Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Sức cạnh tranh và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh trong Công ty may xuất khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.72 KB, 73 trang )

MỤC LỤC
Lời nói đầu
.......................................................................................................................................
4
Chương I : Những vấn đề chung về cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh
...................................................................................................................................
5
I /. Những lý luận cơ bản về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh
...................................................................................................................................
5
1.Cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh
...................................................................................................................................
5
1.1 - Khái niệm cạnh tranh và khả năng cạnh tranh
...................................................................................................................................
5
1.2 - Vai trò của cạnh tranh
...................................................................................................................................
5
2. Các loại hình cạnh tranh.
...................................................................................................................................
7
2.1 - Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường.
...................................................................................................................................
7
2.2 – Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế.
2.3 - Căn cứ vào mức độ cạnh tranh.
2.4 – Căn cứ vào tính chất của cạnh tranh.
II /. Các nhân tố ảnh hưởng và các chỉ tiêu đánh giá đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá:


1. Mô hình Micheal Porter về 5 lực lượng cạnh tranh
Trang 1
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp.
2.1- Các nhân tố khách quan.
2.1.1- Môi trường Kinh tế quốc dân.
2.1.2 – Môi trường ngành.
2.2 - Các nhân tố chủ quan.
2.2.1 - Hàng hoá và cơ cấu hàng hoá trong kinh doanh.
2.2.2 – Yếu tố giá cả.
2.2.3 - Chất lượng hàng hoá.
2.3.4 - Tổ chức hoạt động xúc tiến.
2.3.5 – Dịch vụ sau bán hàng.
2.3.6 – Phương thức thanh toán.
2.3.7 – Yếu tố thời gian.
3. Một số chỉ tiêu tổng hợp đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
III /. Những yêu cầu cơ bản của cạnh tranh trên thị trường quốc tế trong điều kiện
hiện nay.
Một là: Hàng hoá phải được thích nghi hoá theo các đặc trưng vật lý của nó.
Hai là: Hàng hoá phải tích nghi hoá theo các đặc trưng dịch vụ của nó.
Ba là: Thích nghi hoá theo các đặc trưng có tính biểu tượng của hàng hoá.
IV /. Những biện pháp chủ yếu trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp trong hoạt động xuất khẩu.
1Các biện pháp nâng cao lợi thế cạnh tranh.
Xác định các chiến lược cạnh tranh.
Chương II : Thực trạng về khả năng cạnh tranh của Công ty May Xuất Khẩu trong
hoạt động xuất khẩu hàng may mặc Thời trang giai đoạn 1999 – 2003
I /. Khái quát về sản xuất kinh doanh của Công ty
1. Những thuận lợi , khó khăn.
1.1- Thuận lợi .
1.2 – Khó khăn.

2- Kết quả kinh doanh trong các năm qua. Đánh giá.
II /. Thực trạng cạnh tranh của mặt hàng.
1. Đối thủ cạnh tranh.
Trang 2
2.Phân tích cạnh tranh theo một số yếu tố chủ yếu
2.1- Chất lượng
2.2- Giá cả
2.3- Tính đa dạng kiểu dáng
2.4 –Dịch vụ , phương pháp phục vụ khách hàng
2.5-Các vấn đề khác
III/.Đánh giá chung thực trạng và khách quan cạnh tranh
1.Những mặt mạnh
2.Những mặt yếu
3.Vấn đề đặt ra với công ty
Chương III : Phương hướng và biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của công
ty may xuất khẩu trong hoạt động xuất khẩu hàng may mặc thời trang
I/. Mục tiêu và phương hướng nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty trong thời
gian tới
1.Định hướng phát triển của nghành may mặc tới năm 2010
2.Mục tiêu và phương hướng hoạt động của Công ty may xuất khẩu giai đoạn 2005
– 2010
2.1- Về hoạt động xuất khẩu
2.2- Về phát triển thị trường
2.3- Về tổ chức , đào tạo
3.Phương hướng nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty trong hoạt động xuất
khẩu nghành may mặc thời trang
II/.Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty may xuất khẩu
1.Về phía công ty
1.1- Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động Marketing mở rộng thị trường
xuất khẩu

1.1.1- Tăng cường hoạt động nghiên cứu thị trường nhằm xác định nhu cầu, thị hiếu
khách hàng ................................................................................................................
1.1.2- Nghiên cứu , phân tích đối thủ cạnh tranh
1.1.3- Đẩy mạnh hoạt động khuyếch trương quảng cáo
1.2- Sử dụng chính sách giá cả có hiệu quả
Trang 3
1.3- Thực hiện đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu
1.4- Nâng cao chất lượng hàng hoá và cải tiến công tác quản lý chất lượng
1.5- Tổ chức công tác nghiên cứu mẫu mốt
1.6- Nâng cao trình độ người lao động
1.7- Mở rộng các mối liên kết kinh tế
1.8- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn , chi phí lợi nhuận
2.Về phía nhà nước
.....................................2.1- Hoàn thiện chính sách đối với xuất khẩu hàng may mặc
......................................................................................2.2- Cải tiến chính sách thuế
.......................................................................................2.3- Hoàn chính sách tỷ giá
............................................................................2.4- Hoàn thiện chính sách tín dụng
Trang 4
LỜI NÓI ĐẦU
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế
thị trường là một bước ngoặt lớn có tính chất cơ bản để nền kinh tế nước ta có thể
đứng vững và phát triển kịp với nền kinh tế thế giới và khu vực. Sự chuyển đổi này
đã kéo theo sự chuyển hướng trong việc lập kế hoạch, chiến lược kinh doanh của
mỗi doanh nghiệp. Cơ chế mới này đã mở ra một thời kỳ mới đầy cơ hội phát triển
nhưng cũng nhiều thách thức lớn đối với các thành phần kinh tế cũng như các
doanh nghiệp ở Việt Nam.
Hoạt động trong cơ chế thị trường mọi doanh nghiệp phải tự mình vận
động, tự quyết định mọi vấn đề về kinh doanh của mình, không có sự phân công,
chỉ đạo trực tiếp như trong cơ chế cũ, vì vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải có tính linh
hoạt cao. Chính vì sự sống còn và phát triển của mỗi doanh nghiệp mà đã có sự

cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau. Cạnh tranh từ đó đã ra đời góp phần
giúp cho các doanh nghiệp khẳng định sức mạnh chính, tăng nhanh doanh thu, lợi
nhuận. Ngược lại, đó cũng là yếu tố loại bỏ những doanh nghiệp kinh doanh không
hiệu quả, không có sức cạnh tranh.
Khi nền kinh tế càng phát triển, các thành phần kinh tế ngày càng đa dạng,
số lượng các doanh nghiệp xuất hiện ngày càng nhiều thì cạnh tranh ngày càng gay
gắt. Mỗi doanh nghiệp để đảm bảo cho sự tồn tại của mình đã đưa ra những chiến
lược cạnh tranh táo bạo nhằm không ngừng tăng cường khả năng cạnh tranh cho
mình. Mặt khác, các doanh nghiệp không bao giờ tự thoả mãn với thị trường chiếm
lĩnh được (điều này rất nguy hiểm có thể sẽ kéo theo sự diệt vong của doanh
nghiệp) nên luôn tìm cách vươn lên, mở rộng thị trường. Và vì vậy, xây dựng một
chiến lược cạnh tranh với những công cụ, biện pháp thích hợp nhằm nâng cao khả
năng cạnh tranh gay gắt trên thị trường.
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu là một hoạt động mang tính chất quốc tế,
vì nó vượt khỏi biên giới quốc gia nên yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp lại càng nhiều. Để đứng vững trên thị trường quốc tế, trong điều
kiện cạnh tranh có nhiều khốc liệt hơn thì vấn đề đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp
kinh doanh xuất khẩu càng lớn.
Trang 5
Xuất phát từ tầm quan trọng của cạnh tranh đối với mỗi doanh nghiệp, nhất
là trên thị trường thế giới, cùng với quá trình tìm hiểu thực tế trong thời gian thực
tập tại Công ty may xuất khẩu , em đã chọn đề tài: " Sức cạnh tranh và các giải
pháp nâng cao sức cạnh tranh của Công ty may xuất khẩu trong thị trường quốc tế
" làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Trang 6
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ NÂNG CAO KHẢ
NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN
XUẤT KINH DOANH
I - NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH VÀ KHẢ NĂNG CẠNH

TRANH
1- Cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh
1.1 - Khái niệm cạnh tranh và khả năng cạnh tranh
Sự trao đổi hàng hoá phát triển rất sớm trong lịch sử phát triển loài người,
nhưng chỉ đến khi xuất hiện trao đổi thông qua vật ngang giá là tiền tệ cạnh tranh
mới xuất hiện. Khi nghiên cứu sâu về nền sản xuất TBCN và cạnh tranh TBCN,
Mác đã phát hiện ra quy luật cơ bản của sự cạnh tranh là quy luật điều chỉnh tỷ suất
lợi nhuận và qua đó đã hình thành nên hệ thống giá cả thị trường. Quy luật này dựa
trên sự chênh lệch giữa giá trị và chi phí sản xuất và khả năng có thể bán hàng hoá
dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu được lợi nhuận. Ngày nay, trong nền kinh tế thị
trường, cạnh tranh vẫn là điều kiện và yếu tố kích thích kinh doanh là môi trường
và động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động và sự phát triển
của xã hội nói chung.
Tóm lại, có thể hiểu: " Cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa
các chủ thể hiện đại trên thị trường với nhau nhằm giành giật những điều kiện sản
xuất thuận lợi và nơi tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều
kiện thúc đẩy sản xuất phát triển ".
Như vậy, khi nói đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ta có thể hiểu:
"Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng về năng lực mà doanh
nghiệp có thể duy trì vị trí của nó một cách lâu dài và có ý thức, ý chí trên thị
trường cạnh tranh đảm bảo thực hiện một tỷ lệ lợi nhuận đảm bảo cho sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp".
Hiện nay, người ta đã tính toán được rằng để đảm bảo cho yêu cầu nêu trên thì
tỷ lệ lợi nhuận đạt được phải ít nhất bằng tỷ lệ cho việc tài trợ cho những mục tiêu
Trang 7
của doanh nghiệp. Vì thế, nếu một doanh nghiệp tham gia thị trường mà không có
khả năng cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh yếu thì sẽ không thể tồn tại được.
Quá trình duy trì sức cạnh tranh của doanh nghiệp phải là một quá trình lâu dài,
nếu không nói vĩnh viễn như là quá trình duy trì sự sống.
1.2 - Vai trò của cạnh tranh :

Như chúng ta đã biết, cạnh tranh là một biểu hiện đặc trưng của nền kinh tế
hàng hoá, đảm bảo tự do trong sản xuất kinh doanh và đa dạng hoá hình thức sở
hữu, trong cạnh tranh nói chung và cạnh tranh trên thị trường quốc tế nói riêng, các
doanh nghiệp luôn đưa ra các biện pháp tích cực và sáng tạo nhằm đứng vững trên
thị trường và sau đó tăng khả năng cạnh tranh của mình. Để đạt được mục tiêu đó,
các doanh nghiệp phải cố gắng tạo ra nhiều ưu thế cho sản phẩm của mình và từ đó
có thể đạt được mục đích cuối cùng là lợi nhuận.
Khi sản xuất kinh doanh một lợi nhuận hàng hoá nào đó, lợi nhuận mà doanh
nghiệp thu được được xác định như sau:
Pr = P.Q - C.Q
Trong đó: + Pr: Lợi nhuận của doanh nghiệp
+ P: Giá bán hàng hoá.
+ Q: Lượng hàng hoá bán được
+ C: Chi phí một đơn vị hàng hoá.
Như vậy để đạt được lợi nhuận tối đa doanh nghiệp có các cách như: tăng giá
bán P, tăng lượng bán Q, giảm chi phí C và để làm được những việc này doanh
nghiệp phải làm tăng vị thế của sản phẩm trên thị trường bằng cách áp dụng các
thành tựu khoa học công nghệ, các phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại nhằm
tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp... và tốn ít chi phí nhất. Bên cạnh
đó, các doanh nghiệp phải có những chiến lược Marketing thích hợp nhằm quảng
bá sản phẩm, hàng hoá của mình tới khách hàng giúp họ có thể nắm bắt được sự có
mặt của những hàng hoá đó và những đặc tính, tính chất, giá trị và những dịch vụ
kèm theo của chúng.
Chỉ khi nền kinh tế có sự cạnh tranh thực sự thì các doanh nghiệp mới có sự
đầu tư nhằm nâng cao sự cạnh tranh và nhờ đó sản phẩm hàng hoá ngày càng được
Trang 8
đa dạng, phong phú và chất lượng được tốt hơn. Đó chính là tầm quan trọng của
cạnh tranh đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Có cạnh tranh, hàng hoá sẽ có chất lượng ngày càng tốt hơn, mẫu mã ngày
càng đẹp hơn, phong phú hơn, đa dạng hơn và đáp ứng tốt hơn những yêu cầu của

