Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

LUẬN VĂN:Các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (753.22 KB, 78 trang )

LUẬN VĂN:

Các biện pháp nâng cao hiệu quả
kinh doanh tại Ngân hàng cơng
thương Hồn Kiếm


Lời mở đầu
Chúng ta đang sống trong thời đại mới, thời đại của sự nghiệp phát
triển kinh tế như vũ bão. Nó tạo điều kiện cho chúng ta những cơ hội mới,
thời cơ mới nhưng đồng thời cũng đặt ra cho chúng ta những thách thức đó
và nắm bắt được những thời cơ phát triển, chúng ta phải sáng suốt lựa chọn
cho mình con đường đi đúng đắn và phù hợp với năng lực của mình.
Hiện nay, ở nước ta, hầu hết các doanh nghiệp có vốn nhỏ, máy móc,
thiết bị công nghệ lạc hậu... và đang rất cần nguồn vốn đầu tư nước ngoài,
để cải tiến, nâng cao chất lượng sản suất. Mặc dù, thị trường chứng khoán
Việt Nam ra đời, đã tạo ra kênh dẫn vốn trực tiếp tới các doanh nghiệp và
xã hội. Nhưng vai trò của Ngân hàng Thương mại trong việc đầu tư cho
tăng trưởng và phát triển kinh tế vẫn chiếm vị trí rất quan trọng. Hệ thống
ngân hàng vẫn là kênh dẫn vốn chính trong nền kinh tế. Cho nên hiệu quả
hoạt động của Ngân hàng Thương mại ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của nền
kinh tế.
Ngân hàng cơng Thương Hồn Kiếm đã và đang tích cực tìm kiếm,
triển khai các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. xây dựng cơ
cấu nguồn vốn hợp lý, khai thác tiềm năng về vốn để đảm bảo nguồn vốn
ổn định, từ đó, sử dụng vốn có hiệu quả là mục tiêu hàng đầu đặt ra cho
Ngân hàng. Sự phát triển của Ngân hàng là sự đóng góp, khích lệ vào sự
nghiệp cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất nước. Tồn thể ban lãnh đạo
Ngân hàng cũng như đội ngũ cán bộ công nhân viên chức đang cố gắng
không biết mệt mỏi khắc phục những khó khăn để hồn thành nhiệm vụ của
Đảng và Nhà nước giao.


Sau một thời gian thực tập ở Ngân hàng cơng thương Hồn Kiếm,
được sự giúp đỡ của Ban lãnh đạo, cán bộ nhân viên phòng kinh doanh và
sự hướng dẫn tận tình củ Thạc sĩ Nguyễn Quang Ninh, em đã nghiên cứu đề
tài "Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Ngân hàng cơng
Thương Hồn Kiếm".


Nội dung gồm 3 phần chính.
Phần I. Những vấn đề cơ bản về sử dụng vốn tại

Ngân

hàng Thương mại.
Phần II. Thực trạng về sử dụng vốn tại Ngân hàng

cơng

thương Hồn Kiếm.
Phần III. Các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Ngân hàng
cơng thương Hồn Kiếm.


Phần I:
Những vấn đề cơ bản về sử dụng vốn tại ngân hàng thương mại
I. Chức năng và vai trò của ngân hàng thương mại.
1. Chức năng.
1.1. Chức năng trung gian tín dụng.
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của Ngân hàng Thương
mại và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát
triển. Trung gian tài chính là cầu nối giữa cung và cầu vốn trong xã hội,

khơi nguồn vốn từ những người có thể vì hướng do gì đó khơng dùng nó
một cách sinh lời sang những người có ý muốn sinh lợi.
Quan hệ tín dụng trực tiếp giữa chủ thể có tiền chưa sử dụng và chủ
thể có nhu cầu tiền tệ cần bỏ sung có nhiều hạn chế hoạt động tín dụng của
Ngân hàng Thương mại đã góp phần khắc phục hạn chế đó.
Thực hiện chức năng này, một mặt, Ngân hàng Thương mại huy động
và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong
nền kinh tế để hình thành nguồn vốn dành cho việc sử dụng vốn mặt khác,
trên cơ sở số vốn đã huy động được, tiêu dùng... của các chủ thể kinh tế,
góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy, Ngân hàng Thương mại vừa là người huy
động vốn để đầu tư tìm kiếm lợi nhuận.
Ngày nay, quan niệm vai trò trung gian tín dụng trở nên biến hố
hơn. Sự phát triển của thị trường tài chính làm suất hiện các khía cạnh khác
của chức năng này. Ngân hàng có thể đứng làm trung gian giữa công ty
(khi phát hành cổ phiếu) với những nhà đầu tư: Chuyển giao các mệnh lệnh
trên thị trường chứng khoán; đảm nhận việc mua bán trái phiếu công ty...
Theo cách này Ngân hàng làm trung gian giữa người đầu tư và người cần
vay vốn trên thị trường. Hơn nữa, tín dụng Ngân hàng là một trong những


nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp. Vì vậy
tín dụng Ngân hàng góp phần điều hồ vốn trong nền kinh tế, đảm bảo q
trình sản suất kinh doanh liên tục, là cầu nối giữa tiết kiệm, tích luỹ và đầu
tư động viên vật tư hàng hố đưa vào sản suất lưu thơng, mở rộng nguồn
vốn thúc đẩy tiến bộ khoa học kĩ thuật, đẩy nhanh q trình tái sản suất.
Chức năng tín dụng của Ngân hàng Thương mại được hình thành rất
sớm, ngay từ lúc hình thành các Ngân hàng Thương mại ngày nay, thơng
qua chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng Thương mại đã và đang thực
hiện chức năng xã hội của mình, làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên,

vốn đầu tư được mở rộng và từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế,
cải thiện đời sống của nhân dân.
1.2. Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý phưong tiện
thanh toán.
Việc làm trung gian thanh toán của Ngân hàng ngày nay đã phát triển
đến tầm mức rất đa dạng, không chỉ là trung gian truyền thống như trước,
mà còn quản lý các phương tiện thanh tốn. Đây là vai trị ngày càng chiếm
vị trí rất quan trọng, phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của khoa học kỹ
thuật. ở các nước phát triển, phần lớn các cơng tác thanh tốn ở trong nước
được thực hiện thông qua sec và phần lớn séc thanh toán ở trong nước được
thực hiện bằng thanh toán bù trừ thông qua hệ thống Ngân hàng Thương
mại. Với phương pháp công nghệ hiện đại hơn, các Ngân hàng Thương mại
từng bước trang bị đầy đủ các máy vi tính và các phương tiện kỹ thuật khác
tạo điều kiện, thanh tốn bù trừ được nhanh chóng giảm bớt chi phí và có
độ chính xác cao. Q trình lưu thơng chuyển vốn từ tài khoản người mua
sang tài khoản người bán có một đặc điểm phi vật chất. Bằng chứng là ở
các nước, cơng nghiệp phát triển sử dụng hình thức chuyển tiền bằng điện
tử là chuyện bình thường. Họ thanh tốn bằng nối mang các máy vi tính
của các Ngân hàng Thương mại trong nước nhằm thực hiện chuyển vốn từ
tài khoản người mua sang tài khoản người bán một cách nhanh chóng tiện
lợi.


