Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ THEO QUAN ĐIỂM CỦA KARL MARX potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.32 KB, 15 trang )

Tiền tệ và lưu
thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển

QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ THEO
QUAN ĐIỂM CỦA KARL MARX.
Mục Lục: Trang.
I. NỘI DUNG - YÊU CẦU CỦA QUY LUẬT LƯU
THÔNG TIỀN TỆ THEO QUAN ĐIỂM CỦA KARL MARX
1
1. NỘI DUNG CỦA QUY LẬT 1
2.YÊU CẦU CỦA QUY LUẬT 2
3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUY LUẬT
LƯU THÔNG TIỀN TỆ 7
a. MỨC CẦU TIỀN TỆ 7
b. MỨC CUNG TIỀN TỆ 11
II. ÁP DỤNG NỘI DUNG QUY LUẬT LƯU THÔNG
TIỀN TỆ CỦA KATL MARX VÀO NỀN KINH TẾ 11
1.NỀN KINH TẾ VIỆT NAM THỜI KỲ BAO
CẤP 11
2. NỀN KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY 13
III. ĐỀ XUẤT VIỆC CUNG ỨNG TIỀN CỦA NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC ĐỂ ĐẢM BẢO NỀN KINH TẾ ỔN
ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN 13
1
Tiền tệ và lưu
thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển

Trong nền kinh tế tiền tệ, mọi quan hệ kinh tế đều được thực hiên thong
qua công cụ tiền tệ. Vì vậy tất yếu dẫn đến các cá nhân, các doanh nghiệp, các
tổ chức kinh tế đều có nhu cầu về tiền tệ. Để thực hiện các quan hệ kinh tế.
Bởi lẽ công tiền tệ là một công cụ thuận lợi nhất đẻ thực hiện các dịch vụ mua


bán thõa mãn nhu cầu sinh hoạt và tiêu dùng cua mọi người, cũng như thõa
mãn nhu cầu dự trữ nguyên liệu, mua sắm máy móc thiết bị, trả lương công
nhân cua các doanh nghiệp… và khi có nhu cầu về tiền tệ,tất nhiên dẫn đến
việc tìm nguồn cung cấp tiền tệ đẻ thõa man nhu cầu đó. Vấn đề ở đây là
chúng ta nghiên cứu xem xét đến mức cầu tiền tệ chịu những tác động của các
yếu tố nào? Và trong nền kinh tế thị trường có điều tiết của Nhà Nước, ngân
hang trung ương cần phải can thiệp vào lưu thong tiền tệ như thế nào đẻ kiểm
soát cung tiền tệ, phát triển nền kinh tế, kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị của
tiền tệ.
I. Nội dung và yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ theo quan điểm của
Karl Marx:
1. Nội dung của quy luật lưu thông tiền tệ.
Khi nghiên cứu về nền kinh tế Chủ Nghĩa Tư Bản. Karl Marx đã
nghiên cứu một cách có khoa học và logic về sự vận động của tiền tệ trong
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và Karl Marx đã phát hiện rằng “khối lượng
tiền cần thiết cho lưu thong được ấn định thông qua tỉ số giữa tổng giá cả
hang hóa trong lưu thông và tốc độ quay vòng bình quân của tiền tệ” và
được biểu hiện bằng công thức:
2
Tiền tệ và lưu
thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển

Kc: Là khối lượng cần thiết cho lưu thông trong một thời gian.
H: Là tổng giá cả hang hóa lưu thông.
V: Là tốc độ quay vòng bình quân của tiền tệ trong một thời gian.
2 . Yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ.
Để đảm bảo cho hàng hóa lưu thông bình thường thì khối lượng tiền
thực tế có trong lưu thông phải cân đối với khối lượng tiền cần thiết cho lưu
thông trong một thời gian.
Nghĩa là Kt =Kc

