Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUI LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.11 KB, 18 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Quy luật lưu thông tiền tệ và thực trạng lạm phát được viết ra ở đây nhằm
giới thiệu tầm quan trọng của bộ môn kinh tế chính trị .
Lịch sử đã cho thấy quá trình trao đổi giữa hàng hoá và tiền tệ là một quá
trình diễn ra tất yếu của xã hội loài người. Nó đóng vai trò quan trọng giúp đồng
tiền sinh lời và là phương tiện để trao đổi hàng hoá thúc đẩy nền kinh tế phát
triển.
Nghĩa là tiền tệ và hàng hoá không thể tách rời nhau,nó tồn tại và biến
động theo một qui luật khách quan của tình hình giá cả của đất nước hay giá cả
của kinh tế thế giới.
Nói cách khác qui luật lưu thông tiền tệ phụ thuộc vào sự phát triển hay
những biến động của nền kinh tế thị trường.
Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay. Cùng với sự
phát triển của kinh tế đất nướcđang trên con đường hướng tới CNXH. Vấn đề
này ngày càng được chính phủ quan tâm, từ đó có những chiến lược lâu dài đẩy
mạnh phát triển kinh tế, đẩy lùi lạm phát tới mức thấp nhất.
Trên cơ sở đó giúp ta hiểu thêm về nguồn gốc, bản chất, chức năng và thực
trạng lạm phát của tiền tệ. Từ đó có những giải pháp thiết thực nhất để giải quyết
tình hình lạm phát của đất nước.
Đó là những vấn đề không thể thiếu được từ đó có thể vận dụng vào công
việc kinh doanh cũng như trong cuộc sống sau này.
Tiểu luận này được viêt ra giúp ta nâng cao được kĩ năng phân tích,kĩ năng
vận dụng lí luận.Nhằm bổ sung nhiều hơn kiến thức lí luận hiện đại việc lưu
thông tiền tệ và tình hình lạm phát của Việt Nam.
Mục đích của của việc viết tiểu luận cũng là để nâng cao chất lượng và hỗ
trợ cho bàI thi sắp tới đạt kết quả tốt nhất.
1
PHẦN II: NỘI DUNG
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUI LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ
1.Nguồn gốc, bản chất và chức năng của tiền tệ
a. Nguồn gốc


Quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá đã dẫn đến sự xuất
hiện những vật ngang giá chung.Vật ngang giá chung là những hàng hoá có thể
trao đổi trực tiếp được với nhiều hàng hoá thồng thường khác.Đặc điểm của
chúng là:có giá trị sử dụng thiết thực ,quý hiếm ,dễ bảo quản vận chuyển và
mang tính đặc thù địa phương .
Thời gian đầu , vật ngang giá chung thường là những hàng hoá có giá trị sử
dụng thiết thực cho từng khu vực hoặc nhiều vùng có điều kiện tự nhiên và
phong tục xả hội tương tự nhau.Sau đó vật ngang giá chung được chọn là những
hàng hoá có ý nghĩa tượng chưng như:vỏ sò,da thú,vòng đá ...khi trao đổi hàng
hoá đã trở thành nhu cầu thường xuyên của các bộ lạc và dân tộc , thì vật ngang
giá chung được gắn vào kim loại .
Kim loại được sử dụng làm vật ngang giá chung đầu tiên là sắt và kẽm.Sau
đó là đồng rồi đến bạc.Đầu thế kỉ XIX,vàng bắt đầu đóng vai trò vật ngang giá
chung và kim loại này được gọi là “kim loại tiền tệ”.
Khi một khối lượng vàng với một trọng lượng và chất lượng (thành
sắc)nhất định được chế tác theo một hình dáng nào đó được gọi là tiền tệ .
Như vậy khi vàng độc chiềm vị trí vật ngang gía chung,thì cái tên”vật
ngang giá chung”được thay bằng “tiền tệ”.Nói cách khác,đây chính là hình thái
tiền của giá trị hàng hoá.Từ nhửng vật ngang giá chung là những hàng hoá thông
thường đến tiền tệ , sản xuất và trao đổi hàng hoá đã trải qua một thời kì lịch sử
lâu dài.Trong quá trình này vật ngang giá chung đã tự gạt bỏ lẫn nhau:những
hàng hoá - vật ngang giá chung,có giá trị thấp và mang sắc thái sử dụng ,được
thay thế bằng nhửng vật ngang giá chung có giá trị cao hơn và mang ý nghĩa
tượng chưng.Sự hoàn thiện từng bước của vật ngang gía chung đánh dấu bằng
sự xuất hiện mà tiền tệ ở đầu thế kỉ XIX,không những phản ánh số lượng và
2
chủng loại hàng hoá đưa ra thị trường ngày càng phong phú ,mà còn phản ánh
trình độ sản xuất hàng hoá đã tiến bộ vượt bậc so vói thời gian trước đây.
Vàng độc chiếm vai trò vật ngang giá chung, nhìn bên ngoài như một quá
trình hoàn toàn mang tính ngẫu nhiên .Nhưng trái lại,tiền tệ là sản phẩm và đánh