người tiêu dùng trong xã hội. Người tiêu dùng có thể thoải mái, dễ dàng trong việc
lựa chọn các sản phẩm phù hợp với túi tiền và sở thích của mình. Những lợi ích mà
họ thu được từ hàng hoá ngày càng được nâng cao, thoả mãn ngày càng tốt hơn các
nhu cầu của họ nhờ có các dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng, được quan tâm
nhiều hơn. Đây là những lợi ích làm người tiêu dùng có được từ cạnh tranh.
Bên cạnh đó, cạnh tranh còn đem lại những lợi ích không nhỏ cho nền kinh tế
đất nước. Để tồn tại và phát triển trong cạnh tranh các doanh nghiệp đã không
ngừng nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng những thành tựu khoa học vào sản xuất
kinh doanh nhờ đó mà tình hình sản xuất của đất nước được phát triển, năng suất
lao động được nâng cao. Đứng ở góc độ lợi ích xã hội, cạnh tranh là một hình thức
mà Nhà nước sử dụng để chống độc quyền, tạo cơ hội để người tiêu dùng có thể
lựa chọn được những sản phẩm có chất lượng tốt, giá rẻ.
Cạnh tranh bao giờ cũng mang tính sống còn, gay gắt và nó còn gay gắt hơn khi
cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Hiện nay thị trường quốc tế có nhiều doanh
nghiệp của nhiều quốc gia khác nhau với những đặc điểm và lợi thế riêng đã tạo ra
một sức ép cạnh tranh mạnh mẽ, không cho phép cácdoanh nghiệp hành động theo ý
muốn của mình mà buộc doanh nghiệp phải quan tâm đến việc thúc đẩy khả năng
cạnh tranh của mình theo hai xu hướng:
Tăng chất lượng của sản phẩm và hạ chi phí sản xuất. Để đạt được điều này các
doanh nghiệp phải biết khai thác triệt để lợi thế so sánh của đất nước mình để tạo ra
sự khác biệt cho sản phẩm. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải chú trọng đầu tư các
trang thiết bị hiện đại, không ngừng đưa các tiến bộ khoa học công nghệ kỹ thuật
vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm. Những
điều này sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cho quốc gia, các nguồn lực sẽ được tận dụng
triệt để cho sản xuất, trình độ KHKT của đất nước sẽ không ngừng được cải thiện.
Như vậy, có thể nói cạnh tranh là động lực phát triển cơ bản nhằm kết hợp một
cách hợp lý giữa lợi ích doanh nghiệp và lợi ích xã hội. Cạnh tranh tạo ra môi
Trang 9
trường tốt cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.Tuy nhiên, trong cuộc cạnh
tranh khối liệt này không phải bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có lợi, có doanh nghiệp

bị huỷ diệt do không có khả năng cạnh tranh, có doanh nghiệp sẽ thực sự phát triển
nếu họ biết phát huy tốt những tiềm lực của mình. Nhưng cạnh tranh không phải là
sự huỷ diệt mà là sự thay thế, thay thế các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, sử dụng
lãng phí nguồn lực xã hội bằng doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, nhằm đáp ứng
nhu cầu của xã hội, thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển.
Tóm lại: Cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc gia
cũng như của từng doanh nghiệp.
2 - Các loại hình cạnh tranh :
Có nhiều cách phân loại cạnh tranh dựa theo nhiều tiêu thức khác nhau, nhưng
ngày nay trong phân tích đánh giá người ta dựa theo các tiêu thức sau:
2.1 - Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường :
Dựa vào tiêu thức này người ta chia cạnh tranh thành 3 loại:
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua
Là một cạnh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ bán đắt. Trên thị trường người
bán muốn bán sản phẩm của mình với giá cao nhất, nhưng người mua lại muốn
mua hàng hoá với giá thấp nhất có thể. Giá cả cuối cùng được chấp nhận là giá cả
thống nhất giữa người bán và người mua sau một quá trình mặc cả với nhau.
- Cạnh tranh giữa những người mua với nhau
Là cuộc cạnh tranh dựa trên sự cạnh tranh mua. Khi số lượng hàng hoá bán ra
(cung) nhỏ hơn nhu cầu cần mua của người mua (cầu) tức là hàng hoá khan hiếm
thì cuộc cạnh tranh trở nên quyết liệt, giá cả sẽ tăng lên vì người mua sẵn sàng
chấp nhận giá cao để mua được hàng hoá cần mua.
- Cạnh tranh giữa người bán với người bán:
Là một cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau, thủ tiêu lẫn nhau để
giành khách hàng và thị trường, cuộc cạnh tranh dẫn đến là giá cả giảm xuống và
có lợi cho thị trường. Trong khi đó đối với những doanh nghiệp khi tham gia thị
trường không chịu được sức ép sẽ phải bỏ thị trường, nhường thị phần của mình
cho các doanh nghiệp có sức cạnh tranh mạnh hơn.
2.2 - Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế :
Trang 10

- Cạnh tranh trong nội bộ ngành
Là một cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản
xuất một loại hàng hoá nhằm mục đích tiêu thụ hàng hoá có lợi hơn để thu lợi
nhuận siêu ngạch bằng các biện pháp cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao
động, giảm chi phí sản xuất làm cho giá trị hàng hoá cá biệt do doanh nghiệp sản
xuất ra nhỏ hơn giá trị xã hội. Kết quả cuộc cạnh tranh này làm cho kỹ thuật sản
xuất phát triển hơn.
- Cạnh tranh giữa các ngành
Là một cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hay đồng minh giữa các doanh
nghiệp trong các ngành với nhau nhằm giành giật lợi nhuận cao nhất. Trong quá
trình này xuất hiện sự phân bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giữa các ngành khác
nhau, kết quả hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
2.3 - Căn cứ vào mức độ cạnh tranh :
- Cạnh tranh hoàn hảo:
Là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có nhiều người bán và không người
nào có ưu thế để cung cấp một số lượng sản phẩm quan trọng mà có thể ảnh hưởng
tới giá cả. Các sản phẩm làm ra được người mua xem là đồng nhất tức là ít có sự
khác nhau về quy cách, phẩm chất, mẫu mã. Người bán tham gia trên thị trường chỉ
có cách thích ứng với gia cả trên thị trường, họ chủ yếu tìm cách giảm chi phí và
sản xuất một mức sản phẩm đến mức giới hạn mà tại đó chi phí cận biên bằng
doanh thu cận biên.
- Cạnh tranh không hoàn hảo:
Là cuộc cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn sản phẩm của họ là không
đồng nhất với nhau, mỗi sản phẩm có thể có nhiều nhãn hiệu khác nhau. Mỗi nhãn
hiệu đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau mặc dù khác biệt giữa các sản phẩm
là không đáng kể. Người bán có uy tín độc đáo đói với người mua do nhiều lý do
khác nhau như khách hàng quen, gây được lòng tin. Người bán lôi kéo khách hàng
về phía mình bằng nhiều cách: Quảng cáo, cung cấp dịch vụ, tín dụng ưu đãi trong
giá cả... đây là loại cạnh tranh rất phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
- Cạnh tranh độc quyền:

Trang 11
Là cạnh tranh trên thị trường ở đó chỉ có một số người bán sản phẩm thuần
nhất hoặc nhiều người bán một loại sản phẩm không độc nhất. Họ có thể kiểm soát
gần như toàn bộ số lượng sản phẩm hay hàng hoá bán ra trên thị trường. Thị trường
có sự pha trộn giữa độc quyền và cạnh tranh được gọi là thị trường cạnh tranh độc
quyền. Điều kiện ra nhập hoặc rút khỏi thị trường cạnh tranh độc quyền có nhiều
cản trở: Do vốn đàu tư lớn hay do độc quyền bí quyết công nghệ. Trong thị trường
này không có cạnh tranh về giá cả mà một số người bán toàn quyền quyết định giá.
Họ có thể định giá cao hơn hoặc thấp hơn tuỳ thuộc vào đặc điểm tiêu dùng của
sản phẩm, cốt sao cuối cùng họ thu được lợi nhuận tối đa.
2.4 - Căn cứ vào tính chất của cạnh tranh, người ta chia thành :
- Cạnh tranh lành mạnh:
Cạnh tranh lành mạnh là cuộc cạnh tranh mà các chủ thể tham gia kinh doanh
trên thi trường dùng chính tiềm năng, nội lực của mình để cạnh tranh với các đối
thủ. Những nội lực đó là khả năng về tài chính, về nguồn nhân lực, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, về uy tín, hình ảnh của Công ty... trên thị trường hay của tất cả
những gì tựu chung trong hàng hoá bao gồm cả hàng hoá cứng (hàng hoá hiện vật)
và hàng hoá mềm (dịch vụ)
- Cạnh tranh không lành mạnh
Là cạnh tranh không bằng chính nội lực thực sự của doanh nghiệp mà dùng
những thủ đoạn, mánh lới, mưu mẹo nhằm cạnh tranh một cách không công khai
thông qua việc trốn tránh các nghĩa vụ mà Nhà nước yêu cầu và luồn lách qua
những kẽ hở của pháp luật.
II - CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ ĐẾN KHẢ
NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG
XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ:
1 - Mô hình Micheal Porter về 5 lực lượng cạnh tranh
Trong nền cạnh tranh kinh tế thị trường, bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động
trên thị trường cũng đều phải chịu một áp lực cạnh tranh nhất định, mà hiện trạng
cuộc cạnh tranh phụ thuộc vào 5 lực lượng cạnh tranh cơ bản, được biểu diễn bởi

mô hình sau:
Trang 12


Mô hình 5 lực lượng cạnh tranh của Michael Porter là một mô hình được nhiều
nhà phân tích vận dụng để đánh giá khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp
hoặc của một ngành công nghiệp.
* Nguy cơ đe doạ từ những người mới vào cuộc
Là sự xuất hiện của các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường nhưng khả
năng mở rộng sản xuất, chiếm lĩnh thị trường (thị phần) của các doanh nghiệp
khác. Để hạn chế mối đe doạ này, các nhà quản lý thường dựng nên các hàng rào
như:
- Mở rộng khối lượng sản xuất của doanh nghiệp để giảm chi phí.
- Khác biệt hoá sản phẩm.
- Đổi mới công nghệ, đổi mới hệ thống phân phối.
- Phát triển các dịch vụ bổ sung.
Trang 13
Các đối thủ
tiềm năng
Các đối thủ cạnh
tranh trong nghành
Cuộc cạnh tranh
giữa các đối thủ
hiện tại
Sản phẩm thay thế
Người
mua
Người
cung ứng
Nguy cơ đe doạ từ những

người mới vào cuộc
Sức ép giá cả
Quyền lực
thương lượng
của người
mua
của người
cung ứng
Nguy
cơ đe
doạ từ
những sản
phẩm và dịch
vụ thay thế
Ngoài ra có thể lựa chọn địa điểm thích hợp nhằm khai thác sự hỗ trợ của
Chính phủ và lựa chọn đúng dadứn thị trường nguyên liệu, thị trường sản phẩm
* Quyền lực thương lượng của người cung ứng
Người cung ứng có thể chi phối đến doanh nghiệp là do sự thống trị hoặc khả
năng độc quyền của một số ít nhà cung ứng. Nhà cung ứng có thể đe doạ tới nhà
sản xuất do tầm quan trọng của sản phẩm được cung ứng, do đặc tính khác biệt hoá
cao độ của người cung ứng với người sản xuất, do sự thay đổi chi phí của sản
phầm mà nhà sản xuất phải chấp nhận và tiến hành, do liên kết của những người
cung ứng gây ra...
Trong buôn bán quốc tế, nhà cung ứng có vai trò là nhà xuất khẩu nguyên vật
liệu. Khi doanh nghiệp không thể khai thác nguồn nguyên vật liệu nội địa, nhà
cung ứng quốc tế có vị trí càng quan trọng. Mặc dù có thể có cạnh tranh giữa các
nhà cung ứng và doanh nghiệp có thể lựa chọn nhà cung ứng tốt nhất thì quyền lực
thương lượng của nhà cung ứng bị hạn chế vẫn không đáng kể. Trong mối quan hệ
này, để đảm bảo lợi nhuận cho doanh nghiệp trước khả năng tăng cao chi phí đầu
vào, đảm bảo sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp phải biết được quyền lực

thương lượng của người cung ứng thành quyền lực của mình.
* Quyền lực thương lượng của người mua
Người mua có quyền thương lượng với doanh nghiệp (người bán) thông qua
sức ép giảm giá, giảm khối lượng hàng mua từ doanh nghiệp, hoặc đưa ra yêu cầu
chất lượng phải tốt hơn với cùng một mức giá...
Các nhân tố tạo nên quyền lực thương lượng của người mua gồm: Khối lượng
mua lớn, sự đe doạ của quá trình liên kết những người mua khi tiến hành thương
lượng với doanh nghiệp, do sự tập trung lớn của người đối với sản phẩm chưa
được dị biệt hoá hoặc các dịch vụ bổ sung còn thiếu...
Quyền lực thương lượng của người mua sẽ rất lớn nếu doanh nghiệp không
nắm bắt kịp thời những thay đổi về nhu cầu của thị trường, hoặc khi doanh nghiệp
thiếu khá nhiều thông tin về thị trường (đầu vào và đầu ra). Các doanh nghiệp khác
sẽ lợi dụng điểm yếu này của doanh nghiệp để tung ra thị trường những sản phẩm
thích hợp hơn, với giá cả phải chăn hơn và bằng những phương thức dịch vụ độc
đáo hơn.
Trang 14
* Nguy cơ đe doạ về những sản phẩm và dịch vụ thay thế
Khi giá cả của sản phẩm, dịch vụ hiện tại tăng lên thì khác hàng có xu hướng
sử dụng sản phẩm và dịch vụ thay thế. Đây là nhân tố đe doạ sự mất mát về thị
trường của doanh nghiệp. Các đối thủ cạnh tranh đưa ra thị trường những sản phẩm
thay thế có khả năng biệt hoá cao độ so với sản phẩm của doanh nghiệp, hoặc tạo
ra các điều kiện ưu đãi về dịch vụ hay các điều kiện về tài chính.
Nếu sản phẩm thay thế càng giống sản phẩm của doanh nghiệp, thì mối đe doạ
đối với doanh nghiệp càng lớn. Điều này sẽ làm hạn chế giá cả, số lượng hàng bán
và ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Néu có ít sản phẩm tương ứng sản
phẩm của doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ có cơ hội tăng giá và tăng thêm lợi
nhuận.
* Cạnh tranh giữa các đối thủ trong ngành
Cạnh tranh giữa các Công ty trong một ngành công nghiệp được xem là vấn đề
cốt lõi nhất của phân tích cạnh tranh. Các hàng trong ngành cạnh tranh khốc liệt