Như vậy Ngân hàng đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu
thơng, đẩy nhanh tốc luận chuyển vốn, thúc đẩy q trình lưu thơng hàng
hố.
1.3. Chức năng tạo ra tiền Ngân hàng trong hệ thống Ngân hàng
hai cấp.
Vào thế kỷ 19, hệ thống Ngân hàng hai cấp đã được hình thành, các
Ngân hàng khơng cịn hoạt động riêng lẻ mà đã tạo nên một hệ thống, trong

đó Ngân hàng trung ương là cơ quan quản lý, về tiền tệ tín dung, là Ngân
hàng của các Ngân hàng còn các Ngân hàng Thương mại, chuyên kinh
doanh tiền tệ.
Nhờ hoạt động trong hệ thống mà các Ngân hàng Thương mại đã tạo
ra bút tệ. Việc tạo ra bút tệ là sáng kiến quan trọng trong lịch sử hoạt động
Ngân hàng; Chức năng tạo ra bút tệ được thực hiện thơng qua hoạt động tín
dụng và đầu tư của Ngân hàng Thương mại trong mối quan hệ tuỳ thuộc
vào Ngân hàng trung ương. Nhờ nhận tiền ký thác của khách hàng, Ngân
hàng Thương mại có khả năng đầu tư. Nhưng khi đầu tư, Ngân hàng tạo ra
tiền ký thác mới, còn gọi là tiền bút tệ, tiền chuyển khoản Ngân hàng
Thương mại trở thành người cung ứng tiền bút tệ quan trọng, trong nền
kinh tế.
Với hàng loạt các nhân tố tác động ảnh hưởng đến quá trình tạo tiền ,
các nhà kinh tế đường thời đã đưa ra nhiều cơg thức hồn chỉnh. Chẳng
hạn như cơng thức sau của giáo sư người Pháp ...P.F. LEHAMAN.
Số nhân tiền gửi mở rộng = Error!
Trong đó:
a: Tỷ lệ dự trữ pháp định.
b: Tỷ lệ tiền mặt trên tiền gửi thanh toán
r: Tỷ lệ dự trữ dư thừa trên tiền gửi thanh toán không vay hết.


Tiền gửi mở rộng =

1
x tiền gửi ban đầu.
abr

Tóm lại, khả năng tạo tiền là khả năng biến mức tiền gửi ban đầu tại
một Ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền lớn hơn gấp

nhiều lần, thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ thanh tốn, tín dụng
nhiều Ngân hàng. Khả năng này tạo ra "bội số mức cung tiền tệ" liên quan
chặt chẽ với việc công cụ dự trữ bắt buộc, của Ngân hàng trung ương.
Chính vì vậy các bút tệ thực sự thúc đẩy sự phát triển kinh tế mà cũng có
thể gây nên những tai họa lớn. Đây là nhân tố cơ bản trong hoạt động kinh
doanh tiền tệ của Ngân hàng Thương mại.
1.4. Chức năng làm dịch vụ tài chính và dịch vụ k hác.
Trong q trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và Ngân quỹ, Ngân
hàng có những điều kiện thuận lợi về kho quỹ, thông tin, quan hệ rộng rãi
với các doanh nghiệp. Với những điều kiện đó, Ngân hàng có thể làm tư
vấn về tài chính và đầu tư cho doanh nghiệp, làm đại lý, phát hành cổ
phiếu, trái khoán đảm bảo đạt hiệu quả cao và tiết kiệm được chi phí. Khi
một doanh nghiệp muốn phát hành chứng khốn trên thị trường sơ cấp, họ
có thể nhờ Ngân hàng cung cấp dịch vụ như: Lựa chọn chứng khoán phát
hành, tư vấn các vấn đề lãi suất chứng khoán, thời hạn chứng khốn và các
vấn đề kỹ thuật khác. Ngồi ra Ngân hàng còn cung cấp dịch vụ lưu trữ và
quản lý chứng khoán cho khách hàng, làm dịch vụ thu lãi chứng khốn,
chuyển lãi đó vào tài khoản khách hàng, hoặc cịn có Ngân hàng Thương
mại cịn thực hiện việc mua bán các chứng khoán cho khách hàng, thu hồi
vốn chứng khốn đến hạn...
Hơn nữa, Ngân hàng cịn cung cấp cho khách hàng các dịch vụ khác
như:
+ Dịch vụ bảo quản an tồn vật có giá của khách hàng.
+ Dịch vụ cho thuê két ngân buổi tối.


+ Dịch vụ tín thác và uỷ thác Ngân hàng.
2. Vai trị.
2.1. Vai trị thực thi chính sách tiền tệ
Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về Ngân hàng trung ương.

Để thực thi chính sách tiền tệ phải sử dụng công cụ như lãi suất, dự trưc
bắt buộc, tái chiết khấu... Chính Ngân hàng Thương là chủ thể chịu tác
động trực tiếp của những công cụ này.
Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại gắn liền với hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức và chủ thể kinh tế.
Trong q trình, hoạt động đó, Ngân hàng Thương mại thực hiện vai trò,
điều tiết, kinh tế vi mô đối với nền kinh tế thông qua chức năng của mình.
Vai trị điều tiết kinh tế vi mơ của Ngân hàng Thương mại thể hiện qua sự
đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung hay cung ứng tiền kịp thời, nghĩa là Ngân
hàng Thương mại có thẻ gia tăng hoặc thu hẹp khối lượng tín dụng đối
vớitừng doanh nghiệp hạc thực hiện quan hệ tín dụng đối với từng doanh
nghiệp trong những trường hợp cần thiết, điều đó sẽ ảnh hưởng đến kết quả
kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy với vai trị thực thi chính sách tiền tệ, điều tiết vĩ mô của
Ngân hàng Thương mại đã xâm nhập vào mọi hoạt động của doanh nghiệp,
tổ chức, các chủ thể kinh tế thông qua các nghiệp vụ của Ngân hàng. Với
mối quan hệ hiện có Ngân hàng và doanh nghiệp hay chủ thể kinh tế khác
sẽ là người bạn đồng hành đưa Ngân hangà ngày càng phát triển và hồn
thiện.
2.2. Vai trị góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô thông qua chức
năng tạo tiền của Ngân hàng Thương mại.
Thứ nhất: Tham gia xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội và
soạn thảo chính sách tiền tệ.