Vì vậy khi Kt tăng lên, trong điều kiện số lượng hàng hóa không thay
đổi thì sẽ dẫn đến một sự biến động hoặc là giá cả hàng hóa gia tăng hoặc là
vòng quay của tiền tệ chậm lại hoặc là cả hai: giá cả tăng và vòng quay của
tiền tệ giảm để đảm bảo Kt = Kc.
Ngược lại, khi khối lượng tiền tệ không tăng lên kịp thời so với tốc đọ
phát triển của hàng hóa, nghĩa là Kt không đổi hoặc thay đổi chậm hơn sự
thay đổi của khối lượng hàng hóa theo hướng phát triển thì sẽ dẫn đến tình
hình là hoặc giá cả hàng hóa giảm xuống, hoặc vòng quay tiền tệ sẽ tăng lên
để đảm bảo Kt = Kc.
Quy luật lưu thông tiền tệ không thể hiện được đầy đủ mối quan hệ về
mặt định lượng giữa các yếu tố ảnh hưởng đến lượng tiền cần thiết cho lưu
thông va do đó khả năng áp dụng công thức này trong hoạt động thực tiễn là
3
Tiền tệ và lưu
thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển
hết sức hạn chế, nhưng về phương diện lý thiết việc nghiên cứu quy luật lưu
thông tiền tệ có ý nghĩa ở chỗ là:
_Giúp chúng ta thấy được mối quan hệ định tính giữa các yếu tố, từ
đó vận dụng thực tế và điều hành sản xuất va lưu thông hàng hóa.
_Chỉ ra sự cần thiết phải kiểm soát khối lượng tiền và phương hướng
tác động vào khối lượng tiền trong lưu thông.
Lịch sử tiền tệ đã trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội và phát triển
qua nhiều chế độ tiền tệ khác nhau, như: tiền vàng, tiền giấy khả hoán; tiền
giấy bất khả hóa. Bởi vậy việc nghiên cứu quy luật lưu thông tiền tệ trong
các điều kiện lưu thông tiền tệ khác nhau sẽ có nội dung khác nhau.
Trong điều kiện lưu thông vàng.
Quy luật lưu thông tiền tệ trong điều kiện lưu thông tiền vàng được
phát triển như sau:
“Với một tổng giá cả hàng hóa nhất định và với một tốc độ tuần hoàn
bình quân nhất định của tiền tệ, số lượng tiền vàng trong lưu thông phụ

thuộc vào giá trị nội tại cua chính bản than chúng”.
Vì vàng có đầy đủ giá trị nội tại nên tiền vàng có khả năng tự phát
điều chế trong lưu thông, tự phát làm chức năng cất trữ, tự phát làm chúc
năng phương tiện lưu thông, nên trong điều kiện lưu thông tiền vàng, nếu xét
trong một thời kì nhất định, yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ luôn luôn
được tôn trọng. Nghĩa là luôn luôn có sự cân bằng giữa khối lượng tiền thực
tế và khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian (Kt = Kc).
Trong điều kiện lưu thông tiền giấy khả hoán
4
Tiền tệ và lưu
thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển

Tiền giấy khả hoán là tiền giấy được đảm bảo bằng vàng và được
chuyển đổi ra vàng theo hàm kim lượng do Nhà nước quy định cho một đơn
vị tiền tệ.
Tiền giấy khả hoán có khả năng tự phát điều tiết thông qua chuyển đổi
ra vàng được đảm bảo.
Quy luật lưu thông tiền tệ trong điều kiện lưu thông tiền giấy khả
hoán được phát biểu như sau:
“Ngay từ khi phát hành tiền giấy vào lưu thông đã chứa đựng những
khả năng làm cho tiền giấy quay trở lại nơi phát hành”.
Tiền giấy khả hoán quay trở lại nơi phát hành thông qua con đường
chuyển đổi ra vàng hoặc con đường thu nợ tín dụng.
Hay nói một cách khác trong điều kiện lưu thông tiền giấy khả hoán,
với một khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông nhất định, giá trị thực tế của
tiền giấy phụ thuộc vào số ngjcuar vàng và giá trị tìn dụng làm đảm bảo.
Do đó trong điều kiện lưu thông tiền giấy khả hoán, nếu xét trong một
thời kì, yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ luôn luôn được tôn trọng.
Nghĩa là luôn luôn có sự cân bằng giữa khối lượng tiền thực tế và khối
lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian (Kt = Kc).

