ngân sách xã quản
lý (không áp dụng đối với phường khoản thu huy động đóng góp để đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng) và các khoản đóng góp tự nguyện khác.
- Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức và cá nhân ở ngoài nước trực tiếp
cho ngân sách xã.
- Thu kết dư ngân sách xã năm trước.
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật
+ Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) với ngân sách cấp trên
gồm:
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp (tối thiểu để lại cho xã 20%)
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất (chỉ áp dụng cho xã, thị trấn)
- Thuế nhà đất (chỉ áp dụng cho xã, thị trấn)
- Tiền cấp quyền sử dụng đất (chỉ áp dụng đối với xã, thị trấn)
- Thuế Tài nguyên.
- Lệ phí trước bạ nhà đất.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hoá sản xuất trong nước thu vào các mặt hàng bài
lá, hàng mã, vàng mã và các dịch vụ kinh doanh vũ trường, mát sa, ka ra ô kê, kinh
doanh chơi gôn, ca si nô, chò chơi bằng máy Giắc-Pốt, kinh doanh vé đặt cược đua
ngựa, đua xe.
- Các khoản thu phân chia khác:
Tỷ lệ phần trăm (%) phân chia cụ thể các nguồn thu trên đây cho ngân sách xã
do Uỷ ban nhân dân Tỉnh quy định từ 3- 5 năm phù hợp với tình hình ngân sách của
địa phương. Để giảm bớt khối lượng nghiệp vụ, khuyến khích tăng thu; có thể giao
chung cho các xã cùng một tỷ lệ.
+ Thu bổ sung từ ngân sách cấp trên:
- Thu bổ sung cân đối ngân sách được xác định trên cơ sở chênh lệch giữa dự
toán chi được giao và dự toán từ các nguồn thu được phân cấp (các khoản thu 100%
và các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm). Số bổ sung này được ổn định từ 3
đến 5 năm, hàng năm được tăng thêm một số phần trăm trên cơ sở trượt giá, tốc độ
tăng trưởng kinh tế và khả năng ngân sách của địa phương.
- Thu bổ sung có mục tiêu ( nếu có ) tuỳ theo khả năng ngân sách và chủ
trương chung.
Ngoài các khoản thu trên, chính quyền xã không được đặt ra các khoản thu trái
với quy định của pháp luật.
1.1.3.2- Nhiệm vụ chi của ngân sách xã.
* Chi thường xuyên.
+ Hoạt động của các cơ quan Nhà nước xã bao gồm:
- Sinh hoạt phí theo mức quy định hiện hành
- Sinh hoạt phí đại biểu Hội đồng nhân dân
- Các khoản phụ cấp khác theo quy định của Nhà nước
- Chi về phúc lợi tập thể, y tế, vệ sinh
- Công tác phí;
- Chi về hoạt động văn phòng như: Tiền nhà, điện nước, thắp sáng, vật liệu
văn phòng, bưu phí, điện thoại, hội nghị, chi tiếp tân, khánh tiết.
- Chi mua sắm, sửa chữa thường xuyên trụ sở, phương tiện làm việc.
- Chi khác
+ Các khoản sinh hoạt phí và kinh phí hoạt động của cơ quan Đảng Cộng sản
Việt nam của xã sau khi đã trừ đi khoản thu đảng phí theo điều lệ và các khoản thu
khác (nếu có).
+ Các khoản sinh hoạt phí và kinh phí hoạt động của các tổ chức chính trị-xã
hội của xã (Mặt trận tổ quốc Việt nam, Đoàn thanh niên CSHCM, Hội cựu chiến binh
Việt nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt nam, Hội nông dân Việt nam). Sau khi trừ các
khoản thu theo điều lệ và các khoản thu khác (nếu có).
+ Đóng Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho cán bộ xã và các đối tượng khác
theo chế độ hiện hành.
+ Công tác dân quân tự vệ, trật tự an toàn xã hội:
- Huấn luyện dân quân tự vệ, các khoản phụ cấp huy động dân quân tự vệ và
các khoản chi khác về dân quân tự vệ thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách xã theo quy
định của pháp lệnh về dân quân tự vệ;
- Đăng ký nghĩa vụ quân sự, tiễn đưa thanh niên đi nghĩa vụ quân sự
- Tuyên truyền, vận động và tổ chức phong trào bảo vệ an ninh, trật tự an toàn
xã hội trên địa bàn xã.
- Các khoản chi khác.
+ Công tác xã hội và hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục thể thao do xã
quản lý.
- Trợ cấp hàng tháng cho cán bộ xã nghỉ việc theo chế độ hiện hành, chi thăm
hỏi các gia đình chính sách, cứu tế xã hội và công tác xã hội khác.
- Hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao, truyền thanh do xã tổ chức.
+ Hỗ trợ các lớp bổ túc văn hoá, trợ cấp nhà trẻ, lớp mẫu giáo, kể cả trợ cấp
cho giáo viên mẫu giáo và cô nuôi dạy trẻ do xã, thị trấn quản lý (đối với phường do
ngân sách cấp trên chi)
+ Sự nghiệp y tế:
- Mua sắm, trang bị hoặc bổ sung đồ dùng chuyên môn phục vụ khám chữa
bệnh.