Thứ hai: Chính sách tiền tệ, được thiết kế và khởi động từ Ngân hàng
trung ương, lan ra đến mọi ngóc ngách, của nền kinh tế thơng qua hoạt
động, dây chuyền của hệ thống Ngân hàng trung gian và các tổ chức tài
chính trong nước. Như vậy nếu khơng có sự chấp hành của hệ thống Ngân
hàng trung gian, thì ý đồ và chính sách tiền tệ của NHTW sẽ khơng thực

hiện được. Sự điều tiết tiền tệ có thể điều tiết gián tiếp và vô cùng hiệu
quả đến những hoạt động của nền kinh tế quốc gia từ vĩ mô đến vi mô.
Một nội dung quan trọng của điều tiết tệ là điều hoà khối tiền tệ. Điều hoà
khối tiền tệ ngày nay có nghĩa là điều chỉnh việc tạo tiền vả dụng tiền
trong hệ thống Ngânhàng hai cấp.
Một trong những khả năng, kỳ bí của hệ thống Ngân hàng hai cấp là
tạo tiền điều chỉnh mức cung tiền để ổn định tiền tệ.
Như vậy tạo tiền gắn liền chặt chẽ với công cụ quản lý vĩ mô của
NHTW trong khi thực hiện hoạt động kinh doanh của mình. Ngân hàng
Thương mại đã thể hiện vai trị của mình trong việc góp phần vào hoạt
động điều tiết vĩ mơ của NHTW thơng qua chính sách tiền tệ.
II. Lý luận chung về sử dụng vốn của Ngân Hàng thương mại .
Để hiểu xem một Ngân hàng Thương mại (NHTM) hoạt động như thế
nào chúng ta phải xem xét đến bản quyết tốn tài sản của Ngân hàng đó, là
bản kê tài sản có và tài sản nợ cuả nó. Bảng quyết tốn này liệt kê các kết
số, tức là nó có đặc trưng.
Tổng tài sản có = Tổng tài sản nợ + vốn.
Hơn nữa, bảng quyết toán tài sản một Ngân hàng liệt kê các nguồn
vốn của Ngân hàng (tài sản nợ) và sử dụng vốn (tài sản có). Các Ngân hàng
bằng nhiều cách để huy động vốn. Sau đó họ dùng vốn này có được tài sản
có.
- Bảng quyết tốn của tất cả các Ngân hàng Thương mại thưịng có
kết cấu dưới dạng sau:


Tài sản có (sử dung vốn)

Tài sản nợ (nguồn vốn)

1. Khoản mcụ dự trữ


1. Khoản mục tiền gửi

2. Khoản mục CK ngắn hạn

2. Khoản mục đi vay

3. Khoản mục cho vay

3. Các loại vốn uỷ thác

4. Khoản mục đầu tư

4. Vốn sở hữu của Ngân hàng

5. Các tài sản có khác
6. TSCĐ tích lũy
1. Cấu trúc nguồn vốn tại Ngân Hàng thương mại
1.1. Nguồn vốn tiền gửi.
Nguồn vốn tiền gửi là nguồn vốn quan trọng nhất chiếm bộ phận lớn
trong tổng số nguồn vốn của NHTM, thường chiếm khoảng 50 - 60% nhưng
hiện nay tỷ lệ này đang giảm dần.
Theo tính chất giao dịch việc huy độn vốn chia làm loại: Tiền gửi
giao dịch và tiền gửi tiết kiệm và nó có thể được chia thành dạng ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn. Nguồn vốn nằm trên tài khoản thanh tốn và tiết kiệm
khơng kỳ hạn là khá lớn bởi vì nó phục vụ cho nhu cầu thanh tốn giao
dịch trong nền kinh tế. Đặc điểm của nguồn vốn này thường là ngắn hạn,
khơng ổn bởi vì khách hàng có thể rút tiền trên tài khoản bất kỳ lúc nào họ
có nhu cầu. Ngân hàng sử dụng vốn phải đối phó với rủi ro thanh khoản
hoặc sự ứ đọng vốn nhưng ngược lại chi phí sử dụng nó rất thấp. Việc huy

động nguồn vốn tiền gửi phụ thuộc nhu cầu thanh tốn của từng cá nhân. Ví
dụ như những ngày giáp tết hay, Noel, nhu cầu chi tiêu lớn, khách hàng
thường đến Ngân hàng để rút tiền. Lãi suất cũng có yếu tố quan trọng có
tính cạnh tranh lơn, nhất, là trong thời kỳ khan hiếm tiền tệ. Sự thu hút


nguồn tiền gửi phụ thuộc vào mức độ đa dạng hố dịch vụ trình độ cơng
nghệ Ngân hàng hiện đại tạo ra sự thuận lợi cho khách hàng. Uy tín, thâm
niên, sự giao tiếp lịch sự của đội ngũ cán bộ công nhân viên ảnh hưởng khả
năng huy động tiền gửi của Ngân hàng. Ngoài ra khả năng sử dụng vốn như
khả năng cho vay, khả năng đầu tư sẽ ảnh hưởng gián tiếp trong việc huy
động nguồn vốn.
1.2. Nguồn vốn đi vay.
Ngân hàng Thương mại có thể đi vay từ NHNN, các tổ chức tín dụng
khác có thể vay trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ.
Khi Ngân hàng Thương mại vay vốn từ NHNN nhằm đảm bảo khả
năng thanh toán, đáp ứng nhu cầu thanh khoản, đáp ứng nhu cầu cấp tín
dụng cho các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế. Trong trường hợp Ngân
hàng Thương mại gặp khó khăn và có khả năng phá sản mà ảnh hưởng đến
hệ thống Ngân hàng, NHNN có thể cho vay. Khi NHNN chho Ngân hàng
Thương mại vay dựa vào các chứng khoán (chứng khoán cầm cố, chứng
khoán chiết khấu), và chỉ cho vay tối đa 70% giá trị thực tế của chứng
khốn đó. Chi phí để có khoản vốn này là khá lớn, ảnh hưởng đến kế hoạch
của Ngân hàng, nhất là lợi nhuận, nên đây là giải pháp cuối cùng Ngân
hàng mới huy động.
Các Ngân hàng Thương mại và các tổ chức tín dụng ln là người
bạn đồng hành, người bạn hàng của nhau. Khi một Ngân hàng cần một
nguồn vốn trung và dài hạn hay một dự án lớn đem lại lợi nhuận cao Ngân
hàng Thương mại thường đi vay tức thời với lãi suất trên thị trường liên
Ngân hàng. Hoặc hai Ngân hàng Thương mại thuộc hai nước có, thời gian

