Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

LUẬN VĂN: Một số biện pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.45 KB, 51 trang )

LUẬN VĂN:

Một số biện pháp tăng cường huy
động vốn tại Ngân hàng Cơng
thương Hồn Kiếm


LờI NóI đầu
Nền kinh tế nước ta có nhiều thay đổi lớn, sự nghiệp cơng nghiệp hố và hiện
đại hóa đất nước vẫn đang được tiếp tục thực hiện với nhiều thành công rực rỡ. Tuy
nhiên để tiếp tục thực hiện mục tiêu tăng gấp đôi tổng sản lượng quốc dân đến năm
2005 mà Đảng ta đề ra, chúng ta cần phải có khoảng 250 ngàn tỉ đồng vốn đầu tư. Vì
vậy, triển khai giải quyết vốn là vấn đề hết sức cấp bách cho nền kinh tế.
Để có được số vốn lớn này, tốt hơn hết là vốn được huy động từ trong nước qua
kênh ngân sách và hệ thống tín dụng. Chính vì lẽ đó việc mở rộng và nâng cao hiệu
quả hoạt động huy động vốn của hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng và của hệ
thống tín dụng nói chung rất được coi trọng và được xem như là một trong những giải
pháp chính nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của hệ thống tín dụng.
Nhìn vào tình hình huy động vốn của các tổ chức tín dụng tiêu biểu là của các
ngân hàng thương mại trong ngân hàng trong những thời gian vừa qua, ta có thể thấy
được những kết quả bước đầu đáng khích lệ, tuy nhiên nó cũng cịn nhiều mặt tồn tại
cần giải quyết và nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác này.
Trên cơ sở lý luận được học tại trường và kinh nghiệm thực tiễn thu được trong
q trình thực tập tại Ngân hàng Cơng thương Hoàn Kiếm và với tư cách là một sinh
viên tơi mạnh dạn đi vào nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề này thông qua đề tài : “Một số
biện pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm”.

2


Bài viết này được trình bầy làm 3 chương :


Chương I :

Vai trò của nguồn vốn trong hoạt động của

Ngân hàng thương mại.
Chương II : Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Cơng
thương Hồn Kiếm.
Chương III : Một số biện pháp tăng cường huy động vốn tại
Ngân hàng Công thương Hồn Kiếm.

Chương I
Vai trị của nguồn vốn trong hoạt động
của Ngân hàng thương mại.
I - khái quát về Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng là một trong những ngành công nghiệp lâu đời nhất. Trải qua quá
trình phát triển của xã hội loài người Ngân hàng và nghề Ngân hàng khơng ngừng
được hồn thiện và phát triển. Nếu như trong thời kỳ sơ khai hoạt động của Ngân hàng
chỉ giới hạn trong việc giữ hộ của cải hoặc thanh toán hộ thì cho đến nay hoạt động
của Ngân hàng đã được mở ra trên rất nhiều các lĩnh vực với cơng nghệ ngày càng
hồn thiện. Thực tế nhiều năm qua đã chứng tỏ cho thấy rằng : Ngân hàng là một
ngành nghề không thể thiếu được trong nền kinh tế, nó đóng vai trị làm mơi giới, làm
trung gian cho sự gặp gỡ của cung và cầu tiền tệ, thông qua việc huy động vốn tạm
thời nhàn rỗi từ dân cư và các tổ chức trong xãa hội rồi cho vay lại đối với cá nhân,
các tổ chức đang có nhu cầu về vốn. Điều này góp phần đẩy mạnh tốc độ quay vòng
của vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, biền tiền nhàn rỗi vào đầu tư sản xuất kinh
doanh, tránh lãnh phí của cải vật chất cho xã hội. Qua đó đẩy mạnh tốc độ phát triển
kinh tế mà tình hình hoạt động của Ngân hàng phản ánh rất chính xác tình hình nền
kinh tế, sự vững mạnh, phồn vinh hay yếu kém của nền kinh tế được phản ánh rất rõ
qua hoạt động của Ngân hàng.


3


Ngân hàng thương mại ra đời như một đứa con ưu tú nhất của nền kinh tế hàng
hố và chính Ngân hàng thương mại đến lượt mình đã ghóp phần quan trọng vào sự
phát triển của nền kinh tế hàng hoá.
Ngân hàng thương mại đầu tiên được thành lập vào năm 1782 và đã có rất
nhiều Ngân hàng được thành lập từ những năm 1800 đến nay vẫn đang hoạt động
chứng rỏ sức sống bền bỉ và sự tồn tại khách quan của các NHTM. Trong các định chế
tài chính thì NHTM là định chế quan trọng nhất vì nó giữ phần lớn của xã hội.
Hệ thống NHTM : Bao gồm các NHTM Quốc doanh, NHTM cổ phần, Ngân
hàng tư nhân với chức năng chính là kinh doanh thơng qua hoạt động trung gian tài
chính và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng. Hệ thống Ngân hàng thương mại hoạt động
dưới sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước thông qua các quy chế, quy định về hoạt
động và thông qua việc thực hiện các văn bản, chế độ của Ngân hàng Nhà nước để
thực hiện các định hướng trong chính sách tiền tệ tài chính của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống NHTM có nhữn địn bẩy tác động quan
trọng đến sản xuất và lưu thông đó là : tiền mặt, tín dụng, lãi suất ... NHTM có một
loên hệ vừa bao quát, vừa thâm nhập vào từng đơn vị cơ sở của nền kinh tế.
NHTM đã có mạng lưới rộng khắp địa bàn sản xuất phân phối lưu thông, tiêu
dùng trong cả nước. Hơn thế nữa, nó cịn có quan hệ rộng rãi và có vai trị quan trọng
về tiền tệ, tín dụng, thanh tốn giữa nước ta với nước ngồi.
Với mơ hình tổ chức trên, hoạt động của NHTM bao gồm những nội dung chủ
yếu sau :
+ Tạo nguồn vốn thông qua các hoạt động như : huy động vốn nhàn rỗi trong
dân cư, trong các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước dưới các hình thức:
- Tiền quỹ tiết kiệm có kỳ hạn.
- Tiền quỹ tiết kiệm không kỳ hạn.
- Phát hành kỳ phiếu Ngân hàng.
- Hậu tiền ký gửi