- Phòng bệnh và sự nghiệp y tế khác +
Quản lý sửa chữa, cải tạo các công trình phúc lợi, các công trình hạ tầng cơ sở do xã
quản lý như: Trường học, trạm y tế, nhà trẻ, lớp mẫu giáo, nhà văn hoá, thư viện, đài
tưởng niệm, cơ sở thể dục thể thao, cầu, đường giao thông, công trình cấp và thoát
nước công cộng, riêng đối với thị trấn còn có nhiệm vụ chi quản lý, sửa chữa cải tạo
vỉa hè, đường phố nội thị, đèn chiếu sáng, công viên, cây xanh
+ Hỗ trợ các hoạt động sự nghiệp có thu của xã.
+ Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
* Chi đầu tư phát triển: Chi đầu tư xây dựng các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế xã
hội theo sự phân cấp của cấp Tỉnh từ nguồn ngân sách và nguồn huy động đóng góp
trên nguyên tắc tự nguyện của các tổ chức, cá nhân cho từng dự án nhất định.
Qua nội dung nguồn thu và nhiệm vụ chi của ngân sách xã ta thấy chúng bao
trùm mọi hoạt động của xã. Do đó tổ chức công tác quản lý ngân sách xã có hiệu quả
là việc làm thường xuyên liên tục và khoa học của các nhà quản lý tài chính, qua đó
mà thấy được vai trò của cấp ngân sách xã là hết sức quan trọng trong hệ thống ngân
sách nhà nước.
1.1.4. Vị trí, vai trò của ngân sách xã trong sự nghiệp phát triển kinh tế -
xã hội ở nông thôn hiện nay.
Việc đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ
chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước làm thay đổi căn bản vai trò của
NSNN. Cũng như NSNN, ngân sách cấp xã là một cấp trong hệ thống các cấp NSNN,
cấp xã là tổ chức chính quyền cơ sở của bộ máy quản lý Nhà nước có chức năng,
nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu của Nhà nước cơ sở, Nhà nước do dân, vì dân, giải
quyết mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó chính
quyền cấp xã phải có nguồn tài chính đủ mạnh để góp phần thúc đẩy sự phát triển nền
kinh tế- xã hội tại cơ sở. Qua hoạt động thu- chi của ngân sách xã ta thấy được vai trò
cụ thể của nó như sau:
1.1.4.1. Ngân sách xã đảm bảo nguồn lực vật chất cho sự tồn tại và hoạt
động của bộ máy chính quyền Nhà nước cấp xã. Trải qua
quá trình phát triển của xã hội, Nhà nước ra đời từ khi xã hội có sự phân chia giai cấp.
Nhà nước ra đời đồi hỏi phải có nguồn lực vật chất nhất định để nuôi sống bộ máy và
thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội do cộng đồng đối phó. Nguồn lực vật chất này
chỉ có thể được đảm bảo từ ngân sách Nhà nước. Ngân sách cấp xã là bộ phận cấu
thành nên Ngân sách Nhà nước, do vậy nguồn lực vật chất để nuôi sống bộ máy
chính quyền cấp cơ sở thì phần lớn phải do Ngân sách cấp cơ sở đảm nhận đó là
ngân sách cấp xã. Để đảm bảo nguồn lực vật chất này cung cấp cho toàn bộ các hoạt
động kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và đời sống của mọi người được đảm bảo,
Ngân sách xã phải khai thác triệt để các nguồn thu tại xã theo luật định. Đảm bảo thu
đúng, thu đủ, kịp thời đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho các công việc thuộc chức năng
nhiệm vụ theo quy định của luật Ngân sách Nhà nước như : Chi lương, sinh hoạt phí
cho các công chức, các khoản chi tiêu quản lý hành chính hay mua sắm trang thiết bị
cho văn phòng mới được thực hiện. Do vậy không có các khoản chi này của Ngân
sách xã thì bộ máy chính quyền Nhà nước cơ sở không thể tồn tại và phát triển được.
1.1.4.2. Ngân sách xã là công cụ quan trọng để chính quyền xã quản lý toàn
diện các hoạt động kinh tế , văn hoá xã hội tại địa phương.
Với tư cách là chính quyền cấp cơ sở gắn liền với đời sống nhân dân và thực
hiện quản lý trực tiếp đối với nhân dân. Do vậy chức năng và nhiệm vụ của ngân sách
xã phải thực hiện là luôn đảm bảo quyền và lợi ích của nhân dân trên địa bàn. Trực
tiếp liên hệ và giải quyết các công việc của dân trên mọi phương diện theo chính sách
chế độ của Nhà nước đặt ra nhằm đáp ứng các nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân.
