Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Tác động của M&A xuyên quốc gia & bài học cho VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.61 KB, 56 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, hội nhập là xu hướng tất yếu
khách quan. Việt Nam cũng không nằm ngoài qui luật ấy, chúng ta đang từng
bước phát triển. Đại hội IX đã đề ra mục tiêu phát triển kinh tế xã hội 10 năm
2001- 2010 nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt
đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nguồn lực con người; năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng; tiềm
lực kinh tế, an ninh quốc phòng được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên
trường quốc tế được nâng cao. Như chúng ta đã biết vào ngày 07/11/2006 Việt
Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới
WTO. Điều này thể hiện một nỗ lực rất lớn của chúng ta trong việc chứng minh
khả năng phát triển kinh tế của mình với thế giới và cũng mở ra một hướng mới
cho kinh tế nước nhà. Trong một môi trường cạnh tranh kinh tế toàn cầu khốc
liệt như hiện nay, Việt Nam không chỉ muốn tồn tại mà còn muốn đứng vững và
phát triển. Hoạt động đầu tư là yếu tố rất quan trọng trong việc phát triển nề
kinh tế nước ta.
Ở đề án này tôi xin tập trung phân tích một hình thức của đầu tư trực
tiếp nước ngoài là hoạt động mua lại và sáp nhập (M&As). Đây là một hình thức
chúng ta cần tìm hiểu thật kĩ bởi trên thế giới hoạt động M&As đang diễn ra rất
mạnh mẽ. Thêm nữa khi các doanh nghiệp Việt Nam tiến hành cổ phần hóa thì
M&As không còn trở nên xa lạ với chúng ta nữa. Trong thời gian tới chắc chắn
sẽ có nhiều doanh nghiệp của nước ta thu hút các nhà đầu tư nước ngoài thực
hiện việc mua lại và sáp nhập.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi mà tôi muốn hướng tới ở đây là hoạt động M&As
trên thế giới và Việt Nam
Kết cấu đề tài:
Bài tiểu luận của tôi gồm có những phần chính sau đây:


Chương I: Tác động của hoạt động mua lại và sáp nhập xuyên quốc
gia:Những vấn đề lí luận chung
Chương II : Kinh nghiệm từ hoạt động mua lại và sáp nhập xuyên
quốc gia trong một số trường hợp thế giới.
Chương III: Gỉai pháp đối với hoạt động mua lại và sáp nhập xuyên
quốc gia trông bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế VIỆT NAM .

Trang 2
Chương I. TÁC ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG MUA LẠI&SÁP NHẬP
XUYÊN QUỐC GIA :NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
A. LÍ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ MUA LẠI& SÁP NHẬP
1. Khái niệm
 M (merger) là sự kết hợp hoặc sáp nhập của các công ty tổ chức
nhằm tăng cường hiệu quả kinh doanh hoặc nhằm giảm tính cạnh
tranh. Kết quả là sẽ tạo ra một công ty mới trong đó mỗi bên sẽ có
cổ phần bằng nhau (nên người ta còn gọi là merger of equals).
Thông thường các vụ sáp nhập thường được thực hiện dựa trên tinh
thần thiện chí, tự nguyện khi mà lãnh đạo hai bên cùng họp nhau lại
và bàn bạc đưa ra những phân tích cụ thể về những lợi ích, cơ hội
hoặc rủi ro khi tiến hành sáp nhập (thuật ngữ chuyên môn gọi là
(due diligence report) . Từ đó sẽ có quyết định cuối cùng.
 A (acquisition) là quá trình mua cổ phiếu hoặc tài sản một công ty
để dần tiến tới chiếm đoạt công ty đó. Do đó khác với sáp nhập ,
mua lại thường xảy ra giữa hai công ty không ngang nhau về tiềm
lực tài chính, 1 công ty lớn mua lại một công ty nhỏ hơn bằng tiền
mặt, cổ phiếu hoặc kết hợp cả hai .
Dựa vào hai khái niệm được cung cấp bởi tổ chúc tiền tệ thế giới IMF , ta
có thể hiểu được M&A là gì. Tuy nhiên có một điểm cần chú ý về thuật ngữ ở
đây là M&A là chỉ sự sáp nhập hoặc mua lại nói chung của hai công ty , có thể
là trong nước hoặc cũng có thể là 1 công ty nước ngoài và 1 công ty trong nước

hoặc của hai công ty nước ngoài. Còn nếu xét M&A như một hình thức đầu tư
nước ngoài thì ngưới ta thường dùng cụm Cross border M&A chỉ sự sáp nhập và
mua lại giữa hai công ty trong đó nhất quyết phải có 1 bên là công ty nước
ngoài .
Phiên họp ủy viên của Ủy ban Thương Mại & Phát Triển quyết định vào
ngày 12 tháng 5 năm 2000 triệu tập một cuộc họp các chuyên gia ở Geneva về
vấn đề “Mua lại&sáp nhập: Những chính sách nhằm mục đích tối đa hóa những
ảnh hưởng tích cực và tối thiểu hóa những ảnh hưởng tiêu cực của đầu tư quốc
tế”. Cuộc họp này là một phần trong những nỗ lực của UNCTAD để giúp cải
Trang 3
thiện sự hiểu biết về những vấn đề chủ chốt trong những lĩnh vực của đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI), và những ảnh hưởng của FDI đến sự phát triển và những
chọn lựa chính sách, đặc biệt khi họ liên kết với những nước đang phát triển &
những nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi, và để củng cố những khả
năng của các quốc gia đưa ra và thực hiện các chính sách, những biện pháp hành
động và các chương trình.
Hầu hết các nước tìm mọi cách để thu hút FDI, đặc biệt là khi FDI tồn tại
dưới dạng đầu tư trực tiếp vào nhà xưởng máy móc, bởi vì những nguồn đầu tư
như vậy có thể đóng góp cho sự phát triển kinh tế. Như là một phần hệ quả trong
những nỗ lực nhằm thu hút FDI, mua lại và sáp nhập (M&As) trở nên phổ biến
hơn trước đây như là một cách thức thâm nhập của các tập đoàn xuyên quốc gia
(TNCs) vào các nước đang phát triển cũng như các nền kinh tế đang trong giai
đoạn chuyển đổi. Tuy nhiên, có một câu hỏi nảy sinh liệu rằng M&As, trái với
đầu tư mới có thể có vai trò trong việc đóng góp vào quá trình phát triển hay
không. M&As được xem là khác với đầu tư mới, chúng không thêm vào khả
năng sản xuất quốc gia mà chỉ đơn thuần đại diện cho 1 sự chuyển quyền sở hữu
từ nội địa ra nước ngoài. Thêm nữa, M&As đôi khi còn được xem như là đã lấy
đi những tài sản quốc gia đáng giá của nước nhận đầu tư tạo ra bởi tiết kiệm
trong nước, nỗ lực về lao động và thầu khoán, và như là đã có được tiềm lực để
tạo ra một loạt vấn đề, ví dụ như sự tập trung thị trường và lạm dụng quyền lực