v.v...
4


Vay từ các tổ chức tín dụng trong và ngồi nước : vay các Ngân hàng Nhà
nước, nhận vốn điều hồ trong hệ thống.
+ Sử dụng vốn tự có và vốn vay thơng qua hoạt động tín dụng thực hiện các dự
án đầu tư dưới hình thức ghóp vốn hay mua trái phiếu kho bạc, tài trợ xuất nhập khẩu,
đầu tư kinh doanh bất động sản, kinh doanh vàng bạc đá quý ...
+ Thực hiện các dịch vụ Ngân hàng : thanh toán hộ, thu hộ, bảo hành thực hiện
các dịch vụ tư vấn khách hàng.
Ngân hàng thương mại hoạt động theo nguyên tắc tự chủ trong kinh doanh, thực
hiện hạch toán kinh tế độc lập, tuân thủ các chế độ, chính sách của Ngân hàng Nhà
nước và chính phủ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính với Bộ Tài Chính, bảo tồn vốn
và có lãi.
Thực tế đã chứng tỏ rằng, với mơ hình tổ chức trên, thì đây là mơ hình tổ chức
thích hợp nhất trong nền kinh tế thị trường, vì nó đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của
nền kinh tế, đồng thời phát huy được hết sức mạnh sẵn có trong mỗi NHTM và phát
huy được hết vai trị của cả hệ thống NHTM nói riêng và cả hệ thống Ngân hàng nói
chung.
II - vai trò của hệ thống NHTM đối với nền kinh tế:
Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua một thời gian dài trong cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp, nên bước vào cơ chế thị trường gặp rất nhiều khó
khăn. Vấn đề lo đủ vốn để phát triển kinh tế được đưa lên hàng đầu. Đối với một nền
kinh tế như nước ta thì vốn cần cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là hết sức lớn và
không ngừng tăng lên.
Công cuộc đổi mới mở ra toàn diện và bắt đầu đi vào chiều sâu, yêu cầu phải có
vốn để tăng tốc đầu tư, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế thưo chiều hướng cơng
nghiệp hố và hiện đại hóa, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh và lâu bền, tạo
sự phát triển kinh tế quan trọng cho các năm tới.

Đối với Ngân hàng thương mại, nó thể hiện được sự đáp ứng này đối với nền
kinh tế, thơng qua vai trị của mình là :

5


1) Ngân hàng thương mại là nơi huy động tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi
trong xã hội để cung cấp cho nhu cầu của nền kinh tế :
Như chúng ta đã biết trong xã hội luôn luôn tồn tại mâu thuẫn về sự thừa và sự
thiếu vốn một cách tạm thời, tức là có tình trạng một thời kỳ nào đó người thì thừa
tiền, trong khi lại có những người cần tiền. Đối với những người, những tổ chức có
tiền tạm thời nhãn rỗi, thì vấn để đối với họ là làm sao bảo quản được số tiền đó được
an tồn và nếu có thể sinh lợi được thì càng tốt. Nhưng để thực hiện được điều này, nó
cịn phụ thuộc vào khả năng, vào mối quan hệ của từng người, và thơng thường những
người có tiền tạm thời nhàn rỗi ln tìm cách cho những người hay những tổ chức
đang có nhu cầu về vốn vay trong một thời hạn nhất định chứ không trực tiếp đầu tư
vào sản xuất do sự giới hạn và khả năng thu hồi tiền mặt. Tuy nhiên điều này hầu như
rất khó thực hiện được. Do vậy, trong xã hội luôn luôn tồn tại mâu thuẫn này. Xét về
mặt kinh tế thì lượng tiền này nếu được tập trung lại để cho vay với những người đang
có nu cầu sẽ đem lại lợi ích kinh tế cho cả người có tiền nhàn rỗi và người có nhu cầu
về vốn nói riêng và đem lại hiệu quả kinh tế cho cả nền kinh tế nói chung, Ngân hàng
thương mại chính là người thực hiện chức năng cầu nối này.
2) Ngân hàng thương mại với hoạt động của mình ghóp phần tăng cường
hiệu quả hoạt động của sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và của
nền kinh tế nói chung.
Đặc trưng cơ bản của Ngân hàng là cho vay có hồn trả với một mức lãi suất
nhất định và với một thời hạn nhất định, chính điều này đã bắt buộc mọi cá nhân và
doanh nghiệp khi vay vốn của Ngân hàng phải cân nhắc và phải sử dụng vốn đó một
cách có hiệu quả nhất, để có thể bảo tồn vào sinh lợi được vốn đó, sau đó phải trả vốn
vay và lãi đúng thời hạn. Đây chính là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường

cơng tác hạch tốn, giảm chi phí sản xuất nhưng phải tăng chất lượng sản phẩm và
tăng vịng quay của vốn. Qua đó, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặt khác, trước
khi quyết định một món vay Ngân hàng thường tiến hành thẩm định tín dụng, chỉ thực
hiện cho vay đối với những cá nhân, doanh nghiệp phải có sự sắp xếp, bố trí tổ chức
sản xuất phù hợp, để có cơ hội vay vốn của Ngân hàng, đây chính là động lực, là cơ sở

6


giúp cho việc tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong
nền kinh tế, qua đó tăng hiệu quả nền kinh tế.
3) Ngân hàng thương mại là tổ chức thực hiện phân bổ vốn giữa các vùng
qua đó tạo điều kiện cho việc phát triển đồng đều giữa các vùng khác nhau trong
cùng một quốc gia.
Trong quá trình phát triển kinh tế của một nước và đặc biệt là các nước đang
phát triển, thì hiện tượng thừa và thiếu vốn giữa các vùng diễn ra thường xuyên. Cho
nên một vấn đề cần giải quyết được đặt ra là làm sao thực hiện được việc tập trung vốn
từ vùng có nhu cầu nhưng khơng có nguồn vốn sẽ có đủ nguồn vốn để phát triển kinh
tế. Chính Ngân hàng thực hiện hoạt động này thơng qua hoạt động điều chuyển vốn
của Ngân hàng thương mại trung ương.
4) Ngân hàng thương mại thông qua hoạt động của mình ghóp phần quan
trọng vào việc chống lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền, ổn định tình hình
kinh tế.
Trong hoạt động của mình, Ngân hàng có thể giảm bớt lượng tiền mặt trong lưu
thông bằng cách tăng lãi suất huy động để thu hút tiền mặt vào đồng thời tăng lãi suất
ở đầu ra để hạn chế lượng tiền mặt ra trong thời kỳ kinh tế có lạm phát cao, hoặc các
Ngân hàng có thể hành động ngược lại khi nền kinh tế có hiện tượng giảm sút. Qua
việc thay đổi trong chính sách huy động và cho vay như trên, Ngân hàng góp phần làm
ổn định sức mua của đồng tiền, ngăn chặn được sự tăng giá đột ngột, kiềm chế làm
phát làm ổn định nền kinh tế.

5) Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa kinh tế trong nước và ngoài nước,
tạo điều kiện cho nền kinh tế trong nước hòa nhập với nền kinh tế trong khu vực
và nền kinh tế trên thế giới.
Một Ngân hàng thương mại có phạm vi hoạt động và quan hệ rộng rãi với rất
nhiều tổ chức kinh tế. Nó có khả năng huy động được vốn từ các cá nhân, tổ chức
ngồi nước hay tổ chức tài chính tín dụng quốc tế, qua đó đảm bảo được vốn cho nền
kinh tế trong nước, tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế trong nước có thể mở rộng
hoạt động của họ ra nước ngồi một cách có hiệu quả hơn, thông qua hoạt động thanh

7


toán quốc tế, tư vấn tài trợ xuất nhập khẩu. Ngân hàng có thể làm đại lý cho các tổ
chức tài chính, tín dụng nước ngồi qua đó giúp các tổ chức kinh tế trong nước có thể
vau vốn các tổ chức này để nhập công nghệ cao, nang cao chất lượng sản phẩm đủ sức
cạnh trạnh với thị trường quốc tế.
Trên đây, là toàn bộ khái quát về vài trò của hệ thống Ngân hàng thương mại
hoạt động trong cơ chế thị trường. Trên góc độ một sinh viên nghiên cứu về hoạt động
đầu vào của một ngân hàng, mà chủ yếu là hoạt động huy động vốn ta sẽ xem xét kỹ
hơn vấn đền này thông qua việc huy động vốn của một Ngân hàng thương mại trong
nền kinh tế thị trường.
Iii - cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng thương mại :
Cũng giống như mọi hoạt động kinh tế khác, Ngân hàng muốn hoạt động được
trước hết phải có vốn. Nhưng vì mặt hàng kinh doanh của Ngân hàng rất đặc biệt, vì vị
trí và vai trị của nó cho nên nhu cầu về vốn của Ngân hàng thương mại là rất lớn, do
vậy nguồn vốn của Ngân hàng thương mại bao gồm :
1) Nguồn vốn tự có :
Nguồn vốn này được hình thành từ hai bộ phần là :
+ Vốn điều lệ: Đây là số vốn ban đầu của một Ngân hàng thương mại, là tiêu
chuẩn được thành lập và đi vào hoạt động của NHTM. Về mặt quy mơ thì vốn điều lệ

lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định.
Vốn điều lệ có thể do ngân sách Nhà nước cấp (đối với vốn NHTM quốc
doanh), có thể do các thành viên đóng góp dưới hình thức mua cổ phiếu (đối với
NHTM cổ phần) hoặc vốn điều lệ có thể do cá nhân tự bỏ vốn ra (đối với Ngân hàng
tư nhân).
Loại vốn này nói lên quy mô hoạt động và khat năng cạnh tranh ban đầu của
Ngân hàng. Các Ngân hàng thương mại có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn này
(đối với NHTM quốc doanh).
+ Vốn tích lũy : Vốn này được hình thành trong q trình hoạt động của Ngân
hàng thơng qua việc trích nộp các quỹ. Cứ mỗi Ngân hàng căn cứ vào kết quả hoạt

8


động của mình mà trích một phần lợi nhuận nhằm bổ xung vào vồn tự có của Ngân
hàng. Tuy nhiên, tỷ lệ này lại tuỳ thuộc vào quy định của từng nước.
2) Vốn dự trữ :
Theo quy định chung của các NHTM đều phải mở tài khoản tại các Ngân hàng
trung ương và nộp vào đó các khoản dự trữ bao gồm :
- Dự trữ tối thiểu pháp định.
- Dự trữ để đảm bảo các hoạt động của Ngân hàng.
- Các khoản dự trữ đặc biệt được pháp luật qui định.
3) Nguồn vốn điều hồ trong hệ thống.
Vì các NHTM hoạt động trên các địa bàn khác nhau nên luôn ln xuất hiện
tình trạng ở Ngân hàng này có hiện tượng thừa vốn do huy động nhiều nhưng không
sử dụng hết, trong khi đó Ngân hàng kia lại thiếu vốn. Sở dĩ có tình trạng này là do :
Về phía Ngân hàng thừa vốn có thể do sự biến động lớn ở thị trường đầu ra dẫn đến
việc không mở rộng được hoạt động trong khi vẫn phải duy trì việc huy động vốn vì
mục đích giữ khách hàng. Cịn về phía bên Ngân hàng thiếu vốn do thị trường đầu ra
mở rộng trong khi thị trường đầu vào không thể mở rộng được hơn nữa, dẫn đến tình

trạng thiếu vốn. Chính lúc này Ngân hàng trung ương hoặc các hội sở chính sẽ thực
hiện việc điều phối chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu trên cơ sở hai bên cùng có
lợi.
Chính vì thế, đây có thể coi là một nguồn vốn khá quan trọng, nó giúp Ngân
hàng có thể mở rộng được thị trường đầu ra trong điều kiện thị trường đầu vào vẫn còn
bị hạn chế và qua đó làm tăng lợi nhuận của Ngân hàng.
4) Nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng :
+ Nguồn vốn vay Ngân hàng nhà nước:
NHTM thực hiện việc vay tiền của Ngân hàng Nhà nước thơng qua hình thức
chiết khấu các giấy tờ có giá. Khi Ngân hàng có nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng,
họ có thể mang các giấy tờ có giá như : tín phiếu, trái phiếu kho bạc Nhà nước, tiền

9


triết khấu. Nguồn vốn này hình thành chủ yếu là để đảm bảo kảh năng thanh toán của
Ngân hàng.

+ Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng quốc tế :
Đây là loại vốn vay chiếm tỷ trọng không lớn ở nhữn nước đang phát triển, bởi
vì ở các nước này Ngân hàng muốn có được vốn ở nguồn này phải được phép của
Ngân hàng Nhà nước và thường dưới hình thức vay theo hiệp định.
5) Nguồn vốn huy động:
Đây là nguồn vốn chủ yếu và quan trọng nhất để Ngân hàng có thể hoạt động
để cho vay. Đây là số tiền Ngân hàng nhận được dưới nhiều hình thức khác nhau.
- Nhận tiền gửi của khách hàng.
- Vốn đi vay của các tổ chức tín dụng.
- Vốn phát hành.
Ngân hàng có quyền sử dụng số tiền này để phục vụ cho các mục đích của
mình. Nếu như trong thời kỳ bao cấp, việc huy động vốn của Ngân hàng theo quy chế

tập trung toàn ngành và phụ thuộc vào chủ tiêu do trên giao thì này chuyển sang hạch
tốn kinh doanh, huy động vốn đuợc thực hiện một cách linh hoạt căn cứ vào các
chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước và nhu cầu vay vốn của nền kinh tế.
Chi tiết về các hình thức này sẽ được trình bầy trong phần “ Các hình thức huy
động vốn của Ngân hàng”
IV - các hình thức huy động vốn của NHTM :
1 Tính chất vận động của nguồn vốn huy động :\
Ngân hàng hoạt động theo nguyên tắc “đi vay để cho vay”. Do đó, khi huy động
vốn, giữa Ngân hàng và các tổ chức kinh tế hình thành một quan hệ tín dụng thơng qua
vận động giá trị tiền gửi, vồn huy động được vận động trên cơ sở hồn trả và có lãi.
Q trình đó được thể hiện ở giai đoạn sau :