Để giải quyết được các vấn đề trên hiệu quả chính quyền xã phải có những công cụ
đặc biệt thực hiện yêu cầu này mà ngân sách xã là một trong các công cụ đó. Thông
qua hoạt động thu ngân sách xã mà các nguồn thu được tạo lập tập trung vào quỹ
ngân sách xã, đồng thời giúp chính quyền cơ sở thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát,
điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và các hoạt động khác được
pháp luật cho phép. Việc kiểm soát thông qua ngân sách xã được thể hiện qua việc
phân loại các ngành nghề kinh doanh, các chủng loại hàng hoá mà qua đó chống
các hoạt động kinh tế phi pháp, trốn lậu thuế và các nghĩa vụ đóng góp khác. Cụ thể:
Với các hình thức thu phù hợp, với chế độ miễn giảm công bằng, ngân sách xã một
mặt tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh ở cơ sở, mặt khác thu ngân
sách xã còn góp phần thực hiện các chính sách xã hội như: bảo đảm công bằng giữa
những người có nghĩa vụ đóng góp ngân sách xã, có sự trợ giúp cho những đối tượng
nộp khi gặp khó khăn về tài chính hoặc diện cần được ưu đãi theo chính sách của nhà
nước thông qua xét duyệt miễn giảm số thu Ngoài ra việc thực hiện đúng các
phương thức và các mức thu phạt đối với các tổ chức và cá nhân vi phạm trật tự an
toàn xã hội, đã được coi như là một biện pháp kinh tế buộc họ phải nghiêm chỉnh
chấp hành tốt nghĩa vụ của mình trước cộng đồng, có thể nói sẽ không đạt kết quả gì
nếu không sử dụng hoạt động thu ngân sách xã và nếu như trước đây hoạt động kiểm
tra, kiểm soát của chính quyền cấp xã chủ yếu bằng công cụ kế hoạch thì nay vai trò
kiểm tra kiểm soát của chính quyền cấp xã chủ yếu bằng hệ thống pháp luật với hệ
thống thu thuế nói chung và thu ngân sách xã nói riêng, xã sẽ kiểm tra, giám sát hoạt
động sản xuất kinh doanh dịch vụ trên các mặt chủ yếu như: Thu nhập, giá cả hàng
hoá, và qua đó cũng có thể khẳng định rằng thu ngân sách xã là nguồn thu chủ yếu
để đáp ứng nhu cầu chi ngày càng gia tăng ở xã.
Thông qua chi ngân sách xã mà các hoạt động của Đảng bộ,chính quyền, đoàn
thể, chính trị, xã hội ở xã được duy trì và phát triển liên tục và ổn định. Nhờ đó mà
nâng cao hiệu lực quản lý cơ sở.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị trường bên cạnh những
mặt tích cực thì vẫn tồn tại những hạn chế, thông qua hoạt động thu-chi ngân sách xã
đã đóng vai trò quan trọng trong việc khắc phục khuyết tật đó bằng việc tạo ra một
môi trường kinh doanh thuận lợi, cho các chủ thnể kinh tế, thông qua đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng ngăn chặn sự độc quyền trong kinh doanh. Bên cạnh đó với phương
trâm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm” của ngân sách xã đã cùng nhân dân giải
quyết tốt các vấn đề “Điện, đường, trường, trạm”. Nhờ có chính sách điện khí hoá
nông thôn, hiện nay hầu hết các xã đều đã có điện thắp sáng đến từng thôn xóm, góp
phần quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đáp ứng
được nhu cầu điện phục vụ cho thắp sáng và cho sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó
việc chi ngân sách xã cho hệ thống giao thông liên thôn, liên xã được nâng cấp và xây
dựng mới làm cho hệ thống giao thông được thông suốt, thúc đẩy lưu chuyển hàng
hoá, qua đó khai thác tiềm năng và lợi thế của từng vùng thúc đẩy xoá bỏ phương
thức sản xuất cũ, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, phân công lại lao động trên địa bàn
nông thôn, từng bước thực hiện công nghiệp hoá, tạo điều kiện đưa khoa học kỹ thuật
vào từng làng xã giúp kinh tế nông thôn thoát khỏi tình trạng độc canh, độc cư,
chuyển từ nền kinh tế thuần nông sang nền kinh tế tổng hợp Nông- Công- Thương
đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Thông qua chi ngân sách xã cho sự nghiệp giáo dục và sự nghiệp y tế đã góp
phần vào việc nâng cao dân trí, sức khoẻ người dân, đảm bảo nâng cao trình độ nhân
dân và sức khoẻ người dân, các xã không ngừng nâng cấp và xây dựng mới các công
trình cho giáo dục và y tế đảm bảo điều kiện thuận lợi cho việc giảng dạy và khám
chữa bệnh, giúp người dân yên tâm khi tham gia phát triển sản xuất tại cơ sở. Từng
bước xây dựng nông thôn mới theo đúng chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước.
Từ phân tích trên cho ta thấy ngân sách xã là công cụ tài chính quan trọng của
Nhà nước trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ở địa
phương. Từng bước cải thiện bộ mặt nông thôn và rút ngắn sự cách biệt giữa thành
thị và nông thôn, khắc phục dần tình trạng bội chi xảy ra ở hầu hết các xã của nước ta
hiện nay góp phần quan trọng thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển.
