LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang diễn ra với tốc độ
nhanh chóng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, ở cả cấp độ khu vực và thế giới, với sự
phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, sự phụ thuộc lẫn nhau về thương mại
và kinh tế giữa các quốc gia ngày càng sâu sắc. Trong cơ chế thị trường với nền kinh
tế mở và đang từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu vốn đã có vai trò thiết thực thì nay nó càng có một vai trò vô cùng quan trọng.
Nó là hoạt động kinh doanh mang tính quốc tế làm cầu nối giữa kinh tế Việt Nam và
kinh tế thế giới, góp phần đắc lực thúc đẩy tăng nhanh năng suất lao động xã hội và
tăng thu nhập quốc dân nhờ tranh thủ được lợi thế so sánh trong trao đổi với nước
ngoài. Nhập khẩu để bù đắp những mặt hàng còn thiếu mà nền sản xuất trong nước
chưa sản xuất được hoặc sản xuất nhưng không đủ để đáp ứng nhu cầu trong nước –
ô tô là một mặt hàng như thế. Hoạt động kinh doanh nhập khẩu ô tô không chỉ giữ vị
trí quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển thông qua việc đáp
ứng nhu cầu giao thông vận tại, góp phần phát triển kinh doanh thương mại mà còn
đem lại lợi nhuận rất cao.
Thị trường ô tô hiện nay rất sôi động và kinh doanh mặt hàng này đang là nguồi
lợi cho nhiều công ty. Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội cũng tham gia vào thị
trường đó và hoạt động liên tục có lãi trong nhiều năm qua. Công ty có chức năng
chính là kinh doanh nhập khẩu ô tô. Qua thời gian thực tập tại Công ty, cùng với kiến
thức được trang bị tại nhà trường, với mục đích tìm hiểu thêm về hoạt động kinh
doanh nhập khẩu ô tô, thiết bị phụ tùng ô tô tại Công ty, em đã chọn đề tài : “ Thực
trạng nhập khẩu của Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội và một số kiến nghị “ cho
chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Mục đích của chuyên đề là trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh
nhập khẩu ô tô tại Công ty để tìm ra những mặt đã đạt được và những mặt hạn chế chủ
yếu trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu ô tô của Công ty, từ đó đưa ra một số kiến
nghị góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại Công ty.
1
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục. danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề
gồm có 3 chương chính sau :
Chương 1 : Tổng quan về Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội.
Chương 2 : Thực trạng nhập khẩu của Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội.
Chương 3 : Kiến nghị một số biện pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu của
Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội.
2
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN XNK Ô TÔ HÀ NỘI
1.1.Quá trình hình thành và phát triển của công ty.
- Tên công ty: Công ty cổ phần xuất nhập khẩu ô tô Hà Nội.
- Địa chỉ trụ sở chính: Lô 4, khu 4, tập thể cục cảnh sát kinh tế, phường
Xuân La, Tây Hồ, Hà Nội
- Địa chỉ chi nhánh:
Chi nhánh 1 : 425 Nguyễn Văn Cừ - Long Biên – Hà Nội.
Chi nhánh 2 : 45 Hồ Tùng Mậu – Cầu Giấy – Hà Nội.
Chi nhánh 3 : 27 Tô Hiệu – TP. Hải Phòng.
- Điện thoại: 046.2940307
- Fax: 043.7689622
- Website: www.hanoiauto.vn
- Giấy phép kinh doanh số: 0103023138 do phòng đăng ký kinh doanh số 1,
Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp ngày
24/03/2005.
- Mã số thuế: 0102694886
- Vốn điều lệ: 11.000.000.000 VND
Từ năm 2005 đến nay, Công ty cổ phần XNK ôtô Hà Nội có sự phát triển
mạnh mẽ về mọi mặt, đặc biệt là về nguồn vốn, nhân lực và năng lực kinh doanh, cụ
thể là:
- Trước năm 2005, công ty chỉ là một showroom nhỏ, làm đại lý mua bán và trao
đổi các loại ô tô đã qua sử dụng, và buôn bán các loại phụ tùng xe ô tô. Hoạt động
của công ty trong thời gian này rất nhỏ lẻ và manh mún.
- Năm 2005, trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, công ty chính thức
đăng kí hoạt động kinh doanh dưới hình thức công ty cổ phần và soạn thảo điều lệ
hoạt động lần 1. Tuy nhiên, công ty vẫn hoạt động ở mức độ nhỏ hẹp, cấp cơ sở và
không được nhiều người biết đến. Lúc này công ty chỉ có một cơ sở chính đặt tại Lô
4, khu 4, tập thể cục cảnh sát kinh tế, phường Xuân La, Tây Hồ, Hà Nội.
- Năm 2006, công ty mở thêm 2 chi nhánh mới : 1 chi nhánh tại 45 Hồ Tùng Mậu
– Cầu Giấy - Hà Nội và 1 chi nhánh tại 27 Tô Hiệu, thành phố Hải Phòng. Từ đây,
3
công ty là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân độc lập, hạch toán kinh tế độc lập, có
con dấu giao dịch riêng mang tên công ty, có tài khoản Việt Nam và ngoại tệ tại Ngân
hàng Nhà nước.
- Năm 2007-2009: Mặc dù gặp nhiều khó khăn và thử thách trong bối cảnh nền
kinh tế có nhiều yếu tố bất ổn định, nhưng có thể nói, đây là thời kì quan trọng và có
nhiều sự kiện nổi bật đánh dấu sự ra đời chính thức của công ty.
Công ty Cổ phần XNK ôtô Hà Nội là đơn vị kinh tế cơ sở, hoạt động theo
nguyên tắc tự quản, có tư liệu sản xuất và các vốn khác, tự quyết định mọi vấn đề về
sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về thu nhập và lỗ lãi.
Thời gian này do xu hướng phát triển chung của nền kinh tế toàn cầu, dựa vào
những ưu đãi chính sách đầu tư phát triển của nhà nước, các chính sách pháp luật, các
hợp đồng kinh tế đã kí kết, kết quả nghiên cứu nhu cầu thị trường, thông tin kinh tế
của cấp trên. Công ty được toàn quyền chủ động xác định phương án kinh doanh, lựa
chọn mặt hàng, thiết bị công nghệ, hình thức dịch vụ, cơ cấu tổ chức, thị trường tiêu
thụ phù hợp với yêu cầu chuyên môn hoá cao, hiệp tác hoá và kinh doanh tổng hợp
công ty để đặt hiệu quả cao.
Công ty mở mối quan hệ liên doanh, liên kết với mọi tổ chức, cá nhân, không
giới hạn địa bàn và thành phần kinh tế, công ty cũng sẵn sàng hợp tác với các tổ
chức, cá nhân nước ngoài dưới hình thức xuất, nhập khẩu, trao đổi hàng hoá, sản
phẩm, hợp tác kinh doanh…theo đúng qui định của nhà nước.
Công ty đã thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ với các tổ chức ngoại thương
nhà nước để xuất, nhập khẩu các sản phẩm của công ty, nhập khẩu hàng hoá, vật tư
nguyên liệu, thiết bị toàn bộ, thiết bị bán lẻ, phụ tùng thay thế để phục vụ cho sản
xuất kinh doanh.
- Từ 2005 – 2008: vốn điều lệ của công ty là :9.000.000.000 VND
Giai đoạn này, công ty đã thực sự khẳng định vị trí của mình trên thị trường, kể cả
thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Công ty đã mở rộng quan hệ đối tác với
nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là những nước có thị trường rộng lớn và có trang
thiết bị công nghệ hiện đại như: Nhật Bản, Hàn Quốc….
Doanh thu của công ty không ngừng tăng lên, mặc dù phải đối mặt với cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới, song công ty vẫn đạt được mức lợi nhuận tương đối
khả quan khoảng 10 tỷ đồng/ năm.
- Năm 2009 công ty soạn thảo và thông qua điều lệ hoạt động lần thứ 2. Với
số vốn điều lệ tăng lên đến mức 11.000.000.000 đồng.
4
Mặc dù nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, song với những bước đi đúng
đắn, sự quyết tâm của toàn công ty trong việc mở rộng quan hệ hợp tác với bên
ngoài, tăng cường hoạt động xuất nhập khẩu, việc tăng cường đầu tư phát triển công
ty, tăng cường đầu tư cho nguồn nhân lực có trình độ cao, thiết nghĩ những gì công ty
đã đạt được và việc đề ra trong kế hoạch phát triển công ty trong những năm tiếp theo
là hoàn toàn khả thi và khẳng định sự đóng góp ngày càng nhiều các khoản thu từ
hoạt động đầu tư từ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cho Nhà nước.
1.2.Chức năng và nhiệm vụ của công ty.
Chức năng :
Như đã trình bày ở trên, trước khi trở thành công ty, với chức năng như một
showroom nhỏ chuyên buôn bán và trao đổi xe đã qua sử dụng và các phụ tùng xe. Sau
khi chính thức đăng ký hoạt động kinh doanh dưới hình thức công ty cổ phần, công ty
đã và đang thực hiện tốt các chức năng kinh doanh theo ngành nghề được phép như sau
:
- Đại lý mua bán thiết bị, phụ tùng ô tô.
- Dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng ô tô.
- Buôn bán ô tô du lịch, ô tô vận tải, máy cẩu, máy xúc, máy ủi, máy nâng hạ.
- Nhận đặt hàng các dòng xe nhập khẩu.
- Xuất nhập khẩu các mặt hàng công ty kinh doanh.
Trong đó, công ty đặc biệt chú trọng tới hoạt động chính phù hợp với chức
năng và chuyên môn của mình, đó là : nhập khẩu và buôn bán ô tô.
Nhiệm vụ :
- Xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch kinh doanh của công ty theo
quy chế hiện hành.
- Nghiên cứu khả năng cung cấp, nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế ,
thực hiện hoàn thiện các hoạt động nhập khẩu ô tô và phụ tùng để không
ngừng nâng cao chất lượng, thay đổi mẫu mã các loại xe để đáp ứng thị hiếu
người tiêu dùng.
- Tuân thủ các chính sách chế độ luật pháp của Nhà nước và thực hiện
nghiêm chỉnh các hợp đồng mua bán trao đổi,...và các văn bản pháp lý
khác mà công ty đã tham gia ký kết.
- Quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, tự chủ về tài chính.
5
1.3.Đặc điểm ngành hàng và mặt hàng kinh doanh của công ty.
Chúng ta thấy rằng ô tô ngày càng xâm nhập vào đời sống kinh tế xã hội của
toàn cầu, Việt Nam chúng ta cũng không nằm ngoài xu thế này. Hơn 10 năm trở lại
đây, thị trường ô tô đã thực sự sôi động trở lại bởi sự có mặt của các nhà đầu tư nước
ngoài. Họ đã liên tục tung ra nhiều chủng loại xe với kiểu dáng hấp dẫn, tiện nghi,
chất lượng cao đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng trong nước.
Công ty Cổ phần XNK ô tô Hà Nội chủ yếu hoạt động trên lĩnh vực nhập khẩu
ô tô và thiết bị phụ tùng ô tô, là nhà cung cấp các loại xe ô tô nhập khẩu tại thị trường
Việt Nam, là cầu nối giữa thị trường ô tô trong nước và thế giới. Công ty chủ yếu
nhập khẩu mặt hàng chính là xe hơi. Công ty cũng là đại lý cho nhiều hãng xe nổi
tiếng thế giới như: Ford, Toyota, Honda, Deawoo, Mitsubishi…Các sản phẩm mà
công ty kinh doanh luôn đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng phát triển của khoa học
về vấn đề an toàn và vệ sinh môi trường.
Ô tô là một mặt hàng có tính đặc thù riêng : Đặc điểm nổi bật của ô tô là sản
phẩm mang giá trị rất cao. Chiếc ô tô từ rất lâu đã không còn được coi chỉ là phương
tiện đi lại mà đơn thuần các nhà chế tạo không ngừng trang bị cho nó vô số tiện ích
khác, khiến cho ô tô giờ đây như một mái nhà di động, một biểu tượng của sự giàu
có, thịnh vượng, phù hợp với người tiêu dùng có mức sống và thu nhập cao cùng với
điều kiện đường sá của thành phố lớn. Mỗi một chiếc ô tô có đến 20000 – 30000 chi
tiết, bộ phận khác nhau. Các chi tiết, bộ phận lại được sản xuất với những công nghệ
có đặc điểm khác nhau : chi tiết phụ tùng của loại xe này không thể sử dụng cho các
loại xe khác. Đây cũng là một mặt hàng được bảo hộ mạnh qua thuế quan. So với vốn
đầu tư vào các mặt hàng khác thì vốn đầu tư vào ô tô lớn hơn rất nhiều. Ngành sản
xuất ô tô gắn liền với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, một ngành phát triển như
vũ bão. Chính vì thế đồng vốn bỏ ra đầu tư vào ô tô dù có khả năng sinh lời cao
nhưng đi kèm với nó là rất nhiều rủi ro không những chỉ là thu hồi chậm mà còn có
thể không thu hồi được nếu không bắt kịp với thời đại.
1.4. Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty.
Nhìn vào sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty có thể thấy mối quan hệ giữa cấp
trên với cấp dưới là một đường thẳng (trực tuyến), các bộ phận thực hiện chức năng
của mình và chịu giám sát của phó giám đốc, giám đốc và giám đốc chịu trách nhiệm
về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trước Nhà nước. Cơ cấu tổ chức của
công ty tương đối gọn nhẹ, phù hợp với tính chất của một doanh nghiệp thương mại.
Các phòng ban tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình, đồng thời có sự phối hợp
6
chặt chẽ giữa các phòng ban tạo ra các hoạt động nhịp nhàng trong doanh nghiệp đưa
công ty ngày một kinh doanh có hiệu quả. Cụ thể, chức năng nhiệm vụ của các phòng
ban như sau:
Sơ đồ 1 : Cơ cấu tổ chức bộ máy Công ty
- Giám đốc: là người đại diện cho công ty trước pháp luật và trước khách
hàng, tổ chức và điều hành mọi hoạt động của công ty theo nghị quyết và quyết định
của HĐTV, là người được quyền tuyển dụng hoặc cho thôi việc người làm công
không đáp ứng nhu cầu kinh doanh, người vi phạm nội quy và quy chế họat động của
công ty. Ngoài ra, giám đốc còn là chủ tài khoản của công ty, thay mặt công ty ký kết
các hợp đồng kinh tế với khách hàng. Giám đốc chịu trách nhiệm trước HĐTV về
hiệu quả hoạt động của công ty, chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc chấp hành
pháp luật trong công ty.
- Phó giám đốc: Giúp giám đốc quản lí hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty, chịu trách nhiệm trước giám đốc về công tác quản lí hoạt động kinh doanh
và hoạt động tài chính của công ty. Công tác thực hiện các mục tiêu kế hoạch sản
xuất kinh doanh của công ty đã đặt ra và đưa ra các biện pháp tối ưu.
- Phòng tài chính kế toán: có nhiệm vụ căn cứ vào kế hoạch thực hiện sản
xuất kinh doanh của công ty để lập kế hoạch cấp vốn đủ cho các hoạt động sản xuất.
Theo dõi tình hình tài chính của công ty, quản lý quỹ tiền mặt và thu chi tiền mặt theo
nguyên tắc chế độ. Quản lí chứng từ sổ sách có liên quan đến hoạt động tài chính của
công ty. Theo dõi việc thực hiện các hợp đồng kinh tế, thanh quyết toán các khoản
Giám đốc
Phó giám đốc
hành chính
Phó giám đốc
kinh doanh
Trụ sở chính Văn phòng đại diện
Phòng kế toán
Phòng hành
Phòng chăm sóc
khách hàng
Phòng kinh doanh
7
công nợ, phối hợp với ban giám đốc của công ty quản lí toàn bộ tài sản trang thiết bị
máy móc của công ty.
- Phòng chăm sác khách hàng: Xây dựng tổ chức quản lý các công việc tại
Phòng đảm bảo đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng. Quản lý, duy trì mối quan hệ
giữa công ty với các khách hàng hiện đang giao dịch đảm bảo mục tiêu doanh số của
công ty giao và các khách hàng mới.Tổ chức, triển khai thực hiện các chương trình
xúc tiến bán hàng trên phạm vi được giao. Kiểm soát các cơ chế chính sách bán hàng
phù hợp nhằm thúc đẩy doanh số và giảm công nợ khách hàng. Tổ chức thực hiện
nâng cao chất lượng dịch vụ, chăm sóc khách hàng theo kế hoạch, chiến lược của
công ty. Theo dõi đôn đốc, xử lý mọi thông tin liên quan đến khiếu nại khách hàng.
Tổ chức giao nhận hàng hoá cho khách hàng đáp ứng được nhu cầu khách hàng. Tiếp
nhận mọi thông tin của khách hàng; phân loại xử lý thông tin; quản lý hàng hoá của
công ty, đôn đốc và triển khai cung cấp hàng cho khách hàng và chi nhánh của công
ty theo yêu cầu.
- Phòng hành chính: Tham mưu cho giám đốc về lập kế hoạch quỹ tiền
lương, các hình thức chi trả lương thưởng, đảm bảo công tác bảo hiểm xã hội, quan
tâm đến những người có công trong phát minh sáng chế cho công ty. Quản lí lưu trữ
hồ sơ văn thư bảo mật, điều động phương tiện giao và nhận hàng.
- Phòng kinh doanh: Đảm nhận với chức năng tham mưu Ban Lãnh đạo trong
việc phát triển mở rộng thị trường, thị phần; hoạt động nhập khẩu; nghiên cứu chiến
lược thị trường, nghiên cứu và phát triển sản phẩm, dịch vụ mới... giữ gìn và gia tăng
giá trị thương hiệu của đơn vị. Và một số nhiệm vụ khác.