10


- Giai đoạn tập trung nguồn vốn vào ngân hàng, ở giai đoạn này tiền được
chuyển từ các tổ chức kinh tế, dân cư, người cho vay sang Ngân hàng - người đi vay.
Như vậy, ta thấy rằng đặc điểm cở bản khác với việc đi mua bán hàng hoá là giá trị chỉ
thay đổi hình thái tồn tại. Mác viết : “Đối với hàng hoá đơn giản với tư cách là hàng
hố thì ở trong tay người mua hay người bán, nó cũng vẫn là một giá trị như thế,
chỉ dưới hình thức khác nhau mà thơi”. Người bán và người mua đều có một giá trị
như trước, giá trị này mà họ đã nhượng đi, người thứ 1 thì nhượng đi dưới hình thức
hàng hố, người thứ 2 nhượng đi dưới hình thức tiền tệ ... trong việc cho vay thì chỉ có
một bên được nhận giá trị và chỉ có một bên nhượng đi giá trị mà thôi...? ( Các Mác tư
bản tập 3 trang 32).
- Sử dụng vốn trong quá trình sản xuất sau khi huy động vốn ngân hàng (người
đi vay) được quyền sử dụng vốn đó để thoả mãn những nhu cầu về vốn nhất định ở
giai đoạn nàynguồn vốn huy động được sử dụng tham gia trực tiếp vào sản xuất hoặc
đáp ứng những nhu cầu về tiêu dùng của người đi vay. Tuy nhiên người đi vay khơng
có quyền sở hữu về giá trị các khoản vay khơng có quyền sở hữu về gía trị các khoản

vay đó mà chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định.
- ở giai đoạn hồn trả: Đây có thể nói là giai đoạn kết thúc một vịng tuần hồn
của nguồn vốn huy động. Sau khi vốn mà ngân hàng đã huy động tham gia hoàn thành
một chu kỳ sản xuất để trở về hình thái tiền tệ thì ngân hàng hồn trả cho các tổ chức
kinh tế và dân cư.
Mác viết: “ Tiền chẳng qua chỉ rời khỏi tay người sở hữumột thời gian và
chẳng qua chỉ là tạm thời chuyển từ tay người sở hữu sang tay nhà tư bản hoạt
động. Tiền chỉ đem nhượng lại với một điều kiện là sẽ quay trở về điểm xuất phát
sau một thời gian nhất định”
( Các Mác- tư bản quyển 3 tập 2 trang 57).
Như vậy, hoàn trả là đặc trưng thuộc về bản chất vận động của vốn tín dụng.
Mặt khác sự hoàn trả của mỗi nguồn vốn huy động là quá trình quay trở về giá trị.
Hình thái vật chất của sự hồn trả là sự vận động dưới hình thức giá trị. Tuy nhiên sự
vận động đó khơng phải vơí tư cách là phương tiện lưu thông mà với tư cách là một
lượng giá trị vận động. Chính vì lý do đosự hồn trả ln được bảo tồn về mặt giá trị
11


và phần tăng thêm dưới hình thức lợi tức. Ngay cả trong điều kiện lạm phát sự hoàn trả
về mặt giá trị cũng phải được bảo đảm và tôn trọng thông qua cơ chế điều tiết bằng lãi
xuất.
2. Những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô nguồn vốn huy động.
Vốn huy động của ngân hàng chủ yếu được hình thành thơng qua q trình tập
trung một bộ phận tiền tệ của dân cư, của các đơn vị kinh tế . Do vậy hoạt động huy
động vốn của một ngân hàng thương mại chịu tác động của rất nhiều yếu tố, từ các yếu
tố mang tính chất vĩ mơ đến các yếu tố ở tầm vi mơ. Trong đó các yếu tố chính yếu
được phân tích như sau:
a. Yếu tố lãi xuất huy động:
Không phải ngân hàng cứ đưa ra được mức lãi xuất cao là có thể thu hút được
vốn nhàn rỗi của dân cư mà vấn đề là ở chỗ với mức lãi xuất cụ thể do ngân hàng đưa

ra sẽ đem lại cho người gửi tiền mức lợi tức thực tế là bao nhiêu, điều đó có nghĩa là
mức lãi xuất mà ngân hàng đưa ra phải đảm bảo luôn lớn hơn tỉ lệ lạm phát.
Thông thường quy mô của tiền gửi ngân hàng biến động tỷ lệ thuận với lãi xuất
huy động. Tuy nhiên trong những trường hợp đặc biệt thì quy luật này bị phá vỡ.
Chẳng hạn khi lãi xuất huy động giảm nhưng người g ửi vẫn thu được một khoản lợi
tức sau khi đã trừ đi tỷ lệ trượt giá thì vốn lưu động ở ngân hàng vẫn có thể tăng lên.
Như vậy, có thể nói lãi suất huy động là yếu tố ảnh hưởng lơn đến quy mô nguồn vốn
thu hút vào Ngân hàng. Tuy nhiên, lãi suất vấn ảnh hưởng lớn nhất đến tiền gửi tiết
kiệm, Chính vì lẽ đó, khi đưa ra mức lãi suất huy động cụ thể, Ngân hàng cần phải căn
cứ vào tình hình nền kinh tế, vào chính sách tín dụng phương hướng phát triển kinh tế
của Nhà nước.
b) Tính chất ổn định của nền kinh tế xã hội :
Một xã hội, một nền kinh tế được đánh giá là ổn định khi nó khơng có dấu hiệu
xảy ra của làm phát, của khủng hoảng hay chiến tranh. Nếu nền kinh tế xã hội được ổn
định thì đời sống nhân dân được nâng cao. Việc sản xuất kinh doanh của các thành
phần kinh tế được phát triển thì vốn Ngân hàng sẽ lớn. Cịn ngược lại trong điều kiện
nền kinh tế bất ổn định giá cả và do đó sức mua của đồng tiền thau đổi thường xuyên,
12


dân cư thường có xu hướng giữ tiền mặt hoặc quy đổi ra các đồng tiền khác có tính ổn
định cao và cất giữ trong gia đình thay vì đem số tiền đó đến gửi tại các Ngân hàng,
các quỹ tiết kiệm. Đặc biệt là trong các nước mà hệ thống Ngân hàng thương mại chịu
sự kiểm soát chặt chẽ của Ngân hàng trung ương trong vấn đề lãi suất thì hiện tượng
trên rất phổ biến do sẹ thay đổi vủa lãi suất huy động mà Ngân hàng đưa ra không thau
đổi kịp với sự biến động của giá cả trên thị trường.
c) Yếu tố tiết kiệm trong nền kinh tế:
Vốn huy động của một Ngân hàng thương mại chủ yếu được hình thành từ
nguồn huy động trong dân cư. Đây là lượng tiền tạm thời nhàn rỗi có được chủ yếu là
do tiết kiệm, chính vì vậy mà cơng tác huy động vốn của một Ngân hàng chịu ảnh

hưởng rất lớn của yếu tố tiết kiệm. Nếu có tiết kiệm sẽ làm tăng khối lượng tiền nhàn
rỗi trong xã hội, qua đó có thể làm tăng quy mơ và chất lượng công tác huy động vốn
của Ngân hàng. Tuy nhiên, bản thân yếu tố tiết kiệm chịu sự tác động của các yếu tố
khác như :
*