thị trường. Thực sự, M&As xuyên quốc gia , đặc biệt là những hoạt động có
liên quan đến những tập đoàn xuyên quốc gia lớn từ các nước phát triển, các
hoạt động tài chính và tái tổ chức kinh tế, nằm trong số những khía cạnh dễ thấy
nhất của quá trình toàn cầu hóa. Và ảnh hưởng của M&As tới sự phát triển có
thể mang tính hai mặt. Vì vậy những mối lợi tức xuất hiện như là sự cân bằng
của lợi ích và chi phí cho những nền kinh tế nhận đầu tư FDI trong hình thức
của mua lại và sáp nhập xuyên quốc gia (trong sự so sánh với đầu tư trực tiếp
nước ngoài GI hay còn gọi là đầu tư mới).
Hoạt động mua lại và sáp nhập là một phần quan trọng của đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI). Một tập đoàn có thể đầu tư trực tiếp vào nước sở tại dưới
hai hình thức: đầu tư trực tiếp vào nhà xưởng, máy móc, thiết bị mới hoặc mua
lại / sáp nhập với các công ty địa phương (bản xứ). Công ty địa phương có thể
của tư nhân hoặc nhà nước: tư nhân hoá liên quan đến các nhà đầu tư nước
ngoài được xếp vào hoạt động M&A xuyên quốc gia. Hoạt động này thay đổi hệ
Trang 4
thống quản lý của công ty mới được mua lại hoặc sáp nhập. Trong hoạt động
sáp nhập xuyên quốc gia, 2 công ty thuộc 2 nước liên quan sẽ kết hợp tài sản và
hoạt động hành chính để tạo ra 1 công ty độc lập hợp pháp mới. Trong hoạt
động mua lại xuyên quốc gia, quyền quản lý tài sản và hoạt động hành chính
được chuyển giao từ công ty địa phương sang cho một tập đoàn nước ngoài,
công ty địa phương trở thành chi nhánh của tập đoàn nước ngoài.
Trong một chừng mực nào đó, cả hai hình thức của FDI đều chuyển giao
tài sản của nước sở tại sang quyền quản lý của các tập đoàn xuyên quốc gia
(TNCs - Transnational Corporations), góp phần tạo ra tăng trưởng cho hệ thống
sản xuất toàn cầu. Cả 2 trường hợp đều trao quyền quản lý một doanh nghiệp tại
một quốc gia cho một doanh nghiệp tại một quốc gia khác. Tuy nhiên, trong
trường hợp đầu tư trực tiếp vào nhà xưởng, tài sản mới được tạo ra bởi tập đoàn
đầu tư còn hoạt động M&A chỉ chuyển giao quyền quản lý nguồn tài sản có sẵn.
Các định nghĩa thông dụng với FDI cũng được sử dụng tương tự với
M&A. Quốc gia có nguồn vốn đầu tư, muốn sáp nhập/mua lại được gọi là nước

đầu tư, quốc gia được nhận vốn đầu tư được gọi là nước nhận đầu tư. Trong
trường hợp sáp nhập, văn phòng chính của công ty mới có thể được đặt tại cả 2
nước. Mua lại có 3 hình thức:
- Thiểu số (tập đoàn nước ngoài giữ từ 10 đến 49% số cổ phiếu của công ty)
- Đa số (tập đoàn nước ngoài giữ từ 50 đến 99% số cổ phiếu của công ty)
- Chủ quyền hoàn toàn (tập đoàn nước ngoài chiếm 100% cố phiếu của công
ty)
Số liệu về M&A cho thấy hoạt động mua lại chiếm đa số. Sáp nhập chỉ
chiếm 3% trong tổng số hoạt động M&A xuyên quốc gia. Trên thực tế, mặc dù
định nghĩa của sáp nhập là sự hợp tác quản lý giữa 2 công ty, hầu hết các hoạt
động sáp nhập đều trở thành mua lại khi 1 trong 2 công ty nắm quyền quản lý
công ty còn lại. Tỷ lệ hoạt động sáp nhập thật quá thấp đến mức M&A chỉ còn
được hiểu hoàn toàn là “mua lại”.
Một phần trong hệ quả của cố gắng thu hút đầu tư nước ngoài trực tiếp
(FDI) là sự gia tăng của M&A xuyên quốc gia vì đây là cửa mở cho các công ty
xuyên quốc gia vào các nước đang phát triển cũng như góp phần vào sự phát
triển kinh tế của các nước nói trên. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu M&A có thể
Trang 5
đóng góp vào quá trình phát triển như đầu tư mới (GI) hay không? M&A được
nhìn dưới một góc độ khác so với đầu tư trực tiếp bởi tại thời điểm ban đầu, hoạt
động này không làm tăng năng suất sản xuất quốc gia mà chỉ là sự chuyển giao
quyền sở hữu trong nước cho nước ngoài. Trong quá trình toàn cầu hoá nói
chung, ảnh hưởng của M&A với sự phát triển có thể là con dao hai lưỡi và
không ổn định.
2. Lịch sử phát triển M&A
a. Cơn sóng M&A những năm 1890s và từ 1910-1920.
Vào những năm 1890, khi mà những vụ mua lại diễn ra ở Mỹ hoàn toàn
được ghi lại đầy đủ trong các tài liệu thì những bằng chứng đáng tin cậy về hoạt
động M&A ở Châu Âu lại chỉ có từ những năm 60 ở Anh và đầu những năm 80
ở lục địa Châu Âu. Mặc dù vậy, không phải là M&A không xuất hiện ở Châu

Âu trong giai đoạn này. Goregen và Renneboog (2004) nhận định rằng hoạt
động mua lại đầu tiên ở Châu Âu diễn ra vào khoảng năm 1880 và kết thúc vào
năm 1904. Cũng giống như ở Mỹ, hoạt động M&A ở Châu Âu bắt nguồn từ
những thay đổi cơ bản về công nghệ và tiến trình công nghiệp hoá.
O’Brien (1988) đã biện luận rằng hoạt động đầu tiên, cái được gọi là làn
sóng sáp nhập lớn được nổ ra bởi cuộc suy thoái kinh tế, những đạo luật mới của
nhà nước về sáp nhập và sự phát triển của hoạt động mua bán cổ phiếu công
nghiệp tại NYSE. Cơn sóng này lan toả rộng khắp cả ở Mỹ và Châu Âu bởi sự
thống nhất nền sản xuất công nghiệp. Stigler (1950) đã mô tả sự thống nhất như
là “việc hợp nhất để tạo ra sự độc quyền”. Theo Lamouraux (1985), mục đích
chủ yếu của những vụ sáp nhập này là giảm sự cạnh tranh giá cả chứ không phải
là để khai thác những ngành kinh tế qui mô. Các vụ sáp nhập ngang như vậy đã
dẫn tới sự ra đời của hàng loạt các tập đoàn lớn, thâu tóm phần lớn sức mạnh thị
trường trong các ngành công nghiệp độc quyền. Làn sóng lớn này đi đến hồi kết
thúc vào giai đoạn năm 1903-1905, khi thị trường cân bằng sụp đổ. Chiến tranh
thế giới thứ I đã giữ hoạt động M&A chững lại cho đến cuối những năm 1910.
Những nỗ lực thúc đẩy độc quyền hoá được đánh dấu bởi các hoạt động
tái cơ cấu dưới làn sóng sát nhập đã làm dấy lên mối lo ngại cho cộng đồng. Mối
lo ngại này khiến hình thành nên luật chống uỷ thác vào những năm 1910 cả ở
Mỹ và Châu Âu. Sudarsanam (2003) đã nhận định rằng chính những đạo luật
chống uỷ thác này là nguyên nhân thúc đẩy sự khởi đầu mạnh mẽ của trào lưu
Trang 6
sáp nhập lần 2 bắt đầu vào cuối năm 1910 cho đến đầu năm 1920, và thu nhỏ lại
vào năm 1929, do sự suy yếu của thị trường chứng khoán và cuộc đại suy thoái
kế tiếp. Bởi những đạo luật chống uỷ thác được ban hành chống lại các hãng độc
quyền, những tập đoàn chi phối đã bị sụp đổ và bị gạt bỏ từng phần. Và sau đó,
các hãng chuyển sang thâm nhập theo chiều dọc-các ngành công nghiệp không
còn bị chi phối bởi 1 hãng đứng đứng đầu nữa, mà bởi hai hay nhiều hãng kết
hợp với nhau. Ngược lại với sự sáp nhập ngang trong làn sóng sáp nhập đầu tiên
là nhắm vào sức mạnh thị trường đang lên; những cuộc sáp nhập năm 1920