Ngoài ra, còn có một số bộ phận khác như bảo vệ, vệ sinh… cũng góp phấn
quan trọng trong việc đảm bảo các hoạt động diễn ra thuận lợi, thúc đẩy quá trình
phát triển của công ty.
1.5. Đặc điểm thị trường và khách hàng.
1.5.1.Đặc điểm thị trường :
Thị trường Miền Bắc là thị trường chủ yếu của công ty. Doanh thu tại khu vực này
liên tục tăng và ổn định qua các năm. Ở khu vực này, công ty xây dựng cho mình thị
trường trọng điểm là Hà Nội và Hải Phòng. Đây là hai khu vực phát triển nhất Miền
Bắc về kinh tế, dân cư có mức thu nhập. Khai thác được lợi thế vị trí địa lý Cảng Hải
Phòng là một cụm cảng biển tổng hợp cấp quốc gia, là cửa ngõ quốc tế của Việt
Nam, điều này không chỉ tạo thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu của công ty cũng
như việc giao nhận và vận chuyển được nhanh chóng, an toàn, giảm chi phí ( việc
8
nhập khẩu hàng hóa của công ty chủ yếu thông qua cảng Hải Phòng ). Tại khu vực này
công ty đã tồn tại và phát triển nhờ vào những lợi thế của riêng mình. Tuy nhiên, hiện
nay với xu thế phát triển nhanh chóng thì ngày càng nhiều cơ sở mọc lên ở khu vực này
với quy mô khác nhau và sự đa dạng trong chủng loại mặt hàng : công ty TNHH, công ty
cổ phần,…Điều này nguy cơ làm mất dần thị trường của công ty.
Thị trường thứ hai của công ty là các tỉnh Miền Trung trong đó tập trung chủ yếu là
ở Nghệ An, Hà Tĩnh. Mặc dù tại khu vực này đã có nhiều công ty và chi nhánh cung
cấp mặt hàng ô tô nhập khẩu, nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu
dùng, vẫn có một lượng khách hàng có nhu cầu mua hàng tại Hà Nội. Bởi đây là mặt
hàng có giá trị cao, khách hàng luôn có nhu cầu tìm hiểu thông tin về mặt hàng tại thị
trường lớn, đa dạng về chủng loại sản phẩm, mẫu mã và giá cả. Công ty chưa có chi
nhánh tại khu vực này, doanh thu trên thị trường này chưa đáng kể. Hiện nay, công ty
đang có kế hoạch đầu tư vào thị trường này.
Thị trường Miền Nam là thị trường có tiềm năng lớn nhưng do có khoảng cách địa
lý đã hạn chế khâu vận chuyển cũng như việc nghiên cứu xâm nhập vào thị trường
này. Hơn nữa khu vực này đã có rất nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh hoạt động khá lâu
và có kinh nghiệm hơn tại khu vực này. Có thể nói rằng tại thị trường này công ty
vẫn chưa tạo dựng được một vị thế vững chắc để có thể đương đầu với các đối thủ
cạnh tranh xâm nhập vào thị trường lớn này.
Trong những năm qua, là một doanh nghiệp mới thành lập còn non trẻ, chưa có
nhiều kinh nghiệm nên thị trường tiêu thụ của công ty vẫn chỉ bó hẹp tại khu vực
Miền Bắc, công ty tập trung nhiều tại thị trường Miền Bắc mà chưa chú trọng tới việc
mở rộng thị trường sang hai thị trường tiềm năng còn lại đặc biệt là khu vực Miền
Nam.
1.5.2.Đặc điểm khách hàng :
Khách hàng của Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội là các đại lý và khách hàng
tiêu thụ cuối cùng.
Khách hàng là các đại lý : có quan hệ chặt chẽ với các nhà phân phối. Họ là những
người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng do vậy hiểu rõ nhu cầu của khách hàng , sức
mua, khả năng tiêu thụ của mặt hàng, hiểu rõ về đặc điểm của hàng hóa. Do đây là
những nhà trung gian, mua sản phẩm không phải để thỏa mãn nhu cầu của chính bản
thân mình mà để bán lại trên thị trường, do vậy cái mà họ quan tâm chính là lợi ích
thu được khi tiêu thụ hàng hóa : tỉ lệ hoa hồng thu được. Lượng đặt hàng, chất lượng
9
và chủng loại sản phẩm của nhóm khách hàng này yêu cầu có ảnh hưởng đến số lượng, chất
lượng cũng như chủng loại mặt hàng nhập khẩu của công ty.
Khách hàng là người tiêu thụ cuối cùng : mua sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu của
chính họ. Người tiêu thụ cuối cùng chính là người hiểu rõ mục đích của họ và biết
được chủng loại mặt hàng nào phù hợp với nhu cầu của họ nhất. Vấn đề mà họ quan
tâm trước hết của đối tượng khách hàng này là chất lượng và giá cả của mặt hàng.
Tuy đây là những khách hàng không thường xuyên mà mua số lượng ít nhưng hoạt
động bán lẻ là một hoạt động mang ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển
của công ty.
1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu của công ty
1.6.1. Nhân tố bên trong công ty :
1.6.1.1. Nhân tố Bộ máy quản lý hay tổ chức hành chính
Hoạt động nhập khẩu đòi hỏi cần phải có một bộ máy lãnh đạo hoàn chỉnh, có
tổ chức phân cấp quản lý, phân công lao động trong công ty sao cho phù hợp với đặc
trưng của công ty kinh doanh nhập khẩu. Nếu bộ máy quản lý cồng kềnh không cần
thiết sẽ làm cho việc kinh doanh của công ty không có hiệu quả và ngược lại.
1.6.1.2. Nhân tố con người :
Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập khẩu
nói riêng, tất cả các công đoạn từ khâu nghiên cứu tìm hiểu thị trường đến khâu ký kết
và thực hiện hợp đồng đòi hỏi cán bộ nhập khẩu phải nắm vững các chuyên môn nghiệp
vụ, năng động, đặc biệt khi kinh doanh với các đối tác nước ngoài.
Nhân tố con người đóng vai trò quyết định đến hiệu quả hoạt động kinh
doanh của công ty, sự tồn tại và thành công của công ty.
1.6.1.3.Nhân tố vốn và công nghệ :
Vốn và công nghệ có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của công
ty nói chung cũng như hoạt động kinh doanh nhập khẩu nói riêng. Vốn và công nghệ
quyết định đến lĩnh vực kinh doanh cũng như quy mô kinh doanh của công ty, vốn và
công nghệ giúp cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty được thực hiện có
hiệu quả cao. Vốn và công nghệ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nếu công ty có
nguồn lực tài chính lớn ( nhiều vốn ), đặc biệt là vốn lưu động thì sẽ mua được (có
được ) nhiều công nghệ hiện đại nâng cao năng suất và hiệu quả trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của công ty và ngược lại.
10
1.6.2. Nhân tố bên ngoài công ty :
1.6.2.1. Nhân tố chính trị, luật pháp
Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập
khẩu nói riêng là hoạt động giao dịch buôn bán trao đổi thương mại mang tính chất
quốc tế cho nên nó chịu ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố chính trị, luật pháp của
mỗi quốc gia cũng như quốc tế. Chế độ chính sách, luật pháp của Nhà nước là những
yếu tố mà các công ty xuất nhập khẩu buộc phải nắm rõ và tuân thủ một cách vô điều
kiện vì chúng thể hiện ý chí của Đảng lãnh đạo mỗi nước, sự thống nhất chung của
quốc tế. Hoạt động nhập khẩu được tiến hành giữa các chủ thể ở các quốc gia khác
nhau, do đó nó không chỉ chịu sự tác động của chế độ, chính sách, luật pháp trong
nước mà còn chịu những điều kiện tương tự ở phía nước đối tác.
Môi trường chính trị ổn định, luật pháp thông thoáng chặt chẽ không thay đổi
thường xuyên có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của nền kinh tế nói chung và hoạt
động nhập khẩu nói riêng. Môi trường ổn định thúc đẩy hoạt động thương mại quốc
tế giữa các quốc gia với nhau và giữa các chủ thể kinh tế ở các quốc gia với nhau.
Ngược lại, khi môi trường chính trị, luật pháp không ổn định nó sẽ hạn chế rất
lớn tới hoạt động thương mại quốc tế của quốc gia nói chung và hoạt động xuất nhập
khẩu của công ty nói riêng.
Vấn đề đặt ra đối với các cán bộ nhập khẩu của công ty luôn phải trau dồi kiến
thức không chỉ về chuyên môn và cả về luật pháp, từ đó để tránh không bị vi phạm
luật pháp, hạn chế xảy ra tranh chấp và những hành vi lừa đảo của kẻ xấu nhằm
chuộc lợi.