Tâm ly người tiêu dùng trong dân cư : Yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến

yếu tố tích kiệmm, bởi vì tâm lý tiêu dùng của dân rất khác nhau giữa các vùng, các
địa phương và các quốc gia. Có thể với cùng một mức thu nhập, cùng một giá sinh
hoạt như nhay nhưng ở nơi này lượng tiền bỏ ra vào tiết kiệm rất lớn nhưng ở nơi khác
lại rất nhỏ do tâm lý thích tiêu dùng của dân cư ở đây. Chính vì lẽ đó thu nhập cao
chưa hẳn tiết kiệm đã cao.
*

Thu nhập của dân cư : Dân cư có thu nhập càng cao thì khối lượng tiền dành

cho tiết kiệm có thể cũng tăng nhiều, bởi vì với mức thu nhập lớn thì khả năng thoả
mãn các nhu cầu thiết yếu sẽ cao hơn và do đó sẽ có nhiều khoản tiết kiệm hơn
d) Một số yếu tố khác:
*

Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng : Nếu hình thức này mà Ngân

hàng đưa ra càng phong phú, đa dạng, linh hoạt và thuận tiện thì khả năng thu hút vốn
đầu tư từ trong nền kinh tế càng lớn. Tuy nhiên, mức độ đa dạng của các hình thức
huy động mà Ngân hàng đưa ra còn phụ thuộc rất lớn vào đặc điểm kinh tế khu vực,

13



vào khả năng của Ngân hàng, chính vì vậy mà Ngân hàng cần phải lựa chọn xem hình
thức huy động nào là mang tính hiệu quả cao nhất.
*

Các dịch vụ kèm theo : Ngân hàng cũng là hoạt động dịch vụ, nhưng dịch vụ

kèm theo các nghiệp vụ chính của nó khơng vì thế mà mất đi séc hấp dẫn, trong công
tác huy động vốn Ngân hàng nào tổ chức tốt được cơng tác dịch vụ kèm theo các hình
thức tổ chức huy động của mình sẽ có khả năng thu hút được nhiều khách hàng hơn và
việc tổ chức tốt công tác dịch vụ kèm theo trong công tác huy động vốn nói riêng,
trong hoạt động của Ngân hàng nói chùng được xem là một trong những biện pháp
nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng.
Trên đây, là nhữn nhân tố chính ảnh hưởng đến quy mô nguồn vốn huy động
của một Ngân hàng thương mại trong đó yếu tố tiết kiệm được xem là yếu tố chính
nằm bên ngồi Ngân hàng, Ngân hàng chỉ có thể tác động đến yếu tố này thơng qua
hoạt động quảng cáo và sự phối hợp giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức Nhà nước và
dân cư trong xã hội. Các yếu tố còn lại là các yếu tố nội tại trong Ngân hàng, do vậy
mọi Ngân hàng phải có chính sách và hoạt động một cách tích cực, có lợi và hiệu quả
nhất đối với cơng tác huy động vốn. Tuy vậy, kết quả ra sao cịn tuỳ thuộc vào đặc
điểm, trình độ và khả năng của mỗi Ngân hàng.
3) Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng.
Một trong những hoạt động chủ yếu nhất của Ngân hàng thương mại là huy
động vốn để cho vay, để hiểu rõ hơn về hoạt động huy động vốn của Ngân hàng
thương mại ta có thể phân loại ra nghiệp vụ vốn theo sơ đồ sau :

14


Nguồn vốn huy động của

Ngân hàng thương mại

Vốn đi vay của
tài chính tín
dụng

Tiền gửi của
khách hàng

Tiền ký
gửi

Tiền
tiết
kiệm

Ký gửi
khơng kỳ
hạn

Vốn phát hành

Phát
hành
trái

Ký gửi có
kỳ hạn

Gửi để

dành có
hạn

Phát
hành kỳ
phiếu

Gửi rút ra
phải báo
trước

3.1 Tiển gửi của khách hàng:
Tiền gửi của khách hàng bao gồm : tiền gửi tiết kiệm và tiền ký gửi.
a) Tiền ký gửi:
Tiền ký gửi gồm các khoản tiền gửi vào Ngân hàng có kỳ hạn và khơng kỳ hạn.
Lịch sử phát triển hoạt động Ngân hàng cho thấy để bảo quản tốt tiền vàng, người ta
đã thuê sở đúc tiền giữ hộ và sở này sẽ có một khoản thu nhập từ việc bảo quản tiền
vàng. Đây là hình thức ban đầu của nghiệp vụ ký gửi.
15


Hiện nay có rất nhiều loại tiền ký gửi. Đó là nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong
tài khoản của các cơ quan xí nghiệp. Để có được tuận lợi trong sản xuất kinh doanh
các cơ sở kinh tế có thể lựa chọn một hay nhiều Ngân hàng thương mại để giao dịch
nhằm giải quyết việc thu chi chuyển tiền thanh tốn và các dịch vụ tài chính khác.
Xét về mặt nghiệp vụ Ngân hàng thì tiền ký gửi có thể phân thành hai loại
chính đó là :
*

Tiền gửi khơng kỳ hạn : đây là số tiền nằm trong tài khoản vãng lai hoặc tài


khoản thanh tốn và có thể rút ra vào kỳ lúc nào.
Pháp luật một số nước khơng cho phép tính lãi đối với tiền tạm thời nhãn rỗi
trong tài khoản cơ quan xn. Tuy nhiên, cũng có nước cho phép tính lãi nhưng rất thấp.
Tiền gửi khơng kỳ hạn trước hết được dùng để thanh tốn vãng lai, vịec thanh
tốn vãng lai này có thể tiến hành dưới dạng tiền mặt, séc hoặc uỷ nhiệm chi. Sau khi
mở tài khoản thanh toán tại Ngân hàng, chủ tài khoản phải giao cho Ngân hàng quyền
ghi chép, theo dõi các nghiệp vụ phát dinh trên tài khoản của họ ở Ngân hàng. Chi phí
hoạt động này của Ngân hàng khá lớn nhưng trên thực tế Ngân hàng có thể bù đắp
được khoản chi phí này qua việc sử dụng số dư các tài khoản này để cho vay lại, và
đây chính là nguồn mang lại lợi nhuận lớn cho Ngân hàng.
Tiền gửi khơng kỳ hạn có thể để ở tài khoản vãng lai hay tài khoản tiền gửi. Hai
loại tài khoản này khác nhau ở chỗ nếu để ở tài khoản tiền gửi thì chủ tài khoản được
sử dụng số thực của mình nghĩa là tài khoản khách hàng phải ln ln dư có. Loại tài
khoản này thuận lợi, an tồn, tuy có lãi suất thấp, thuận tiện trong thanh tốn (có thể
chuyển đổi thành tiền mặt 100%) nên đây là loại tài khoản rất hấp dẫn khách hàng, tạo
ra một lượng vốn lớn phục vụ hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
Nếu ở tài khoản vãng lai thì chủ tài khoản có thể rút tài khoản ra bất cứ lúc nào
hoặc tạm vay trong thời hạn nhất định vì tài khoản có thể dư nợ hoặc dư có. Nhưng
trên thực tế hiện này trong các tài khoản tiền gửi cũng có thể dư nợ nếu có sự thoả
thuận trước giữa khách hàng và Ngân hàng.
Đối với tài khoản vãng lai có hai loại lãi suất được áp dụng đồng thời: lãi suất
mà đơn vị phải trả cho Ngân hàng (nếu dư nợ trên tài khoản) và lãi suất lãi suất này do