nhằm vào những ngành kinh tế qui mô.
b. Giai đoạn 1950-1970.
Cuộc đại suy thoái kinh tế và chiến tranh thế giới II đã ngăn cản cơn sóng
sáp nhập trong một vài thập kỷ. Làn sóng M&A bắt đầu những năm 50 và chỉ
kéo dài trong vòng 2 thập kỷ, nó lên tới đỉnh cao năm 1968 và suy yếu vào năm
1973 khi cuộc khủng hoảng dầu đã đẩy nền kinh tế thế giới đến một cuộc suy
thoái mới. Theo Sudarsanam (2003) mô hình M&A ở Mỹ và ở Anh là khác
nhau, khi mà ở Mỹ hoạt động mua lại được dựa trên sự đa dạng và sự phát triển
của các khối kết lớn, thì ở Liên hiệp Anh các cuộc giao thương lại nhắm tới sự
sáp nhập ngang.
c. Những năm 80.
Làn sóng M&A thứ 4 nổ ra vào năm 1981, khi thị trường chứng khoán
phục hồi sau cuộc suy thoái kinh tế trước đó, và kết thúc năm 1989. Làn sóng
này được khởi nguồn từ những thay đổi trong chính sách chống uỷ thác, sự bãi
bỏ các qui định trong dịch vụ tài chính, và sự hình thành các công cụ tài chính
và thị trường mới cũng như tiến trình công nghệ hoá công nghiệp điện tử. Thị
trường quyền năng tiêu biểu bởi một số lượng chưa từng thấy những sự tước
đoạt, sự mua lại địch thủ và những sự giao thương cổ phần giành quyền sở hữu.
d. Những năm 90.
Làn sóng M&A lần 5 bắt đầu năm 1993, và cũng giống như những làn
sóng trước đây, nó được dấy lên bởi sự bùng nổ kinh tế và chững lại một thời
gian bởi sự thu hẹp của thị trường vốn năm 2000. Cường độ của làn sóng này
(1993 – 2001) tăng nhanh chưa từng thấy cả về giá trị mua lại và số lượng hợp
đồng M&A.. Theo số liệu cổ phần tài chính của Thomson, trong suốt giai đoạn
Trang 7
này có 119035 hợp đồng M&A tại Mỹ và ở Châu Âu là 116925 hợp đồng.
Trong khi chỉ có 34494 và 12729 các cuộc giao thương như vậy ở Mỹ và Châu
Âu trong suốt trào lưu M&A lần thứ 4 (1983-1989).Giai đoạn này cũng tiêu biểu
cho số lượng tiền tệ với tổng giá trị toàn cầu lên tới 20 nghìn tỷ đô, gấp 5 lần
tổng giá trị của giai đoạn 4.

Người ta hoàn toàn tin rằng tiến trình toàn cầu hoá, sự đổi mới công nghệ,
sự cải cách và tư hữu hóa cũng như sự bùng nổ thị trường tài chính trong giai
đoạn này đã thúc đẩy làn sóng M&A. Những tài liệu gần đây đã nhận định rằng
các thương vụ này đều nhằm vào việc giảm chi phí, thâm nhập thị trường mới.
Điều này khẳng định rằng rất nhiều những thương vụ đó đều bắt nguồn từ vấn
đề của các hãng bao gồm cả sự đánh giá quá cao vốn.
e. Làn sóng mới.
Từ năm 2003, các hoạt động mua lại lại bắt đầu dấy lên ở Mỹ, Châu Âu
và cả Châu Á tiếp nối công cuộc cải cách công nghiệp quốc tế những năm 90.
M&A diễn ra song song với sư phục hồi dần dần của nền kinh tế và thị trường
tài chính sau cuộc suy thoái năm 2000. Theo cơ sở dữ liệu về tài chính Thomson
thì khối lượng các thương vụ M&A năm 2004 đã tăng lên 71% so với năm 2002.
Hoạt động M&A ở Châu Âu đều phát triển theo một xu hướng, trong những
cuộc đấu giá ở Châu Âu, tổng giá trị mua lại năm 2004 lên tới 758 tỷ đô vượt
lên tổng giá trị năm 2002 là 517 tỷ đô. Từ đầu năm 2002 đến giữa năm 2005,
các hoạt động mua lại chiếm khoảng 43% tổng giá trị các thương vụ M&A của
các nhà đấu giá Châu Âu và
chiếm 13% tổng giá trị M&A của các hãng ở Mỹ. Tổng giá trị các thương
vụ hàng năm tại Trung Quốc đã tăng nhanh ngoạn mục trong giai đoạn
2002-2005, từ 2 tỷ đô năm 2002 lên 19 tỷ đô tính đến giữa năm 2005.
Như vậy, từng giai đoạn phát triển của M&A nêu trên đều chỉ ra rằng mỗi
trào lưu M&A đều được đặc trưng bởi mỗi động lực thúc đẩy khác nhau, tuy
nhiên những nhân tố thông thường có thể làm thúc đẩy làn sóng M&A đó là các
giai đoạn phục hồi kinh tế hay sự mở rộng thị trường và bùng nổ thị trường
chứng khoán. Và đặc biệt, cả 5 giai đoạn phát triển M&A đều kết thúc bởi sự
suy yếu của thị trường chứng khoán. Nhân tố khác thúc đẩy tiến trình M&A
chính là cơn lốc công nghiệp hoá cũng như sự đổi mới tài chính và công nghệ.
Trang 8
Như vậy, làn sóng M&A thường xảy ra trong các giai đoạn gắn với những sự
thay đổi được điều tiết.

Trang 9
Mua lại và sáp nhập xuyên
quốc gia
Sáp nhập xuyên
quốc gia: tạo nên 1
thực thể mới hoặc
hợp nhất với 1 DN
đã có sẵn sau khi
tài sản và các hoạt
động của DN trong
nước và nước ngoài
kết hợp lại
Mua lại xuyên quốc
gia: Mua lại trên
10% vốn của doanh
nghiệp, chi nhánh ở
nước ngoài.
Mua lại toàn bộ:
mua 100%
Mua lại đa số: mua
50%-99%
Mua lại thiểu số:
mua 10%-49%
Hợp nhất: sáp nhập bình đẳng
Sáp nhập theo luật: Chỉ 1
DN tồn tại tạo thành 1 DN
mới, nắm giữ toàn bộ tài
sản, quyền & nghĩa vụ của
DN khác như 1 thực thể
hoạt động hợp pháp

Mua lại các chi
nhánh nước ngoài:
Tăng lượng vốn nắm
giữ của các DN mẹ
ở các chi nhánh có
sẵn ở nước khác,
mua lại toàn bộ
Mua lại DN trong nước
Mua lại các DN tư nhân
Tư nhân hoá: mua lại các DN
nhà nước
Mua lại các DN quốc hữu
hoá: mua lại các DN được
quốc hữu hoá tạm thời, VD
Indonesia, Nhật, Hàn Quốc
3.3.Cấu trúc của hoạt động M&A xuyên quốc gia
Trang 10
4. Phân loại M&A xuyên quốc gia theo chức năng
(a) M&A ngang là hình thức mua lại và sáp nhập giữa các công ty cùng
ngành kinh doanh. Loại hình M&A này đang phát triển mạnh trong những năm
gần đây do sự tổ chức lại mang tính toàn cầu hoá của rất nhiều ngành công
nghiệp hưởng ứng những thay đổi trong công nghệ và chính sách mở cửa. Qua
hình thức góp vốn, các công ty sáp nhập hy vọng sẽ đạt được sự đồng vận (tài
sản chung có giá trị hơn tổng tài sản riêng của 2 công ty cộng lại) và thế mạnh
trên thị trường. M&A phổ biến trong các ngành công nghiệp như: hoá dược, tự
động hoá, xăng dầu và một vài ngành công nghiệp dịch vụ.
(b) M&A dọc là hình thức mua lại và sáp nhập giữa các công ty có mối
quan hệ cung-cầu hay giữa các công ty có cùng dây chuyền sản xuất sản phẩm
cuối cùng. Điển hình của loại hình M&A dọc là các công ty muốn giảm sự bất
ổn và chi phí giao dịch trong các khâu sản xuất và tận dụng lơi thế kinh tế nhờ