giá công bằng về mặt khoa học thì tiền tệ lả một trong ba phát minh quan trọng
nhất của xã hội loại người từ lịch sử cổ đại cho đến ngày nay.
Khi vàng đóng vai trò vật ngang giá chung thế giới hàng hoá được chia
thành hai cực rõ rệt:một phía là những hàng hoá thông thường,trực tiếp biểu hiện
giá trị sử dụng và mỗi hàng hoá chỉ có thể thoả mãn được một và một vài nhu
cầu nào đó của con người. Còn phía bên kia – cực đối lập là vàng – tiền tệ, trực
tiếp biểu hiện giá trị của mọinhàng hoá khác.Vì tiền có thể trao đổi trực tiếp
được với mọi hàng hoá trong bất kì điều kiện nào, cho nên tiền có thể thoả mãn
được nhiều nhui cầu của người sở hữu nó. Chính vì thế – tiền tệ được coi là một
loại hàng hoá đặc biệt.
b. Bản chất:
Tiền tệ là một loại hàng hoá đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá chung để
đo giá trị của tất cả các hàng hoá khác. Tiền có thể thoả mãn được một số nhu
cầu của người sở hữu nó, tương ứng với mọt số lượng giá trị mà người đó tích
luỹ được.
Sự xuất hiện của tiên tệ trong nên kinht ế thị trường đã chứng minh rằng:
Tiền tệ là một phạm trù kinh tế – lịch sử, là sản phẩm của nền kinh tế hàng
hoá.Tiềntệ ra đời, phát triển và tồn tại cùng với sự phát sinh,phát triển và tồn tại
của sx và trao đổi hàng hoá.Điều đó có nghĩa là ở đâu có sản xuất và trao đổi
hàng hoá, thì chắc chắn ở đó có tiền tệ. Quá trình này đa chứng minh rằng “…
cùng với sư chuyển hoá chung của sản phẩm lao động và hàng hoá, thì hàng hoá
cũng chuyển thành tiền tệ”.
Trước khi vàng trở thành tiền tệ kim loai nay vốn đã là hàng hoá.Do
đó,cung như các hàng hoá khác, tiền tệ có hai loai thuộc tính:giá trị và giá trị sư
dụng.Nhưng là hàng hoá đặc biệt ,tiền tệ có giá trị sử dụng đặc biệt. Đó là giá trị
sử dụng xã hội.Về vấn đề này, Cac Mac đã viết “giá trị sử dụng của hàng hoá
3
bắt đầu từ lúc nó rút ra khỏi lưu thông,còn giá trị sử dụng của tiền tệ với tư cách
là lưu thông lại chính là sự lưu thông của nó”.lịch sử của sản xuất và trao đổi
hàng hoáđã chứng minh rằng nền kinh tế hàng hoá là một thực thể đầy biến

động.Nó tồn tại và phát triển theo những qui luật khách quan khi sản xuất và
trao đổi hàng hoá phát triển đến giai đoạn cao, nền kinh tế thị trường được hình
thành theo đúng nghĩa của nó, thì qua trình “phi vật chất” của tiền tệ cũng đồng
thời diễn ra một cách tương ứng. Nghĩa là vai trò tiền tệ của vàng ngày càng
giảm, đồng thời vị trí kim loại quý của vàng ngày càng được xác lập và tăng
lên.Sự phát triển theo hai cưc như trên đối với vàng cũng tương tự như vật
ngang giá chung trước nọ nó là một quy luật.
Ngày nay ở nhiều quốc gia, đặc biệt là những quốc gia có nền kinh tế thị
trường phát triển, quan niệm về tiền tệ đã có những thay đổi cơ bản.Thực tiễn đa
cho thấy:tiền không phải chỉ là vàng, mà nhưng phương tiện có thể trao đổi
được với hàng hoá-dịch vụ đều được coi là tiền.Vì vậy tiền được hiểu theo định
nghĩa mới như sau:tất cả những phương tiện có thể đóng vai trò chung gian trao
đổi,được nhiều người thừa nhận thì được gọi là tiền.
Định nghĩa mới về tiền làm phong phú bản chất của nó,đồng thời mở ra
hướng phát triển trong tương lai của các phương tiẹn trao đổi trong nền kinh tế
thị trường.
c. Chức Năng
Thước đo giá trị
Giá trị của tiền được sử dụng làm phương tiện để so sánh với giá trị của
hàng hoá hay dich vụ,thông qua quan hệ này, tiền đã thực hiện chức năng thước
đo giá trị
Phương tiện lưu thông.
Thực hiện chức năng phương tiện lưu thông,tiền được sử dụng làm môi
giới trung gian trong trao đổi hàng hoá, nó vận động đồng thời và ngược chiều
với sự vận động của hàng hoá.Quá trình thưc hiện chức năng này cớ thể được
diễn đạt bằng công thức sau:
H-T-H
4
Thứ nhất, quá trình trao đổi hàng hoá được tách thành hai giai đoạn riêng
biệt là bán và mua. Giai đoạn “H-T” là giai đoạn bán hàng, đây la thời kỳ