1.2. Quy trình quản lý ngân sách xã.
Căn cứ vào các điều từ 42 đến 71 của luật ngân sách Nhà nước và Thông tư
số118/2000/TT-BTC ngày 22/12/2000 quy định về quản lý ngân sách xã và các hoạt
động tài chính khác ở xã, phường, thị trấn đã quy định cụ thể về quy trình quản lý
ngân sách xã như sau:
1.2.1. Quản lý khâu lập dự toán ngân sách xã:
Lập dự toán ngân sách xã là quá trình phân tích đánh giá giữa khả năng và
nhu cầu các nguồn tài chính của ngân sách xã để từ đó xác lập các chỉ tiêu thu- chi dự
kiến có thể đạt được trong kỳ kế hoạch, xác lập các biện pháp chủ yếu về kinh tế tài
chính và hành chính để đảm bảo thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu thu- chi. Lập dự toán
ngân sách xã là khâu mở đầu cho một chu trình ngân sách nên nó làm cơ sở, nền tảng
cho các khâu tiếp theo, đặc biệt là khâu chấp hành ngân sách cho nên khi lập dự toán
phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Phải tính toán đầy đủ và chính xác các khoản thu theo đúng quy định của
Nhà nước.
- Bố trí hợp lý các nhu cầu chi tiêu nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ chính quyền cấp xã đồng thời góp phần xây dựng nông thôn phát triển.
- Dự toán phải lập theo đúng mục lục ngân sách và mẫu biểu quy định của Bộ
tài chính.
- Lập dự toán phải bám sát kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội tại xã.
* Căn cứ lập:
- Chế độ phân cấp về nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách xã.
- Chế độ quy định về thu ngân sách
- Chế độ, tiêu chuẩn định mức về chi ngân sách xã
- Các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của xã
- Số kiểm tra về dự toán ngân sách xã do UBND Huyện thông báo.
- Tình hình thực hiện dự toán ngân sách xã năm hiện hành.
* Trình tự lập dự toán ngân sách xã:
- Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch ngân sách xã 6 tháng đầu năm và ước
thực hiện 6 tháng cuối năm.
- Các Ban hoặc tổ chức thuộc UBND xã căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được
giao và chế độ, định mức, tiêu chuẩn chi, lập dự trù nhu cầu chi. - Ban tài
chính xã phối hợp với đội thuế xã (nếu có) tính toán các khoản thu NSNN trên địa
bàn.
- Ban tài chính xã tính toán, cân đối, lập dự toán thu, chi ngân sách xã trình
UBND xã báo cáo chủ tịch và Phó chủ tịch HĐND xã để xem xét gửi UBND Huyện
và phòng tài chính huyện.
1.2.2. Quản lý khâu chấp hành dự toán ngân sách xã.
Chấp hành dự toán ngân sách xã là khâu tiếp theo khâu lập dự toán ngân sách
của một chu trình ngân sách, là quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế tài
chính và hành chính nhằm biến các chỉ tiêu thu chi ghi trong kế hoạch ngân sách năm
trở thành hiện thực. Để làm được điều đó cần tiến hành quản lý các khâu sau:
* Quản lý quá trình thu:
- Ban tài chính xã có nhiệm vụ phối hợp với cơ quan thuế giám sát, kiểm tra
các nguồn thu ngân sách Nhà nước đảm bảo thu đúng, thu đủ và kịp thời. Riêng
khoản thu từ quỹ đất công ích 5%, tài sản công và hoa lợi công sản là nguồn thu
thường xuyên của ngân sách xã, vì vậy không được khoán thầu thu một lần cho nhiều
năm. Trường hợp cần thiết có thể thu cho một số năm nhưng chỉ trong nhiệm kỳ của
HĐND.
- Trường hợp đối tượng phải nộp ngân sách có điều kiện nộp tiền trực tiếp vào
NSNN tại Kho bạc Nhà nước, thì căn cứ vào thông báo thu của cơ quan thu hoặc Ban
tài chính xã, đối tượng nộp ngân sách lập giấy nộp tiền và trích tài khoản hoặc mang
tiền mặt tới Kho bạc Nhà nước để nộp trực tiếp vào Ngân sách Nhà nước.
- Trường hợp đối tượng phải nộp ngân sách không có điều kiện nộp tiền trực
tiếp vào ngân sách Nhà nước tại KBNN, thì các khoản thu thuộc nhiệm vụ thu của cơ
quan nào thì cơ quan đó thu sau đó viết giấy nộp tiền mang tới KBNN để nộp vào
NSNN.
- Nghiêm cấm thu không có biên lai, thu để ngoài sổ sách.
- Trường hợp phải hoàn trả khoản thu ngân sách xã, KBNN xác nhận rõ số tiền
đã thu vào ngân sách xã để ban tài chính xã làm căn cứ thoái thu cho đối tượng được
hoàn trả.
- Chứng từ thu phải được luân chuyển theo đúng quy định.
- Đối với số thu bổ sung của ngân sách xã, phòng tài chính huyện căn cứ vào
dự toán bổ sung đã giao cho từng xã, dự toán thu chi từng quý của xã và khả năng cân
đối ngân sách huyện, thông báo số bổ sung hàng quý cho xã chủ động điều hành ngân
sách. Để đảm bảo cho xã có nguồn chi, nhất là chi cho bộ máy; phòng tài chính huyện
cấp số bổ sung cho xã theo định kỳ hàng tháng.
