Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tình Hình Xuất Khẩu Cà Phê Của Việt Nam - Những Vấn Đề Đặt Ra Và Giải Pháp Phát Triển (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.85 KB, 11 trang )

A/ Lời mở đầu
Với chính sách đa phơng hoá các hoạt động kinh tế quốc tế và thực hiện chủ
trơng khuyến khích xuất khẩu của Đảng và nhà nớc, hoạt động xuất khẩu thời
gian qua đã có những bớc tiến vợt bậc. Đến nay sản phẩm hàng hoá và dịch vụ
của Việt Nam đã có mặt trên thị trờng của 150 nớc thuộc khắp các châu lục. Đặc
biệt, trong lĩnh vực xuất khẩu cà phê đã đạt đợc những kết quả khả quan. Cà phê
trở thành mặt hàng nông sản xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam sau gạo, khối l-
ợng xuất khẩu tăng với tốc độ khá nhanh, là một trong những mặt hàng chủ lực
của cả nớc. Sự phát triển của ngành cà phê đã đóng vai trò quan trọng trong sự
phát triển của nền kinh tế. Nó mang lại kim ngạch xuất khẩu lớn, tạo vốn đầu t,
tạo công ăn việc làm và thu nhập cho ngời lao động, góp phần vào quá trình phủ
xanh đất trồng, đồi trọc, chuyển đổi tích cực cơ cấu cây trồng Tuy nhiên bên
cạnh những mặt tích cực thì tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam còn có
những khó khăn và hạn chế nhất định.
Vì vậy, em đã chọn đề tài:
Tình Hình Xuất Khẩu Cà Phê Của Việt Nam - Những Vấn Đề Đặt Ra
Và Giải Pháp Phát Triển
B/ Nội dung
I/ Khái Niệm Về Xuất Khẩu:
Xuất khẩu là hoạt động buôn bán kinh doanh nhng phạm vi kinh doanh vợt
ra khỏi biên giới quốc gia hay là hoạt động buôn bán với nớc ngoài trên phạm vi
1
quốc tế. Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các
quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong lẫn bên ngoài nhằm mục tiêu
thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng
bớc nâng cao đời sống kinh tế của nhân dân. Thông qua hoạt động xuất khẩu có
thể đem lại những lợi nhuận to lớn cho nền sản xuất trong nớc. Xuất khẩu là hoạt
động kinh doanh dễ đem lại những hiệu quả đột biến nhng có thể gây thiệt hại vì
nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong
nớc tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế đợc.
II/ Vai Trò Của Hoạt Động Xuất Khẩu :


1. Tạo nguồn vốn chủ yễu cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và dịch chuyển cơ cấu kinh tế.
2. Thúc đẩy sản xuất phát triển.
3. Tác động tích cực đến giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống
của nhân dân.
4. Là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại ở nớc ta.
III/ Khái Quát Về Tình Hình Xuất Khẩu Cà Phê Của Việt Nam Trong
Thời Gian Qua:
1. Tình hình xuất khẩu chung:
Cà phê là mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong số những mặt hàng nông sản
có thế mạnh hàng đầu Việt Nam. Vào cuối những năm 80 thị trờng xuất khẩu cà
phê của Việt Nam đợc phân bố khá đều giữa các nớc Châu Âu, Châu á(chiếm 31,
8%), Châu Mĩ mà chủ yếu là thị trờng Mĩ chiếm 16, 67%. Chúng ta cả nớc mới có
20. 000 ha, với sản lợng không quá 10. 000 tấn vào thời gian này. Nhng đến năm
2000 là 516000 ha và 66 000 tấn và đến nay có khoảng 600000 ha và khoảng
688000 tấn. Với kết quả sản xuất nh vậy, Việt Nam cùng Braxin, Côlômbia là 3
nớc sản xuất và xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới.
Việt Nam sản xuất cà phê chủ yếu là để xuất khẩu, nhu cẩu tiêu dùng trong
nớc không đáng kể, chiếm khoảng 10% sản lợng cà phê. Trong những năm qua,
khối lợng xuất khẩu cà phê tăng với tốc độ khá nhanh. Vụ 1992-1993:135500 tấn,
vụ 1993-1994:15852tấn, vụ19941995:212038tấn, vụ 1995-1996:233000 tấn, vụ
1996-1997:346000 tấn, vụ 1997-1998:395000 tấn Vụ 1998-1999:410000 tấn, vụ
1999-2000:660000 tấn, đạt tốc độ tăng 72, 7% đứng thứ hai về xuất khẩu cà phê
2
sau Braxin. Sản lơng xuất khẩu cà phê trong 4 năm từ 1996-2000 đã tăng gấp 3
lần, chiếm 13, 05% tổng sản lợng cà phê xuất khẩu toàn thế giới.
Về thị trờng xuất khẩu cà phê Việt Nam, trớc những năm 1990 chủ yếu là
xuất khẩu sang Liên Xô cũ và các nớc Đông Âu theo hiệp định và phải xuất khẩu
qua nớc trung gian, chủ yếu là Singapo chiếm 68, 69% lợng cà phê của Việt Nam,
Đức, Pháp, Balan, Italia Từ cuối năm 1993, Mĩ bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt

Nam, xuất khẩu cà phê sang Singapo giảm dần chỉ chiếm 3, 63% và xuất khẩu
sang thị trờng Mĩ tăng mạnh. Ngành cà phê đã có vị trí nhất định và uy tín ngày
càng tăng trên thị trờng khu vực và thế giới. Thị trờng xuất khẩu cà phê của Việt
Nam ngày càng mở rộng, đến nay cà phê của Việt Nam đã có mặt tới khoảng 64
nớc trên thế giới. Một số thị trờng lớn có quan hệ thơng mại, nhập khẩu cà phê
của Việt Nam là :EU, Mĩ, Nhật Bản, ASEAN, Châu Phi, Trung Cận Đông, Trung
Quốc, Canada
Đức, Singapo là thị trờng trọng điểm của Việt Nam qua trong cà phê xuất
khẩu.
2. Điều tiết của nhà nớc trong xuất khẩu cà phê ở Việt Nam :
Những năm qua, Nhà nớc đã có vai trò quan trọng trong điều tiết các mặt
hàng nông sản xuất khẩu và đã mang lại những thành công đánh kể, đặc biệt là
đối với mặt hàng xuất khẩu cà phê.
2. 1 Nhà nớc đã lập quỹ hỗ trợ sản xuất, đây là một việc làm đúng, phù hợp.
Bởi vì trong điều kiện sản xuất ít thuận lợi, gặp sự thay đổi giá cả trên thị trờng
khiến ngời nông dân lo ngại trong sản xuất cà phê, thậm chí chặt phá cà phê. Do
vậy lập quỹ này, không phải là biện pháp mang tính bao cấp, mà là biện pháp cần
có trong nền kinh tế thị trờng, giúp họ an tâm sản xuất.
2. 2 Chính phủ đã phê duyệt dự án phát triển cà phê chè 40000 ha trong 5
năm (1997-2000) bằng vốn trong nớc và vốn vay u đãi của quỹ phát triển Pháp
(CFD). Đây là một biện pháp nhằm mở rộng thêm diện tích cà phê chè ở Việt
Nam.
2. 3 Nhà nớc đã ban hành nhiểu chủ trơng chính sách để hỗ trợ nông dân
phát triển sản xuất. Đặc biệt phải kể đến là việc Nhà nớc cho các hộ nông dân vay
trực tiếp vốn từ các ngân hàng nhà nớc mà trớc năm 1990 nông dân không đợc
tham gia ở các nguồn này. Chính những chủ trơng trên của Nhà nớc đã thực sự
giúp nông dân, tiếp thêm sức mạnh cho họ có vốn đầu t vào sản xuất.
3
Và cuối năm 2000 đầu năm 2001, Chính phủ đã chỉ đạo cho các doanh
nghiệp đợc vay vốn ngân hàng 0% lãi suất để thu mua tạm trữ 60000 tấn cà phê,

tiếp đó lại quy định giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp, và ngày 13-2-2001 Chính
phủ có quyết định 140, tiếp tục thu mua tạm trữ 90000 tấn nâng tổng số 150 000
tấn cà phê đa ra khỏi lu thông. Quyết định này đã giúp nông dân hạn chế bán cà
phê ra, gia cà phê trong nớc đã vững lên và có phần tăng giá, giá chào bán cà phê
ổn định từ 440-450 USD/tấn FOB. Đây là việc làm cần thiết của Nhà nớc, giúp
nông dân yên tâm, tin tởng vào chính sách hỗ trợ của Nhà nớc. Ngành ngân hàng
cũng đã có những quy định khoanh nợ và tiếp tục cho nông dân cũng nh các
doanh nghiệp xuất khẩu vay vốn. Đó cũng chính là biện pháp tiếp thêm ngành
năng lợng cho nguồn cà phê phát triển.
2. 4 Nhà nớc thực hiện chính sách hỗ trợ giá trợ cớc vận chuyển một số mặt
hàng thiết yếu và vật t sản xuất, cho vay vốn để phát triển sản xuất, đối với các hộ
nghèo vay vốn qua ngân hàng đợc giảm lãi xuất từ 15-30%.
2. 5 Quỹ hỗ trợ xuất khẩu đợc ban hành, có chức năng hỗ trợ về lãi xuất, tài
chính có thời hạn đối với các mặt hàng xuất khẩu bị lỗi do thiếu sức cạnh tranh
hoặc gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan và thởng về tìm kiếm, mở rộng thị tr-
ờng xuất khẩu. Nh vậy, việc Nhà nớc ban hành và sử dụng quỹ hỗ trợ xuất khẩu là
hoàn toàn đúng đắn, phù hợp, góp phần thúc đẩy xuất khẩu của cả nớc.
2. 6 Văn phòng Chính phủ cũng đã có văn bản số 1158/CP-KTTH ngày
21-12-2001, nêu ý kiến của Thủ tớng Chính phủ về việc hỗ trợ cà phê sau tạm
giữ. Cho phép sử dụng nguồn ngân sách đã bố trí để hỗ trợ 70% khoản lỗ do xuất
khẩu cà phê tạm trữ, nhng không vợt quá số lỗ kinh doanh chung của doanh
nghiệp sau khi bù trừ các khoản hỗ trợ của Nhà nớc đối với cà phê xuất khẩu
trong năm 2001.
Nhìn chung, thực trạng điều tiết của Nhà nớc đối với mặt hàng cà phê xuất
khẩu thời gian qua đã đạt đợc những kết quả khả quan. Chính sách thơng mại đã
đợc thay đổi căn bản :Từ độc quyền chuyển sang tự do hoá lu thông với nhiều
thành phần kinh tế cùng tham gia mua bán kinh doanh cà phê đã làm sống động
thị trờng. Tự do lu thông với đặc trng là thị trờng không bị chia cắt theo địa giới
hành chính, tình trạng ngăn sông cấm trợ bị xoá bỏ, thị trờng cà phê với nhiều
thành phần kinh tế cạnh tranh trong kinh doanh, giá cả đợc hình thành trên cơ sở