làm việc ngược nhau thường ký kết hợp đồng tín dụng qua đêm để tận dụng
nguồn vốn tuy nhiên cách làm này chi phí hơi cao vì lãi suất tín dụng qua
đêm là lãi suất nóng.


Ngồi ra Ngân hàng Thương mại có thể vay vốn trên thị trường vốn
và thị trường tiền tệ thông qua phát hành các kỳ phiếu ngắn hạn, trái phiếu
trung và dài hạn.
Đặc điểm của nguồn vốn đi vay là ổn định hơn, nguồn vốn tiền gửi
nhưng chi phí vốn cao hơn. Tỷ lệ nguồn vốn đi vay đang có xu hướng
chiếm khoản 15 - 20% tổng nguồn vốn Ngân hàng Thương mại. Việc huy
động vốn cịn phụ thuộc chính sách tiền tệ của NHNN, các hoạt động nói
chug của Ngân hàng Thương mại và tính năng động của thị trường chứng
khoán.
1.3. Các nguồn vốn khác của Ngân hàng Thương mại.
Ngân hàng Thương mại ra cịn có những nguồn vốn khác như nguồn
vốn uỷ thác, nguồn vốn mà Ngân hàng đứng ra quản lý hộ một tổ chức ra
bảo lãnh cho một tổ chức để đầu tư vào một dự án lớn mang lại lợi nhuận
cao, trong trường hợp này Ngân hàng sẽ hướng hoa hồng, và hướng dịch vụ
quản lý.
Nguồn vốn trong thanh tốn hình thành từ đặc điểm thanh tốn khơng
dùng tiền mặt khi mà sự vận động giữa hàng hố và tiền tệ ln có một
khoảng thời gian nhất định. Kế tốn ngày một hiện đại thì khoảng thời gian
này ngày một rút ngắn, nguồn vốn bị thu hẹp nhưng tang tính cạnh tranh
cho Ngân hàng Thương mại.
Nguồn vốn hình thành từ các khoản nợ của Ngân hàn nhưng chưa đến
hạn phải trả.
Các loại nguồn vốn này thường chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, Ngân hàng có
thể chủ động sử dụng ít chịu sự rủi ro.
1.4. Vốn chủ sở hữu và các quỹ.

Trước khi bước vào hoạt động, mỗi Ngân hàng đều có một khoản vốn
nhất định nhiều hơn hoặc bằng với vốn pháp định do Nhà nước đặt ra, gọi


là vốn điều lệ. Đối với Ngân hàng quốc doanh, vốn điều lệ thường do ngân
sách Nhà nước cấp, các Ngân hàng cổ phần do các cổ đơng đóng góp. Vốn
điều lệ phục vụ cho việc mở rộng, khởi động Ngân hàng, tạo ra cơ sở vật
chất ban đầu để Ngân hàng đi vào hoạt động. Vốn điều lệ thể hiện qui mơ,
uy tín của Ngân hàng. Tỷ lệ vốn nhỏ chỉ chiếm 5 -10% tổng nguồn vốn.
Thườg các Ngân hàng cổ phần sau một thời gian hoạt động muốn nâng vốn
điều lệ lên bằng cách phát hành thêm cổ phiếu các nguồn vốn bổ sung được
trích trên cơ sở lợi nhuận không chia lợi nhuận sau thuế, hoặc tăng nguồn
vốn này bằn cách phát hành trái phiếu Ngân hàng. Vốn sở hữu của Ngân
hàng như một cái đệm chống đỡ sự sụt giảm giá trị của những tài sản có
của Ngân hàng.
Trong Ngân hàng hình thành lên nhiều quĩ dự phòng rủi ro, quĩ phúc
lợi nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, hạn chế rủi ro cho các cơ
quan bảo hiểm, đảm bảo thanh khoản và cung cấp một phần tài sản có bù
đắp thua lỗ.
Tóm lại, để có một cơ cấu nguồn vốn tối ưu đảm bảo yêu cầu ổn định
cho việc sử dụng và tối thiểu hố chi phhí địi hỏi Ngân hàng phải xét đến
các yếu tố về khả năng huy động vốn trong dân cư, uy tín Ngân hàng...
đồng thời phải quan tâm đến vấn đề đầu ra. Tránh tình trạng vốn huy động
được từ các nguồn vốn ngắn hạn không thể cho vay trung và dài hạn được
hay tình trạng ứ đọng vốn do khơng có dự án khả thi, giảm lợi nhuận của
Ngân hàng.
III. Sử dụng vốn tại Ngân hàng Thương mại
Trong bản quyết toán, tài sản của một Ngân hàng Thương mại, bên
tài sản có thể hiện kết quả của việc sử dụng vốn của Ngân hàng đó. Phân
tích theo tính lóng dần của các loại tài sản, việc sử dụng vốn trong Ngân

hàng Thương mại gồm những mục sau.
1. Tiền dự trữ.