16


chủ tài khoản và Ngân hàng phải trả cho đơn vị (nếu tài khoản dư có), hai lãi suất này
di chủ tài khoản và Ngân hàng thoả thuận trước và lãi suất trả cho số dư nợ luôn lớn
hơn lãi suất trả cho số dư có. Chính vì vậy mà khách hàng ln tìm cách bỏ tiền vào tài

khoản nhằm giảm mức dư nợ đến mức thấp nhất, từ đó làm tăng nguồn vốn của Ngân
hàng.
Trong những năm qua ý nghĩa của tiền gửi không kỳ hạn ở Ngân hàng tăng lên
rõ rệt. Nếu trước đây những tài khoản tiền gửi ở Ngân hàng chủ yếu của doanh nghiệp
và của những người thu nhập cao thì ngày nay đa số cơng nhân viên chức đều có tài
khoản tiết kiệm bởi vì một mặt các cơng ty, xí nghiệp hợp lý nhất là trả lương khơng
bằng tiền mặt, thêm vào đó ngân hàng thương mại lại có rất nhiều dịch vụ giúp cho
chủ tài khoản thanh thanh toán kịp thời nhanh chóng các tài khoản chi tiêu thường kỳ
của họ như : tiền thuê nhà, thuê bao điện thoại, nộp thuế ...
Do đó tiền gửi khơng kỳ hạn đã trở thành một nguồn cho vay hết sức quan
trọng đồng thười cũng đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho Ngân hàng.
*

Tiền g ửi có kỳ hạn : là loại tiền gửi khơng dùng để thanh toán mà chủ yếu là

để kiếm lời cao. So với tiền gửi vãng lai thì loại tiền gửi này có thời hạn gửi tiền dài
hơn thơng thường ít nhất là 1 tháng. Tiền gửi có kỳ hạn đối vơi snhh là số tiền gửi đến
một ngày nhất định mới phải trả lại cho khách hàng. Điều này giúp cho Ngân hàng
nắm được vốn trong các thời kỳ đã có kế hoạhc cho vay khơng phải tồn quỹ cao để đề
phịng sự rút vốn bất thường. Đo đó việc sử dụng nguồn vốn này cho vay rất hiệu quả,
vì vậy lãi suất trả cho tiền gửi có kỳ hạn cao hơn tiền gửi không kỳ hạn.
Đối với tiền có kỳ hạn đến hạn mới được lấy ra, nếu xét về nguyên tắc. Tuy
nhiên trong trường hợp ngoại lệ người gửi muốn rút tiền ra trước thời hạn, trong
trường hợp này có 2 cách giải quyết.
*

Hoặc người gửi tiền ấy được vay của Ngân hàng một khoản tiền mà họ cần, sau

đó khi đến hạn trả tiền sẽ sử dụng tiền đó để hồn trả cho Ngân hàng.
*


Hoặc thoả thuận với Ngân hàng rút trước thời hạn nhưng hưởng lãi suất thấp.

17


Ta thấy trong mọi trường hợp thì Ngân hàng ln tự chủ được về thời hạn hoàn
trả tiền ký gửi cho khách hàng, vì vậy đấy là một nguồn rất quan trọng, có độ ổn định
cao của Ngân hàng.
b) Tiền gửi tiết kiệm:
ở các nước trên thế giới, nhất là các nước cơng nghiệp hố phát triển tiền tiết
kiệm là loại tiền có số lượng lớn thứ hai trong số các loại tiền gửi vào Ngân hàng. Đặc
điểm của loại tiền gửi này là người gửi tiền được giao cầm sổ tiết kiệm, sổ này được
coi như là giấy chứng nhận việc gửi tiền vào Ngân hàng của khách hàng. Gửi tiết
kiệm là những người có được một số tiền tích luỹ bằng ngoại tệ hay nội tệ nhất định và
muốn tích luỹ số tiền này theo kiểu “tích tiểu thành đại”, Hoặc do số tiền của họ không
đủ lớn để đầu tư sản xuất kinh doanh, hoặc người chủ khơng có khả năng hoặc khơng
thích kinh doanh, khi đó họ sẽ đến Ngân hàng để gửi tiền.
Tiền gửi tiết kiệm chia làm 2 loại :
- Gửi tiền có kỳ hạn.
- Gửi tiền khơng kỳ hạn.
*

Gửi tiền có kỳ hạn : nghĩa là gửi tiền theo một thời gian nhất định đến một

ngày mới trả lại cho người gửi tiền. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 9
tháng, 12 tháng...
Với loại tiền gửi này tuỳ theo pháp luật của từng nứoc mà sẽ có những quy định
cụ thể khác nhau về việc rút tiền. Đối với loại gửi tiền này thì người gửi tiền và quỹ
tiết kiệm không phải thoả thuận trước về thời hạn rút tiền mà cả hai bên đều phải tuân

thủ những quy định của pháp luật. Ví dụ như : trong một thời hạn nhất định người gửi
tiền chỉ được rút ra một số tiền nhất định, muốn rút số tiền lớn hơn phải báo trước cho
Ngân hàng trong một khoảng thời gian nhất định được quy định.
*

Gửi tiền không kỳ hạn : đây là hình thức gửi tiền mà thời hạn rút do bên

người gửi và Ngân hàng tự thoả thuận. Đối với tiền gửi này các Ngân hàng thuộc cấc
thành phần như nhân dân lao động, công nhân viên chức, học sinh, các khoản tiền này
chủ yếu là để dành dụm nhằm trang trải chi tiêu cần thiết, đồng thời có một khoản tiền

18


lãi bù đắp co sịnh hoạt hàng ngày. Trong trường hợp đa số thời hạn báo trước là một
vài ngày kể từ sau thời hạn thoả thuận rút tiền ban đầu.
Qua một số điểm phân tích ta thấy, với loại tiền gửi có kỳ hạn thì Ngân hàng có
thể dự tính được tồn bộ các vấn đề phát sinh đối với khoản tiền này như : khi nào
phải trả tiền và sử dụng bao nhiêu và trong bao lâu theo các thời hạn khác nhau cho
Ngân hàng chủ động biết được thời hạn của người gửi tiền và do tính thời hạn ổn định
của loại tiền gửi này. Trong khi đó với loại tiền gửi khơng kỳ hạn, thời hạn rút tiền
khơng ổn định do khách hàng có thể rút tiền vào bất cứ lúc nào, nếu họ cần vì vậy
Ngân hàng khơng thể sự dụng tồn bộ số tiền này để cho vay mà chỉ dùng một phần
mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn, số còn lại thường thì Ngân hàng đầu tư vào cầm cố
bất động sản, vào mua chứng khốn, cơng trái nhà nước ... đễ dễ dàng nhanh chóng
chuyển để thanh thanh tốn bằng tiền mặt. Chính vì vậy mà lãi suất tiết kiệm có kỳ hạn
luôn cao hơn lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn và Ngân hàng làm như vậy là nhằm tăng
cường khối lượng vốn ổn định cho mình.
Trên đây là các hình thức huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế trong
khuôn khổ nguồn tiền ký gửi và tiết kiệm. Hiện nay, ở các nước trên thế giới (kể cả