1.6.2.2.Thuế quan nhập khẩu :
Nếu thuế nhập khẩu cao thì giá cả hàng hóa bị đội lên, và do đó làm hạn chế
sức cạnh tranh của mặt hàng của công ty. Ngược lại thuế nhập khẩu thấp, chi phí cho
việc nhập khẩu sẽ thấp làm tăng lợi nhuận nhập khẩu của công ty. Do vậy, hiệu quả
nhập khẩu của công ty được cải thiện. Chính phủ cần điều chỉnh thuế quan thế nào
cho dung hòa được lợi ích của các chủ thể kinh tế : người tiêu dùng, doanh nghiệp và
Nhà nước vì thuế là nguồn thu ngân sách chủ yếu, phù hợp với mục tiêu tăng trưởng
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.6.2.3.Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền Việt Nam với các đồng ngoại tệ có ảnh hưởng
rất lớn đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu, nó ảnh hưởng đến việc lựa chọn đồng
tiền thanh toán. Tỷ giá hối đoái không cố định, có sự biến động lên xuống. Chính vì
11
vậy công ty cần phải có sự nghiên cứu và dự đoán xu hướng biến động của tỷ giá hối
đoái để đưa ra các quyết định phù hợp cho việc nhập khẩu như lựa chọn bạn hàng,
lựa chọn đồng tiền tính toán, lựa chọn đồng tiền thanh toán,…
1.6.2.4.Yếu tố thị trường trong nước và ngoài nước :
Tình hình và sự biến động của thị trường trong và ngoài nước như : sự thay
đổi của giá cả, khả năng cung cấp hàng hóa, khả năng tiêu thụ và xu hướng biến động
của dung lượng thị trường… Tất cả các yếu tố này đều có ảnh hưởng tới hoạt động
nhập khẩu của công ty.
Sự thay đổi lên xuống của giá cả sẽ làm ảnh hưởng tới khả năng tiêu thụ
hàng nhập khẩu. Sự biến động của nguồn cung và dung lượng thị trường có ảnh
hưởng đến sự biến động của giá cả hàng nhập khẩu, từ đó ảnh hưởng tới khả năng
tiêu thụ và hoạt động nhập khẩu của công ty.
1.6.2.5.Yếu tố cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa quốc tế
Các yếu tố cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động mua bán trao đổi
hàng hóa quốc tế có ảnh hưởng trực tiếp đến nhập khẩu như :
- Hệ thống giao thông vận tải, cảng biển : nếu hệ thống này được trang bị hiện đại
sẽ cho phép giảm bớt thời gian bốc dỡ, thủ tục giao nhận cũng như đảm bảo an toàn
cho hàng hóa được mua bán nhanh chóng, nâng cao tính kịp thời, nhanh gọn trong
quá trình nhập khẩu, tăng vòng quay của vốn.
- Hệ thống Ngân hàng : Hệ thống Ngân hàng càng phát triển thì các dịch vụ của nó càng
thuận tiện cho việc thanh toán quốc tế cũng như trong huy động vốn. Ngân hàng là một nhân
tố đảm bảo lợi ích cho nhà kinh doanh bằng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng.
- Hệ thống bảo hiểm, kiểm tra chất lượng : Cho phép các hoạt động mua bán hàng
quốc tế được thực hiện một cách an toàn hơn đồng thời giảm bớt được rủi ro cũng như mức
độ thiệt hại có thể xảy ra cho các nhà kinh doanh trong buôn bán thương mại quốc tế.
1.6.2.6. Các quan hệ kinh tế quốc tế
Việc tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế như : ASEAN, WTO…đã đem
lại lợi ích thiết thực cho quốc gia. Các nhà sản xuất kinh doanh mở rộng thị trường
tiêu thụ ra nước ngoài. Hàng rào thuế quan và phi thuế quan dần nới lỏng hay siết
chặt phụ thuộc và mối quan hệ song phương giữa hai nước, giữa nước nhập khẩu và
xuất khẩu. Chính điều này thúc đẩy các quốc gia tích cực trong quan hệ ngoại giao
với nước khác, tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế nhằm tạo được
những mối quan hệ bền vững, xu hướng tích cực hoá quá trình nhập khẩu, xuất khẩu
hàng hóa của nước mình.
12
CHƯƠNG 2 :
THỰC TRẠNG NHẬP KHẨU Ô TÔ CỦA CÔNG TY
CỔ PHẦN XNK Ô TÔ HÀ NỘI
2.1. Khái quát hoạt động nhập khẩu ô tô Việt Nam.
2.1.1.Tình hình nhập khẩu ô tô của Việt Nam.
Ô tô nước ta được cung cấp từ hai nguồn chính là nhập khẩu và do các doanh
nghiệp lắp ráp, chế tạo ô tô trong nước cung cấp. Mặc dù thời gian qua cùng với sự
lớn mạnh của các liên doanh với số lượng xe bán ra không ngừng gia tăng nhanh
chóng nhưng số lượng xe nhập khẩu cũng tiếp tục tăng.
Bảng 1 : Kim ngạch NK ô tô nguyên chiếc của Việt Nam qua các năm.
Đơn vị :nghìn USD
Năm
Số lượng xe NK
( chiếc )
% tăng trưởng
qua các năm
Kim ngạch
NK
% tăng trưởng
qua các năm
2005 18300 284900
2006 12200 - 33,3 208000 - 27
2007 28000 129,5 523000 151,4
2008 50400 80 1034000 97,7
2009 76300 51,4 1171000 13,2
( Nguồn : Tổng Cục Thống Kê Việt Nam các năm )
Năm 2005, số lượng xe ô tô nguyên chiếc được nhập khẩu vào Việt Nam là 18300
chiếc, với giá trị là 284900 nghìn USD. Nhưng đến năm 2006, kim ngạch ô tô nguyên
chiếc của Việt Nam đã giảm cả về số lượng và giá trị nhập khẩu. Cụ thể : số lượng ô
tô nguyên chiếc nhập khẩu là 12200 chiếc, giảm 33,3% so với năm 2005, giá trị nhập
khẩu năm 2006 là 208000 nghìn USD, giảm 27%. Điều này có thể lý giải được bởi
năm 2006 là một năm đầy biến động với thị trường ô tô Việt Nam.
Thứ nhất: Giữa tháng 2, Nghị định 12 cho phép nhập khẩu ô tô cũ khiến không ít
người bắt đầu hy vọng về cơ hội sở hữu chiếc xe giá 5000 – 10000 USD. Hiệu quả
ngay lập tức là thị trường gần như đóng băng, phản ứng phổ biến của khách hàng là
ngừng mua xe, chờ ngày nghị định có hiệu lực.
Thứ hai : Sự xuất hiện của hàng loạt các tập đoàn ô tô lớn của Trung Quốc như
Lifan, Thượng Hải Auto tấn công vào thị trường Việt Nam.
13
Thuế nhập khẩu liên tục giảm, một lớp người giàu có phất lên từ cổ phiếu khiến
nhu cầu ô tô tăng mạnh là một trong những lý do đẩy lượng xe nhập khẩu vả năm
nhập khẩu năm 2007 tăng kỷ lục, số lượng xe nhập khẩu lên tới 28000 chiếc, gấp gần
2,3 lần so với năm 2006; về giá trị nhập khẩu tăng 151,1% lên tới con số 523000
nghìn USD. Theo các nhà phân tích, nguyên nhân dẫn đến sự tăng mạnh mẽ này là :
đối với các loại xe nhập khẩu nguyên chiếc, 2007 là năm Việt Nam bắt đầu thực hiện
một số cam kết thương mại quốc tế, trong đó đáng chú ý nhất là việc mở cửa thị
trường cho các loại xe nhập khẩu và đặc biệt các quyết định giảm thuế nhập khẩu.
Riêng mặt hàng ô tô mới nguyên chiếc, trong năm 2007 Bộ Tài chính đã đưa ra 3
quyết định giảm thuế, kéo theo mức thuế suất thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc
giảm, đưa từ mức 90% xuống còn 60% - đây chính là “ đòn bẩy “ mạnh nhất đẩy thị
trường ô tô nhập khẩu Việt Nam lên “ cao trào “. Xét về khía cạnh giá trị, năm 2007
cũng là năm thị trường chứng kiến làn sóng xe độc về thị trường, là năm có số lượng
xe cao cấp, sang trọng nhập khẩu nhiều nhất, hàng loạt mẫu xe có giá trị vài trăm
nghìn USD/chiếc và thậm chí trên 1 triệu USD/chiếc.
Tốc độ tăng được tiếp tục duy trì đến năm 2008, về số lượng xe nhập khẩu tăng lên
50400 chiếc với giá trị 1034000 nghìn USD, tương ứng với 80% và 97,7% tăng
trưởng so với năm 2007. Có thể nói năm 2008 là một năm đầy khó khăn, bị ảnh
hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, thị trường bị “ hãm “ mạnh song kim
ngạch nhập khẩu ô tô mạnh phần lớn là nhờ hệ quả từ năm 2007. Các nhà nhập khẩu
đã tiến hành nhập khẩu để tránh mức thuế mới trong khi người tiêu dùng cũng tranh
thủ mua để tránh mức giá mới.