Đây là nghiệp vụ nhằm duy trì khả năng thanh khoản của Ngân hàng
để đáp ứng nhu cầu rút tiền và thanh toán thường xuyên của khách hàng.
Ngân hàng Thương mại phải duy trì một bộ phận vốn, để gửi vào một tài
khoản nào đó như ở NHNN, tổ chức tín dụng các Ngân hàng Thương mại
khác... và một lượng được cất giữ tại Ngân hàng đó, gọi là tiền dự trữ. Mức
dự trữ cao hay thấp phục thuộc vào qui mô hoạt động của Ngân hàng, mối
quan hệ thanh toán bằng tiền mặt và chuyển khoản, thời vụ của các khoản
chi tiền mặt. Tiền dự trữ hiện hành không có lãi nhưng các Ngân hàng
Thương mại vẫn giữ chúng bởi một vài lí do nhất định. Ngân hàng buộc
phảilàm như vậy vì hai nguyên nhân.Thứ nhất, theo luật pháphiện hành, cái
Ngân hàng Thương mại phải nộp một tỷ lệ nhất định tiền gửi mà Ngân hàng
huy động được tại NHNN (ví như 10%) để đảm bảo tồn tiền gửi. Đây cùng
là công cụ quan trọng quản lý lưu thông tiền tệ. Thứ hai, bản thân Ngân
hàng cũng thấy rõ sự cần thiết phải giữ một ít tiền mặt mà khơng nên cho
vay hết chì cho nó thừa khả năng làm điều đó. Việc giữ lại tiền mặt này là
để đảm bảo an tồn cho những hoạt động cịn lại, và vì thế dự trữ tiền mặt
trong tài sản có cịn gọi là "khoản đầu tư cho sự an tồn". Ngoài ra, các
Ngân ra, các Ngân hàng nhỏ gửi tiền vào các Ngân hàng lớn để đổi lấy các
dịch vụ khác nhau như tập hợp séc, giao dịch ngoại tệ.v.v. Các khoản này
có tính lỏng nhất trong các loại tài sản có của Ngân hàng chiếm khoảng 7%
tổng tài sản, phục vụ nhu cầu thanh khoản tại Ngân hàng.
2. Đầu tư vào chứng khoán.
Đầu tư vào chứng khoán là loại hình phổ biến nhất trong tài sản có
của Ngân hàng Thương mại tại các nước đã phát triển. Tuy nhiên ở các
nước đang phát triển thì Ngân hàng chủ yếu đầu tư vào chứng khoán ngắn
hạn.

Các chứng khoán của một Ngân hàng là các tài sản có mang lại thu
nhập của Ngân hàng. Chúng chỉ gồm những công cụ vay nợ (như tín phiếu
kho bạc, chứng khốn chính phủ v.v.). Bởi các Ngân hàng Thương mại
không được nắm giữ cổ phiếu.


3. Tiền cho vay.
Cho vay là một hoạt động kinh doanh chủ chốt của Ngân hàng
Thương mại đểtạo ra lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù
nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh quản lý, chi phí vốn
trơi nổi, chi phí thuế các loại và các chi phí rủi ro đầu tư.
Kinh tế càng phát triển, hướng cho vay của các Ngân hàng Thương
mại càng tăng và loại hình cho cũng trở nên vô cùng đa dạng. ở hầu hết các
nước cơng nghiệp trong nhóm 10 và 15 nước hàng đầu thế giới, cho vay
của các Ngân hàng Thươg mại đã chuyển dần từ cho vay ngắn hạn sang cho
vay dài hạn. Khu vực cho vay ngắn hạn nhường chỗ cho thị trường tiền tệ
tài chính cung ứng. Ngược lại hầu hết các nước đang phát triển cho vay
ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn, suất phát từ chỗ
thiếu an toàn cho các khoản đầu tư dài hạn.
Nhưng nói chung, lợi nhuận chủ yếu của Ngân hàng vẫn là hoạt động
cho vay hay nói rộng ra là hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại
67% tổng tài sản của Ngân hàng ở dạng tiền cho vay tạo ra hơn 60% thu
nhập của Ngân hàng khác bởi chúng không thể chuyển thành tiền mặt trước
khi cáckhoản vay ngắn hạn và cũng có xác suất rủi ro vỡ nợ cao hơn.
Theo thời gian các khoản cho vay có thể chia thành các khoản cho
vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Cho vay ngắn hạn thường đáp ứng nhu
cầu về vốn lưu động hay khó khăn cho những dự án lớn, hay đổ mới dây
chuyền công nghệ... Việc phân loại theo thời gian giúp Ngân hàng lập kế
hoạch để huy động vốn và đầu tư.
Phân loại theo đối tượng cho vay, có khoản cho vay công nghiệp, cho

vay nông nghiệp, cho vay tiêu dùng.v.v. Các Ngân hàng cho vay cơng
nghiệp thường dựa vào tính chất, chu kỳ kinh doanh, để đáp ứng mục đích,
và mang lại hiệu quả sử dụng vốn. Cho vay nông nghiệp dựa vào thời vụ và
rủi ro do tự nhiên. Cho vay tiêu dùng thường là cho vay đối với cán bộ làm


công ăn lương, công việc ổn định, tiền lương ổn định, đảm bảo khả năng trả
nợ cho Ngân hàng.
4. Các khoản đầu tư.
Ngân hàng Thương mại có thể tham gia đầu tư vào các chứng khoán
trung và dài hạn hoặc vốn mua cổ phiếu, góp vốn liên doanh.v.v. Các Ngân
hàng Thương mại mua chứng khốn vì mục đích thanh khoản và đa dạng
hoá hoạt động, để nâng cao lợi tức và phục vụ như các vạt kí quĩ cho các
tài sản nợ kỳ thác với chính quyền địa phương, chính phủ.v.v. Tỷ lệ lớn
nhất là đầu tư chứng khoán là chính phủ bởi tuy có mức lãi hạn chế những
linh hoạt, khơng có rủi ro tín dụng và ít rủi ro về lãi suất so với trái phiếu
dài hạn. Thông thường lợi túi tương ứng với độ rủi ro. Khoản vốn này
chiếm khoảng 15  19% tổng tài sản.


5. Tài sản có khác.
6 Tài sản cố định tính luỹ.
IV. Các vấn đề liên quan đến việc sử dụng vốn an toàn và hiệu quả.
1. Quản lý nguồn vốn tại Ngân hàng Thương mại.
Phân tích cơ cấu nguồn vốn và quản lý nguồn vốn hướng tới mục tiêu
ổn định hoạt động của Ngân hàng và đạc biệt hướng tới lợi nhuận. Nghĩa
là Ngân hàng phải đạt được chiến lược làm sao tạo nguồn vốn ổn định có
thể ổn định sử dụng. Và ngăn xây dựng được cơ cấu vốn hợp lý và giảm chi
phí vốn ở mức thấp nhất.
Quản lý nguồn vốn về qui mô nghĩa là xem xét Ngân hàng Thương