chuyển hoá giá trị của hàng hoá thành tiền. Đây là công việc khó khăn nhất của
nhưng người sản xuất hàng hoá trong đIều kiện kinh tê thị trường.
Giai đoạn “ T-H” – giai đoạn mua hàng, những người sơ hữu tiền có thể
thực hiện giai đoạn này một cách dễ dàng. Hai giai đoạn mua, bán hàng hoá
được thực hiện hoàn toàn độc lập nhau : kết thúc giai đoạn bán, mới thực hiện
mua.
Thứ hai,lưu thông hàng hoá tách rời hành vi mua và bán cả về không gian
và thời gian.Người sản xuất hàng hoá có thể bán ở chỗ này và mua ở chỗ
khác,bán lúc này và mua lúc khác.Tình trạng này có thể dẫn đến hiện tượng mất
cân đối giữa cung và cầu về một số loại hàng hoá nào đó theo không gian và
thời gian.
Khi thực hiện phương tiện lưu thông,tiền tệ phải có đầy đủ điều kiện sau
đây:
-Phải sử dụng tiền mặt
Tiền mặt phải là tiền đang có giá tri lưu hành,chúng có hình dáng kích
thước và tiêu chuẩn giá cả nhất định,được pháp luật nhà nước thừa nhận.khi
thực hiện chức năng phương tiện lưu thông,bắt buộc phải sử dụng tiền mặt,vì
trong quá trình trao đổi này có sự chuyển quyền sở hữu giữa người sở hữu hàng
hoá và người sở hữu tiền tệ.Bằng chứngduy nhất chứng minh lao động của
người sản xuất hàng hoá bỏ ra là cần thiết cho xã hội,khi hàng hoá của họ được
bán hết và “giấy chứng nhận”đó chính là tiền mặt.
-Có thể sử dụng tiền dấu hiệu
Mục đích của người bán hàng không phải là để trở thành kẻ sơ hữu tiền tệ
vĩnh viễn,mà là để mua hàng hoá,đạt đến một giá trị sử dụng mới.Do vậy tiền tệ
đối vớ họ chỉ là “môi giới thoáng qua”.Chính vì thế mà khi thưc hiện chức năng
phương tiện lưu thông có thể sử dụngtiền đủ giá(tiền vàng)hoặc tiền dấu hiệu
(giấy bạc ngân hàng)cũng được.
-Lưu thông chỉ chấp nhận một số lương tiền nhất định
5
Số lượng hàng hoá đưa vào lưu thông trong kì với tổng giá cả đã được xác