quy mô. M&A giữa nhà cung cấp các phần động cơ và khách hàng (các hãng
sản xuất ô tô) là một ví dụ tốt.
(c) M&A kết hợp là hình thức mua lại và sáp nhập giữa các công ty không
liên quan hay các công ty trong các hình thức kinh doanh khác nhau. Các công
ty sử dụng hình thức M&A kết hợp muốn giảm rủi ro và tận dụng lợi thế kinh tế
nhờ quy mô.
Sự cân bằng giữa các loại hình M&A trên thay đổi theo thời gian. Tầm
quan trọng của M&A ngang đang tăng dần: trong năm 1990, M&A chiếm 70%
tổng giá trị của hoạt động M&A, 10 năm trước, con số này là 59%. M&A dọc
cũng bắt đầu tăng từ giữa những năm 90 nhưng chỉ dừng lại ở tỷ lệ dưới 10%.
Trong những năm cuối thập kỷ 80, M&A tăng vọt, M&A kết hợp trở nên rất
quan trọng. Tuy nhiên các công ty giờ đây tập trung hơn vào ngành kinh doanh
chính để cạnh tranh dẫn đến sự giảm sút trong tỷ lệ M&A kết hơp.
Sự khác biệt giữa 3 loại hình M&A trên không thực sự rõ ràng. Sự phát
triển liên quan đến công nghệ mạng càng làm cho sự phân biệt trở nên khó khăn
và có thể gây ảnh hưởng lớn đến sự liên kết chính thức giữa các tập đoàn.
Trang 11
5. Xu hướng phát triển M&A.
Đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức hợp nhất hoặc mua lại các chi nhánh
công ty ở nước ngoài đã bùng nổ trong những năm gần đây, trở thành chiến lược
hợp tác phát triển chính của các công ty xuyên Quốc gia (TNCs).
Năm 2006 được coi là năm được mùa của những vụ sát nhập với tổng giá
trị các thương vụ kiểu này đã vượt quá kỷ lục của thời hoàng kim 2000. Theo số
liệu thống kê của hãng thông tin Dealogic, tính đến ngày 20-11, tổng giá trị của
những vụ sát nhập năm 2006 đã lên tới 3460 tỷ USD, tính trên phạm vi toàn cầu.
Con số này đã vượt kỷ lục năm 2003 là 3330 tỷ USD. Tổ chức định mức tín
nhiệm Standard and Poor’s gọi đây là “hội chứng sát nhập”. Tuy nhiên về số
lượng sát nhập, con số năm 2006 (tổng cộng 28312 thương vụ) lại giảm so với
năm 2000 (31019 thương vụ). [WIR2006]
Năm 2006, nước Mỹ vẫn là trung tâm của những vụ sát nhập, chiếm tới

36% tổng giá trị của những vụ sát nhập trên toàn cầu, với giá trị tuyệt đối đạt
1220 tỷ USD, giảm so với mức 46%, tương đương 1530 tỷ USD của năm 2000.
2006 là năm được mùa của những vụ sát nhập một phần là nhờ phần vốn
ngày càng tăng của các quỹ đầu tư tư nhân cũng như các công ty đang niêm yết
trên các sàn chứng khoán thế giới. Bên cạnh đó lãi suất của các đồng tiền chủ
chốt trên thế giới thấp kỷ lục cũng góp phần đẩy các tổ chức, cá nhân rót tiền
thêm vào các công ty để nắm giữ cổ phần, cổ phiếu thay cho gửi tiền vào ngân
hàng để lấy lãi. Một nguyên nhân nữa giúp giá trị các vụ sát nhập trên thế giới
phá kỷ lục là do xu hướng cổ phần hoá, tư nhân hoá đang trở nên phổ biến hơn ở
nhiều nước, đặc biệt là tại các nền kinh tế đang phát triển, tạo nguồn hàng dồi
dào hơn cho các nhà đầu tư đang có tiền nhàn rỗi.
Theo kết quả của cuộc điều tra do hãng kiểm toán Pricewaterhouse
Coopers’ (PwC) vừa tiến hành đối với 1100 nhà lãnh đạo doanh nghiệp tại 50
nước trên Thế giới, khoảng 45% các doanh nghiệp đang có ý định tiến hành các
thương vụ mua bán sát nhập xuyên quốc gia trong năm 2007 này để tiếp tục tăng
trưởng và mở rộng hoạt động kinh doanh. Theo đó khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương đang được nhiều tổng giám đốc lựa chọn để tiến hành các thương vụ
mua bán sát nhập xuyên quốc gia trong năm 2007 nhất. Tiếp đó, là các khu vực
Tây Âu, Đông Âu và Mỹ Latin.
Trang 12
Kết quả điều tra cũng cho thấy, hầu hết lãnh đạo doanh nghiệp lớn trên
thế giới đều cho rằng các thương vụ mua bán sát nhập xuyên quốc gia là cách
nhanh nhất và hiệu quả nhất để tiếp tục tăng trưởng và mở rộng hoạt động kinh
doanh của mình trong năm nay. Điều thú vị của kết quả khảo sát năm nay là đa
số lãnh đạo doanh nghiệp muốn tiến hành các thương vụ mua bán sát nhập
xuyên quốc gia ngay trong khu vực của mình hơn là vươn ra các châu lục khác.
Kết quả điều tra cũng cho thấy, hầu hết lãnh đạo doanh nghiệp trên thế giới đều
cho rằng thách thức lớn nhất có thể cản trở tham vọng mua bán sát nhập của họ
là các yếu tố xung đột, văn hoá không tương thích và đặc biệt là sự thay đổi bất
ngờ của các chính sách ở trong nước.

Hewitt Associate, một công ty tư vấn nguồn nhân lực toàn cầu cho biết
khả năng lãnh đạo, sự hoà hợp về văn hoá và mối quan hệ giữa các nhân viên là
những thách thức lớn nhất đối với thành công của những thương vụ M&A ở
Châu Á – Thái Bình Dương. Thông báo này là kết quả của một cuộc nghiên cứu
kéo dài 2 tháng về hoạt động M&A ở Châu Á – Thái Bình Dương do Hewitt tiến
hành gần đây. Cuộc nghiên cứu này là đánh giá mối liên hệ giữa yếu tố nguồn
nhân lực với thành công lâu dài của các thương vụ M&A trong khu vực. Hewitt
đã bắt đầu tiến hành hoạt động nghiên cứu M&A giữa 37 công ty qui mô lớn của
11 nước khu vực Châu Á – Thái Bình Dương từ tháng 3 đến tháng 4, giống như
chương trình mà Hewitt đã tiến hành ở liên minh Châu Âu cách đây 3 năm.
Kết quả cuộc nghiên cứu này cho thấy các hoạt động liên kết sát nhập ở
Châu Á sẽ tiếp tục gia tăng trong thời gian tới, với 59% số người được hỏi cho
biết trong tương lai gần họ thích đầu tư vào Châu Á hơn các khu vực khác, còn
44% rất lạc quan về hoạt động M&A ở Châu Á trong thời gian tới. Cũng theo
nghiên cứu này, 34% số người được phỏng vấn tin rằng yếu tố nguồn nhân lực
chưa đáp ứng đúng yêu cầu là một trong những cản trở lớn trong các thương vụ
liên kết sát nhập.
Sự hoà hợp văn hoá gần đây đã trở thành yếu tố nguồn nhân lực phức tạp
và quan trọng nhất trong một thương vụ liên kết sát nhập. Nhưng 52% số người
được hỏi cho biết họ không tin là sự hội nhập văn hoá sẽ mất hơn 6 tháng, và chỉ
có 13% cho biết họ giành cho quá trình này một thời gian thích hợp. Cuộc
nghiên cứu còn cho thấy chỉ có 28% số người được phỏng vấn coi trọng sự hoà
hợp giữa các yếu tố con người trong quá trình sát nhập. Tuy nhiên, nhiều công
Trang 13
ty đang bắt đầu hiểu được tầm quan trọng của yếu tố con người trong quá trình
liên kết sát nhập hoặc thành lập liên doanh.
Trang 14
B. TÁC ĐỘNG CỦA M&A TRÊN PHƯƠNG DIỆN QUỐC GIA VÀ
DOANH NGHIỆP
I. TÁC ĐỘNG CỦA M&A TRÊN PHƯƠNG DIỆN QUỐC GIA ĐỐI VỚI NƯỚC