Lượng ô tô nhập khẩu nguyên chiếc được nhập khẩu về Việt Nam năm 2009 leo lên
mức kỷ lục, 76300 chiếc. Và dù được nhập khẩu chính hãng hay không chính hãng
thì ô tô nhập khẩu đã trở thành một đối trọng thực sự với ô tô sản xuất hay lắp ráp
trong nước, với tỷ lệ 40% tổng số ô tô trên thị trường ( năm 2008 chỉ chiếm 31% ).
Kết quả tăng trưởng này là do tác động từ gói kích cầu của Chính phủ. Khi thuế VAT
được giảm 50% từ 1/2/2009, và kế đến là phí trước bạ giảm từ 50% từ ngày
1/5/2009, thị trưởng ô tô “nóng” lên và xe nhập ngoại liên tiếp lập kỷ lục.Mặt hàng ô
tô nhập khẩu tăng mạnh bắt đầu từ tháng 8, đỉnh điểm là tháng 11 nhập tới 11.500
chiếc với giá trị kim ngạch là 159 triệu USD, nhưng tháng 12 lượng ô tô về Việt Nam
giảm sút vì 31/12/2009 là thời điểm chấm dứt gói ưu đãi thuế VAT và phí trước bạ,
chỉ có 7000 chiếc với giá trị kim ngạch chỉ có 98 triệu USD. Các con số phản ánh
đúng diễn biến tình hình của thị trường ô tô nhập khẩu Việt Nam. Sau khi “ dồn “
14
nhu cầu mua xe chạy thuế vào tháng 10 và tháng 11, sức mua trên thị trường giảm
mạnh vào tháng 12. Dù kim ngạch nhập khẩu ô tô chỉ chiếm 1,171 tỷ USD trong tổng
số kim ngạch nhập khẩu 68,7 tỷ USD trong năm 2009 nhưng với mục tiêu ổn định
kinh tế vĩ mô là số một, việc hạn chế nhập siêu sẽ ưu tiên hàng đầu và ô tô sẽ luôn là
“tầm ngắm” với nhiều biện pháp hạn chế nhập khẩu.
Chúng ta có thể thấy rằng, tốc độ tăng giá trị kim ngạch nhập khẩu luôn cao hơn tốc
độ tăng về số lượng xe, thể hiện ở đường biểu diễn giá trị kim ngạch có độ dốc lớn
hơn ( biểu đồ 1 ). Điều này phù hợp với sự phát triển chung của thị trường ô tô thế
giới và có thể lý giải được nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, khi mà
các hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ thì giá của hàng hóa ngày càng giảm, khuyến
khích nhu cầu tiêu dùng hàng nhập khẩu tăng lên không chỉ về số lượng mà cả về
chất lượng. Nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được
nâng cao, mức thu nhập tăng lên, nhu cầu về những chiếc xe có giá trị cao tăng lên
một cách nhanh chóng. Để đáp ứng được nhu cầu này thì các hãng sản xuất ô tô trên
thế giới cũng như trong nước đã và đang không ngừng nâng cao chất lượng sản
phẩm, tung ra hàng loạt mẫu xe có giá rất cao trên thị trường.
Biểu đồ 1 : Kim ngạch NK ô tô nguyên chiếc của Việt Nam
0
10000
20000
30000
40000
50000
60000
70000
80000
90000
2005 2006 2007 2008 2009
0
200000
400000
600000
800000
1000000
1200000
1400000
Số lượng xe NK
(chiếc)
Kim ngạch NK (nghìn
USD)
2.1.2. Quản lý Nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu ô tô.
Quan điểm nhất quán bảo hộ ngành Công nghiệp ô tô và hạn chế nhập khẩu luôn
được Chính phủ Việt Nam triệt để duy trì và áp dụng. Điều này thể hiện rõ nhất trong
chính sách thuế Chính phủ đã đề ra. Về cơ bản, chính sách thuế quan được xây dựng
với các biện pháp thuế quan và phi thuế quan nhằm áp đặt mức thuế cao đối với xe
15
nhập khẩu và hạn chế tối đa nhập khẩu miễn thuế. Hàng rào thuế quan và phi thuế quan
đã tạo sự ngăn cách to lớn giữa xe nhập khẩu và xe lắp ráp trong nước.
Bảng 2 : Biểu thuế và tỷ lệ bảo hộ ở Việt Nam theo mức độ hoàn chỉnh của xe
năm 1999
Mức độ hoàn chỉnh
( từ cao xuống thấp )
Thuế
NK
VAT
Thuế tiêu thụ
đặc biệt
Tỷ lệ
bảo hộ
Xe nguyên chiếc (CBU, du
lịch 5 chỗ)
100%
CIF
10% (hay 20%
CIF)
100%(hay
220% CIF)
340%
Linh kiện lắp ráp dạng
CKD2, xe du lịch
20%
CIF
10% (hay
12% CIF)
5% ( hay 6,6%
CIF)
38,6%
CIF
( Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 1999)
Bảng 3 : Biểu thuế và tỷ lệ bảo hộ ở Việt Nam theo mức độ hoàn chỉnh của xe
năm 2007
Mức độ hoàn chỉnh
( từ cao xuống thấp )
Thuế NK VAT
Thuế tiêu thụ
đặc biệt
Tỷ lệ
bảo hộ
Xe nguyên chiếc (CBU,
du lịch 5 chỗ)
80% CIF 10%( hay 20%
CIF)
45-60%
( hay 90-120%
CIF)
190-220
%
Linh kiện lắp ráp dạng
CKD2, xe du lịch
25% CIF 10% (hay
12% CIF)
5% ( hay 6,6%
CIF)
43,6%
CIF
( Nguồn : Bộ Tài Chính năm 2007 )
Tỷ lệ bảo hộ với xe nguyên chiếc là rất cao. Việc áp dụng đánh cả thuế nhập khẩu,
VAT và thuế tiêu thụ đặc biệt làm cho giá bán xe nhập khẩu cao hơn rất nhiều so với
giá bán xe lắp ráp trong nước. Việc bảo bộ này đã làm đội giá xe ô tô sản xuất hay
lắp ráp của Việt Nam cao hơn nhiều so với giá xe sản xuất hay lắp ráp ở nước ngoài.
Đây chính là sự thiệt thòi lớn mà người tiêu dùng Việt Nam phải gánh chịu. Để dung
hòa lợi ích của người tiêu dùng, lợi ích của ngành và lợi ích của Nhà nước bởi thuế là
nguồn thu ngân sách chủ yếu của Chính phủ, năm 2003 Chính phủ đã quyết định tăng
mức thuế nhập khẩu linh kiện.
Thế nhưng chính sách bảo hộ cao đã dần dần bộc lộ những hạn chế. Các doanh
nghiệp trong nước thì lắp ráp trong nước, doanh nghiệp liên doanh nước ngoài thì ỷ
16
lại việc được bảo hộ nên chậm chạp trong việc nội địa hóa và nâng cao tính cạnh
tranh. Thuế suất thuế nhập khẩu cao kích giá xe nhập khẩu lên cao nên các công ty
kinh doanh hạn chế nhập khẩu. Chính những điều này khiến cho quy mô thị trường ô
tô rất nhỏ.
Năm 2006, chính sách ưu đãi thuế quan theo tỷ lệ nội địa hóa đối với các sản
phẩm, phụ tùng ngành cơ khí – điện – điện tử ( được áp dụng từ năm 1999 ) chính
thức bị bãi bỏ. Biểu thuế nhập khẩu linh kiện phụ tùng ô tô sẽ được xây dựng theo 5
mức thuế suất là 30%, 20%, 10%, 5% và 0%; chênh lệch giữa mức thuế suất của cụm
chi tiết và chi tiết rời phần lớn là 5% hoặc 10% tùy theo chủng loại. Cũng trong năm
này, ô tô đã qua sử dụng được loại ra khỏi danh sách mặt hàng cấm nhập khẩu. Cho
phép nhập khẩu tô tô cũa là một yêu cầu bắt buộc khi chúng ta tham gia hội nhập và
thực hiện cam kết gia nhập WTO. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp nhập khẩu ô tô
để họ tham gia nhập xe cũ, bởi xe cũ được phép nhập trong thời gian sử dụng chưa
quá 5 năm nên chất lượng còn tốt, trong khi giá rẻ và nhu cầu trong nước thì rất lớn.
Việc nhập khẩu ô tô cũ là tất yếu nhưng không vì thế mà để các loại ô tô cũ ồ ạt tràn
vào Việt Nam.