với nhau về giá cả, sự khác biệt về sản phẩm, hoặc sự đổi mới sản phẩm giữa các
hãng hiện đang cùng tồn tại trong thị trường. Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt khi
đối thủ đông đảo và gần như cân bằng nhau, khi tăng trưởng của ngành là thấp, khi
các loại chi phí ngày càng tăng, khi các đối thủ cạnh tranh có chiến lược đa dạng...
Có một điều thuận lợi và cũng là bất lợi cho các đối thủ trong cùng ngành là
khả năng nắm bắt kịp thời những thay đổi, cải tiến trong sản xuất - kinh doanh,
hoặc các thông tin về thị trường. Các doanh nghiệp sẽ có khả năng cạnh tranh cao
nếu có sự nhạy bén, kịp thời và ngược lại có thể mất lợi thế cạnh tranh bất cứ lúc
bào họ tỏ ra thiếu thận trọng và nhạy bén.
Doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau (trừ các doanh nghiệp ở nước sở tại)
khi cùng tiến hành hoạt động kinh doanh trên thị trường nước ngoài sẽ có một phần
bất lợi như nhau do các quy định hạn chế của Chính phủ nước sở tại. Chính vì thế,
doanh nghiệp nào mạnh về tài chính hoặc khoa học kỹ thuật hoặc trên cả hai
phương diện sẽ có được lợi thế rất lớn. Khác với hoạt động sản xuất kinh doanh
trong nước, doanh nghiệp khi tham gia thị trường nước ngoài cần có sự trợ giúp
của các doanh nghiệp khác trong cùng quốc gia để có thêm khả năng chống đỡ
Trang 15
trước sự cạnh tranh của các doanh nghiệp thuộc quốc gia khác. Lúc đó có thể coi
sự cạnh tranh trong ngành là sự cạnh tranh giữa các quốc gia.
Sức ép cạnh tranh đối với các doanh nghiệp làm cho giá cả các yếu tố đầu ra và
những yếu tố đầu vào biến động theo các xu hướng khác nhau. Tình hình này đòi
hỏi doanh nghiệp phải linh hoạt điều chỉnh các hoạt động của mình nhằm giảm
thách thức, tăng thời cơ giành thắng lợi trong cạnh tranh. Muốn vậy doanh nghiệp
cần nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, đưa ra thị trường những sản phẩm mới chất
lượng cao, mẫu mã và giá cả phù hợp.
Dựa trên mô hình Micheal Porter về 5 lực lượng cạnh tranh chúng ta có thể đưa
ra các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp.
2 – Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp :
2.1- Các nhân tố khách quan :
2.1.1- Môi trường Kinh tế quốc dân :

a) Nhóm nhân tố kinh tế :
- Tốc độ tăng trưởng cao của nước sở tại luôn tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp hoạt động trên các lĩnh vực sự tăng lên về khả năng cạnh tranh trên thị
trường quốc tế, khi tăng trưởng cao khả năng tích tụ tập trung tư bản cao do đó khả
năng sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp ngày càng
cao.
- Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi tỷ
giá hối đoái giảm, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sẽ tăng lên trên thị
trường quốc tế vì khi đó giá bán của doanh nghiệp thấp hơn hoá bán của đối thủ
cạnh tranh của nước khác, và ngược lại tỷ giá hối đoái tăng sẽ làm cho giá bán
hàng hoá cao hơn đối thủ cạnh tranh đồng nghĩa với việc khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường quốc tế giảm.
- Lãi suất Ngân hàng ảnh hưởng mạnh đến khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp. Khi các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng với lãi suất cao sẽ làm cho giá
thành sản phẩm tăng lên từ đó giá tăng lên, do đó khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp sẽ giảm so với các đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là các đối thủ có tiềm lực về
vốn
b ) Nhân tố chính trị, pháp luật:
Trang 16
Chính trị và pháp luật là cơ sở nền tảng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực xuất khẩu bởi các doanh nghiệp này hoạt động trên thị trường quốc tế với lợi
thế mạnh trong cạnh tranh là lợi thế so sánh giữa các nước. Chính trị ổn định, pháp
luật rõ ràng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khi tham gia cạnh
tranh và cạnh tranh có hiệu quả.
Chẳng hạn bất kỳ một sự ưu đãi về thuế xuất khẩu nào cũng ảnh hưởng đến
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước.
c ) Nhóm nhân tố về khoa học kỹ thuật công nghệ:
Nhóm nhân tố này tác động một cách quyết định đến 2 yếu tố cơ bản nhất tạo
nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường là chất lượng và giá cả.

Khoa học công nghệ hiện đại sẽ làm cho chi phí cá biệt của các doanh nghiệp
giảm, chất lượng sản phẩm chứa hàm lượng khoa học công nghệ cao, khoa học kỹ
thuật, công nghệ ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp theo hướng
sau:
- Tạo ra những thế hệ công nghệ tiếp theo nhằm trang bị và trang bị lại toàn bộ
cơ sở vật chất kỹ thuật.
- Giúp các doanh nghiệp trong qúa trình thu nhập, xử lý, lưu trữ và truyền
thông tin một cách nhanh chóng và chính xác nhất.
- Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao
uy tín của doanh nghiệp
d ) Các nhân tố về văn hoá xã hội :
Phong tục tập quán thị hiếu lối sống, thói quen tiêu dùng, tôn giáo tín ngưỡng
ảnh hưởng đến cơ cấu nhu cầu của thị trường doanh nghiệp tham gia và từ đó ảnh
hưởng đến chính sách kinh doanh của doanh nghiệp khi tham gia vào các thị
trường khác nhau.
e ) Các nhân tố tự nhiên:
Các nhân tố tự nhiên bao gồm tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý của quốc gia,
môi trường thời tiết khí hậu... các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp theo hướng tích cực hay tiêu cực. Chẳng hạn tài nguyên thiên nhiên
phong phú, vị trí địa lý thuận lợi sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi phí, có điều
Trang 17
kiện khuyếch trương sản phẩm, mở rộng thị trường... Bên cạnh đó, những khó
khăn ban đầu do điều kiện tự nhiên gây ra làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp.
2.1.2 - Môi trường ngành:
a) Khách hàng:
Khách hàng sẽ tạo áp lực làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bằng
việc đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao hơn, giá rẻ hơn, dịch vụ bán hàng tốt hơn....
và do đó, để duy trì và tồn tại trên thị trường, buộc các doanh nghiệp phải thoả mãn
tốt các nhu cầu của khách hàng trong điều kiện cho phép điều này sẽ làm tăng