NHẬN ĐẦU TƯ
1. Tác động tích cực
Thứ nhất là đối với các nước đang phát triển. Hiện nay các nhà đầu tư
cũng có xu hướng thực hiện hoạt động M&A ở các nước phát triển nhiều vì
những lợi thế nhất định. Rõ ràng ở các nước công nghiệp phát triển, các nhà đầu
tư có thể tận dụng được một hệ thống cơ sở hạ tầng tốt, nguồn nhân lực dồi dào,
trình độ công nghệ tiên tiến và tất nhiên là một thị trường tương đối rộng lớn.
Dòng vốn vào theo hình thức M&A sẽ tác động đến sự phát triển kinh tế đất
nước và chiến lược phát triển của các công ty xuyên quốc gia…Không những
thế cơ sở vật chất kỹ thuật sẽ càng được củng cố và nâng cao. Trên thực tế việc
này sẽ càng làm cho hoạt động M&A trên thế giới trở nên sôi động hơn. Khi có
các công ty đa quốc gia hay xuyên quốc gia ở nước ngoài hoạt động tại các nước
phát triển thì các công ty trong nước sẽ nhanh chóng đẩy mạnh hoạt động M&A
của mình tại các nước khác. Nó giống như một chuỗi dây chuyền phản ứng có
sức lan toả trên toàn thế giới. Tất nhiên những hoạt động này cũng góp phần
thúc đẩy sản xuất và tăng trưởng, tạo thêm việc làm và mở rộng nguồn thu cho
quốc gia. Tuy nhiên ảnh hưởng tích cực của M&A được thể hiện ở các nước
đang phát triển mới thực sự là rõ nét.
Là một hình thức của đầu tư nước ngoài nên M&A góp phần làm tăng
vốn đầu tư cho các nước nhất là với những nước đang và kém phát triển. Nguồn
vốn cho phát triển kinh tế của những nước này xuất phát từ trong nước và cả bên
ngoài. Nếu họ chỉ biết trông chờ vào nguồn vốn bên trong thì đó quả thật là cả
một vấn đề. Đó là vì một nước có nền kinh tế phát triển không cao thì không thể
huy động vốn lớn từ người dân và các doanh nghiệp trong nước một cách dễ
dàng được. Trong khi đó, công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh tăng trưởng
kinh tế lại cần nhiều vốn. Theo lý thuyết về hiệu ứng đuổi kịp mà các nhà kinh
tế học đưa ra thì đối với một nước có trình độ công nghệ tương đối thấp và có
nguồn lao động dồi dào thì chỉ cần tăng thêm một đơn vị vốn thì sản lượng sẽ
tăng lên đáng kể. Các nhà kinh tế cũng đã chứng minh được rằng vốn đầu tư
Trang 15

nước ngoài chiếm tỉ trọng lớn trong GDP sẽ tốc độ tăng trưởng của GDP cao
hơn.
Hệ số ICOR=I / (GDP
nghiên cứu
- GDP
gốc
) . Vậy ta có
Tốc độ tăng trưởng = (GDP
nghiên cứu
-GDP
gốc
) / GDP
gốc
= I x 1/ICOR x 1/GDP
gốc
Từ công thức trên ta thấy tốc độ tăng trưởng tỷ lệ thuận với mức đầu tư. Khi đầu
tư tăng thì tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng tăng.
Khi có vốn từ hoạt động M&A nước nhận đầu tư sẽ có điều kiện để khai
thác tốt nhất những lợi thế của mình về tự nhiên, vị trí địa lý, mặt đất, mặt
nước…Việc chế biến nguyên vật liệu để tạo ra những sản phảm có hàm lượng
công nghệ cao sẽ càng được đẩy mạnh thay vì xuất khẩu nguyên liệu thô với giá
rẻ rồi nhập nguyên liệu hay sản phẩm tinh với giá thành đắt đỏ. Tuy nhiên không
thể tiếp nhận vốn một cách bừa bãi làm giảm khả năng tăng giá trị sản lượng từ
một đồng vốn đầu tư.Khi đó hệ số ICOR sẽ nhận giá trị cao và điều này là hoàn
toàn bất lợi theo như công thức trên. Các nước tiếp nhận vốn từ hình thức mua
lại và sáp nhập có thể kiểm soát kỹ, và định hướng đầu tư phần nào cho những
công ty từ M&A để có thể làm tăng hiệu quả đầu tư cho đất nước.
Một vấn đề nữa cần phải quan tâm tới trong đầu tư nước ngoài là công
nghệ. Một nước có trình độ phát triển kinh tế thấp thì khó mà đạt được trình độ
khoa học kỹ thuật cao cũng như có sự hoàn chỉnh về trình độ quản lý được. Mặt

khác khi thành lập thực hiện mua lại hay sáp nhập với một công ty ở nước được
đầu tư, các nhà đầu tư cũng có liên quan đến sự phát triển của công ty. Chính vì
thế, M&A là một hình thức đầu tư mà ở đó không chỉ có sự di chuyển của tài
sản hữu hình mà còn có cả sự di chuyển của cả tài sản vô hình. Sự di chuyển này
có lợi cho cả đôi bên. Nếu nước đầu tư có thể kéo dài được vòng đời của công
nghệ thì nước nhận đầu tư có thể hoàn thiện được kinh nghiệm quản lý, đổi mới
công nghệ mà không phải bỏ công sức và tiền bạc ra để nghiên cứu, phát triển
những công trình mà trên thế giới đã có và thậm chí là trở nên đã lạc hậu.
M&A còn giúp các nước nhận đầu tư tạo công ăn việc làm cho người dân,
nâng cao chất lượng nguồn lao động và nâng cao đời sống cho người dân. Khi
đầu tư vào các nước khác, có nhiều trường hợp các công ty được mua lại hay
được sáp nhập thường là các công ty sắp phá sản hoặc đang làm ăn yếu kém.
Mặt khác nhiều các nhà đầu tư cũng muốn đầu tư vào những ngành dùng nhiều
lao động để có thế tận dụng được lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào vả rẻ ở các
Trang 16
nước nhận đầu tư. Rõ ràng các hoạt động này không chỉ tạo công ăn việc làm
cho những đối tượng lao động mới mà còn duy trì công việc của lực lượng lao
động cũ, giúp họ thoát khỏi cảnh thất nghiệp. Tất nhiên bao giờ nó cũng có tính
hai măt. Mặt hạn chế sẽ được trình bày rõ ở phần sau. Có thêm nhiều việc làm,
đời sống kinh tế cũng như đời sống tinh thần của người dân sẽ được nâng cao.
Ngoài ra, nước nhận đầu tư cũng có cơ hội để phát triển nguồn nhân lực. Thứ
nhất, vì mục đích hoạt động của mình, các nhà đầu tư cũng góp phần tích cực
trong việc bồi dưỡng đào tạo đội ngũ lao động sở tại để họ có thể thích nghi với
phương thức hoạt động cũng như cách làm ăn với nước ngoài. Thứ hai, người
lao động hiểu được răng nếu họ không có kiến thức, không năng động sáng tạo
thì họ sẽ bị đào thải. Nhận thức như vậy, họ cũng sẽ phải tự đào tạo mình để trở
thành một người lao động có tác phong công nghiệp, có thái độ làm việc nghiêm
túc, có kỷ luật cao và nhất là có kỹ năng khi làm việc trong các công ty có yếu tố
nước ngoài. Được như vậy thì trình độ nguồn nhân lực của nước nhận đầu tư sẽ
được cải thiện đáng kể. Kết quả cuối cùng của việc làm gia tăng, chất lượng lao

động được tăng cường là đời sống kinh tế và đời sống tinh thận của người dân
được nâng cao. Chính đây cũng là một yếu tố có tác động tới sự phát triển chung
của toàn xã hội.
Tác động tiếp theo của M&A được thể hiện trên cán cân thanh toán của
các nước nhận đầu tư. Cán cân thanh toán của một nước được tính bằng chênh
lệch giữa luồng vốn vào và luồng vốn ra trong một thời gian nhất định. Như vậy
rõ ràng việc đổ tiền vào các vụ sáp nhập và mua lại đã trực tiếp làm tăng nguồn
vốn vào dẫn đến cán cân thanh toán được cải thiện đáng kể. Nếu hoạt động này
diễn ra mạnh mẽ thì nó có thể tạo ra thặng dư lớn trong cán cân thanh toán. Một
mặt các nhà đầu tư nước ngoài này cũng có những hoạt động nhằm khai thác lợi
thế của nước nhận đầu tư để xuất khẩu sản phẩm sang các thị trường bên ngoài.
Tất nhiên hoạt động này cũng được tính vào cán cân xuất nhập khẩu của nước
nhận đầu tư. Trước đây khi chưa có sự xuất hiện của những công ty như trên,
nước nhận đầu tư có trình độ phát triển thấp không đủ điều kiện để xuất khẩu
nhiều mặt hàng, phải nhập khẩu nhiều trang thiết bị… Đối với các nước có
nguồn tài nguyên thiên nhiên lớn nhưng không có đủ trình độ công nghệ để tiến
hành sản xuất, chế biến thì đa phần chỉ xuất khẩu nguyên liều thô. Theo xu
hướng giá cánh kéo trên thế giới, khi giá cá tăng thì mặt hàng này tăng giá chậm
hơn, còn khi giá cả giảm thì mặt hàng này giảm giá nhanh hơn so với mặt hàng
Trang 17
có hàm lượng công nghệ hay hàm lượng chế biến cao. Tóm lại kim ngạch xuất
khẩu thu được từ các mặt hàng thô, sơ chế là rất nhỏ. Theo phần trên, M&A đem
lại cơ hội sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao ở các nước nhận đầu tư,
chính vì thế kim ngạch xuất khẩu đem lại từ những sản phầm này là không nhỏ.
Tất cả những kết quả trên đều góp phần cải thiện cán cân thương mại. Hoạt động
đầu tư trực tiếp nói chung và M&A nói riêng, cán cân thương mại và cán cân
thanh toán luôn có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.
So với hình thức đầu tư mới thì M&A có lợi thế do tận dụng được cơ sở
vật chất cũng như sự nhận biết của người tiêu dùng có sẵn. Chính vì thế mà
khả năng cạnh tranh của những công ty này rất cao. Về mặt lý thuyết điều này