mại có khả năng huy động vốn cao nhất là bao nhiêu. Cơ cấu, qui mô từng
loại vốn ảnh hưởng tới việc trả lãi Ngân hàng và ảnh hưởng tới ổn định
hoạt động Ngân hàng như thế nào.
Các Ngân hàng hiện đại thường lập ra những bài toán tối ưu về cơ
cấu nguồn vốn và qui mô từng loại nguồn vốn.
Quản lý chi phí trả lãi là đưa chính sách lãi suất huy động phù hợp
với từng thời kỳ trên cở sở chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương.
Tính tốn tổng chi phí trả lãi chi đầu vào để xác định chi đầu ra.
Quản lý kỳ hạn của nguồn vốn, Ngân hàng xác định ra những kỳ hạn
huy động xác định được khả năng trả nợ đảm bảo nhu cầu rút tiền của
khách hàng, tính tốn kỳ hạn bình quân của các khoản tiền gửi. Trong quản
lý kỳ hạn Ngân hàng áp dụng "Nguyên lý thợ kim hồn "để tính thời hạn
trung bình của các khoản tiền gửi.
Bất cứ hoạt động cho vay hay đầu tư nào đều tiềm ẩn những dạng rủi
ro khác nhau và mức rủi ro cũng khác nhau. Sử dụng vốn tại Ngân hàng
thương mại dựa trên nguyên tắc an toàn và hiệu quả thường phải quản lý
thanh khoản, kiểm soát rủi ro trong hoạt động của mình.


2. Quản lý thanh khoản
Thanh khoản là khả năng đáp ứng nhu cầu thanh khoản tín dụng cho
bất kỳ khách nào tại bất kỳ thời điểm nào.
Thanh khoản là một trong số các vấn đề mà nhà quản lý Ngân hàng
thường xuyên phải quan tâm. Mức độ thanh khoản mà một ngân hàng riêng
biệt nào đó cần đến, tuỳ thuộc vào lượng biến đổi xảy ra ở số tiền gửi và
nhu cầu tín dụng.
Có nhiều biến động bất thường xảy ra trong nền kinh tế, theo thời vụ,
theo chu kỳ. Rất kho lịng dự đốn được thời gian xảy ra và tính khốic liệt
của biến động bất thường ấy do chúng không tuân theo những khuôn mẫu
định sẵn.

Những biến động thời vụ trực tiếp liên quan đến mùa vụ khác với
biến động bất thường được lặp lại hàng năm, và những biến động ấy có thể
thay đổi cùng thời gian. Ví như một Ngân hàng đặt tại khu nơng nghiệp,
mức tiền gửi sẽ tăng vào mua thu hoạch và nhu cầu tín dụng sẽ tăng vào
mùa xuân.
Các biến động chu kỳ thường khó dự đốn hơn các biến động theo
thời vụ. Trong suốt thời kỳ suy thoái của một chu kỳ sản suất, nhu cầu tín
dụng giảm và tiền gửi Ngân hàng cũng có thể giảm theo. Tuy nhiên, chính
sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương có khuynh hướng bù đắp cho sự
giảm sút tiền gửi Ngân hàng trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng, suốt thời
kỳ kinh tế trì trệ. Trong giai đoạn chấn hưng, nhu cầu tín dụng tăng vượt
mức tăng tiền gửi, khiên Ngân hàng bán các tài sản lưu hoạt.
Kết quả của những biến động này trong nền kinh tế đã tác động đến
mức tiền gửi do đó ảnh hưởng trực tiếp đến tính thanh khoản. Vấn đề đặt ra
cho Ngân hàng là phải quản lý thanh khoản.
Quản lý thanh khoản của Ngân hàng xác định nhu cầu khả năng đáp
ứng nhu cầu thanh khoản tín dụng cho khách hàng tại bất kỳ thời điểm nào,


tránh tình trạng khách hàng đến rút tiền ơ ạt dẫn đến tình trạng Ngân hàng
phá sản. Điều quan tâm hàng đầu là Ngân hàng phải tín tốn các loại tài sản
có khả năng chuyển thành tiền mặt. Việc xác định một mức thanh khoản
hợp lý trong từng thời kỳ là hết sức khó khăn. Ngân hàng phải dự đốn
được nhu cầu của nền kinh tế tại các thời điểm khác nhau. Đồng thời dựa
vào tỷ lệ dự trữ băt buộc của Ngân hàng trung ương ban hành để có chính
sách tín dụng phù hợp. Trong từng trường hợp thanh khoản có vấn đề Ngân
hàng thường dùng biện pháp bán đi các chứng khốn để chuyển đổi như tín
phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu và cổ phiếu của các cơng ty
có chất lượng cao được ưa chuộng trên thị trường. Tiếp theo Ngân hàng rút
các khoản tiền gửi tại các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác.

Trường hợp khẩn cấp có Ngân hàng phải tiến hành thương lượng với các
Ngân hàng thương mại khác để bán đi các khoản tín dụng có chất lượng
cao. Thơng báo trì hỗn các khoản nợ sẽ là phương cách cuối cùng của
Ngân hàng thương mại.
Để quản lý thanh khoản Ngân hàng phải dựa vào các lí thuyết cơ bản
như lí thuyết cho vay thương mại, lí thuyết về khả năng chuyển đổi, lí
thuyết về lợi tức dự tính và các vấn đề về quản lý tình hình dự trữ.
2.1. Lý thuyết cho vay thương mại
Thanh khoản của một Ngân hàng thương mại được đảm bằng một bộ
phận tài sản biểu hiện dưới hình thức cho vay. Bộ phận này được lưu
chuyển trong suốt quá trình kinh doanh. Ngân hàng cấp tín dụng cho doanh
nghiệp tương ứng với các chu kỳ kinh doanh tướng ứng, do vậy Ngân hàng
luôn có các khoản nợ có thể thu hồi được. Với cách phân đoạn qúa trình
kinh doanh giúp Ngân hàng đảm bảo được thanh khoản đồng thời doanh
nghiệp có kế hoạch trả nợ đối với từng thời kỳ. Cho vay thương mại áp
dụng với các khoản cho vay vốn lưu động. Hạn chế là Ngân hàng khó mở
rộng đối với loại cho vay trung và dài hạn ảnh hưởng tới thị trường tín
dụng trong tương lai vì liên quan đến các vấn đề công nghệ , đổi mới công
nghệ, vấn đề mở rộng sản suất.