cường độ và tính chất cạnh tranh của doanh nghiệp.
b ) Số lượng các doanh nghiệp trong ngành hiện có và số lượng doanh nghiệp
tiềm ẩn:
Số lượng doanh nghiệp cạnh tranh và đối thủ ngang sức sẽ tác động rất lớn đến
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi số lượng đối thủ cạnh tranhthì thị phần
của các doanh nghiệp cạnh tranh sẽ giảm khi đó doanh nghiệp thống lĩnh thị trường
hay là doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao nhất, doanh nghiệp phải đẩy mạnh
hơn nữa cường độ cạnh tranh, ngày càng nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
Hơn nữa cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt quyết liệt hơn nếu như có sự xuất hiện
thêm một vài doanh nghiệp mới tham gia cạnh tranh. Khi đó, các doanh nghiệp cũ
với lợi thế về sản phẩm, vốn, chi phí cố định và mạng lưới kênh phân phối.. sẽ
phản ứng quyết liệt đối với doanh nghiệp mới. Tuy nhiên nếu các doanh nghiệp
mới có ưu thế hơn về công nghệ, chất lượng sản phẩm, áp dụng các biện pháp để
giành thị phần có hiệu quả hơn thì khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp mới
sẽ cao hơn nếu các doanh nghiệp không sử dụng hữu hiệu công cụ trong cạnh
tranh.
e ) Các đơn vị cung ứng đầu vào :
Các nhà cung ứng đầu vào có thể gây ra những khó khăn làm giảm khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp trong những trường hợp sau:
- Nguồn cung cấp mà doanh nghiệp cần chỉ có một hoặc một vài doanh nghiệp
độc quyền cung ứng.
Trang 18
- Nếu doanh nghiệp không có nguồn cung ứng nào khác thì doanh nghiệp sẽ
yếu thế hơn trong mối tương quan thế và lực đối với nhà cung ứng hiện có.
- Nếu nhà cung cấp có đủ khả năng, đủ các nguồn lực để khép kín sản xuất, có
hệ thống mạng phân phối hoặc mạng lưới bán lẻ thì có thế lực đáng kể đối với
doanh nghiệp với tư cách là khách hàng.
Tất cả những khó khăn đối với doanh nghiệp có thể gặp phải ở trên sẽ giảm
đến sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào các đơn vị cung ứng đầu vào có thể gây
ảnh hưởng mạnh đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.

Để giảm bớt các tác động không tốt từ các nhà cung ứng, các doanh nghiệp
phải xây dựng cho mình một hay nhiều người cung ứng, nghiên cứu tìm hiểu
nguồn đầu vào thay thế khi cần thiết và cần có chính sách dự trữ hàng hoá hợp lý.
d) Sức ép của sản phẩm thay thế :
Sự ra đời của các sản phẩm thay thế là một yếu tố nhằm đáp ứng sự biến động
của nhu cầu thị trường theo xu hướng ngày càng đa dạng phong phú và cao cấp
hơn và chính nó làm giảm khả năng cạnh tranh của các sản phẩm bị thay thế.
Đặc biệt nhiều sản phẩm thay thế được sản xuất trên những dây chuyền kỹ
thuật công nghệ tiên tiến hơn, do đó có sự cạnh tranh cao hơn. sản phẩm thay thế
phát triển sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp không có sản
phẩm thay thế.
2.2 - Các nhân tố chủ quan
2.2.1 - Hàng hoá và cơ cấu hàng hoá trong kinh doanh :
Điều quan trọng nhất đối với hoạt động của một doanh nghiệp hoạt động sản
xuất kinh doanh là phải trả lời được các câu hỏi cơ bản: sản xuất cái gì ?. sản xuất
như thế nào ?, sản xuất cho ai?. Còn đối với doanh nghiệp thương mại thì điều
quan trọng trong kinh doanh là cung cấp cái gì? cho ai?và ở đâu?. Như vậy có
nghĩa là cần xây dựng cho mình một chính sách sản phẩm, hàng hoá. Khi tham gia
hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có hàng hoa đem ra thị trường và phải làm sao
để cho hàng hoá của mình thích ứng được với thị trường, nhằm tăng khả năng tiên
thụ, mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để có thể cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường, doanh nghiệp phải thực
hiện đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh. Thực chất của đa dạng hoá đó là quá
Trang 19
trình mở rộng hợp lý danh mục hàng hoá, tạo nên một cơ cấu hàng hoá có hiệu quả
của doanh nghiệp. Hàng hoá của doanh nghiệp phải luôn được hoàn thiện không
ngừng để có thể theo kịp nhu cầu thị trường bằng cách cải tiến các thông số chất
lượng, mẫu mã, bao bì đồng thời tiếp tục duy trì các hàng hoá đang là thế mạnh của
doanh nghiệp. Ngoài ra doanh nghiệp cũng cần nghiên cứu tìm ra các hàng hoá mới
nhằm phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá. Đa dạng hoá hàng hoá

kinh doanh không chỉ là để đáp ứng nhu cầu thị trường, thu được nhiều lợi nhuận
mà còn là một biện pháp phân tán rủi ro trong kinh doanh khi mà tình hình cạnh
tranh trở nên gay gắt, quyết liệt.
Đi đôi với thực hiện đa dạng hoá mặt hàng, đề đảm bảo đứng vững trong điều
kiện cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp có thể thực hiện trọng tâm hoá hàng hoá vào
một số loại hàng hoá nhằm cung cấp cho một nhóm người hoặc một vùng thị
trường nhất định của mình. Trong phạm vi này doanh nghiệp có thể phục vụ khách
hàng một cách tốt hơn, có hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh, do đó doanh nghiệp
đã tạo dựng được một bức rào chắn, đảm bảo giữ vững được phần thị trường của
mình.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần thực hiện chiến lược khác biệt hoá hàng hoá,
tạo ra các nét độc đáo riêng cho mình để thu hút, tạo sự hấp dẫn cho khách hàng
vào các hàng hoá của mình, nâng cao uy tín của doanh nghiệp.
Như vậy hàng hoá và cơ cấu hàng hoá một cách tối ưu là một trong những yếu
tố quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
2.2.2- Yếu tố giá cả :
Giá cả của một hàng hoá trên thị trường được hình thành thông qua quan hệ
cung cầu. Người bán và người mua thoả thuận mặc cả với nhau để đi tới mức giá
cuối cùng đảm bảo hai bên cùng có lợi. Giá cả đóng vai trò quyết định mua hay
không mua của khách hàng.Trong nền kinh tế thị trường có sư cạnh tranh của các
doanh nghiệp, khách hàng có quyền mua và lựa chọn những gì cho là tốt nhất và
cùng một loại hàng hoá với chất lượng tương đương nhau chắc chắn họ sẽ lựa chọn
mức giá thấp hơn, khi đó lượng bán của doanh nghiệp sẽ tăng lên.
Giá cả được thể hiện như là vũ khí cạnh tranh thông qua việc định giá của
hàng hoá: Định giá thấp (giá xâm nhập, giới thiệu) định giá ngang giá thị trường
Trang 20
hay định giá cao. Việc định giá cần phải xem xét các yếu tố sau: Lượng cầu đối với
hàng hoá và tính tới số tiền mà dân cư có thể để dành cho loại hàng hoá đó, chi phí
kinh doanh và giá thành đơn vị sản phẩm. Phải nhận dạng đúng thị trường cạnh
tranh để từ đó có cách định giá thích hợp cho mỗi loại thị trường. Với một mức giá