có ảnh hưởng khá lớn tới một trường cạnh tranh của quốc gia nhận đầu tư. Xu
hướng hiện nay là tự do hoá thương mại nên môi trường mang tính cạnh tranh
cao là cần thiết để cho các doanh nghiệp cọ xát, học hỏi và rút ra bài học hữu ích
cho mình. Nếu không cạnh tranh, các doanh nghiệp sẽ chết. Còn xét ở tầm vĩ
mô, tạo ra được một môi trường cạnh tranh sẽ càng góp phần thu hút thêm đầu
tư, phát triển kinh tế thương mại.
Xét trên bình diện chung, M&A cũng góp phần mở rộng thị trường cho
nước nhận đầu tư. Cụ thể đối với trường hợp của các công ty đa quốc gia. Các
công ty này không chỉ có các chi nhánh mà còn có cả những đối tác làm ăn trên
khắp thế giới. Đây là một điều kiện thuận lợi để tiến hành xúc tiến thương mại,
tăng cường xuất khẩu của nước nhận đầu tư.
Chúng ta cũng phải kể đến những gì mà các công ty đa quốc gia đem lại
cho ngân sách nhà nước. Đa phần các công ty này làm ăn hiệu quả và thu được
lợi nhuận rất cao. Đó là chưa kể đến các hoạt động xuất nhập khẩu với quy mô
lớn của họ. Do đó chúng ta cho thêm nguồn thu lớn từ thuế doanh nghiệp và
thuế xuất nhập khẩu cho ngân sách. Một phần thu nhỏ khác là các khoản phí và
lệ phí mà các công ty này bỏ ra. Còn nếu xem xét ở góc độ gián tiếp chúng ta có
thể thấy hoạt đông M&A có đóng góp làm tăng thu nhập của người lao động dẫn
đến nó giúp tăng thêm ngân sách phần nào nhờ gia tăng thuế thu nhập cá nhân.
Nằm trong hệ thống của đầu tư trực tiếp, dù không được mạnh mẽ và rõ ràng
như đầu tư mới nhưng M&A vẫn góp một vai trò nhất định trong sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ở các nước nhận đầu tư. Thực vậy, qua xu hướng đầu tư của các
công ty xuyên quốc gia, các nước nhận đầu tư nên có những biện pháp cần thiết
Trang 18
nhằm tạo điều kiện cho khu vực này phát triển từ đó tận dụng được một cách tối
đa nguồn vốn của các nhà đầu tư. Đồng thời từ xu hướng đó thì chúng ta có thể
biết để có sự quan tâm nhất định đến các khu vực khác còn bị bỏ ngỏ. Nhờ đó
mà nền kinh tế của các nước nhận đầu tư sẽ được cơ cấu lại cho hợp lý, và phù
hợp hơn với xu hướng phát triển chung của thế giới. Lấy ví dụ ở Việt Nam,
thống thường các pháp nhân tồn tại dưới hình thức M&A đều tập trung vào lĩnh

vực công nghiệp và dịch vụ. Đây là một điều hết sức cần thiết cho Việt Nam
trong quá trình tăng tỉ trọng của hai ngành này trong GDP nhằm phục vụ cho
quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nhưng bên cạnh đó ta có thể
thấy ngành nông nghiệp không được dành nhiều sự quan tâm đến thế. Vì vậy
nhà nước cũng phải quan tâm đến lĩnh vực này nhằm giảm lực lượng lao động
trong nông nghiệp, tiến tới công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông
thôn.
Hoạt động M&A giúp mở rộng quan hệ với các nước, nâng cao vị thế
kinh tế, chính trị không chỉ cho nước đầu tư mà còn cho cả nước nhận đầu tư, và
cũng giúp nước nhận đầu tư thu hút các nguồn vốn khác. Thứ nhất, đầu tư trực
tiếp nói chung và thông qua M&A nói riêng không chỉ làm quan hệ đầu tư mà cả
quan hệ thương mại…, của nuớc nhận đầu tư được mở rộng. Rõ ràng là việc
thiết lập mối quan hệ buôn bán với quốc gia có doanh nghiệp đầu tư ở nước
mình bao giờ cũng dễ hơn là khi giữa hai quốc gia chưa hề có chung một mối
quan tâm nào. Nước nhận đầu tư có thể tận dụng hệ thống thuế và phân phối của
nước ngoài, tận dụng uy tín của các nhà đầu tư. Bên cạnh đó hoạt động M&A
cũng làm cho cơ cấu xuất khẩu của nước nhận đầu tư được cải tiến, ảnh hưởng
đến các định hướng chiến lược xuất khẩu của nước nhận đầu tư. Thứ hai, chính
những công ty đa quốc gia hay các công ty liên doanh với nước ngoài cùng với
các doanh nghiệp trong nước giúp cho quốc gia đó phát triển kinh tế. Một khi
nền kinh tế được cải thiện thì vị thế của nước nhận đầu tư trên trường quốc tế sẽ
được nâng cao. Và cuối cùng, khi các công ty trên làm ăn có lãi, những chính
sách, môi trường đầu tư mà nước nhận đầu tư dành cho họ rất thích hợp cho việc
phát triển thì thế giới sẽ biết đến nước nhận đầu tư như một điểm đầu tư tiềm
năng hay nói cách khác quốc gia này sẽ thu hút được thêm dòng vốn đầu tư cho
công cuộc xây dựng kinh tế của mình.
Trên đây chỉ là một số ảnh hưởng tích cực chính mà hoạt động M&A đem
lại cho các nước nhận đầu tư. Nếu phân tích sâu sắc riêng từng vấn đề chúng ta
Trang 19
vẫn có nhiều điều để nói. Những lợi ích của M&A với nước nhận đầu tư chắc

chắn là vượt xa khỏi khuôn khổ của những trang giấy này. Tuy nhiên, đi liền với
mỗi ảnh hưởng tiêu cực là ảnh hưởng tích cực tương ứng. Điều này luôn luôn là
hai mặt của một vấn đề.
2. Tác động tiêu cực
Vấn đề đầu tiên cần phải bàn đến đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài nói
chung và M&A nói riêng là các nước nhận đâu tư rất có khả năng bị phụ thuộc
về kinh tế và sau đó là về chính trị vào nước chủ đầu tư. Nếu các quốc gia nhận
đầu tư không thận trọng trong các vấn đề có liên quan tới M&A thì các công ty
đa quốc gia lớn có thể thao túng nền kinh tế, đẩy các doanh nghiệp trong nước
vào bước đường phá sản. Thêm nữa, các nước chủ đầu tư cũng có thể sử dụng
những luống vốn đầu tư của mình làm công cụ để đưa ra những yêu sách nhằm
ràng buộc nước nhận đầu tư về mặt chính trị.
Về mặt lý thuyết M&A tạo ra môi trường cạnh tranh cần thiết cho các
doanh nghiệp trong nước. Nhưng chính sự cạnh tranh đó lại là một mối đe doạ
đối với họ. Điều này đặc biệt đúng với các nước có trình độ mở cửa chưa cao.
Các nước này trước đó thường áp dụng một chế độ bảo hộ chặt chẽ nhằm bảo vệ
các ngành non yếu trong nước khỏi sự tấn công của các doanh nghiệp nước
ngoài. Giờ đây khi mở cửa, có sự tham gia của các đại gia trên thế giới những
doanh nghiệp này sẽ phải làm gì đặc biệt là khi các công ty theo hình thức
M&A của đầu tư trực tiếp là những người rất có lợi thế. Vấn đề này vừa mang
tầm vĩ mô vừa mang tầm vi mô. Trên quan điểm vĩ mô, nhà nước của nước nhận
đầu tư phải có những biện pháp nhằm định hướng cho doanh nghiệp các bước đi
cơ bản trong tương lai, tư vấn cho họ những tư vấn về luật pháp cũng như các
vấn đề có thể sẽ phát sinh trong kinh doanh nhất là khi kinh doanh ở nước ngoài.
Muốn vậy các nước nhận đầu tư cũng phải có một cách nhìn mới về thưong mại
đồng thời cũng phải học hỏi kinh nghiệm sẵn có từ các nước đi trước. Còn vấn
đề doanh nghiệp xét trên tầm nhìn vi mô sẽ được nói rõ trong phần hai của
chương này.
Về mặt thực tiễn thì không phải lúc nào M&A cũng làm tăng cạnh tranh,
trong một số trường hợp cực đoan, các hình thức trong M&A còn được sử dụng