2007 là năm Việt Nam chính thức gia nhập WTO, thuế quan nhập khẩu chịu tác
động trực tiếp nhất, đi tiên phong trong hội nhập. Ô tô, linh kiện ô tô cũng là một
trong những mặt hàng được điều chỉnh thuế. Thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc
( CBU, 5 chỗ ) giảm từ mức 100% năm 1999 xuống còn 80% năm 2009, cũng trong
năm 2009 thuế tiêu thụ đặc biệt mặt hàng này cũng giảm, mức thuế suất vào khoảng
45 -60%. Trong khoảng thời gian từ năm 2003 trở lại đây, mặc dù thuế nhập khẩu ô
tô và thuế tiêu thụ đặc biệt giảm xuống kéo theo tỷ lệ bảo hộ giảm, nhưng ô tô trong
nước vẫn được bảo hộ ở tỷ lệ cao ( hơn 200% ). Việc đưa tỷ lệ nội địa hóa mà làm
mục tiêu phát triển của công nghiệp ô tô còn rất nhiều bất cập vì thị trường Việt Nam
chưa thích hợp để phát triển các ngành công nghiệp có kỹ thuật cao như công nghiệp
ô tô, tâm lý ưa chuộng hàng ngoại ăn sâu vào tâm lý người tiêu dùng do đó một chiếc
xe có linh kiện ngoại 100% sẽ hấp dẫn người tiêu dùng Việt Nam nếu cùng một mức
giá. Ngoài ra, nhà sản xuất thì không phân biệt đâu là công nghiệp phụ trợ mà chỉ căn
cứ vào thị trường để sản xuất. Như vậy, vô hình trung chúng ta đã giúp sức cho các
“đại gia” ngành xe hơi chiếm lĩnh thị phần, từ đó góp phần “bóp chết” hoặc giảm thị
phần những thương hiệu ô tô trong nước. Thực tế cho thấy ngành công nghiệp ô tô
Việt Nam vẫn chưa cho ra những chủng loại xe thực sự phù hợp với môi trường và
hoàn cảnh của riêng Việt Nam.
17
- Năm 2008, Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế
giới. Cuộc khủng hoảng đã ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng cho vay giữa các ngân
hàng, nhiều ngân hàng không còn khả năng thanh khoản. Đối với thị trường chứng
khoán. Điều này tác động đến dự trữ ngoại hối và giá cả trên thị trường chứng khoán,
gián tiếp ảnh hưởng hoạt động nhập khẩu. Chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và
chế độ tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động nhập khẩu.
- Ngoài công cụ thuế quan, Nhà nước tăng cường quản lý nhập khẩu bằng các
biện pháp Hải quan như : quản lý chặt tính giá thuế hàng nhập khẩu, tăng cường rà
soát thủ tục nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu, các chỉ tiêu kỹ thuật để điều tiết việc
nhập khẩu. Tuy nhiên các chính sách của Nhà nước còn chưa đồng bộ và thiếu ổn
định, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu. Nhiều chính
sách còn mang tính nhất thời và chưa tính đến lợi ích lâu dài. Đòi hỏi các nhà hoạch
định chính sách phải có kế hoạch, chiến lược dài hạn nhất định phù hợp với mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội.
2.2.Hoạt động nhập khẩu ô tô của Công ty.
2.2.1.Hoạt động nghiên cứu thị trường.
Công tác nghiên cứu thị trường ở Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội luôn được
quan tâm chú ý tiến hành để xác định được chính xác nhu cầu của thị trường đối với
các mặt hàng của công ty. Các nhân viên kinh doanh của công ty thực hiện nghiên
cứu thị trường theo phương pháp điều tra trực tiếp : phát phiếu câu hỏi điều tra, thăm
dò ý kiến cho khách hàng tiêu thụ cuối cùng để tìm hiểu nhu cầu, tâm lý, thị hiếu của
họ, hoặc có thể dựa trên các thông tin do các đại lý cung cấp để xác định sức mua của
khách hàng. Do đặc điểm mặt hàng nhập khẩu của công ty là ô tô và các linh kiện phụ
tùng ô tô, đây là những sản phẩm của những hãng nổi tiếng trên thế giới sản xuất như
Toyota, Ford, Daewoo,…vì vậy, nghiên cứu thị trường là một hoạt động quan trọng mà
từ đó ta có thể biết được giá, chất lượng sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, qua đó có
chiến lược kinh doanh phù hợp. Vì vậy, công ty đã và đang đẩy mạnh công tác nghiên
cứu thị trường cũng như các nghiệp vụ kinh doanh khác để tạo được vị trí trên thị
trường, tăng năng lực cạnh tranh, khẳng định vị thế của công ty.
Công tác nghiên cứu thị trường nhập khẩu được tiến hành bởi nhân viên của
phòng kinh doanh. Công ty chia thị trường thành hai nhóm chính : thị trường truyền
thống và thị trường tiềm năng. Mục tiêu của nghiên cứu thị trường truyền thống là
củng cố, phát triển mối quan hệ với bạn hàng đã có và bạn hàng tiềm năng trong thị
trường đó. Mục tiêu của nghiên cứu thị trường tiềm năng là mở rộng đa dạng hóa
18
hoạt động nhập khẩu. Nhân viên phòng kinh doanh tìm hiểu các thông tin về sản
phẩm trên các website các hãng, nghiên cứu biến động giá cả sản phẩm của các hãng,
lấy đó làm cơ sở cho các quyết định nhập khẩu mặt hàng nào, nhập với mức giá là
bao nhiêu và nhập từ thị trường nào… Ngoài ra, các nhân viên kinh doanh cũng chủ
động nghiên cứu, áp dụng các văn bản pháp quy khác của Nhà nước liên quan đến
lĩnh vực hàng hóa xuất nhập khẩu để đảm bảo hoạt động nhập khẩu của công ty luôn
tuân thủ pháp luật của Nhà nước.
2.2.2.Công tác nhà cung cấp.
Từ khi thành lập, thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm nhằm hướng tới
mọi đối tượng khách hàng. Ngoài các thị trường từ những bạn hàng nhập khẩu truyền
thống như: Nhật Bản, Hàn Quốc,...công ty còn mở rộng ra các thị trường mới để tìm
đến những nguồn cung cấp mới như: Anh, Mỹ, Đức,...Việc giao dịch với các thị
trường này không những giúp công ty tăng doanh số, kim ngạch xuất nhập khẩu, mà
còn giúp công ty nhập khẩu được những mặt hàng kỹ thuật cao.
Công tác nhà cung cấp đóng một vai trò hết sức quan trọng, việc kinh doanh có
được thuận lợi và hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào mức độ cam kết của nhà
cung cấp trong các hợp đồng ngoại thương. Cụ thể như số lượng, chất lượng hàng có
đúng quy định, tiến độ giao hàng , điều kiện thanh toán,…Công tác nhà cung cấp của
Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội được phản ánh dưới bảng sau :
Bảng 4 : Tình hình các nhà cung cấp nước ngoài
STT Nhà cung cấp Sản phẩm
Loại tiền
thanh toán
Nhận xét
1 Đức BMW EUR Giao hàng đúng
2 Mỹ Ford, Lexus USD Giao hàng đúng
3 Italia Ferrari EUR Giao hàng chậm
4 Nhật Bản Toyota, Nissan USD Giao hàng đúng
5 Hàn Quốc Daewoo, Huydai USD Giao hàng chậm
( Nguồn : Phòng Kinh doanh công ty )
Công tác quan hệ nhà cung cấp nước ngoài vẫn được công ty duy trì tốt. Các
nhà cung cấp nước ngoài chính của công ty là Toyota, Ford, Daewoo,… Đây là
những nhà cung cấp có thương hiệu nổi tiếng trên thế giới và có uy tín, họ luôn thực
19
hiện đúng cam kết đã có trong hợp đồng ngoại thương. Trên đây là một số nhà cung
cấp thân quen với công ty. Đa phần các công ty đều giao hàng đúng thời hạn quy
định của hợp đồng, tuy nhiên vẫn còn một số nhà cung cấp do một số nguyên nhân
mà đôi khi họ đã giao hàng chậm như Italia, Hàn Quốc. Các sản phẩm của nhà sản
xuất nước ngoài đều là các mặt hàng chuyên dùng, có chất lượng tốt, đặc biệt và rất
khó tìm ở thị trường nội địa cũng như các nước trong khu vực. Điều này giúp cho
công ty có được nguồn hàng tốt và luôn được cung cấp ổn định, đảm bảo công tác tạo
nguồn mua hàng luôn diễn ra liên tục. Không chỉ tạo điều kiện về cung cấp nguồn
hàng có chất lượng cho công ty, các hãng còn hỗ trợ về đào tạo kỹ thuật, chuyên môn
nghiệp vụ, nhằm giúp nhà phân phối có được đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên
môn cao. Hơn nữa các hãng còn hỗ trợ nhà phân phối trong việc triển khai các
chương trình marketing, các chương trình xúc tiến bán hàng. Các nhà cung cấp vẫn
áp dụng thanh toán bằng L/C hơn cả do hình thức này nhanh gọn và đảm bảo an toàn.
Như vậy mối quan hệ giữa các hãng và Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội rất bền
chặt, đôi bên cùng hợp tác giúp đỡ nhau để cùng phát triển.
Hiện nay công ty không ngừng khai thác, tìm nguồn hàng, có chất lượng tốt giá
cả phù hợp ở thị trường nước ngoài để đáp ứng được nhu cầu ngày càng phát triển
của thị trường nội địa.