* Quản lý quá trình chi.
- Nguyên tắc chi:
+ Việc thực hiện chi phải đảm bảo điều kiện: Đã được ghi trong dự toán, đúng
chế độ, tiêu chuẩn, định mức quy định, được chủ tịch UBND xã hoặc người được uỷ
quyền chuẩn chi.
+ Cấp phát ngân sách xã chỉ dùng hình thức lệnh chi tiền. Trường hợp thanh
toán bằng tiền mặt phải kèm theo giấy đề nghị rút tiền mặt, Kho bạc Nhà nước kiểm
tra, nếu đủ điều kiện thì thực hiện thanh toán.
+ Trong trường hợp thật cần thiết như: Tạm ứng công tác phí, ứng tiền trước
cho khách hàng, cho nhà thầu theo hợp đồng, chuẩn bị hội nghị, tiếp khách, mua sắm
nhỏ được tạm ứng để chi khi có đủ chứng từ hợp lệ, Ban tài chính xã phải lập bảng
kê chứng từ chi và giấy đề nghị thanh toán tạm ứng gửi Kho bạc Nhà nước nơi giao
dịch làm thủ tục chuyển tạm ứng sang thực chi ngân sách.
+ Các khoản thanh toán từ ngân sách xã qua Kho bạc Nhà nước cho các đối
tượng có tài khoản giao dịch ở Kho bạc Nhà nước hoặc ở ngân hàng phải được thực
hiện bằng hình thức chuyển khoản.
+ Đối với các khoản chi từ các nguồn thu được giữ lại tại xã, Ban tài chính xã
phối hợp với Kho bạc Nhà nước định kỳ làm thủ tục ghi thu- chi vào ngân sách xã khi
làm thủ tục ghi thu- ghi chi phải kèm theo bảng kê chứng từ thu và bảng kê chứng từ
chi.
- Đối với chi thường xuyên:
+ Ưu tiên chi trả sinh hoạt phí, các khoản phụ cấp cho cán bộ xã, không để nợ
sinh hoạt phí và các khoản phụ cấp.
+ Các khoản chi thường xuyên khác phải căn cứ vào dự toán năm, tình hình
cấp bách của công việc, khả năng của ngân sách xã tại thời điểm chi để thực hiện chi
cho phù hợp.
- Đối với chi đầu tư phát triển:
+ Việc quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách xã thực hiện theo
quy định của nhà nước và phân cấp của Tỉnh, việc cấp phát, thanh toán quyết toán
vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách xã thực hiện theo quy định của Bộ tài
chính.
+ Đối với dự án đầu tư bằng nguồn đóng góp theo nguyên tắc tự nguyện của
nhân dân phải đảm bảo: Mở sổ theo dõi và phản ánh kịp thời mọi khoản đóng góp
bằng tiền, ngày công lao động, hiện vật của nhân dân. Quá trình thi công, nghiệm thu
và thanh toán phải có sự giám sát của Ban giám sát dự án do nhân dân cử. Kết quả
đầu tư và quyết toán dự án phải được thông báo công khai cho nhân dân biết.
1.2.3. Quản lý khâu quyết toán Ngân sách xã (NSX).
Quyết toán ngân sách xã là khâu cuối cùng của một chu trình ngân sách. Đó là việc
tổng kết lại quá trình thực hiện dự toán ngân sách năm, nhằm đánh giá toàn bộ kết quả
hoạt động của một năm ngân sách, từ đó rút ra những ưu, nhược điểm và bài học kinh
nghiệm cho những chu trình ngân sách tiếp theo. Do vậy quản lý khâu quyết toán NS
cần làm những công việc sau:
- Ban tài chính xã lập báo cáo quyết toán thu- chi ngân sách xã hàng năm trình
UBND xã xem xét để trình HĐND xã phê chuẩn, đồng thời gửi Phòng tài chính
huyện để tổng hợp. Thời gian gửi báo cáo quyết toán năm cho Phòng tài chính huyện
chậm nhất ngày 15/2 năm sau.
- Quyết toán chi ngân sách xã không được lớn hơn quyết toán thu ngân sách xã,
kết dư ngân sách xã là số chênh lệch lớn hơn giữa số thực thu và số thực chi ngân
sách xã. Toàn bộ kết dư năm trước (nếu có) được chuyển vào thu ngân sách năm sau.
- Sau khi Hội đồng nhân dân xã phê chuẩn, báo cáo quyết toán được lập thành
5 bản để gửi cho Hội đồng nhân dân xã, UBND xã, Phòng tài chính huyện (nếu có bổ
sung và điều chỉnh); lưu Ban tài chính xã và thông báo công khai nơi công cộng cho
nhân dân trong xã biết.
- Phòng tài chính huyện có trách nhiệm kiểm tra báo cáo quyết toán thu- chi ngân
sách xã; trường hợp có sai sót phải báo cáo UBND huyện yêu cầu HĐND xã điều
chỉnh.