ngang giá thị trường giúp cho doanh nghiệp giữ được khách hàng đặc biệt là khách
hàng truyền thống. Nếu doanh nghiệp tìm ra được các biện pháp hạ giá thành thì
lợi nhuận thu được sẽ tăng lên, hiệu quả kinh doanh sẽ cao. Ngược lại, với một
mức giá thấp hơn giá thị trường sẽ thu hút được nhiều khách hàng và tăng lượng
bán, doanh nghiệp sẽ có cơ hội thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường mới. Mức giá
doanh nghiệp áp đặt cao hơn giá thị trường chỉ sử dụng được đối với các doanh
nghiệp có tính độc quyền, điều này giúp cho doanh nghiệp thu được rất nhiều lợi
nhuận (lợi nhuận siêu ngạch).
Để chiếm lĩnh được ưu thế trong cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải có sự lựa
chọn các chính sách giá thích hợp cho từng loại hàng hoá, từng giai đoạn trong chu
kỳ sống của sản phẩm hay tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng vùng thị trường.
2.2.3 - Chất lượng hàng hoá
Nếu như trước kia giá cả được coi là yếu tố quan trọng nhất trong cạnh tranh,
thì ngày nay nó phải nhường chỗ cho chỉ tiêu chất lượng hàng hoá. Trên thực tế,
cạnh tranh bằng giá là " biện pháp nghèo nàn " vì nó làm giảm lợi nhuận thu được,
mà ngược lại cùng một loại hàng hoá, chất lượng hàng hoá nào đáp ứng được nhu
cầu khách hàng thì họ cũng sẵn sàng mua với một mức giá cao hơn, nhất là trong
thời đại ngày nay khi mà khoa học kỹ thuật đang trong giai đoạn phát triển mạnh,
đời sống của nhân dân được nâng cao hơn trước. Chất lượng hàng hoá là hệ thống
nội tại của hàng hoá được xác định bằng cá thông số có thể do được hoặc so sánh
được, thoả mãn các điều kiện kỹ thuật và những yêu cầu nhất định của người tiêu
dùng và xã hội. Chất lượng háng hoá được hình thành từ khâu thiết kế tới tổ chứ
sản xuất và ngay cả khitiêu thụ hàng hoá và chịu tác động của nhiều yếu tố: Công
nghệ, dây chuyền sản xuất, nguyên vật liệu, trình độ quản lý...
Chất lượng hàng hoá không chỉ là bền tốt, đẹp mà nó còn do khách hàng quyết
định. Muốn đảm bảo về chất lượng thì một mặt phải thường xuyên chú ý tới tất cả
các khâu trong quá trình sản xuất, mặt khác,chất lượng hàng hoá không những
Trang 21
được đảm bảo trước khi bán mà còn phải được đảm bảo ngay cả sau khi bán hàng
bằng các dịch vụ bảo hành. Chất lượng hàng hoá thể hiện tính quyết định khả năng

của doanh nghiệp ở chỗ.
+ Nâng cao chất lượng hàng hoá sẽ làm tăng khối lượng hàng hoá bán ra, kéo
dài chu kỳ sống của sản phẩm.
+ Hàng hoá chất lượng cao sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp kích thích
khách hàng mua hàng và nở rộng thị trường.
+ Chất lượng hàng hoá cao sẽ làm tăng khả năng sinh lời, cải thiện tình hình tài
chính của doanh nghiệp.
2.2.4 - Tổ chức hoạt động xúc tiến
Trong kinh doanh thương mại hiện nay, các doanh nghiệp sẽ không đạt được
hiệu quả cao nếu chỉ nghĩ rằng: "Có hàng hoá chất lượng cao, giá rẻ là đủ để bán
hàng". Nhưng giá trị của hàng hoá, dịch vụ, thậm chí cả những lợiích đạt được khi
tiêu dùng sản phẩm cũng phải được thông tin tới khách hàng hiện đại, khách hàng
tiềm năng, cũng như những người có ảnh hưởng tới việc mua sắm. Để làm được
điều đó các doanh nghiệp cần thực hiện tốt các hoạt động của xúc tiến thương mại.
Công tác tổ chức hoạt động xúc tiến là tập hợp nhiều nội dung khác nhau
nhằm tăng khả năng tiêu thụ, mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp...
* Công tác tổ chức hoạt độngxúc tiến gồm một số nội dung sau
- Quảng cáo.
- Khuyến mại
- Hội chợ triển lãm.
- Bán hàng trực tiếp.
- Quan hệ công chúng và các hoạt động khuyếch trương khác.
Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện truyền tin (Đài, báo, truyền hình..)
về hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp đến người tiêu dùng nhằm làm cho khách
hàng chú ý tới sự có mặt của doanh nghiệp và sản phẩm dịch vụ sẽ được cung cấp.
Quảng cáo phải tạo ra sự khá biệt giữa hàng hoá của doanh nghiệp với hàng hoá
hác trên thị trường, làm tăng giá của hàng hoá bán ra. Quảng cáo phải gây được ấn
tượng cho khách hàng, tác động vào tâm lý khách hàng... để làm nảy sinh nhu cầu
Trang 22