Trong điều kiện tiền giấy bất khả hoán
Tiền giấy bất khả hoán là tiền giấy không được đảm bảo bằng vàng và
không được tự do chuyển đổi ra vàng, vì vậy tiền giấy không có khả năng tự
phát điều tiết trong lưu thông.
5
Tiền tệ và lưu
thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển
Quy luật lưu thông tiền tệ trong điều kiện lưu thông tiền giấy bất khả
hoán đươc phát biểu như sau:
“Ngay từ khi phát hành tiền giấy vào lưu thông đã chứa đựng những
khả năng không cho tiền giấy quay trở lai nơi phát hành”.
Hay nói một các khác trong điều kiện lưu thông tiền giấy bất khả
hoán,với một khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông nhất định, giá trị thực
tế của tiền giấy phụ thuộc vào số lươnhj của chính bản thân nó lưu thông.
Do đó, lưu thông tiền giấy bất khả hóa, luôn chứa đựng khả năng lạm
phát, do vậy đòi hỏi phải có những biện pháp can thiệp nhằm quản lí và điều
tiết phù hợp của nhà nước.
Trong chương trình này,Karl Marx chi nghiên cứu khối lượng tiền cần
thiết cho lưu thông trong một thời gian để hàng hóa lưu thông bình thường
chứ Karl Marx chưa đề cập đến số cung số cầu tiền tệ của một nền kinh tế có
chịu sự tác động của những nhân tố nào? Nhưng sự nghiên cứu của Karl
Marx cũng giúp ta hình dung ra là giữa khối lượng tiền cần thiết cho lưu
thông và mức cung cầu về tiền tệ có một mối quan hệ mật thiết với nhau.
Chẳng hạn, khi nhu cầu về tiền tệ của nền kinh tế gia tăng,tức là dân
chúng giữ tiền trong tay nhiều để mua hàng hóa, thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng
va nếu lượng hàng hóa không tăng lên kịp thời để đáp ứng sức mua của dân
chúng sẽ làm cho giá cả hàng hóa tăng lên,hoặc khi chính phủ thực hiện
chính sách mở rộng tiền tệ, nghĩa là tăng cung tiền tệ, nhưng dân chúng
không có nhu cầu giữ tiền để chi tiêu, hoặc doanh nghiệp không có nhu cầu
vay tiền để mua nguyên liệu, máy móc thiết bị đầu tư sản xuất, kinh doanh

thì tiền trong lưu thông được coi là thừa. Do đó làm cho giá cả của tiền tệ,
6
Tiền tệ và lưu
thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển

tức là lãi suất bị giảm đi và như vậy chúng ta có thể thấy khối lượng tiền cần
thiết chi lưu thông trong công thức của Karl Marx là có khác với mức cầu
tiền tệ của nền kinh tế.
Vậy thế nào la mức cầu tiền tệ? Mức cầu tiền tệ có phải là khối lượng
tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian hay không? Chúng ta hãy
xem xét các vấn đề sau:
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quy luật lưu thông tiền tệ:
a. Cầu tiền tệ:
Mức cầu tiền tệ chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau, nhưng
trước hết chúng ta cần xem xét các nguyên nhân nào dẫn đến nhu cầu tiền tệ
của nền kinh tế, hay nói khác đi chúng ta cần xem xét nền kinh tế cần tiền
để làm gì?
Các nguyên nhân dẫn đến nhu cầu tiền tệ.
 Nguyên nhân chi trả: Mọi chủ thể kinh tế cần tiền để chi trả cho việc mua
hàng hóa, trả nợ.
Ở đây chúng ta không xét đến mức cầu tiền tệ, mà chỉ xét đến nhu cầu
tiền tệ của nền kinh tế mà thôi, vì vậy chúng ta không xét đến mỗi người,mỗi
tổ chức cần bao nhiêu tiền để chi trả, mà chúng ta chỉ biết rằng, do các công
dụng hữu hiệu của tiền tệ đặc biệt lá nó thuận lợi cho việc mua, bán nên
người ta đều cần đến tiền để thỏa mãn nhu cầu của cuộc sống hằng ngày của
mình, cũng như nhu cầu đầu tư và sản xuất, kinh doanh.
 Nguyên nhân dự phòng: Các cá nhân cần dự trữ tiền tệ để dự phòng khi bất
trắc như đau ốm, thỏa mãn các nhu cầu đột xuất trong quan hệ xã hội hàng ngày,
7
Tiền tệ và lưu

thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển
các doanh nghiệp dự trữ tiền tệ để đáp ứng các nhu cầu đột xuất khi có thời cơ dự
trữ các loại nguyên liệu khan hiếm, thuê mướn them công nhân để mở rộng sản
xuất trong các cơ hội kinh doanh mà không lường trước được hoặc dữ trữ hàng
hóa.
 Nguyên nhân tích lũy tài sản: Nhiều cá nhân muốn dự trữ tiền tệ như là để
tích lũy tài sản, người có tiền không gửi vào ngân hàng, không mua các loại tài sản
dược ngay vì khối lượng còn ít, không đầu tư tiền tệ vào các doanh nghiệp mà để
nó ở trong túi,trong két để tích lũy dần một món tiền lớn, sau đó đem ra sử dụng
cho việc mua sắm các loại tài sản co giá trị lớn như: đất, nhà, xe hơi, vàng,…
Phương thức tích lũy tài sản bằng tiền tệ ngày càng có khuynh hướng
giảm dần, vì tiền tệ có khuynh hướng mất giá so với vàng và các tái sản
khác, nên ngày nay người ta tích lũy tài sản bằng nhiều phương thức có lợi
hơn như gởi tiết kiệm, mua công trái, mua bất động sản, vàng …
Các yếu tố ảnh hưởng đến mức cầu tiền tệ:
Trên đây chúng ta mới đề cập đến các nguyên nhân dẫn đến có nhu
cầu về tiền tệ, còn mức cấu tiền tệ được ấn định bởi các yếu tố nào lại là một
vấn đề khác có tính chất kinh tế hơn. Vì rằng trong cơ chế thị trường người
ta luôn phải có tính toán nên giữ một khối tiền bao nhiêu thì có lợi nhất, có
nghĩa là khi một người nhận được một khoản thu nhập bằng tiền thì ta sẽ giữ
lại bao nhiêu tiền mặt hoặc tiền bằng séc để phục vụ cho nhu cầu chi tiêu,
nhu cầu dự phòng và nên chuyển bao nhiêu thành tiền vốn sinh lợi, tiền gửi
định kỳ hoặc mua cổ phiếu, mua trái phiếu…….?
Các yếu tố ảnh hưởng đến mức cầu tiền tệ:
- Khối lượng hàng hóa dịch vụ:
Để hàng hóa được chi trả, dịch vụ được thanh toán, xã hội cần phải có
một lượng tiền tệ nhất định để đáp ứng nhu cầu đó. Khuynh hướng tiêu dùng
8
Tiền tệ và lưu
thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển


càng lớn cầu tiền tệ càng cao và ngược lại. Các nhà đầu tư khi có cơ hội đầu
tư sẽ làm tăng mức cầu về tiền tệ, họ cần tiền để để mua sắm máy móc, thiết
bị, cần tiền để dự trữ nguyên liệu, cần tiền để chi trả cho công nhân… tất
nhiên tiền tệ ở đây luôn gắn liền với lưu thông hàng hóa và dịch vụ, gấn liền
với sản xuất và chi dùng.
Vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ của Karl Marx, nếu giáo điều chủ
nghĩa chúng ta dễ dàng suy nghĩ rằng là: chỉ lúc nào có một sản phẩm thực
sự đang được lưu thông thì lúc đó mới cần một lượng tiền cần thiết để lưu
thông nó? Cụ thể: khi có nhu cầu về tiền phục vụ cho sản xuất, người ta sẽ
cung ứng tiền để các nhà sản xuất có tiền mua sắm thiết bị, dự trữ nguyên
liệu, trả lương công nhân… và đến giai đoạn hai ngân hàng lại cung ứng tiền
cho lưu thông để tiêu thụ loại hàng hóa đã được sán xuất ra. Trong điều kiện
như vậy chỉ có những ai có tiền hay vay được tiền mới có thể tiến hành sản
xuất hoặc mua sắm chi dùng, và như vậy thì các cơ hội đầu tư sẽ bị bỏ qua
khi mà nền hàng hóa đã phát triên đến mức độ cao, tiền tệ được sử dụng như
là một công cụ để kích thích sản xuất và lưu thông hàng hóa, quy trình đó
được vận dụng ngược lại như sau: khi một nhà đầu tư nhận được một đơn
đặt hàng, nhà đầu tư đó sẽ phải sản xuất ra sản phẩm để đáp ứng nhu cầu
hàng hóa của xã hội, đồng thời đối với nhà đầu tư, cầu tiền tệ sẽ phát sinh.
Bởi vì nhà đầu tư phải có tiền để mua sắm máy móc thiết bị, mua sắm
nguyên liệu, thuê công nhân…để tiến hành sản xuất. Để đáp ứng nhu cầu
tiền tệ của nhà đầu tư, hệ thống ngân hàng sẽ tìm cách cung ứng, tức là cung
ứng tiền cho nhà đầu tư mặc dù chưa có hàng hóa cụ thể mà nhà đầu tư sẽ
sản xuất ra. Khi nhà đầu tư nhận được tiền, nhà đầu tư sẽ tiến hành sản xuất
và khi được người mua hàng thanh toán, nhà đầu tư sẽ hoàn lại số vốn lẫn lãi
cho hệ thống ngân hàng.
Mức cầu tiền tệ chịu sự tác động của các yếu tố giao dịch, mua bán
phát sinh hàng ngày trong nền kinh tế, mức cầu tiền tệ không hoàn toàn lệ
thuộc vào khối lượng hàng hóa đang có trong nền kinh tế và cũng chính vì

vậy mà khi nhu cầu giao dịch mua bán tăng lên và khối lượng hàng hóa
không tăng kịp sẽ dẫn đến lạm phát.
9
Tiền tệ và lưu
thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển
- Giá cả hàng hóa tác động đến mức cầu tiền tệ.
Trong công thức:
Chúng ta có thể thấy rằng khối lượng tiền cần thiết cho lưu thong trong
một thời gian (Kc) phụ thuộc vào lượng hang hóa lưu thong (h), giá cả hàng
hóa (g) và vòng quay của tiền (V).
Ở trên chúng ta đã đề cập đến lượng hàng hóa, dịch vụ tác động đến
mức cầutiền tệ thế nào, ngoài mối quan hệ về khối lượng hàng hóa lưu thông
thì ta còn thấy cầu tiền tệ còn chịu tác động bởi yếu tố “ý muốn” mua sắm,
đầu tư của người tiêu dùng và nhà đầu tư nữa và khi mà người đầu tư và
người tiêu dùng tìm cách thực hiện ý muốn của mình mà sản lượng hàng hóa
và dịch vụ không tăng lên sẽ làm cho giá cả hàng hóa tăng lên. Chính vì vậy
mà các nhà kinh tế đều nhất trí với nhau là phải hạn chế mức cung tiền tệ, để
hạn chế việc thực hiện “ý muốn” tiêu dùng và đầu tư nhằm hạn chế sự gia
tăng có giá cả. Nhưng không phải cứ hạn chế sự cung ứng tiền, là hạn chế
được sự tăng giá cả. Vì sự hạn chế cung ứng tiền như vậy sẽ hạn chế đầu tư
phát triển sản xuất và sẽ dẫn đến hàng hóa sẽ khan hiếm đi và đến lúc đó giá
cả hàng hóa sẽ có cơ hội tăng lên. Vì vậy khi mà trong điều kiện sản xuất
đang hưng thịnh người ta phải nâng cao việc cung ứng tiền tệ để đáp ứng
nhu cầu tiền tệ trong điều kiện giá cả tăng. Mức cầu tiền tệ trong điều kiện
giá cả tăng sẽ làm tăng tiền tệ về số lượng.Ví như ngày trước đây khi mua
1Kg gạo ta chỉ cần 6.000đ, nhưng bây giờ giá cả tăng gấp đôi nên người ta
cần mua đến 12.000đ
o Tốc độ quay vòng bình quân của tiền tệ tác động đến mức cầu tiền tền
tệ.
10