Việt Nam) người ta cho rằng vận động nhân dân gửi tiết kiệm là một trong các nghiệp
vụ quan trọng của Ngân hàng. Bởi vì nếu huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân
cư sẽ có tiền cấp phát cho phát triển cơng nghiệp, nơng nghiệp, góp phần phát triển
kinh tế xã hội.
Bên cạnh các hình thức huy động vốn như trên, Ngân hàng thương mại còn một
số hình thức huy động tiền tiết kiệm của dân cư như :
+ Tiết kiệm xây dựng nhà ở : đây là hình thức “đi vay để cho vay” của
Ngân hàng. Hình thức đưa ra nhằm mục đích tạo vốn cho Ngân hàng nhưng đồng thời
giúp dân cư có tiền để giải quyết vấn đề nhà ở, thơng qua đó giảm bớt thời gian vốn bị
ứ đọng. Theo hình thức này thì khách hàng phải gửi đủ tiền theo hợp đồng đã ký kết
với Ngân hàng, sau một thời gian tối thiểu là 1 năm khách hàng được rút tiền gửi cả
gốc và lãi đồng thời được Ngân hàng cho vay một số vốn tối đa bằng số tiền đã gửi và
Ngân hàng phải chịu trách nhiệm về việc huy động vốn và chuẩn bị đủ vốn để thanh
thanh toán với khách hàng theo quy định.
19


+ Tài khoản séc dùng cho cá nhân : thủ tục mở tài khoản này giống như thủ
tục gửi tiền tiết kiệm nhứng thay vì được phát một quyển sổ tiết kiệm người mở tài
khoản sẽ được cấp một tập séc. Mọi khoản thanh tốn của họ có thể thực hiện dưới
hình thức phát séc.
3.2. Vốn đi vay của các tổ chức tín dụng :
Trong thực tế , các Ngân hàng thương mại ln có sự khơng cân đối giữa nguồn
vốn huy động và nguồn vốn sử dụng, vì vậy khi thiếu vồn đột xuất Ngân hàng thương
mại có thể vay của các tổ chức tín dụng khác thơng qua thị trường liên Ngân hàng.
Thị trường này giúp cho Ngân hàng thương mại bổ sung nguồn vốn cho nhau,
giải quyết nhanh nhu cầu thiếu hụt trong thanh toán vủa nền kinh tế. Hoạt động của thị
trường này nhằm tận dụng đến mức cao nhất các khả năng sẵn có một cách triệt để
trước khi cần yêu cầu đến tiền trung ương.
Tỷ trọng của nguồn này trong tổng nguồn vốn phản ánh quan hệ của Ngân hàng

với các tổ chức tài chính khác và chất lượng cơng tác thanh tốn của Ngân hàng bởi
nếu tỷ trọng của nguồn này lớn, chứng tỏ rằng Ngân hàng rất có uy tín trong quan hệ
thanh toán cả đối với khách hàng và đối với các tổ chức tín dụng khác.
ở nước ta hoạt động của thị trường liên Ngân hàng còn hạn chế về quy mơ hoạt
động , do đó khó khăn chung về nguồn vốn vủa cả hệ thống và thiều các định chế thích
hợp.
3.3. Vốn phát hành:
Vốn phát hành của Ngân hàng thuộc loại : “ chủ động thu gom” đây là hình
thức huy động thơng qua phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Những hình thức huy động
vốn ở trên đựoc xếp vào loại “bị động thu gom”. Xét về bản chất thì hai loại này
khơng khác nhau nhiều, tuy nhiên nó khác nhau ở chỗ :
*

Lãi suất “vốn chủ động đi vay” cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm.

*

“vốn chủ động đi vay” được huy động theo sáng kiến của từng Ngân hàng,

đây là khoản tiền nhận gửi có bảo đảm ché không phải tiền gửi đơn thuần. Vốn này
cũng thuộc loại tín dụng dài hạn, trung hạn, ngắn hạn.

20


Với loại “vốn chủ động đi vay” Ngân hàng hoàn thanh tốnàn tự chủ về mặt
thời hạn hồn trả do đó có thể sử dụng cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn là tuỳ thuộc
vào thời hạn của vốn vay và mặc dù lãi suất xao hơn thông thường Ngân hàng vẫn
được lợi nhiều từ hình thức huy động này.
Tóm lại, với những hình thức huy động vốn như trên của Ngân hàng thương

mại, các Ngân hàng có thể thực hiện được việc kết hợp giữâ huy động vốn và cho vay
một cách nhịp nhành. Do đó, nếu thực hiện đầy đủ các nguyên tắc của mỗi hình thức
huy động vốn nói trên, Ngân hàng có thể vừa mở rộng đuợc thị trường đầy vào đồng
thời mở rộng được ln thị trường đầu ra cho mình, bảo đảm cho Ngân hàng luôn luôn
nắm được thế chủ động trong kinh doanh kinh doanh.
Tuy nhiên, tuỳ theo đặc điểm của nền kinh tế, đặc điểm của từng khu vực hoạt
động và đặc điểm của từng Ngân hàng mà các hình thức huy động này đuợc biến đổi
và thực hiện cho phù hợp.
Để thấy rõ hơn được hoạt động này tại Việt Nam, ta sẽ đi sâu vào xem xét thực
tế của hoạt động huy động vốn tại một Ngân hàng thương mại cụ thể, đó là Ngân hàng
cơng thương Hồn Kiếm.