tơng quan cung cầu. Nhà nớc đã xoá bỏ việc chỉ định đầu mối xuất khẩu và cho
phép mỗi doanh nghiệp, mỗi cá nhân đều có thể trực tiếp xuất khẩu cà phê nếu có
4
đủ điều kiện theo quy định và một số chính sách hỗ trợ khác của Nhà nớc rất
thành công.
IV/Những Khó Khăn Và Hạn Chế Trong Xuất Khẩu Cà Phê Ơ Việt Nam
1. Cà phê xuất khẩu, những điểm yếu cần khắc phục
Chất lợng cà phê xuất khẩu ở nớc ta đang chứa đựng nhiều bất cập, nên
trong mấy năm đổ lại đây hiệu quả kinh tế trong xuất khẩu cà phê bị giảm trầm
trọng, nhiều nơi đã phá cây cà phê để chuyển sang trồng loại cây khác có lợi ích
cao hơn. Tình trạng này đợc gây ra bởi nhiều yếu tố.
1. 1 Ngay từ khâu giống đã tồn tại nhiều bất cập. Giống cà phê ở nớc ta từ tr-
ớc đến nay vẫn chủ yếu là do bà con nông dân tự chọn, ơm giống và trồng nên
không đảm bảo chất lợng. Cây phát triển kém, hạt nhỏ, tỷ lệ đồng đều giữa các
hạt thấp. Đầu tử trong lĩnh vực thuỷ lợi để tới cho cà phê đạt thấp. Nhiều vùng vào
mùa khô hạn không đủ nớc tới ảnh hởng xấu đến tình hình sinh trởng của cây.
Thêm nữa ở nớc ta vẫn thu hái theo kiểu tuốt cành là phổ biến, quả xanh chín lẫn
lộn, dẫn đến chất lợng cà phê chế biến thấp, tỷ lệ tổn thất sau quy hoạch cũng
cao.
1. 2 Trong khâu chế biến, nớc ta hiện vẫn đang sử dụng hai phơng pháp, chế
biến khô và chế biến ớt. ở nuớc ta phơng pháp chế biến khô đang đợc dùng phổ
biến. Phơng pháp này hơng vị cà phê không bằng chế biến ớt. Mặt khác, lại phụ
thuộc nhiều vào yếu tố thời tiết, tốn nhiều công phơi đảo, đòi hỏi diện tích kho và
sân phơi lớn. ở nớc ta hiện nay chế biến cà phê vẫn chủ yếu ở quy mô gia đình. Vì
thế tính đồng bộ kém, thiết bị chế biến đơn giản, chủ yếu là các máy xát nhỏ.
Hiện cả nớc mới có 50 dây chuyền chế biến công nghiệp, trong đó có 14 dây
chuyền nhập ngoại, số còn lại đợc chế tạo trong nớc với tổng công suất 100000
tấn nhân/năm.
Từ những thực tế trên đây, mặc dù chất lợng vốn có của cà phê vối trồng ở n-
ớc ta đợc đánh gia cao, loại kích thớc hạt 45-60% đạt tiêu chuẩn loại 1, chất lợng

thử nếm :có 35% rất tốt, 50% tốt, 10% ở mức trung bình và chỉ có 5% là loại
trung bình kém. Song trên thực tế, chất lợng cà phê nhân xuất khẩu của Việt Nam
lại không thể hiện đợc những chỉ tiêu trên. Mờy năm gần đây, tỷ lệ cà phê xuất
khẩu loại một của nớc ta chỉ đạt ở mức 20%.
1. 3 Sự đầu t cho công nghệ sau thu hoạch cha tơng xứng với tốc độ tăng
nhanh của sản lợng.
5

×