Tiền tệ và lưu
thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển

Vòng quay của tiền tệ là một chỉ tiêu khó tính toán và dự kiến chính xác
trong toàn xã hội, cũng như trong một gia đình, hoặc ở một cá nhân nói
riêng.
Theo công thức K= mà yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ là Kt =
Kc ta có thể suy ra V = .
Tức là vòng quay của tiền tệ là tỷ số của tổng giá cả hàng hóa và dịch
vụ chu chuyển trong một khoản thời gian nhất định chia cho khối lượng tiền
thực có bình quân trong nền kinh tế. Do đó khi vòng quay của tiền tệ tăng
hoặc giảm đều có ảnh hưởng đến mức cầu tiền tệ. Nếu vòng quay của tiền tệ
tăng lên mức cầu tiền tệ giảm đi và khi vòng quay của tiền tệ giảm mức cầu
tiền tiền tệ sẽ tăng lên.
Đối với một nhà sản xuất chẳng hạn, nếu chu kỳ sản xuất của nhà sản
xuất đó ngắn thì mức cầu về tiền tệ của nhà sản xuất đó thấp và ngược lại nếu
chu kỳ sản xuất của nhà sản xuất đó dài thì mức cầu về tiền tệ của nhà sản
xuất đó cao.
Ví dụ để luân chuyển một lượng hàng hóa có giá trị là 12 triệu đồng
trong một năm sản xuất, nếu vòng quay của vốn là 6 vòng, nhà sản xuất cần
một số tiền bình quân là 2 triệu đồng ((12 triệu)/6 = 2 triệu đồng).
Nhưng nếu vòng quay đó giảm xuống còn 4 vòng trong năm, nhà sản
xuất phải cần một số tiền là ba triệu đồng để làm vốn luân chuyển ( (12
triệu)/4 = 3 triệu đồng).
2. Mức cung tiền tệ và vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ của Karl
Marx:
Theo yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ Kt = Kc. Nghĩa là khối
lượng tiền thực tế trong lưu thông phải cân đối với khối lượng tiền cần thiết
cho lưu thông trong một thời gian (khối lượng tiền thực tế trong lưu thông
phải phù hợp với nhu cầu lưu thông hàng hóa). Trong điều kiện nền kinh tế sử