21


Chương II
thực trạng huy động vốn
tại Ngân hàng công thương hồn kiếm
I - khái qt về Ngân hàng cơng thương hồn kiếm :
Ngân hàng cơng thương Hồn Kiếm là một chi nhấnh của Ngân hàng Cơng
thương Việt Nam, có trụ sở tại số 37 Hàng Bồ quận Hoàn Kiếm - Hà Nội. Đây là khu
vực nằm ở trung tâm thủ đô Hà Nội, là trung tâm kinh tế - Văn hố - Chính trị của thủ
đơ, là mơi giao lưu buôn bán nhộn nhịp nhất thành phố. Mặt khác, đây còn là nơi tập
trung của rất nhiều vằn phòng đại diện củ các Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Do
vậy, trước đây Ngân hàng cơng thương Hồn Kiếm này là một chi nhành của Ngân
hàng Nhà nước Hà Nội với nhiệm vụ chính là bảo đảm nhu cầu về vốn cho các đơn vị
ngoài quốc doanh và tập thể trên địa bàn quận. Nhưng cùng với sự chuyển đổi chung
của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ hệ thống Ngân hàng một cấp sang hệ thống
Ngân hàng hai cấp, chi nhành Ngân hàng quận Hoàn Kiếm cũng được thay đổi cả về
chức năng và nhiệm và trở thành Ngân hàng Cơng thương Hồn Kiếm với chức năng

hoạt động chính là kinh doanh tiền tệ và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng. Và từ đó
đến nay Ngân hàng đã thực sự đi vào hoạt động kinh doanh trên cơ sở tự tốn kinh
doanh, tự bù đắp và có lãi.
Trải qua quá trình 8 năm hoạt động cho đến nay Ngân hàng đã hoàn toàn hoà
nhập được với hoạt động chung của cả hệ thống Ngân hàng trong cơ chế thị trường.
Không những chỉ đứng vững trong cạnh tranh mà cịn khơng ngừng mở rộng và phát
triển với hiệu quả ngày càng cao. Ta có thể thấy rõ được bước phát triển này qua
những thành tựu mà Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm đã đạt được trong thời gian
qua.
II - hoạt động chung của Ngân hàng Cơng thương hồn kiếm :
Về hoạt động huy động vốn : với phương trâm hoạt động là “đi vay để cho
vay” Ngân hàng công thương Hồn Kiếm hết sức coi trọng cơng tác huy động vốn và
coi đây là một trong các công tác chủ yếu nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả trong
22


hoạt động của mình. Nhìn nhận từ quan điểm đó, Ngân hàng luôn chú trọng đến công
tác huy động vốn tại chỗ, Ngân hàng luôn coi trọng chiến lược khách hàng trong huy
động vốn và đứa ra mọi biện pháp nhằm khai thác các nguồn vốn trên địa bàn như : tổ
chức mạng lưới tiết kiệm rộng khắp với các hình thức huy động phong phú, đa dạng.
Cụ thể trong địa bàn của Ngân hàng cơng thương Hồn Kiếm có tới 10 quỹ tiết kiệm
với nhiều hình thức huy động vốn khác nhau nhằm thu hút tối đa khách hàng. Ngồi
ra, Ngân hàng cịn vận động khách hàng mở tài khoản tại Ngân hàng. Phát hành trái
phiếu tiết kiệm bảo đảm rằng vàng tạo độ tin cậy cao cho nhân dân. Nhờ vậy, mà Ngân
hàng đã có chuyển biến tích cực từ thế bị động thiếu thốn của mấy năm trước sang
chủ động tự cân đối hoặc vốn thừa gửi về quỹ điều hồ của Ngân hàng cơng thương
Việt Nam.
Nhờ đó trong năm 2001 tổng vốn huy động của Ngân hàng đạt 598 tỷ 451 triệu
đồng, tăng 1,8 lần so với năm 2000 với cơ cấu nguồn vốn đa năng.
Về hoạt động sử dụng vốn : Bên cạnh việc coi trọng công tác huy động vốn, ở

Ngân hàng công thương Hồn Kiếm cơng tác sử dụng vốn cũng được đề cao. Trên cơ
sở nguồn vốn huy động tăng trưởng, Ngân hàng tiếp tục chủ trương biện pháp cho vay
vốn nhằm nâng cao chất lượng công tác huy động vốn. Đây chính là nhân tố quan
trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng.

23


Biểu đồ so sánh diễn biến nguồn vốn huy động và dư nợ cho vay
Đơn vị : Triệu đồng
Khoản
mục

2000
 số

Số %

2001
Trong đó
VNĐ

 số

Số %

Ngoại tệ

2000/2001
Trong đó


VNĐ

Triệu
đồng

Ngoại tệ

Tỷ số
%

319.092

100%

317.702

1.390

540.895

100

409.718

131.176

221.803

1. Tiền gửi DN


46.944

14,71%

46.508

436

207.578

38,38

100.895

106.683

160.634

2. Tiền gửi TK

271.522

85,12

271.177

375

329.116


60,85

304.964

24.421

57.564

596

0,17

17

579

4.201

0,77

4.129

72

3.605

141.596

100


125.672

15.924

358.050

100

301.645

56.414

261.464

136.596

96,47

120.672

15.924

353.060

98,60

296.645

56.414


261.464

5.000

3,53

5.000

0

5.000

1,4

5.000

0

0

I. Nguồn vốn huy
động

3. Kỳ phiếu
II. Cho vay và
đầu tư
1. Cho vay
2. Đầu tư


24


Nhìn vào biểu đồ trên, ta thấy nguồn vốn huy động của Ngân hàng Cơng
Thương Hồn Kiếm ln gia tăng qua các thời kỳ, cụ thể :
Về hoạt động tín dụng : nguồn vốn huy động cuối quý IV/2001 là:
540.895 tăng 221.803 triệu đồng so với năm 2000.
Với việc đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh kết hợp với việc phát triển
các nghiệp vụ dịch vụ Ngân hàng như : nghiệp vụ thuê hàng, nên số lượng khách
hàng đến với Ngân hàng ngày càng lớn. Do đó doanh số cho vay của Ngân hàng
đạt 353.060 triệu đồng tăng 216.464 triệu đồng so với năm 2000 về số tuyệt đối.
Về hoạt động đầu tư : trong năm 2001, với việc chú trọng đầu tư ngoài
quốc doanh cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn Ngân hàng đã đầu tư số vốn cho vay
vốn đặc biệt là 41.197 triệu đồng giúp cho các doanh nghiệp trên địa bàn quận có
đủ vốn để nâng cấp, mở rộng nhà xưỏng đổi mới máy móc thiết bị qua đó góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh.
Về các hoạt động khác : về hoạt động kinh doanh ngoại tệ Ngân hàng
Cơng Thương Hồn Kiếm đã thu về trong năm 2001 là : 201.906.892 triệu đồng
tăng so với năm 2000 là : 86.189.920 đồng, hoạt động này góp phần làm phong phú
và đa dạng hố hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Bên cạnh việc thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh thị trường, Ngân hàng cịn
có đóng góp rất to lớn vào việc thực hiện các chính sách thị trường - tài chính của
Nhà nước, góp phần làm ổn định sức mua của đồng tiền Việt Nam, kiềm chế lạm
phát và đảm bảo được đời sống vật chất, tính thần cho tồn bộ cán bộ cơng nhân
viên của Ngân hàng.
Trên đây là một vài nét khái qt về tình hình hoạt động chúng của Ngân
hàng Cơng Thương Hồn Kiếm trong năm qua. Với mục đích của bài viết này lầ
xem xét hoạt động đầu vào của Ngân hàng, mà chủ yếu là hoạt động huy động vốn,
sau đây ta sẽ đi vào phân tích tình hình hoạt động huy động vốn của Ngân hàng

trong thời gian qua.

25


×