1.3. Sự cần thiết khách quan phải tăng cường, củng cố công tác quản lý
ngân sách xã.
Xuất phát từ đặc điểm nổi bật của ngân sách xã vừa là một cấp ngân sách trong
hệ thống NSNN, vừa là một đơn vị dự toán. Ngân sách xã vừa thực hiện nhiệm vụ
thu-chi của một cấp ngân sách, vừa là đơn vị nhận bổ sung từ ngân sách cấp trên mà
không phải cấp bổ sung cho một cấp ngân sách nào khác. Với đặc thù là đơn vị hành
chính cấp cơ sở có mối quan hệ trực tiếp với dân, giải quyết mối quan hệ giữa Nhà
nước và nhân dân, cho nên ngân sách xã phải đảm bảo nguồn tài chính cho sự tồn tại,
hoạt động của bộ máy chính quyền xã, và là công cụ, phương tiện vật chất bảo đảm
thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước của chính quyền cơ sở trong quản lý và điều
hành phát triển kinh tế xã hội ở địa phương, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
giải quyết toàn bộ các mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân tại địa phương bằng
pháp luật.
Việc thừa nhận ngân sách cấp xã là một cấp trong hệ thống các cấp ngân sách
Nhà nước từ năm 1997 đã đánh dấu sự trưởng thành của ngân sách cấp xã. Việc quản
lý ngân sách xã theo luật NSNN là việc làm mới mẻ đối với các đơn vị hành chính
cấp cơ sở. Những Quyết định, văn bản, thông tư hướng dẫn nhằm bổ sung, sửa đổi
công việc quản lý ngân sách xã cho phù hợp với thực tế, đưa các văn bản, thông tư đi
vào cuộc sống hàng ngày tại địa phương là việc làm thường xuyên, liên tục. Đứng
trước sự phát triển ngày càng đi lên của đất nước nhằm tiến tới sự nghiệp Công
nghiệp hoá-Hiện đại hoá và từng bước hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn thì công
tác quản lý luôn tồn tại những hạn chế là điều khó tránh khỏi.
Trong khi đó, thực trạng công tác quản lý ngân sách xã của nước ta những năm
qua thì bên cạnh những thành tựu đã đạt được, cùng với sự đổi mới về cơ chế chính
sách tài chính nói chung, công tác quản lý ngân sách xã nói riêng từng bước được
củng cố và đạt được nhiều thành tựu quan trọng góp phần to lớn vào công cuộc xây
dựng và phát triển nông thôn mới. Công tác quản lý ngân sách xã còn tồn tại những
hạn chế nhất định trong cả 3 khâu của quy trình quản lý ngân sách xã. Dự toán ngân
sách xã vẫn chưa bao quát hết các nguồn thu tại xã, cơ cấu chi vẫn chưa hợp lý và vẫn
còn tình trạng điều chỉnh đự toán được duyệt khi thực hiện. Thực hiện quản lý còn
lỏng lẻo, chi ngân sách xã chưa được quản lý chặt chẽ, chế độ định mức chi chưa
thống nhất nên quyết toán còn thiếu công khai, dân chủ, việc kiểm tra, kiểm soát,
hướng dẫn của cơ quan chức năng các cấp còn hạn chế.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn ở trên, để đảm bảo cho sự phát
triển của đất nước trong điều kiện hiện nay, quá trình quản lý thu chi ngân sách xã
cần có những chính sách, công việc và những quy định cụ thể về công tác quản lý
NSNN nói chung và ngân sách xã nói riêng để ngân sách xã luôn giữ vững vai trò của
mình trong điều kiện hiện nay. Đảm bảo ổn định đời sống nhân dân, từng bước thay
đổi bộ mặt nông thôn mới. Vì vậy đặt ra một yêu cầu cần thiết phải tăng cường củng
cố công tác quản lý ngân sách xã cho phù hợp với nhiệm vụ, tình hình mới hiện nay
phù hợp với xu hướng phát triển chung của đất nước.
Như vậy, ngân sách xã ra đời và phát triển là một quá trình lịch sử gắn với
chức năng nhiệm vụ của chính quyền cấp cơ sở. Với đặc điểm nổi bật vừa là một cấp
ngân sách vừa là một đơn vị dự toán và với vai trò quan trọng của mình đòi hỏi phải
có một cơ chế điều hành công tác quản lý tài chính nói chung và công tác quản lý
ngân sách xã nói riêng, nhằm đảm bảo cho ngân sách xã thực sự là công cụ, phương
tiện vật chất cho chính quyền cơ sở thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Từ đó
đòi hỏi công tác quản lý ngân sách xã phải luôn được hoàn thiện cho phù hợp với tình
hình mới.