2.2. Lý thuyết về khả năng chuyển đổi:
Cơ sở giá thuyết cho rằng thanh khoản của một Ngân hàng được duỳ
trì, nếu nó giữ được các tài sản có thể chuyển đổi hoặc bán cho người cho
vay hoặc đầu tư để lấy tiền. Nếu tiền cho vay khơng được hồn trả, vật thế
chấp từ các khoản vay có bảo đảm, có thể bán được trên thị trường để nhận
tiền. Nếu cần, các quĩ và các khoản tín dụng có thể được chuyển đổi tại
Ngân hàng trung ương. Như vậy, một Ngân hàng thương mại nào đó sẽ có
thể đáp ứng nhu cầu về thanh khoản, miễn là nó ln ln có tài sản để
bán. Tương tự như vậy, hệ thống Ngân hàng sẽ ln mang tính thanh

khoản, miễn là Ngân hàng trung ương sang mua lại các tài sản dưới dạng
chiết khấu và phụ thuộc vào hệ thống tài chính, quan hệ cung cầu trên thị
trường vốn và thị trường tiền tệ.
2.3. Lý thuyết về lợi tức dự tính
Được xây dựng trên cơ sở thanh khoản của Ngân hàng thương mại
được đảm bảo bằng việc chi trả tiền vay theo lịch trình định sẵn được dựa
trên cơ sở của lợi tức tương lai của người vay. Lý thuyết này không phủ
nhận tính khả thi của các lý thuyết về cho vay thương mại và lý thuyết về
khả năng chuyển đổi. Thay vào đó, nó nhấn mạnh đến triển vọng về việc
hồn trả tín dụng cùng lợi tức, hơn là lệ thuộc nặng lề vào việc kí quĩ.
Cũng như thế, nó cho rằng, thanh khoản của một Ngân hàng có thể bị
ảnh hưởng bởi qui mô đáo hạn của các khoản cho vay và đầu tư. Cho vay
kinh doanh ngắn hạn sẽ có nhiều thanh khoản hơn là chovay có kỳ hạn, và
cho vay tiêu dùng trả góp sẽ có nhiều thanh khoản hơn là cho vay được
đảm bảo bởi bất động sản nhà cửa.
Lý thuyết này được áp dụng và phát triển rất nhanh trong một số loại
cho vay của Ngân hàng thương mại: cho vay kinh doanh có kỳ hạn, cho
vay tiêu dùng trả góp và cho vay bất động sản nhà cửa. Tất cả những khoản
cho vay này có đặc điểm chung là tăng tính chất thanh khoản của chúng, do
chúng có thể được trả dần. Một khoản mục đầu tư có nhiều khoản cho vay


với sự hoàn trả đều đặn hàng tháng hoặc hàng q về số gốc và lãi, thực
chất đó là thanh khoản bởi vì luồng tiền vào ra đều đặn hàng tháng có thể
đốn trước được. Khi cần đến thị trường ngân quĩ có thể sử dụng. Nếu
khơng nó sẽ bị giữa lại để đảm bảo thanh khoản trong tương lai.
Lý thuyết lợi tức dự tính đã khuyến khích nhiều ngân hàng thương
mại áp dụng một mơ hình bậc thang trong khoản mục vốn đầu tư. Có nghĩa
là có một sự xê dịch thời gian đáo hạn nào đó để cho mức khấu hao diễn ra
trên cơ sở đều đặn và có thể dự đốn được. Nhược điểm của lí thuyết này là

Ngân hàng có thể bị ảnh hưởng và mức thanh khoản có thể bị suy giảm nếu
khách hàng khơng trả nợ đúng kỳ hạn hay việc xác định kỳ hạn nợ của
khách hàng khơng hợp lý.
2.4. Quản lý tình ình dự trữ
Thực chất là quản lý khối lượng tiền sao cho phù hợp với nhu cầu dự
trữ pháp định do Ngân hàng trung ương qui định. Việc duy trì vốn quĩ gửi
tiền mặt trong từng thời gian đoạn hoạt động là hết sức cần thiết. Ngân
hàng phải tính tốn một số hệ số quan trọng trong từng thời kỳ
* Hệ số vốn khả dụng =
= Error!
Hệ số > 1 là tốt
< 1 là mức nguy hiểm
* Hệ số chuyển đổi =
= Error!
Hệ số này > 0,6
< 0,6 là mất an toàn
* Hệ số an toàn vốn = Error!


Hệ số này > 0,8 là an toàn
< 0,8 là mât an toàn
(Theo thống kê kinh nghiệm của nhiều Ngân hàng

trong nhiều

trường hợp, nhiều thời kỳ khác nhau)
3. Quản lý rủi ro
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng là những biến đổi có
sự kiện, hiện tượng xảy ra trong quá trình hoạt động


của Ngân hàng

thương mại gây ra thất thoát lớn về tài sản, ảnh hưởng đến uy tín, làm
giảm lợi nhuận thậm chí thua lỗ, nguy hiểm hơn là dẫn đến phá sản. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro. Về phía Ngân hàng , là do khơng có
chính sách huy động và sử dụng vốn khơng hợp lý. Đặc biệt trong việc xem
xét các dự án cho vay không đầy đủ tới hiệu quả kinh tế hoặc tính tốn sai
lệch do thơng tin khơng đầy đủ hoặc thiếu chính xác. Việc quản lý tài sản
nợ, nguồn vốn của ngân hàng có vấn đề, chưa thực hiện cơ cấu đầu tư, cơ
cấu tài sản. Trình độ cán bộ Ngân hàng có nhiều điểm bất cập, khơng có
khả năng xem xét đánh giá khách hàng. Ngân hàng không dự báo được diến
biến thị trường, tình hình cung cầu các loại sản phẩm. Về phía khách hàng,
bản thân họ khơng có dự án khả thi, việc đầu tư khơng có căn cứ kinh tế
nên việc sử dụng vốn khơng hiệu quả. Khách hàng có chủ tâm lừa đảo Ngân
hàng, họ có ý định vay nhưng khơng trả nợ. Các biến động về mơi trường
kinh tế chính trị xã hội trong nước và nước ngoài cũng tạo nên rủi ro. Rủi
ro cũng suất phát từ chính sách kinh tế thiên tai.
3.1. Quản lý rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là rủi ro không thu được nợ khi đến hạn hoặc Ngân
hàng không cho vay được tạo nên đọng vốn nghĩa là Ngân hàng đã chi phí
cho các khoản vay lớn hơn thu nhập từ hoạt động cho vay, thu lỗ. Hoặc
Ngân hàng đầu tư vào thị trường chứng khoán kém hiệu quả, Ngân hàng


chỉ có thể bán chứng khốn với giá thấp hơn giá đi mua hoặc khơng có khả
năng bán đi. Các dự án đầu tư khơng có khả năng sinh lời.
a. Hệ số rủi ro
H r = Error!
H R < 10% tam được
H r < Ngân hàng phải xem xét lại