2.2.3.Ký kết hợp đồng nhập khẩu.
Giao dịch và đàm phán về hoạt động nhập khẩu thường được công ty tiến hành
qua hình thức thư tín, Fax, điện thoại hoặc gặp gỡ trực tiếp đối với các thương vụ
lớn, phức tạp.
Công ty chủ yếu ký kết hợp đồng nhập khẩu bằng hình thức văn bản, mà nội dung
gồm các điều khoản chủ yếu : tên hàng ( Commodity ), số lượng (Quatity), chất
lượng ( Quanlity ), giao hàng ( Shipment, Delivery ), giá cả ( Price ), thanh toán
(Payment, Settlement ), bao bì, ký mã hiệu ( Packing and Marking ), bảo hành
(Warranty ), phạt và bồi thường thiệt hại ( Penalty ), bảo hiểm (Insurance), bất khả
kháng ( Forse Majeuce), khuyến mại ( Clain ), trọng tài ( Arbitratian )...
Loại hợp đồng này thường ký kết giữa bên mua và bên bán. Trên thực tế, nhiều hợp
đồng còn có cả bên vận chuyển tham gia ký kết.
Việc ký kết hợp đồng nhập khẩu thường do ban giám đốc ký kết, trường hợp giám
đốc ủy quyền cho người khác ký kết thì phải có văn bản ( giấy ủy quyền ).
Đối với các mối giao dịch thân thiết hoạt động đàm phán ký kết hợp đồng được
giao dịch bằng thư tín. Phòng kinh doanh gửi cho các hãng đơn đặt hàng. Sau đó các
20
hãng kiểm tra lại lượng hàng hóa trong kho và thông báo lại cho công ty. Hai bên trao
đổi thông tin qua email và fax, khi đôi bên thỏa thuận được các điều khoản về mặt
hàng, số lượng, chất lượng, giá cả, điều kiện giao hàng, thanh toán,…hai bên mua và
bán ghi lại kết quả thành một văn bản gọi là Confirmation order xác nhận lại việc
mua bán hàng hóa. Từ Confirmation order, hai bên tiến hành ký kết hợp đồng ngoại
thương.
2.2.4.Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Vốn của công ty được phép nhập khẩu trực tiếp nên trong quá trình thực hiện hợp
đồng của mình. Công ty đã vận dụng linh hoạt các phương thức nghiệp vụ vừa đảm
bảo tuân thủ luật pháp vừa thực hiện đúng, đầy đủ nhanh chóng với chi phí nhỏ nhất
cho hợp đồng đã ký kết với các đối tác.
- Xin giấy phép nhập khẩu : Do mặt hàng mà công ty hiện đang kinh doanh, nhập
khẩu là ô tô, linh kiện phụ tùng ô tô, nằm trong nhóm mặt hàng phải xin giấy phép
nhập khẩu tự động của Bộ Công Thương theo thông tư số 17/2008/TT-BCT, nhân
viên của công ty phải đến Bộ Công Thương nộp hồ sơ bao gồm : đơn đăng ký giấy
phép nhập khẩu, hợp đồng nhập khẩu, hóa đơn thương mại, vận đơn hoặc chứng từ
vận tải, L/C hoặc chứng từ thanh toán. Sau đó chờ 5 ngày để nhận giấp phép.
- Làm thủ tục ban đầu thanh toán quốc tế : Công ty thường sử dụng hai phương
thức thanh toán là phương thức thanh toán mở thư tín dụng (L/C), phương thức nhờ
thu. Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội có mối quan hệ hợp tác với 4 ngân hàng là
VPbank, HSBC, Liên Việt, An Bình. Đối với các hợp đồng có giá trị lớn, công ty
thường mở L/C tại VPbank và HSBC, bởi ở đây số dư tài khoản của doanh nghiệp
khá lớn, đồng thời đây là những ngân hàng tương đối thân thiết với công ty tạo điều
kiện thuận lợi hơn trong thủ tục giấy tờ. Đối với Liên Việt và An Bình, công ty mới
thiết lập mối quan hệ trong thời gian gần đây, nhằm mục đích đảm bảo nguồn vốn
lưu động cần thiết.
- Thuê phương tiện vận tải : Do công ty chủ yếu nhập khẩu theo điều kiện CIF việc
thuê phương tiện vận tải là do bên bán đảm nhiệm. Trong trường hợp công ty nhập
khẩu theo điều kiện FOB và EXW thì việc thuê phương tiện vận tải luôn thuộc về
phía nhập khẩu. Tuy nhiên do đặc điểm của hàng nhập khẩu mỗi chuyến số lượng ít
nên thường thuê tàu của công ty vận tải đường biển.
- Mua bảo hiểm cho hàng hóa : Nhập khẩu theo điều kiện CIF thì bên xuất khẩu
mua bảo hiểm cho hàng hóa vì quyền lợi của bên nhập khẩu nên mức bảo hiểm
thường ở mức tối thiểu. Nhập khẩu theo điều kiện FOB thì quyền mua bảo hiểm
21
thuộc về bên nhập khẩu. Công ty thường mua bảo hiểm hàng hóa điều kiện A, mua
bảo hiểm cho từng chuyến hàng. Để đề phòng bất trắc có thể xảy ra, công ty khi mua
bảo hiểm luôn nộp phí và lệ phí bảo hiểm đầy đủ và thường mua bảo hiểm một cách
sớm nhất. Trên thực tế hàng nhập khẩu của công ty chưa gặp rủi ro, đạt được điều
này là do công tác bảo hiểm có hiệu quả.
- Làm thủ tục hải quan nhập khẩu : Công ty tiến hành làm thủ tục hải quan ở cảng
Hải Phòng và cảng TP.HCM. Công ty phải xuất trình bộ chứng từ hải quan bao gồm :
giấy phép nhập khẩu, tờ khai, hợp đồng, hóa đơn thương mại,… cho chi cục hải quan
cửa khẩu cảng Hải Phòng và cảng TP.HCM. Cơ quan hải quan sẽ tiến hành kiểm tra
hàng hóa. Các quyết định của hải quan đưa ra sẽ ảnh hưởng rất lớn đến trình tự thời
gian nhận hàng.
- Nhận hàng từ người vận tải : Sau khi làm thủ tục thông quan hàng hóa, công tu có
đủ bộ chứng từ chứng minh được mình là chủ sở hữu của lô hàng hóa, khi đó có thể
nhận hàng nhập khẩu.
- Kiểm tra chất lượng hàng nhập khẩu: Sau khi nhận hàng sẽ tiến hành kiểm tra
hàng nhập khẩu, công ty có đại diện là cơ quan giám định để giám định mọi tổn thất
hư hỏng của hàng hóa khi hàng hóa đến cảng. Chứng chỉ giám định sẽ được lưu lại
và là bằng chứng để khiếu nại người bán bảo hiểm hoặc đại diện sẽ được công ty
thông báo để tham dự việc giám định.
- Thanh toán tiền hàng nhập khẩu : Phòng kinh doanh kết hợp với phòng kế toán
tiến hành làm các thủ tục thanh toán tiền hàng cho bạn hàng, tùy thuộc hình thức
thanh toán mà công ty thực hiện theo đúng quy trình thanh toán.
- Khiếu nại trọng tài : Khi các bên không thực hiện đúng các điều khoản ghi trong
hợp đồng, công ty tiến hành khiếu nại lên trọng tài. Tuy vậy, các bên tham gia hợp
đồng có thể thỏa thuận trước để giải quyết vi phạm hợp đồng. Nếu không giải quyết
được thì mới khiếu nại lên trọng tài kinh tế. Đa số hàng nhập khẩu về của công ty đều
rất ít xảy ra rủi ro. Từ khi công ty được thành lập và tiến hành hoạt động kinh doanh
nhập khẩu thì tranh chấp là rất ít, tranh chấp cũng là không đáng kể.
2.2.5.Tiêu thụ hàng nhập khẩu :
- Hoạt động tiêu thụ được công ty chú trọng đặt lên hàng đầu bởi đây là hoạt động
quyết định đến lợi nhuận và vị thế của công ty trên thị trường. Việc định giá bán xe
được xuất phát từ quan điểm tránh tồn kho nhiều, tiêu thụ nhanh các sản phẩm đang
ở chu kỳ bão hòa để nhanh chóng cho ra mắt các sản phẩm khác thay thế nhằm bảo
22
toàn vốn, thu hồi vốn và quay vòng vốn nhanh. Chính sách giá được công ty xây
dựng là : chính sách giá mục tiêu, tức là định giá theo mục tiêu : giá bán = giá thành
nhập khẩu + thuế/đơn vị hàng hóa + chi phí bán hàng + chi phí khác + lãi dự tính.