Chương hai
Thực trạng công tác quản lý ngân sách xã ở
Thái bình trong thời gian qua
2.1- Vài nét về đặc điểm, tình hình kinh tế-xã hội ở Thái bình: 2.1.1-
Đặc điểm về tự nhiên: Thái bình là một
tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ, phía Tây Nam giáp tỉnh Nam Định, phía Đông nam
giáp Vịnh Bắc Bộ, phía Bắc giáp tỉnh Hưng Yên, phía Đông giáp Thành phố Hải
Phòng. Với 49,25 km bờ biển cùng hệ thống giao thông thuỷ bộ đi Nam Định,
Hưng Yên, Hải Phòng, Hải Dương đã tạo thành mạch máu giao thông thuận lợi
cho phát triển kinh tế, giao lưu của nhân dân và tạo điều kiện thuận lợi cho lưu
thông hàng hoá giữa các đơn vị kinh tế trong tỉnh với tỉnh bạn và giao lưu quốc tế
trong cơ chế thị trường.
Với diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh là 154.224 ha, diện tích đất nông nghiệp
là 96.567 ha, trong đó đất canh tác là 94.300 ha, còn lại là đất thổ cư và sử dụng
cho mục đích khác. Tổng dân số trong tỉnh là 1.814.500 người, trong đó có
1.697.000 dân số sống ở nông thôn. Toàn tỉnh có 7 huyện, 1 thị xã, tổng số đơn vị
hành chính sơ sở là 285, trong đó có 272 xã, 6 phường và 7 thị trấn. Với lực
lượng lao động dồi dào là 1.060.700 người và phần lớn đều có trình độ văn hoá và
có kinh nghiệm trong sản xuất, cùng sự thuận lợi về địa lý làm phong phú thêm
tiềm năng, thế mạnh cho sự phát triển KT-XH của tỉnh nói chung và cho ngân sách
xã, phường nói riêng.
2.1.2- Đặc điểm về kinh tế:
Thái bình là một tỉnh kinh tế nông nghiệp, đời sống nhân dân còn thấp so
với các tỉnh trong khu vực. Trong những năm gần đây cùng với sự đi lên của nền
kinh tế đất nước, nền kinh tế Thái bình cũng có nhiều chuyển biến tích cực cụ thể :
* Về nông nghiệp:
Với đặc điểm đặc thù là một tỉnh thuần nông, do vậy phương hướng phát triển
kinh tế luôn coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; nên Tỉnh uỷ, HĐND, UBND
tỉnh đã chỉ đạo thực hiện tốt các Nghị quyết, Chỉ thị nhằm đưa nông nghiệp phát
triển toàn diện là việc làm cấp thiết như: Chỉ thị 100, khoán 10, nghị quyết 990,
luật đất đai. Tỉnh uỷ-UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo triển khai nghiêm túc các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tới người dân, mạnh dạn đổi mới
phương thức quản lý, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng, chuyển
đổi cơ cấu cây trồng-vật nuôi và tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp có sự tăng
trưởng mạnh và liên tục cả về năng suất, chất lượng. Với phương châm mạnh dạn
đầu tư thâm canh tăng vụ và áp dụng khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp nên
năng suất không ngừng tăng lên và bộ mặt nông thôn ngày càng thay đổi rõ dệt.
Theo đó mà năng suất lúa cũng ngày một tăng, nhiều xã đạt trên 13 tấn/ha; bên
cạnh đó việc đẩy mạnh đổi mới cơ cấu giống lúa theo hướng tiến bộ cũng làm tăng
năng suất luá ngày một cao hơn, cụ thể:
- Năm 1990 bình quân 460 kg/người
- Năm 1996 bình quân 553 kg/người
- Năm 1999 bình quân 579 kg/người
- Năm 2001 bình quân 595 kg/người.
Đời sống nông thôn không ngừng được cải thiện từ chỗ thiếu lương thực đã
phấn đấu đủ ăn và giành một phần cho xuất khẩu là một điều đáng khích lệ cho
người lao động. Ngành trồng trọt phát triển tạo điều kiện cho ngành chăn nuôi
cũng phát triển theo, số lượng đàn trâu-bò và đàn lợn không ngừng tăng lên qua
các năm; sản lượng và chất lượng thịt cũng ngày được nâng cao. Đàn lợn tăng
nhanh từ 402.100 con năm 1996 lên 776.000 con năm 2001; đàn bò tăng từ 29.160
con năm 1996 lên 40.263 con năm 2001.Bên cạnh đó,do nhu cầu phát triển của thị
trường,nhiều nơi đã tận dụng lợi thế của vùng, cũng đã mạnh dạn đầu tư vào chăn
nuôi một số loại gia súc, gia cầm như:Bò lai,Lợn hướng lạc,Gà công nghiệp,cá
lồng, vịt thịt, vịt lấy trứng,ngỗng làm thu nhập của người dân ngày càng tăng
cao.