mua sắm của họ, từ đó làm tăng quy mô kinh doanh của doanh nghiệp (nhờ tăng
lượng bán). Và một tác dụng nữa của quảng cáo là nâng cao uy tín của doanh
nghiệp trên thị trường, là một phương tiện cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh.
Bên cạnh hoạt động trên, hiện nay các doanh nghiệp còn thực hiện các hoạt
động như chiêu hàng, tham gia hội chợ, tổ chức hội nghị khách hàng... để giới
thiệu về sản phẩm của doanh nghiệp mình.
Công tác tổ chức hoạt động xúc tiến tốt tác động mạnh đến khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp.
- Tổ chức hoạt động xúc tiến tốt giúp cho doanh nghiệp tăng lượng bán. tăng
doanh thu, lợi nhuận, thu hồi vốn nhanh.
- Tổ chức hoạt động xúc tiến tốt sẽ tạo ra uy tín của sản phẩm trên thị trường,
làm cho khách hàng biến đến và hiểu rõ kỹ năng công dụng của sản phẩm.
-Tổ chức tốt hoạt động xúc tiến giúp cho doanh nghiệp tìm được nhiều bạn
hàng mới, khai thác được nhiều thị trường, kích thích sản xuất kinh doanh phát
triển.
Công ty May Xuất Khẩu đã có một số hoạt động xúc tiến như cho ra đời các
catalogue giới thiệu sản phẩm của Công ty, cử cán bộ đi tham dự các hội chợ, triển
lãm quốc tế nhằm tìm kiếm thêm khách hàng, giới thiệu mặt hàng... và đã thu được
một số kết quả đáng mừng.
2.2.5 - Dịch vụ sau bán hàng
Để nâng cao uy tín và trách nhiệm của mình đối với người tiêu dùng về hàng
hoá của doanh nghiệp, đòi hỏi doanh nghiệp phải thực hiện tốt các dịch vụ sau bán
hàng.
Nội dung hoạt động dịch vụ sau bán hàng gồm: Hướng dẫn cách sử dụng hàng
hoá, lắp đặt, sửa chữa, bảo hành, bảo đảm các dịch vụ thay thế...
Tác động của dịch vụ sau bán hàng:
- Tạo được uy tín cho hàng hoá và doanh nghiệp trên thị trường.
- Duy trì và mở rộng thị trường.
- Bán thêm các thiết bị thay thế làm tăng doanh thu lợi nhuận.
Qua dịch vụ sau bán hàng doanh nghiệp nắm bắt được hàng hoá của mình có

đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng không, để từ đó ngày càng
Trang 23
hoàn thiện và đổi mới sản phẩm của mình. Do vậy, dịch vụ sau bán hàng là một
biện pháp rất tốt tăng uy tín trong cạnh tranh.
2.2.6 - Phương thức thanh toán
Trong giai đoạn hiện nay, các doanh nghiệp sử dụng các phương thức thanh
toán khác nhau như: Thanh toán chậm, trả góp, thanh toán qua ngân hàng, mở
L/C... giúp cho hoạt động mua bán được diễn ra thuận lợi hơn, nhanh chóng hơn,
có lợi cho cả người bán và người mua. Việc lựa chọn phương thức thanh toán hợp
lý sẽ có tác động kích thích đối với khách hàng, tăng khối lượng tiêu thụ và do đó
tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
2.2.7 - Yếu tố thời gian
Sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật trong giai đoạn hiện nay làm
thay đổi nhanh chóng nếp nghĩ, sở thích hay nhu cầu của người tiêu dùng, cũng
như sự rút ngắn chu kỳ sống của sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp yếu tố quan
trọng quyết định thành công trong kinh doanh hiện đại chính là thời gian và tốc độ
chứ không phải là yếu tố truyền thống như nguyên vật liệu hay lao động.
Những thay đổi nhanh chóng của tiến bộ khoa học kỹ thuật đã làm cho các
cuộc cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, khối liệt hơn và trong công cuộc chạy
đua này ai biết nắm bắt thời cơ và đi trước thì người đó sẽ thắng. Muốn vậy các
doanh nghiệp phải tổ chức tốt hoạt động thu thập và xử lý thông tin thị trường, phải
biết nắm băt thời cơ, lựa chọn mặt hàng theo yêu cầu của thị trường, nhanh chóng
tổ cứhc kinh doanh, tiêu thụ, thu hồi vốn trước khi chu kỳ sản phẩm kết thúc.
Hiện nay, ở nhiều nước phát triển cạnh tranh bằng thời gian là một biện pháp
rất quan trọng mang tính sống còn của doanh nghiệp. Đi trước một bước trong
cạnh tranh là đã dành được một chiến thắng quan trọng trong việc thu hút khách
hàng, mở rộng thị trường, tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy khi xây
dựng một chiến lược kinh doanh, các doanh nghiệp thường đề cập tới vấn đề "Tốc
độ thị trường"; "cạnh tranh dựa trên thờigian" và chú trọng tới chu kỳ sống của
sản phẩm, thoả mãn nhu cầu thị trường, thời gian đầu tư, thời gian thu hồi vốn, tốc

độ tiêu thụ sản phẩm.
Ngoài các yếu tố trên vốn và quy mô doanh nghiệp...cũng sẽ tác động lớn tới
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như việc nâng cao khả năng cạnh
Trang 24
tranh. Uy tín của doanh nghiệp cũng là một yếu tố rất quan trọng, đó là cơ sở để
doanh nghiệp có thể dễ dàng giành thắng lợi trong cạnh tranh vì họ đã có một
lượng khách hàng quen thuộc tín nhiệm. Uy tín của doanh nghiệp được hình thành
sau một thời gian dài hoạt động trên thị trường và nó là một tài sản vô hình mà
doanh nghiệp cần phải biết giữ gìn và phát huy tài sản đó.
3 - Một số chỉ tiêu tổng hợp đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Việc đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là rất quan trọng đối với
bất kỳ một doanh nghiệp nào để xác định được khả hiện tại của bản thân doanh
nghiệp và xác định sức mạnh của các đối thủ cần quan tâm. Khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp thường được đánh giá qua các chỉ tiêu sau:
* Tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp tính theo doanh thu
Công thức xác định:
GT
t
=
DT
t
- DT
t-l
DT
t-l
Trong đó:
Gt
t
: Tốc độ tăng trưởng theo doanh thu thời kỳ nghiên cứu
DT

t
: Doanh thu kỳ nghiên cứu
DT
t-l
: Doanh thu kỳ trước.
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này đánh giá mức độ tăng lên hoặc giảm đi của thị phần của
doanh nghiệp trên thị trường, đồng nghĩa với sự lớn lên hay giảm sút sức cạnh
tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
* Tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp theo lợi nhuận
Công thức xác định:
Trong đó: Gr
t
: Tốc độ tăng trưởng theo lợi nhuận kỳ nghiên cứu
Pr
t
::Lợi nhuận kỳ nghiên cứu
Pr
t-l
: Lợi nhuận kỳ trước đó
Ý nghĩa: Có ý nghĩa giống với chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng tính theo doanh thu
nhưng phản ánh thực chất và chính xác hơn về một doanh nghiệp vì nó so sánh về
tốc độ tăng lợi nhuận và lợi nhuận mới thực sự phản ánh kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
Trang 25
GT
t
=
Pr
t
- Pr

t-l
Re
t-l

×