định.Do đó lưu thông cũng chỉ có thể chấp nhận một khối lượng tiền nhất định
để thực hiện các quan hệ trao đổi.Đó là số lương tiền cần thiết.số lượng tiền này
tăng hay giảm trong lưu thông phụ thuộc vào hai yếu tố.
Thứ nhất,tổng giá cả hàng hoá đưa ra lưu thông.
Thứ hai,tốc độ bình quân lưu thông của tiền tệ.
Qui luật lưu thông tiền tệ là qui luật kinh tế phổ biến và rất quan trọng của
nền kinh tế thị trường.Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để xách định được khối
lượng tiền cần thiết cho lưu thông một cách chính xác?Trên cơ sở đó để cung
ứng tiền cho lưu thông phù hợp.
*Phương tiện dự trữ giá trị
Dự trữ giá trị là là tích luỹ một lượng giá trị nào đó bằng nhưngphương tiện
chuyển tài giá trị được xã hội thừa nhận,với mục đích để chuyển hoá thành hàng
hoặc dịch vụ trong tương lai.
Sau khi bán hàng,nếu ngươI sở hữu tiền tệ không thực hiện nghiệp vụ mua
hàng tiếp theo,thì lúc này tiền tạm thời ngừng lưu thông và chúng tồn tại dươI
dạng “giá trị lưu trữ”
Thực hiện chưc năng dự trữ giá trị,các phương tiện chuyển tảI giá trị phảI
đảm bảo yêu cầu sau đây:
Thứ nhất,giá trị dự trữ phảI được thể hiện bằng những phương tiện hiện
thực.Nghĩa là có một số lượng cụ thể cân ,đong,đo đếm được.chứ không phảI là
một lượng tiền “tương tượng”.
Thứ hai,giá trị dự trữ bằng những phương tiện được xã hội thừa nhận.cũng
có thể chúng được đảm bảo bằng thông lệ của địa phương hay quốc gia.
Thứ ba,giá trị dự trữ mang tính chất thời gian,giá trị dự trữmang tính chất thời
gian,chính vì thế mà chủ sở hữuthường chọn những phương tiện chuyển tảI giá
trị phù hợp để đáp ứng yêu cầu về thời giầnm mình mong muốn.Nếu dự trữ
trong tương lai gần người ta thường sử dụng ngay các loại dấu hiệu giá trị hiện
có.Nếu dự trữ giá trị cho tương lai xa hơn,thì người ta thường chọn các loại
ngoại tệ tự do chuyển đổi vững giá hoặc vàng.còn với dự trữ chỉ với mục đích
6

dự trữ,không ấn định thời gian,sử dụng số giá trị này,thì lúc này giá trị dự trữ
mang mục đích cất trữ.Từ trước đến nay và trong tương lai xa hơn nữa,kim loại
vàng vẫn đáp ứng đưọc mọi yêu cầu cuả mục đích cất trữ.
Tiền cất trữ thì không lưu thông nữa.Nhưng nơI cất trữ tiền thực sự lại là
“kho”chứa phương tiện lưu thôngtrong từng thời kì.Trong nêndf kinh tế thị
trường hiện nay,vàng vẫn có khả năng thanh toán không hạn chế.Vì vậy,cất trữ
vàng không những là nhu cầu,mà còn là sự ham muốn của nhiều người.
*Phương tiện thanh toán
Tiền là phương tiện thanh toá các khoản nợ về hàng hoá -dịch vụ đã trao
đổi trước đây.Khi chức năng phương tiện thanh toán được thực hiện xong thì
quan hệ trao đổi cũng kết thúc.
Thực hiện chưc năng phương tiện thanh toán,Thực htiền không chỉ được sử
dụng để trả các khoản nợ về mua chịu hàng hoá,mà chúng còn được sử dụngđể
thanh toán các khoản nợ bên ngoàI phạm vi troa đổi hàng hoá như:nộp thuế,trả
lươngcác khoản đóng góp và chi dịch vụ vv…
Thực hiện chức năng thanh toán có thể thực hiện tiền đủ giá (vàng)hoặc các
loại giá trị. Đặc biệt có thể sử dụng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt
để giảI quýêt các khoản nợ trong nền kinh tế quốc dân.Nền kinh tế thị trường
càng phát triển thì doanh số thanh toán không dùng tiền mặt càng chiếm tỉ trọng
lớn và doanh số thanh toán bằng tiền mặt sẽ giảm xuống tương ứng.
*Phương tiện trao đổi quốc tế và tiền tệ thế giới.
Cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế,chính trị và ngoại giao giữa
các quốc gia,quan hệ tiền tệ thế giới cũng ngàng càng mở rộng và tăng cường.
Tất cả các hoạt đọng đối ngoại đều liên quan đến các khoản chi phí bằng
tiền Nhưng mỗi quốc gia có một giá trị riêng,cho nên những khoản giao dịnh
bằng tiền giã hai nước đều phảI tiến hành so sánh giá trị giữa hai đồng tiền.Đó
chính là quan hệ tỉ giá.Sau khi đã có tỉ giá giữa các đồng tiền thì mọi giao dịch
quốc tế đều có thể diễn ra bình thường và thuận lợi .
Tuy nhiên,trong chức năng phương tiện trao đổi quốc tế,phạm vi lưu thông
và thanh toán của nhiều đồng tiền cũng bị giới hạn về không gian và thời

7

×