dụng tiền vàng, hoặc tiền giấy khả hoán thì cơ chế điều tiết khối lượng tiền tệ
với nền kinh tế là cơ chế điều tiết tự động: khi giá trị tiền vàng trong lưu
11
Tiền tệ và lưu
thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển
thông lớn hơn giá trị hàng hóa thì tiền vàng tự động đi vào cất trữ và khi giá
trị tiền vàng trong lưu thông nhỏ hơn giá trị hàng hóa thì tiền vàn cất trữ lại tự
động “chảy” vào lưu thông để cân bằng giữa khối lượng tiền thực tế trong lưu
thông với khối lượng tiền cần thiết (Kt = Kc).
II.Áp dụng quy luật lưu thông tiền tệ của Karl Marx vào nền kinh tế:
1. Nền kinh tế Việt Nam thời kỳ bao cấp:
Vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ của Karl Marx, trong thời kỳ thực
hiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, các Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa
đã thực hiện kế hoạch khối lường tiền cung ứng cho lưu thông dựa trên các
chỉ tiêu về phát triển kinh tế - xã hội. nghĩa là khối lượng tiền cung ứng
cho lưu thông trong các năm kế hoạch đều được xác định trước với số
lượng hàng hóa, dịch vụ đã được ấn định. Đặc biệt trong giai đoạn này giá
cả hàng hóa, dịch vụ luôn được cố định với khoản thời gian dài, yếu tố
vòng quay (V) của tiền tệ gần như không có biến động gì, và như vậy chỉ
tiêu gia tăng sản lượng hàng hóa, dịch vụ là chỉ tiêu duy nhất để cung ứng
tiền cho lưu thông. Vì lượng hàng hóa, dịch vụ sản xuất ra được tiêu dùng
hoàn toàn dựa trên chế độ tem phiếu, hoặc định mức tiêu dùng cho mỗi
thành viên của xã hội tùy theo mức thu nhập cũng đã được kế hoạch hóa.
Chúng ta đã vận dụng quy luật này hết sức máy móc. Cứ theo kế
hoạch từ đầu năm ta biết ngay mức hàng hóa sản xuất trong năm. Giá cả
thì được quy định cụ thể vì nhà nước độc quyền buôn bán hàng hóa. Và
tính được tốc độ lưu chuyển tiền tệ trung bình. Thế là ta biết được lượng
tiền cần thiết trong năm và phát hành tưng đó tiền.
Nhưng thực tế chúng ta đã không tính hết được các yếu tố ảnh hưởng
tới lượng tiền theo cách chủ quan như thế. Và hậu quả là đất nước rơi vào

tình trạng lạm phát nghiêm trọng. Lạm phát và không kiểm soát được tình
hình lạm phát dẫn đến khủng hoảng trong lưu thông tiền tệ vào những năm
1980-1988.
Quá trình trình thực hiện kế hoạch hóa như vậy, qua một thời gian dài
đã không mang lại hiệu quả cao trong phát triển nền kinh tế, vì các lý do sau
đây:
12
Tiền tệ và lưu
thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển

Ý muốn tiêu dùng của người dân bị hạn chế cả hai mặt cung và cầu. Do
đó nó không kích thích được sản xuất, nó không gợi ý cho các nhà sản xuất ra
những loại hàng hóa gì và sản xuất ra bao nhiêu. Việc sản xuất ra hàng hóa gì,
sản xuất ra bao nhiêu là do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định.
Các nhà sản xuất thực hiện công việc của mình theo kế hoạch đã định,
do đó cũng không quan tâm đến ý muốn của người tiêu dùng, họ chỉ quan
tâm đến kế hoạch của Nhà nước giao cho mà thôi. Hoàn thành chỉ tiêu kế
hoạch là mục tiêu cao nhất của nhà sản xuất. Vì vậy, các nhà sản xuất không
quan tâm đến cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng hàng hóa vì không cần
phải cạnh tranh.
2.Nền kinh tế Việt Nam hiện nay:
Sau 1988, chúng ta thừa nhận rằng công thức của Mác là công thức
đúng để tính lượng tiền cần thiết trong lưu thông nhưng thực tế không thể
phát hành tiền theo cách tính như vậy được. Sự điều chỉnh lượng tiền cung
ứng phải dựa vào những biểu hiện của thị trường. Khi chỉ số giá tiêu dùng
tăng nghĩa là tiền đang mất giá, chứng tỏ thừa tiền cung ứng. Vì vậy phải cắt
giảm lượng cung tiền tệ .Và ngược lại. Ngày nay,quản lý lưu thông tiền tệ là
một chức năng riêng biệt của ngân hàng Trung ương và chúng ta quản lý
theo các nội dung:
+ Xây dựng cơ sở phát hành tiền vào lưu thông:

+ Cơ sở phát hành tiền: Dự trữ tài sản quốc gia
+ Phát hành phải tuân thủ qui luật và các quan hệ khác trong nền kinh tế
- Kết quả bước đầu của việc thực hiện quản lý lưu thông tiền tệ:
+ Sự ổn định giá trị của đồng tiền: Lạm phát thấp và có thể kiểm soát được
(trung bình 5,6-7%/năm)
+ Ồn định của nền kinh tế
+ Tăng trưởng của nền kinh tế
- Hạn chế và yêu cầu tiếp tục đổi mới:
+ Tăng giá đột biến năm 2007 và những tháng đầu năm 2008 là một biểu
hiện của lạm phát gây ảnh hưởng không có lợi cho sự tăng trưởng và phát
triển của nền trong năm nay và có thể cả những năm tiếp theo.
13
Tiền tệ và lưu
thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển
III. Đề xuất việc cung ứng tiền của Ngân Hàng Nhà Nước để đảm bảo
nền kinh tế ổn định và phát triển:
Hiện nay, hầu hết các nước Xã hội Chủ nghĩa đều chuyển nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, sang cơ chế của nền kinh tế thị trường có điều tiết. Vì
vậy việc vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ của Karl Marx để thực hiện vai
trò cung ứng tiền cho nền kinh tế đều có sự thay đổi quan trọng,
Trước hết là sự thay đổi mô hình hoạt động của hệ thống ngân hàng, từ
ngân hàng một cấp vừa làm nhiệm vụ phát hành tiền, vừa làm nhiệm vụ kinh
doanh tiền tệ, sang hệ thống ngân hàng hai cấp, ngân hàng trung ương do
Nhà nước độc quyền và ngân hàng kinh doanh.
Ngân hàng nhà nước trung ương chịu trách nhiệm điều khiển hệ thống
ngân hàng thương mại thực hiện các chính sách tiền tệ, trong đó có việc điều
tiết khối cung, cầu tiền tệ cho phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế.
Ngân hàng trung ương sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô như lãi suất,
tỷ lệ dự trữ pháp định… để điều tiết khối cung tiền tệ một cách gián tiếp, mà
không ấn định một khối cung tiền tệ kế hoạch trực tiếp như trước đây.

Ngân hàng trung ương chịu trách nhiệm ổn định giá trị đồng tiền, ổn
định tỷ giá hối đoái và kiểm soát lạm phát tạo điều kiện để ổn định và phát
triển kinh tế, cũng như thực hiện các chính sách kinh tế đối ngoại trong điều
kiện thực hiện nền kinh tế mở cửa.
Ở Việt Nam bước đầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có những thay
đổi quan trọng trong việc kế hoạch hóa khối lượng tiền cung ứng.
Theo sự vận dụng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mức cung tiền tệ
được dựa trên cơ sở sau đây:
- Tỷ lệ lạm phát hàng năm.
- Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
- Thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế.
14
Tiền tệ và lưu
thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển

- Nhu cầu thay thế tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông.
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cung ứng tiền cho lưu thông theo các
kênh: kênh Ngân sách Nhà nước; kênh ngân hàng thương mại; kênh
thị trường mở; kênh thị trường hối đoái.
- Phát hành tiền qua ngân sách Nhà nước là việc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam tạm ứng tạm thời cho Chính phủ chi tiêu.
- Phát hành tiền qua kênh ngân hàng thương mại là việc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam cho vay các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín
dụng hoặc khi các ngân hàng thương mại thiếu khả năng thanh toán,
việc cung ứng tiền tệ này nằm trong phạm vi khối lượng tiền được đưa
thêm vào lưu thông đã được kế hoạch hóa.
- Phát hành tiền qua kênh thị trường mở là việc ngân hàng Nhà nước
Việt nam tham gia mua hoặc bán các giấy tờ có giá ngắn hạn với các
ngân hàng thương mại trên thị trường tiền tệ để điều hành chính sách
tiền tệ theo kế hoạch đã được dự kiến.

- Phát hành tiền qua kênh thị trường hối đoái là việc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam tham gia mua hoặc bán ngoại tệ ở thị trường hối đoái
để bình ổn tỷ giá hối đoái nhằm ổn định tiền tệ.
15

×