Ngoài ra phải sử dụng một số chỉ tiêu khác để đo lường rủi ro.
Tổng số tiền vay > 70% chấp nhận
Tổng số tiền gửi < 70% Khả năng cho vay kém
Để quản lý rủi ro tín dụng các Ngân hàng thương mại phải xác định
mục đích các loại cho vay theo từng đối tượng ngành nghề , thời gian, các
Ngân hàng phải nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trên cơ sở sử
dụng nhiều phương pháp khác nhau theo một qui trình chặt chẽ như phỏng
vấn, khảo sát, thực tế...xem xét uy tín khách hàng . Kết hợp thời gian cho
vay, nguồn vốn cho vay, khả năng cho vay.
3.2. Quản lý rủi ro lãi suất
Lãi suất cho vay của Ngân hàng khác với lãi suất các công cụ trên
thị trường tiền tệ chẳng hạn như Ngân khố phiếu và thương phiếu, ở chỗ là
chúng được đàm phán giữa người vay và Ngân hàng hơn nữa là quyết định
trong một thị trường được tổ chức sẵn. Vì là kết quả của phương pháp xác
định giá cả tín dụng được đàm phán, các mức lãi suất cho vay của ngân
hàng khơng đồng nhất. Chúng phản ánh cả tính cá biệt của khoản tín dụng
lẫn cung cầu tín dụng trên thị trường tiền tệ. Lãi suất cũng thay đổi so với
mức rủi ro tín dụng trên hàng loạt các yếu tố: tiền cho vay thời hạn, qui mô
cho vay, chi phí thực hiện và giám sát khoản cho vay, số dư tiền gửi của
người vay và các chứng khoán. Hơn nữa lãi suất còn bị ảnh hưởng bởi


phong tục tập quán, sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng và các nguồn vốn
khác, lãi suất khống chế tối đa và thái độ của các giám đốc Ngân hàng và
người vay, liên quan đến các điều kiện kinh tế trong tương lai.
Lãi suất có thể biến động và biến đổi nhưng lãi suất cho vay phải dựa
mức lãi suất cơ bản do nhà nước qui định.
Rủi ro lãi suất là rủi ro Ngân hàng phải chịu khi có các khoản cho
vay hoặc nợ theo lãi suất cố định, do diễn biến lãi suất về sau gây ra. Vậy
rủi ro lãi suất của Ngân hàng là chi phí nguồn vốn trở nên cao hơn thu nhập

từ sử dụng vốn.
Hay nói cách khác rủi ro lãi suất là sự mất mât cân bằng giữa lãi suất
đầu vào và lãi suất đầu ra do ngân hàng khơng dự đốn được cung cầu trên
thị trường vốn và tiền tệ làm ảnh hưởng tới thu nhập của Ngân hàng. Để đo
lường rủi ro lãi suất, lợi nhuận của Ngân hàng được tính như sau:
Ln = L

đầu ra =

(L

đầu vào

+ CF ) > 0

Ngân hàng có lãi

Lãi suất bình qn đầu vào
L

V

= Error!

* Lãi suất bình quân đầu ra
L r = Error!
L = L r - L v
Sau đó: DS = L = TN
(Doanh số bình quân )


(Doanh số bình quân của Ngân hàng )

Ngân hàng phải nghiên cứu diễn biến thị trường tiền tệ, thị trường
vốn, nghiên cứu quan hệ cung cầu vốn dài hạn, trung hạn va ngắn hạn, có
chính sách huy động vốn tương ứng. Nghiên cứu diễn biến tinh hình của
lạm phát đồng thời phân

đoạn thị trường. Trong từng trường hợp thị


trường có nhiều rủi ro khơng nên cho vay thời hạn lâu dài vì Ngân hàng
khó thay đổi hợp đồng tín dụng. Thay vào đó thì hợp đồng với khách hàng
theo lãi suất điều chỉnh theo mức biến động lãi suất trên thị trường.
3.3. Quản lý rủi ro hối đoái
Các rủi ro trong việc giao dịch ngoại hối xuất phát từ tỷ giá hối đoái
của các loại tiền tệ khác nhau do tác động của kinh tế và chính trị của một
nước.
Việc duy trì nắm giữ một ngoại tệ của một quốc gia nào đó là mạo
hiểm, vì nó khiến Ngân hàng phải gánh chịu một rủi ro hối đoái phát sinh
từ biến động tỷ giá ngoại tệ thể hiện các khoản cho vay và nợ so với đồng
nội tệ. Thí dụ đồng yên nhật giảm 1,5% so với đồng nội tệ thì các Ngân
hàng ký thác bằng đồng yên và lượng tiền lên tới 100 triệu đồng đã thiệt
hại 1,5 triệu đồng. Những biến động ngắn hạn, những thay đổi lớn về giá trị
trao đổi có thể xảy ra. Một Ngân hàng tham gia giao dịch ngoại hối phải
giới hạn việc tham gia dài hạn, những thay đổi lớn về giá trị trao đổi có thể
xảy ra. Một Ngân hàng tham gia vào dịch vụ giao dịch ngoại hối, phải giới
hạn việc tham gia vào các loại tiền tệ khác nhau. Và thực hiện một khối
lượng kinh doanh tiền tệ vừa đủ để các thiệt hại có thể bù đắp bằng lợi tức.
Hơn nữa Ngân hàng phải cảnh giác khơng chỉ với những thay đổi về
tỷ giá hói đối mà cả vớii những nguyên nhân của những thay đổi ấy để có

thể áp dụng các biện pháp giảm bớt rủi ro. Về các loại tiền tệ chủ yếu các
Ngân hàng hay các khách hàng có thể giảm bớt rủi ro với các giao dịch
trong thị trường tỷ giá hối đối có kỳ hạn. Chúng ta sẽ thấy hối đối có kỳ
hạn, giai đoạn đầu là bán ngoại tệ giao ngay năm phát sinh rủi ro làm phát
sinh rủi ro lãi suất.
Vì vậy giảm thiểu rủi ro hối đối chúng ta biết nhận và phân tích
thơng tin từ bên ngồi một cách tỷ mỉ, chính xác.
3.4. Quản lý rủi ro thanh khoản


×