Trong điều kiện thị trường có sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc điều chỉnh giá
linh hoạt đáp ứng nhu cầu thị trường, có khả năng cạnh tranh với các đối thủ khác
nhiều khi còn là đòn bẩy thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm. Bên cạnh chính sách định giá
cho các sản phẩm, công ty còn có chính sách giá ưu đãi cho khách hàng truyền thống,
các khách hàng mua xe với số lượng lớn như khách hàng mua xe taxi. Công ty còn có
chính sách kích cầu mua sắm như : mua sản phẩm tặng giải thưởng là đồng hồ thời
trang hay điện thoại di động, nhờ đó thúc đẩy người tiêu dùng mua sản phẩm của
công ty.
- Để hỗ trợ cho hoạt động xúc tiến bán hàng, công ty có đội ngũ tư vấn khách hàng
về sản phẩm. Ngoài ra, công ty cũng đã đầu tư một số phương tiện cho hoạt động
quảng cáo như là tờ Cataloge giới thiệu sản phẩm, những pano – áp phích quảng cáo
đặt tại các cửa hàng chi nhánh. Công ty cũng đã xây dựng được website của công ty,
thông qua đó cập nhật các thông tin về doanh nghiệp và quảng cáo đến người tiêu
dùng. Điều này không chỉ góp phần đưa sản phẩm đến gần với người tiêu dùng mà
nó còn khuếch trương thế mạnh của công ty để nhiều khách hàng biết đến hơn. Hoạt
động yểm trợ bán hàng của công ty cũng khá tốt. Công ty cũng tham gia vào các hội
chợ, triển lãm để giới thiệu quảng bá sản phẩm, nắm bắt nhu cầu của khách hàng.
- Bảo hành bảo dưỡng là một hoạt động hết sức quan trọng đối với tất cả các công ty
kinh doanh ô tô và Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội cũng không là ngoại lệ. Vì ô tô
là sản phẩm có giá trị thông số kỹ thuật cao, được cấu thành bởi nhiều chi tiết khác
nhau, tuổi thọ của chúng cũng khác nhau nên chế độ bảo hành bảo dưỡng sau bán
hàng không chỉ có ý nghĩa tạo lòng tin, giữ khách hàng mà còn giúp công ty tăng khả
năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.
Những hoạt động trên của công ty đã mang lại hiệu quả trong công tác bán hàng,
mở rộng và phát triển thị trường, và giúp cạnh tranh được với các đối thủ khác.
2.2.6. Đối thủ cạnh tranh.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp hoạt động trong bất cứ ngành nghề
hay lĩnh vực nào đều phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt. Do đó Công ty cổ phần
XNK ô tô Hà Nội cũng không thoát khỏi việc phải đối mặt với các đối thủ cạnh
tranh, nhất là khi mặt hàng kinh doanh của công ty là mặt hàng ô tô. Công ty từ khi
mới gia nhập thị trường ôtô, không những chịu sự cạnh tranh gay gắt của các liên
23
doanh lắp ráp xe trong nước, sự ra đời hàng loạt các công ty thương mại, mà còn phải
cạnh tranh với những công ty phân phối – vốn có tiềm lực về tài chính và sự hậu
thuẫn của chính hãng. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp tới lượng ô tô tiêu thụ của công
ty, từ đó ảnh hưởng tới lượng ô tô mà công ty nhập khẩu. Để duy trì lợi thế cạnh
tranh và dành thắng lợi trong kinh doanh đòi hỏi công ty phải tiến hành nghiên cứu
đối thủ cạnh tranh một cách kỹ lưỡng. Đối thủ của công ty không chỉ có những công
ty sản xuất nội địa mà còn cả những công ty thực hiện chức năng kinh doanh nhập
khẩu ô tô như Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội, đó là :
Công ty cổ phần thương mại KYLIN – GX668, địa chỉ 19, 21 và 23 Xã Đàn –
Đống Đa – Hà Nội. Đây là hai đối thủ cạnh tranh đáng gườm của công ty, bởi vì họ
cùng hoạt động trong ngành, với hệ thống salon ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải
Phòng, TP.Hồ Chí Minh, Bình Dương. Với những ưu thế vượt trội về quy mô, kinh
nghiệm họ đã khẳng định được vị thế vững chắc của mình trên thị trường. Cùng
thành lập vào năm 2005 nhưng xét về tổng thể thì để trở thành đối thủ cạnh tranh
ngang tầm với họ không phải là chuyện “một sớm một chiều” có thể thực hiện được.
Xác định được thực lực của mình, trong thời gian qua Công ty cổ phần XNK ô tô Hà
Nội luôn tìm hiểu, với tinh thần học hỏi kinh nghiệm của đối phương từ đó chọn lọc,
đúc rút kinh nghiệm cho hoạt động của bản thân công ty mình sau này.
Bên cạnh đối thủ cạnh tranh trong nội bộ ngành thì những đối thủ thực sự lớn của
công ty trên thương trường đó là Công ty Cổ phần ô tô Giải Phóng có trụ sở chính tạo
199B Minh Khai – Quận Hai Bà Trưng – TP. Hà Nội. Đây là một đối thủ nặng ký của
công ty không chỉ trong quá khứ mà hiện tại và tương lai càng trở thành đối thủ khó
khăn hơn cho công ty, có lợi thế sản xuất lắp ráp ngay trong nước với những nguồn linh
kiện có sẵn trong nước nên giá thành cũng rất cạnh tranh trên thị trường so với các sản
phẩm nhập khẩu cùng loại của Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội.
Kế đến phải kể đến các đối thủ tiềm tàng và vô cùng nặng ký trong tương lai, đó
chính là các dự án xây dựng các nhà máy sản xuất, lắp ráp ô tô hay các linh kiện phụ
tùng ô tô sẽ được đi vào hoạt động trong tương lai, như vậy nó sẽ làm giảm nhu cầu ô
tô nhập khẩu xuống đáng kể. Cụ thể như dự án : Dự án Nhà máy lắp ráp ô tô FAW
Hoàng Trà thuộc Khu công nghiệp Đồng Bành, tỉnh Lạng Sơn; Dự án xây dựng nhà
máy lắp ráp ô tô tại tỉnh Bắc Cạn giữa Công ty cổ phần chế tạo sản xuất ô tô Bảo
Toàn tỉnh Bắc Cạn hợp tác cùng tập đoàn Lifan… Điều này sẽ ảnh hưởng lớn tới
chiến lược, doanh thu và lợi nhuận của công ty trong tương lai.
24
Từ những thông tin phần trên cho ta thấy rằng Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội đang
đứng trước một sự cạnh tranh vô cùng khó khăn và khốc liệt không những trong hiện tại
mà cả trong tương lai. Đây là các đối thủ cạnh tranh rất lớn của công ty và như vậy công
ty cần có những chiến lược phát triển thật hợp lý để có thể cạnh tranh một cách lành
mạnh với các đối thủ trên nhằm duy trì lợi nhuận và doanh thu của công ty.
2.3. Thực trạng nhập khẩu của Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội.
2.3.1. Kim ngạch nhập khẩu của Công ty.
Trong những năm qua, công ty đã có nhiều nỗ lực trong việc đẩy mạnh hoạt
động nhập khẩu. Tuy còn gặp nhiều khó khăn do ra đời trong thời gian tương đối
ngắn và cũng do ảnh hưởng của nền kinh tế trong khu vực đã làm cho việc nhập khẩu
của một số khách hàng có phần bị hạn chế nhưng công ty đã từng bước vượt qua giai
đoạn khó khăn ban đầu để đi đến ổn định. Cụ thể kim ngạch nhập khẩu năm 2006 đạt
90,4 tỷ VND, năm 2007 đạt 132,5 tỷ VND đặc biệt kim ngạch nhập khẩu năm 2008
đạt 182 tỷ VND và năm 2009 đạt 228 tỷ VND. Số lượng xe nhập khẩu cũng tăng
đáng kể qua; năm 2007 tăng 53,3% từ 300 chiếc lên tới 460 chiếc, năm 2008 số
lượng ô tô nhập khẩu lên tới 600 chiếc tăng 30,4%, năm 2009 đạt 720 chiếc tăng lên
20% so với năm 2008.
Bảng 5 : Kim ngạch nhập khẩu của Công ty.
Đơn vị : triệu VND
Năm
Số lượng ô tô
NK ( chiếc )
% tăng trưởng
qua các năm
Kim ngạch
NK
% tăng
trưởng qua
các năm
2006 300 90400
2007 460 53,3 132500 46,7
2008 600 30,4 182000 37,4
2009 720 20 228000 25,3
( Nguồn : Phòng Kế toán Công ty )
Kim ngạch ô tô nhập khẩu tăng mạnh có nguyên nhân chính xuất phát từ nhu
cầu ô tô của thị trường Việt Nam, cùng với chính sách của Nhà nước tạo điều kiện
cho thuận lợi hơn cho hoạt động nhập khẩu ô tô. Điều này hoàn toàn phù hợp với nhu
cầu ô tô trong nước, trên thế giới và tình hình nhập khẩu ô tô của Việt Nam.
Biểu đồ 2 : Kim ngạch NK của công ty qua các năm
25