một cách có chủ đích để làm giảm và thậm chí là loại bỏ cạnh tranh. Các doanh
nghiệp M&A tăng cường tập trung thị trường ngay từ đầu là một trở ngại cho
Trang 20
việc duy trì cạnh tranh của các nước nhận đầu tư. Vậy họ đã làm gì để loại bỏ
cạnh tranh và vì sao họ lại phải loại bỏ cạnh tranh như thế. Thứ nhất các công ty
con được thành lập có thể thực hiện nhiều cách thức khác nhau để chống cạnh
tranh. Hơn nữa các công ty còn của nằm trong hệ thống các công ty đa quốc gia
cũng sẽ hợp nhất với nhau và đơn giản là họ tìm cách để không cạnh tranh lẫn
nhau hay không cạnh tranh với công ty mẹ. Các công ty đa quốc gia làm như
vậy vì họ sẽ có được kiểm soát rộng lớn trên toàn cầu về cả mặt thị trường lẫn
phân phối. Tuy nhiên các công ty đa quốc gia không thể dùng hình thức M&A
để làm giảm sự cạnh tranh của thị trường nếu cấu trúc ngành ở nước nhận đầu tư
được bảo vệ bởi các congolomate trong nước. Trong trường hợp này thì các thì
hoạt động M&A không chỉ giúp cải thiện cấu trúc thị trường mà còn làm tạo ra
được một môi trường cạnh tranh lành mạnh và gay gắt hơn. Qua đây chúng ta có
thể thấy rằng, chính phủ các nước nhận đầu tư phải hết sức thận trọng khi tiếp
nhận vốn đầu tư từ hình thức M&A nếu họ không muốn các doanh nghiệp của
mình bị thao túng.
Tác động đến sự phát triển của nền kinh tế, người ta còn băn khoăn về vai
trò của M&A và GI. Như chúng ta đã biết việc chuyển giao những tài sản vô
hình và hữu hình trong hoạt động này là rất có ích trong điều kiện sự thay đổi
công nghệ, quá trình tự do hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra nhanh chóng và đang
trở thành động lực để phát triển năng lực sản xuất của mỗi quốc gia. Nhưng liệu
trong các hoạt động như: tăng cường thêm đầu tư và các nguồn tài chính, việc
tăng cường nguồn lực về công nghệ, đẩy mạnh sự cạnh tranh trong thương mại,
tạo việc làm và cải thiện các kỹ năng cho người lao động thì vai trò của GI hay
M&A lớn hơn. Trên thực tế M&A không làm gia tăng thêm năng lực sản xuất
nhiều cho nền kinh tế như GI mà nó chỉ đơn thuần là việc chuyển giao quyền sở
hữu hoặc quyền kiểm soát cho phía các nhà đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy
một số hoạt động sản xuất và chức năng sẽ bị giải tán. Ví dụ như một công ty

sau khi được mua lại và sáp nhập thì sẽ không cần có bộ phận nghiên cứu và
phát triển (R&D) như đối với các công ty được thành lập theo hình thức đầu tư
mới vì họ có lợi thế về thời gian cũng như kinh nghiệm trên thị trường. Luồng
vốn và lượng lao động thu hút thêm cũng không thể lớn bằng đầu tư mới. Chính
vì thế mà người lao động nếu không có kỹ năng sẽ bị đào thải như ở phần một
đã phân tích. Nhìn chung lại, hoạt động M&A không thực sự thiện chí và nếu
Trang 21
nước nhận đầu tư không có sư chuẩn bị tốt sẽ gây ảnh hưởng xấu tới sự phát
triển kinh tế của nước nhận đầu tư.
So sánh với hình thức đầu tư mới, hoạt động chuyển giao công nghệ, kỹ
năng mới của hình thức M&A không được tốt bằng. Lý do là vì các nhà đầu tư
theo M&A cho rằng doanh nghiệp của họ ở nước nhận đầu tư cũng có một vốn
cơ sơ kỹ thuật công nghệ nhất định rồi nên việc đầu tư toàn bộ công nghệ mới là
không cần thiết. Cách nghĩ này khác hoàn toàn với đầu tư mới khi mà họ chưa
có trong tay cái gì, họ phải tự trang bị toàn bộ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình. Chính vì thế mà khả năng các nước nhận đầu tư trở thành bãi
rác thải công nghiệp của thế giới là rất cao. Tại sao lại không khi mà một trong
những mục đích của các nhà đầu tư khi đầu tư ra nước ngoài là tận dụng vòng
đời của công nghệ và của sản phẩm. Một công nghệ bị coi là lỗi thời ở một nước
vẫn có thể còn nhiều giá trị sử dụng ở một nước khác. Nhưng quản lý nhà nước
không chặt chẽ sẽ dễ biến các nước nhận đầu tư trở thành bãi rác của những
công nghệ, máy móc vô dụng hay vẫn còn sử dụng được nhưng gây ra tình trạng
ô nhiễm môi trường trầm trọng.
FDI nói chung và M&A nói riêng có thể là những nguyên nhân gây ra sự
mất cân đối giữa các vùng, các ngành của nước nhận đầu tư. Theo tâm lý
chung của các nhà đầu tư thì họ sẽ tập trung đầu tư ở những đô thị lớn, ở những
vùng có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi và tập trung chủ yếu vào lĩnh vực
công nghiệp và dịch vụ. Hoạt động vì mục đích lợi nhuận nên các nhà đầu tư
không thể mua lại hay sáp nhập với một công ty không có khả năng phát triển
hay không có điều kiện giao thông và đầu mối tiêu thụ thuận tiện được. Chính

những điều này đã tạo ra những tác động không nhỏ lên điều kiện xã hội của
nước nhận đầu tư đặc biệt là các nước đang và kém phát triển. Những lao động ở
các vùng và lĩnh vực mà các nhà đầu tư tập trung có thu nhập vốn đã hơn các
vùng và lĩnh vực khác nay lại càng cao hơn. Chính vì thế mà khoảng cách về thu
nhập của cư dân giữa các vùng, giữa các lĩnh vực lại càng lớn hơn. Đó là chưa
kể tới những luồng lao động di cư giữa các vùng miền để tìm kiếm công ăn việc
làm có thu nhập cao hơn. Di cư như vậy sẽ làm cho cuộc sống của người lao
động không ổn định, và còn gây ra tình trạng thừa lao động ở nơi này, thiếu lao
động ở nơi khác. Giải quyết vấn đề này chỉ có thể nhờ vào những chính sách
đúng đắn của chính phủ các nước nhận đầu tư. Họ phải đưa ra những biện pháp
khuyến khích đầu tư vào các vùng và lĩnh vực mà trước kia ít được các nhà đầu
Trang 22
tư quan tâm như xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng, đâu tư đào tạo nhằm nâng cao
kỹ năng cho người lao động… Quả thực dùng vốn đầu tư để giúp cho đất nước
phát triển toàn diện không phải là điều dễ làm.
Hoạt động M&A còn có thể gây ra ô nhiễm môi trường và làm cho
nguồn tài nguyên bị cạn kiệt. Rõ ràng các hoạt động M&A tập trung vào lĩnh
vực công nghiệp không phải là nhỏ. Bằng vốn và công nghệ vượt trội, họ tăng
khả năng khai thác để phục vụ cho quá trình sản xuất. Tăng khả năng sản xuất
mà không đi đôi với các hoạt động bảo vệ môi trường và tìm kiếm các nguồn
năng lượng thay thế thì ô nhiễm và cạn kiệt tài nguyên là chuyên một sớm một
chiều có thể xảy ra. Không phải ngẫu nhiên mà đầu tư trực tiếp nước ngoài tập
trung vào ngành khoáng sản và khai mỏ trong những năm thuộc thập kỷ 70 lại
phải chuyển hướng sang các sản phẩm công nghiệp chế biến và lĩnh vực dịch vụ.
Ở Việt Nam theo báo cáo về tình hình đầu tư nước ngoài hậu WTO cho thấy
tình trạng ô nhiễm môi trường cũng khá nghiêm trọng. Ô nhiễm môi trường đất,
nước, không khí nghiêm trọng ở các khu công nghiệp nơi tập trung số đông các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay các chât thải rắn, trong đó có
chất thải rắn nguy hiểm ở các khu công nghiệp khoảng 1,2 triệu tấn, chiếm 1/3
tổng số chất thải rắn phát sinh năm 2005. Chất thải rắn được các doanh nghiệp

ký hợp đồng với các đơn vị chuyên ngành vận chuyển và xử lý chất thải rắn
không nhiều. Có lẽ ở các quốc gia nhận đầu tư đang phát triển thì đó cũng là tình
trạng chung nếu chính phủ các nước không có các biện pháp giám sát chặt chẽ
hoạt động đầu tư.
Hoạt động M&A một mặt làm thặng dư cán cân thanh toán nhưng trong
một số trường hợp nó cũng làm cán cân thanh toán bị giảm. Đó là khi tài sản
chuyển giao mua bán không được định giá đúng với giá trị của nó hay khi việc
xuất khẩu sản phẩm không phải lúc nào cũng được thực hiện ngay. Thứ nhất dễ
nhìn thấy nhất là các sản phẩm xuất phẩm chưa được xuất khẩu ngay hay các
doanh nghiệp từ M&A không sản xuất để xuất khẩu. Không có xuất khẩu sẽ
không có gia tăng lượng ngoại tệ. Điều này có tác động đến cán cân thanh toán.
Thứ hai là việc định giá tài sản chuyển giao. Đây là một vấn đề khá phức tạp, nó
đặc biệt thường thấy khi việc mua lại và sáp nhập diễn ra trong các cuộc khủng
hoảng tài chính, kinh tế hay trong các chương trình tư nhân hoá các công ty nhà
nước. Trong các cuộc khủng hoảng kinh tế, các công ty trong nước định giá tài
sản công ty quá thấp so với giá trị thực của nó vì họ không còn sự lựa chọn nào
Trang 23
khác. Nếu họ không được chính phủ hay các tổ chức tài chính hỗ trợ thì họ buộc
phải phá sản. Giữa phá sản và bán tài sản với giá rẻ thì họ sẽ chọn bán tài sản.
Những tài sản được định giá thấp này rất có lợi cho các công ty đa quốc gia
nhưng nó có thể gây ra thâm hụt cán cân thanh toán của nước nhận đầu tư. Còn
đối với tư nhân hoá các doanh nghiệp quốc doanh ở các nước nhận đầu tư thì
vấn đề ở đẩy là khó định giá. Ở những nước mà không có một thị trường chứng
khoán năng động, không có các tổ chức được phát triển tốt, hay các nhà đầu tư
khó tiếp cận được thông tin thì việc định giá các doanh nghiệp nhà nước nhiều
khi là không thể. Chính vì thế mà các nhà đầu tư theo M&A có thể mua được cổ
phần của các doanh nghiệp này với giá “hời”. Điều đó cũng gây ra thâm hụt cán
cân thanh toán quốc gia.
Dù là rất nhỏ nhưng M&A cũng tác động đến cuộc sống văn hoá, xã hội
ở các nước nhận đầu tư. Việc du nhập của các công ty nước ngoài ở nước bản

địa làm cho xã hội mở cửa. Trong một chừng mực nhất định, người dân mà đặc
biệt là giới trẻ sẽ bị cuốn theo lối sống khác với nền văn hoá và bản sắc cảu dân
tộc. Đó là chưa kể hoạt động M&A trong các lĩnh vực giải trí như sòng bạc hay
một số dịch vụ vui chơi khác có thể làm tao ra một số tệ nạn trong xã hội. Rõ
ràng nếu không có bản lĩnh tốt, nước nhận đầu tư sẽ phải hứng chịu nhiều thói
hư tật xấu của M&A .
M&A dù có tiêu cực nhưng không ai có thể phủ nhận những điểm tích
cực mà nó đem lại cho nước nhận đầu tư. Trong thời điểm hiện nay, mỗi nước
nhận đầu tư phải biết tiếp nhận và thích nghi với hình thức này.
II. TÁC ĐỘNG CỦA M&A ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
1. Tác động tích cực
a. Động lực cho doanh nghiệp thực hiện M&A :
Synergy- Một cộng một bằng ba: đây là công thức đặc biệt của thuật giả
kim trong M&A (mua lại và sáp nhập). Nguyên lý cơ bản ẩn sau chính là việc
mua bán công ty tạo ra giá trị cao hơn, vượt hẳn giá trị tổng của hai công ty ban
đầu. Hai công ty hợp lại với nhau thì có sức mạnh lớn hơn hai công ty riêng biệt,
đó chính là lí do chủ đạo cho sự ra đời của M&A. Điều này càng đúng trong
những giai đoạn kinh tế khó khăn. Các tập đoàn lớn sẽ mua lại các công ty khác
để tạo nên một tập thể có tính cạnh tranh cao hơn và tiết kiệm chi phí hơn. Các
Trang 24
công ty kề vai sát cánh và hi vọng sẽ tạo ra được giá trị thị trường cao hơn cho
cổ phiếu của mình hay là đạt được hiệu suất cao. Bởi vì những lợi ích tiềm năng
này mà các công ty mục tiêu (target company) sẵn sàng đồng ý bán đi khi họ
biết rằng họ sẽ không thể tồn tại nếu chỉ bằng sức của mình.
Hiệu suất dự tính đạt được thông qua kết hợp synergy có thể là minh
chứng rõ ràng nhất. Synergy là một nhân tố tĩnh (cắt giảm chi phí và tăng cường
doanh thu tại một thời điểm nhất định) hoặc năng động (tăng tính sáng tạo). Một
hình thức synergy trước đây có thể kể đến như việc tập trung các nguồn lực (một
trung tâm thay vì hai), tăng cường doanh thu bằng cách sử dụng lẫn nhau hệ
thống phân phối và marketing, đạt được sức mạnh trong trao đổi (trả giá), tính

kinh tế của quy mô trong sản xuất và tránh sự đúp lại trong sản xuất, hoạt động
R&D và các hoạt động khác. Synergy năng động có thể liên quan đến sự kết hợp
nguồn lực và kĩ năng bổ sung để tăng cường khả năng đổi mới với hiệu ứng khả
quan trong dài hạn đối với doanh thu, cổ phiếu thị trường và lợi nhuận. Sự tìm
kiếm synergy tĩnh có thể là đặc biệt quan trọng đối với các ngành mà áp lực
cạnh tranh, giá hạ và công suất thừa luôn đe dọa ví dụ như ngành công nghiệp
chế tạo máy và công nghiệp quốc phòng. Trong khi đó synergy năng động lại có
ý nghĩa rất quan trọng đối với các ngành có tốc độ phát triển khoa học công
nghệ nhanh và thúc đẩy phát triển bởi sáng tạo như ngành công nghệ thông tin
và hóa dược phẩm. Hiệu suất đạt được thông qua synergy là hiện hữu cho cả
M&A nội địa và xuyên quốc gia. Tuy nhiên, quy mô của sự hợp lí hóa và cải
thiện tình hình công ty bằng việc đạt được chuyên môn hóa quốc tế thông qua
chuỗi giá trị có thể rất cao trong trường hợp đầu tư xuyên quốc gia cho phép các
công ty có thể duy trì các hoạt động khác nhau tại các địa điểm khác nhau để tạo
ra sự phối hợp hiệu quả xuất phát từ lợi thế vị trí.
Đối với Synergy tài chính : Trước hết hiệu quả đạt được là từ việc giảm
thuế. Việc này có thể có được từ công suất không sử dụng của quỹ nợ nghĩa là
việc công ty mục tiêu có tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu thấp. Công ty mua lại
trong trường hợp này sẽ tăng, tạo ra lợi ích thêm về thuế và tạo thêm giá trị cho
cổ đông. Một lợi thế về thuế khác là từ giảm tổn thất thuế do giảm được tổn thất
ròng trong hoạt động. Tổn thất ròng trong hoạt động của công ty mục tiêu cho
Trang 25

×