* Về công nghiệp-TTCN: Ngành
nghề công nghiệp-TTCN trong tỉnh rất đa dạng và phong phú với tổng số 108
doanh nghiệp Nhà nước trong đó có 16 doanh nghiệp Nhà nước và 92 doanh
nghiệp địa phương cùng nhiều ngành nghề khác nhau nằm rải rác ở các địa
phương như: Tơ tằm, dệt vải ở Hưng Hà; chạm bạc ở Kiến xương; dệt chiếu và
làm cói ở Tiền Hải đã thu hút số lượng lớn lao động nông nhàn sau thời vụ sản
xuất nông nghiệp, góp phần nâng cao thu nhập cho nhân dân. Nhìn chung các
ngành phát triển tương đối đồng đều ở mọi thành phần kinh tế, việc chuyển đổi cơ
cấu, mở rộng đầu tư, nâng cao chất lượng sản phẩm đã đạt kết quả khá, thị trường
được mở rộng, chính sách phát triển nghề và làng nghề được triển khai có tác dụng
khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, yên tâm sản xuất. Đã hình thành
các khu công nghiệp ở Thị xã, Tiền Hải, Diêm Điền nhằm đẩy mạnh sự thu hút
đầu tư và tạo đà phát triển cho những năm sau. Một số dự án đầu tư trong và ngoài
nước đã được xây dựng và đi vào hoạt động. Một số ngành tăng mạnh như: Sản
xuất vật liệu xây dựng, dệt may, chế biến lương thực-thực phẩm xuất khẩu đưa
giá trị sản xuất ngành công nghiệp năm 2001 đạt 1.635,7 tỷ đồng tăng 14,6% so
với năm 2000. Trong đó khu vực quốc doanh đạt 451 tỷ đồng tăng 16,6%, quốc
doanh địa phương tăng khá, khu vực ngoài quốc doanh đạt 1.165 tỷ đồng, tăng
12% so với năm 2000; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 18,85 tỷ đồng. Sản
xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp các huyện, thị tăng khá như: Thị xã, Thái
Thuỵ, Vũ Thư
Tuy nhiên là một tỉnh thuần nông nên công nghiệp chưa đủ sức cạnh tranh
trên thị trường, đặc biệt là công nghiệp mũi nhọn chưa có, việc mở rộng quy mô
sản xuất tiến hành còn chậm, các nhà đầu tư nước ngoài cũng còn rất dè dặt khi
đầu tư vào tỉnh.
2.1.3- Đặc điểm về văn hoá-xã hội: Là
một tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ, có nền văn minh lúa nước lâu đời, với điều kiện
một mặt giáp biển, 3 mặt được bao bọc bởi hệ thống sông ngòi dày đặc nên nền
văn hoá trong tỉnh có sự khác biệt. Bên cạnh việc bảo tồn nền văn hoá lâu đời và
thu nhận nền văn hoá mới, tình hình văn hoá-xã hội Thái bình có nhiều tiến bộ
mới. Với hệ thống giáo dục đào tạo ngày càng được hoàn thiện, đã được là một
trong 3 tỉnh phổ cập xong giáo dục trung học cơ sở, gần 100% các cháu trong độ
tuổi đi học đều được đến trường, các trường phổ thông đã được tăng cường về cơ
sở vật chất, trang thiết bị dạy và học, không còn tình trạng học 3 ca, số học sinh
tốt nghiệp các cấp đạt 99% năm 2001, đội ngũ giáo viên được chú trọng trong việc
học, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu của ngành và nâng cao chất
lượng giảng dạy
Công tác y tế trong tỉnh đến năm 2001, nhìn chung có nhiều tiến bộ, những
năm gần đây không có dịch bệnh xảy ra, công tác phòng chống dịch bệnh, chăm
sóc sức khoẻ, tiêm chủng mở rộng được tiến hành thường xuyên, tỷ lệ trẻ em trong
độ tuổi quy định được tiêm chủng đạt 97%. Với mạng lưới y tế được tổ chức từ cơ
sở xã giúp nhân dân yên tâm sản xuất. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền sâu rộng
trong nhân dân về phòng và chống một số bệnh nguy hiểm thường xuyên nhưng
hiệu quả chưa cao. Công tác hoạt động văn hoá- thể dục thể thao mang tính quần
chúng rộng rãi được giữ vững và phát huy được bản sắc dân tộc. Công tác đoàn
thể ở địa phương hoạt động sôi nổi, công tác đoàn, đội, hội ở các xã thường xuyên
được quan tâm và giữ vững được vai trò của mình. Phong trào xây dựng nếp sống
văn hoá từ các gia đình đến làng xã tiếp tục được nhân rộng. Phong trào dân số-kế
hoạch hoá gia đình, nếp sống văn minh, gia đình văn hoá cùng với việc đấu tranh
phòng chống các tệ nạn xã hội đã góp phần giữ vững an ninh, ổn định kinh tế-
chính trị trên địa bàn. Đến năm 2001, các xã trong tỉnh đều có đội văn nghệ, các di
tích lịch sử văn hoá được bảo tồn tôn tạo, các hoạt động sinh hoạt truyền thống, lễ
hội phát huy được nền văn hoá tốt đẹp của địa phương. Nhìn chung công tác xoá
đói giảm nghèo, công tác dân số kế hoạch hoá gia đình; an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội được giữ vững. Tình hình nông thôn đang đi vào ổn định vững chắc,
đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện.
Song trong công cuộc đổi mới hiện nay, người dân có trình độ, tín ngưỡng
khác nhau đòi hỏi nội dung công tác văn hoá xã hội phải có những yêu cầu khác
nhau cho phù hợp với từng đối tượng.
2.1.4- Khái quát cơ cấu tổ chức của Sở Tài chính-Vật giá Thái bình: