Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Các nhân tố ảnh hưởng đến tỉ giá và diễn biến tỉ giá năm 2008-2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.6 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................................................ 26
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ GIÁ
Tỷ giá hối đoái được hiểu là giá của một đơn vị ngoại tệ tính theo đồng tiền trong nước.
Ví dụ: USD/VND hay EUR/VND. Đây chính là giá cả của ngoại tệ trên thị trường và
được xác định dựa trên quan hệ cung cầu về ngoại tệ. Được coi là mấu chốt trong quản
lý kinh tế vĩ mô, tỷ giá có tác động ngược trở lại đến các mối quan hệ kinh tế, lên cán
cân thanh toán quốc tế, lên giá cả hàng hoá trong nước và lưu thông tiền tệ...
Sự hình thành tỷ giá là quá trình tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan.
Nhưng nhìn chung, có ba yếu tố chính tác động đến tỷ giá. Đó là mối quan hệ cung cầu
về ngoại tệ, chênh lệch về lãi suất và lạm phát giữa các nước, ngoài ra còn có các nhân
tố khác như chính sách của chính phủ, kỳ vọng và tâm lý,…
Dưới đây nhóm chúng tôi sẽ nói rõ hơn tác động của từng nhân tố lên tỷ giá:
Lạm phát
Xét về mặt lý thuyết, nếu các yếu tố khác như nhau, khi tỷ lệ lạm phát của một nước
tăng tương đối so với lạm phát của một nước khác, mức cầu đồng tiền nước đó giảm do
xuất khẩu giảm vì giá cao hơn so với nước kia. Ngoài ra, người tiêu dùng và các doanh
nghiệp trong nước có lạm phát cao có xu hướng tăng nhập khẩu. Cả hai yếu tố này tạo
áp lực giảm giá đồng tiền của nước có lạm phát cao. Tỷ lệ lạm phát thường khác nhau
giữa các quốc gia, tạo nên các kiểu mậu dịch quốc tế để điều chỉnh thích hợp ảnh hưởng
của lạm phát đến tỷ giá hối đoái.
Bởi vì tỷ giá hối đoái cân bằng sẽ thay đổi theo thời gian khi cung-cầu các đồng tiền
thay đổi. Sự thay đổi trong tỷ lệ lạm phát tương đối sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động
thương mại, từ đó tác động đến cung-cầu tiền, và vì thế tác động đến tỷ giá hối đoái.
Ví dụ: Trong năm 2008 tỷ lệ lạm phát của Việt Nam rất cao so với các năm trước đó
trong khi tỷ lệ lạm phát của Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan… và một số nước vẫn ở mức
bình thường, do đó trong năm 2008 nhu cầu nhập khẩu của Việt Nam tăng cao dẫn tới
nhu cầu USD tăng làm cho tỷ giá USD/VND tăng cao.
Sự tác động của lạm phát đến tỷ giá là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến tình hình của
cán cân thương mại, cán cân thanh toán, cơ cấu nợ nước ngoài… lý thuyết về ngang giá
sức mua sẽ phân tích rõ những tác động này.


2
Lý thuyết ngang giá sức mua tập trung vào mối quan hệ giữa lạm phát-tỷ giá hối đoái.
Có nhiều hình thức khác nhau của lý thuyết này. Theo hình thức tuyệt đối còn được gọi
là luật một giá cho rằng giá cả của các sản phẫm giống nhau của các quốc gia khác nhau
sẽ bằng nhau khi được tính bằng một đồng tiền chung.
Lãi suất
Lãi suất là một trong những công cụ được các chính phủ sử dụng trong quản lý vĩ mô
nền kinh tế nhất là trong cơ chế thị trường, nó kích thích tập trung nguồn lực tài chính
và phân bổ nguồn lực đó một cách có hiệu quả, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, ổn định
mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia.Đặc biệt,Lãi suất còn là công cụ được sử dụng
để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường, điều chỉnh giá trị đối ngoại của nôi tệ.
Chính sách lãi suất cao có xu hướng hỗ trợ sự lên giá của nội tệ, bởi vì nó hấp dẫn các
luồng vốn nước ngoài chảy vào trong nước, nếu lãi suất trong nước cao hơn so với lãi
suất nước ngoài hay lãi suất ngoại tệ sẽ dẫn đến những dòng vốn chảy vào hay sẽ làm
chuyển lượng hóa ngoại tệ trong nền kinh tế sang đồng nội tệ để hưởng lãi suất cao hơn.
Điều này làm cho tăng cung ngoại tệ trên thị trường (cũng có nghĩa làm tăng cầu đối với
đồng nội tệ), từ đó đồng ngoại tệ sẽ có xu hướng giảm giá trên thị trường, hay đồng nội
tệ sẽ tăng giá. Trong trường hợp ngược lại, nếu lãi suất trong nước thấp hơn so với lãi
suất nươc ngoài hay lãi suất ngoại tệ, đồng ngoại tệ có xu hướng tăng giá trên thị trường
hay đồng nội tệ sẽ giảm giá.
Cán cân thanh toán quốc tế
Cung cầu về ngoại tệ trên thị trường là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến động
của tỷ giá hối đoái. Cung cầu ngoại tệ lại chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau
trong đó có cán cân thanh toán quốc tế. Nếu cán cân thanh toán quốc tế dư thừa có thể
dẫn đến khả năng cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ và ngược lại. Sự cân bằng của cán
cân thanh toán quốc tế lại phụ thuộc vào các nguồn cung và cầu ngoại tệ cấu thành nên
cán cân thanh toán quốc tế. Khi nền kinh tế có mức tăng trưởng ổn định nhu cầu về
hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu sẽ tăng do đó nhu cầu về ngoại tệ cho thanh toán hàng
nhập khẩu tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái thì các hoạt
động sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu bị đình trệ làm cho nguồn cung ngoại tệ

giảm đi. Trong khi nhu cầu nhập khẩu chưa kịp thời được điều chỉnh trong ngắn hạn
việc giảm cung ngoại tệ sẽ đẩy tỷ giá lên cao.
Chính sách của chính phủ
Chính phủ của bất kỳ một nước nào cũng có thể thực hiện các chính sách thuế khoá và
tiền tệ riêng của mình để kiểm soát nền kinh tế. Xét trên góc độ chính sách tiền tệ, chính
3
phủ có thể cố gắng tác động đến giá trị của đồng nội tệ để cải thiện kinh tế, hạ giá đồng
tiền của mình trong vài trường hợp và tăng giá trong vài trường hợp khác. Về cơ bản, tỷ
giá hối đoái trở thành một công cụ, giống như các luật lệ về thuế và mức cung tiền, qua
đó có thể giúp chính phủ đạt được các mục tiêu kinh tế mong muốn. Mỗi nước có một
cơ quan chính phủ có thể can thiệp thị trường ngoại hối để khống chế giá trị của một
đồng tiền, thông thường là ngân hàng trung ương (NHTW). Các NHTW hoạt động dựa
trên lý thuyết là tiền tệ sẽ có thể biến động nhiều hơn nếu không có can thiệp. Các ngân
hàng này cố gắng kiểm soát tăng trưởng của mức cung tiền tệ ở các nước tương ứng
theo cách thức sẽ tác động thuận lợi đến các điều kiện kinh tế.
Một chính phủ có thể tác động đến tỷ giá hối đoái bằng phương pháp trực tiếp hay gián
tiếp:
● Can thiệp trực tiếp: Các NHTW có thể tác động đến tỷ giá bằng cách trực tiếp mua
vào ngoại tệ hoặc bán nội tệ ra thị trường. Khi NHTW can thiệp vào thị trường hối đoái
mà có sự điều chỉnh sự thay đổi trong mức cung tiền tệ, điều này gọi là can thiệp không
vô hiệu hóa. Ngược lại, nếu muốn can thiệp vào thị trường hối đoái, trong khi vẫn duy
trì mức cung tiền tệ, NHTW sẽ sử dụng can thiệp vô hiệu hoá bằng cách áp dụng các
giao dịch trên thị trường ngoại hối đồng thời với các hoạt động trên thị trường mở.
● Can thiệp gián tiếp: NHTW có thể tác động đến đồng nội tệ một cách gián tiếp bằng
cách tác động đến các yếu tố ảnh hưởng đến đồng nội tệ; như lãi suất, các biện pháp
kiềm chế lạm phát… Một chính phủ cũng có thể tác động đến đến các tỷ giá hối đoái
bằng cách áp đặt các hàng rào đối với tài chính và mậu dịch quốc tế; như thuế nhập
khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, thuế đánh trên bất cứ thu nhập nào do đầu tư ở nước đó của
các nhà đầu tư ngoại quốc.
Có thể tóm tắt các nhân tố mà chính phủ tác động đến tỷ giá hối đoái qua sơ đồ sau:

4
Kỳ vọng và tâm lý
Kì vọng của thị trường vào tỉ giá tuơng lai cũng là một trong những nhân tố tác động
đến tỉ giá hối đoái. Như các thị trường tài chính khác, thị trường ngoại hối phản ứng lại
với các thông tin trong tương lai có liên quan đến tỉ giá. Ví dụ tin về gia tăng lạm phát
tiềm ẩn ở Mỹ có thể làm những nhà đầu cơ bán USD do dự kiến USD sẽ giảm giá trong
tương lai. Điều này gây áp lực giảm giá trị của USD ngay lập tức.
Nhiều nhà đầu tư định chế (như các ngân hàng thương mại và các công ty bảo hiểm)
thực hiện vị thế tiền tệ dựa trên biến động lãi suất dự kiến ở các nước khác nhau.
Ví dụ: Các nhà đầu tư định chế có thể đầu tư một cách thường xuyên ngân quỹ vào Việt
Nam nếu họ dự kiến lãi suất của Việt Nam tăng, một gia tăng như thế sẽ thu hút vốn
vàoViệt Nam nhiều hơn và tạo áp lực tăng giá đồng Việt Nam. Bằng cách thực hiện vị
thế mua bán tiền dựa vào kì vọng, họ có thể đạt được lợi ích từ sự thay đổi trong giá trị
của đồng Việt Nam vì họ sẽ mua đồng Việt Nam trước khi sự thay đổi xảy ra.
5
Ở đây, dĩ nhiên có thể rủi ro sẽ xảy ra trong những trường hợp mua bán này vì kì vọng
có thể sai, nhưng vấn đề ở đây là kì vọng có thể ảnh hưởng đến tỉ giá hối đoái vì chúng
thúc đẩy các nhà đầu tư định chế thực hiện các vị thế ngoại tệ.
Những giao dịch trong các thị trường ngoại hối làm cho hoặc là dòng thương mại hoặc
là dòng tài chính lưu chuyển dễ dàng hơn. Các giao dịch ngoại hối có liên quan đến
thương mại nhìn chung ít nhạy cảm với các tin tức hơn. Các giao dịch tài chính rất nhạy
cảm với các tin tức bởi lẽ việc quyết định nắm giữ chứng khoán định danh bằng một
loại tiền cụ thể phụ thuộc vào những thay đổi dự kiến trong giá trị của đồng tiền đó. Khi
mà những tin tức ảnh hưởng đến biến động dự kiến của tiền tệ, thì nó sẽ ảnh hưởng đến
cung và cầu tiền.Vì những giao dịch mang tính đầu cơ như thế nên tỉ giá hối đoái có thể
rất bất ổn.
Vì các dấu hiệu về các điều kiện kinh tế tương lai ảnh hưởng đến tỉ giá hối đoái có thể
thay đổi một cách nhanh chóng nên các vị thế đầu cơ tiền tệ điều chỉnh ngay lập tức, tạo
ra những mẫu hình khó xác định trong tỉ giá hối đoái. Không có gì là bất thường khi
USD mạnh ở hôm nay lại yếu đi một cách đáng kể vào hôm sau. Điều này có thể xảy ra

khi các nhà đầu cơ phản ứng quá mức đối với tin tức trong ngày (làm cho đồng đô la
được đánh giá trên giá trị ) và kết quả là một sự sụt giảm vào hôm sau. Phản ứng quá
mức xảy ra bởi lẽ các nhà đầu cơ thường thực hiện các vị thế dựa vào các dấu hiệu của
các hành động tương lai chứ không phải là khẳng định của những hành động tương lai
chứ không phải là khẳng định của những hành động và những dấu hiệu này có thể bị
dẫn dắt sai bởi các lực của thị trường.
Tổng kết các nhân tố tác động đến tỷ giá:
Các nhân tố tác động đến tỷ giá có thể được phân loại thành 2 nhóm: nhóm các yếu tố
liên quan đến thương mại và nhóm các yếu tố liên quan đến tài chính. Sự tương tác giữa
các nhân tố cùng cơ chế tác động của chúng đối với tỷ giá hối đoái được biễu diễn thông
qua sơ đồ sau:
6
7
DIỄN BIẾN TỶ GIÁ NĂM 2008 – QUÝ I/2009
Quý I/2008 (1/1/2008 – 31/3/2008):
Tỷ giá USD/VND giảm, sau đó đảo chiều vào cuối tháng 3/2008
Đầu năm 2008, tỷ giá còn dao động quanh mức 16.000 – 16.200 VND/USD, thì đến
giữa tháng 3/2008, tỷ giá giảm xuống còn 15.400 VND/USD. Sự sụt giảm này bắt
nguồn từ các biện pháp của Chính phủ trong việc kiềm chế lạm phát.
Theo công bố của Tổng cục Thống kê, giá tiêu dùng tháng 1/2008 đã tăng 2,38% so với
tháng 12/2007 và tăng 14,11% so với tháng 1 cùng kỳ năm ngoái. Với mục tiêu kiềm
chế lạm phát, ngày 30/1/2008, NHNN thông báo điều chỉnh các lãi suất: lãi suất cơ bản
từ 8,25%/năm tăng lên 8,75%/năm, tăng 0,5%/năm; lãi suất tái cấp vốn từ 6,5%/năm
tăng lên 7,5%/năm, tăng 1,0%/năm; lãi suất chiết khấu từ 4,5%/năm tăng lên 6,0%/năm,
tăng 1,5%/năm… Ngày 13/2, NHNN thông báo phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà
nước bằng VND vào ngày 17/3 dưới hình thức bắt buộc đối với 41 NHTM với tổng giá
trị tín phiếu phát hành là 20.300 tỷ đồng, kỳ hạn là 364 ngày, lãi suất là 7,80%/năm.
Đồng thời trên thị trường thế giới USD vẫn tiếp tục suy giảm, Cục dự trữ liên bang Mỹ
(Fed) tiếp tục cắt giảm lãi suất cơ bản.
8

Diễn biến tỷ giá USD/VND năm 2008 – Quý I/2009
Hệ quả tức thời của các tác động trên là dòng tiền VND bị chặn lại, gây ra hiện tượng
khan hiếm tiền mặt, thừa USD giữa các NHTM. Vào thời điểm đó, USD/VND xuống
rất thấp, tỷ giá của các NHTM luôn ở mức dưới tỷ giá liên ngân hàng. Người dân không
còn giữ USD như trước mà chuyển sang mua vàng hoặc giữ tiền đồng để gửi tiết kiệm
hưởng lãi suất cao. Những nhà đầu tư nước ngoài bán USD lấy VND rồi đem gửi tiết
kiệm sẽ thu lại được lợi nhuận hơn là gửi tiết kiệm ở trong nước. Nhà đầu tư càng được
lợi cao hơn khi lãi suất ở VN đang tăng chóng mặt còn tỉ giá VND/USD thì giảm mạnh.
Kiều bào nước ngoài cũng gửi tiền về cho người thân ở Việt Nam để hưởng lãi suất.
Các NHTM một mặt phải chạy đua lãi suất với nhau, diễn ra một cuộc cạnh tranh gây
gắt nhằm thu hút lượng VND để đủ tiền mua tín phiếu bắt buộc của NHNN, mặt khác
phải cầu cứu NHNN mua bớt ngoại tệ để khai thông dòng chảy cho đồng USD, giải
ngân để lấy tiền đồng hỗ trợ thanh khoản khi cung vốn cạn dần. Các doanh nghiệp nhập
khẩu không thể bán USD vì lỗ nặng... Trước tình hình này, để giữ cho hệ thống ngân
hàng không rơi vào tình trạng mất thanh khoản, nhưng vẫn theo chủ trương tăng giá
VND kiềm chế lạm phát; ngày 10/3/2008, NHNN đã quyết định mở rộng biên độ mua,
bán ngoại tệ của các NHTM so với tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân
hàng từ ±0,75% lên ±1%, tỷ giá liên ngân hàng được giảm dần. Ngoài ra, NHNN cũng
tung ra thị trường 33.000 tỷ đồng vay ngắn hạn; gấp 1,5 lần số lượng tiền định rút về
qua tín phiếu bắt buộc, làm cho lạm phát tăng nhanh hơn vào những tháng sau ảnh
hưởng đến tỷ giá.
Tuy nhiên, vào những ngày cuối tháng 3/2008, thị trường đảo chiều, VND không thể
tăng giá. Trong 1 tuần tính từ ngày 21/3 đến 28/3 tỷ giá đã tăng 280-298 VND/USD,
tăng kịch trần +1% so với quy định của NHNN. Nguyên nhân là do CPI tháng 3 tiếp tục
ở mức cao 2,99%, đưa chỉ số giá tiêu dùng 3 tháng đầu năm lên 9,19%, bên cạnh đó
NHNN áp đặt trần lãi suất huy động không vượt quá 12%/năm nhằm chấp dứt tình trạng
các NHTM đua lãi suất, ảnh hưởng đến tâm lý người dân khi giữ tiền đồng, lạm phát
cao, lãi suất thực âm, ai cũng muốn giữ tiền để mua sắm hàng hóa,… vì sợ rằng giá của
hàng hóa sẽ tiếp tục tăng. Nhập siêu quý I/2008 tới 7,3 tỷ USD do một phần nhiều nhà
đầu tư chứng khoán chuyển vốn sang vàng, khiến cung tăng mạnh và doanh nghiệp

vàng bạc đang phải huy động nhiều USD để nhập khẩu vàng. Theo ước tính Việt Nam
nhập trên 30 tấn vàng, gấp hơn 3 lần so với cùng kỳ hằng năm, nhu cầu ngoại tệ đối với
nhập khẩu tăng khá mạnh làm cho nguồn cung USD bị sức ép lớn. Đồng thời với tác
động của việc giá USD liên tục tăng làm cho những DN khác dù chưa đến hạn thanh
toán cũng yêu cầu mua USD để tránh rủi ro làm cho cầu USD tăng mạnh hơn.
9
Quý II/2008 (1/4/2008 – 30/6/2008)
Tỷ giá USD/VND tăng mạnh.
Trong tháng 4/2008, tỷ giá USD/VND vẫn tiếp tục tăng lên, để ổn định tỷ giá, NHNN
phải bán ngoại tệ can thiệp thị trường. Từ đầu tháng 5 có sự xáo động mạnh trong cung-
cầu ngoại tệ trên thị trường, sau kỳ nghỉ lễ, giá USD bán ra của các NH bất ngờ tăng
mạnh thêm 20 VND, đợt biến động mạnh thứ 2 sau đợt biến động mạnh từ 20 đến 31/3.
Tỷ giá USD/VND vẫn tiếp tục tăng khiến lãi suất USD bước vào cuộc đua mới. Ở hầu
hết các NHTM, giá USD tăng kịch trần, hết biên độ cho phép, trên thị trường tự do, giá
bán dao động xung quanh 17.100 – 17.500 VND/USD. Tính toán của Tổng cục Thống
kê công bố cho thấy, trong tháng 5, giá USD tính theo VND đã tăng mạnh với 1,02% so
với tháng trước đó. Đặc biệt trung tuần tháng 6/2008, cơn sốt USD bùng phát, có thời
điểm giá chợ đen lên tới 19.000-19.800 VND/USD.
Nguyên nhân là do tâm lý lo sợ sự mất giá của VND. Mặc dù NHNN đã ban hành cơ
chế mới về điều hành lãi suất, nâng lãi suất cơ bản từ 8,75%/năm lên 12%/năm vào
tháng 5, rồi sau đó tăng lên 14%/năm vào tháng 6, nhưng việc áp dụng trần lãi suất làm
cho các NHTM không thể tăng lãi suất lên, lãi suất thực âm, lượng tiền huy động giảm
sút như vậy làm trậm trọng hơn vấn đề lạm phát vì không thể hút tiền từ trong lưu thông
về vì trong tình hình lạm phát cao. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4/2008 so với tháng
12/2007 đã tăng lên hai chữ số là 11,6%; gần bằng tốc độ của cả năm 2007 (12,63%).
Lạm phát tháng 5 tiếp tục tăng 3,91%, cao nhất kể từ đầu năm đến nay, đẩy chỉ số tiêu
dùng trong 5 tháng đầu năm lên đến 15,96%. Với tốc độ tăng giá tiêu dùng đã lên đến
15,96% trong 5 tháng đầu năm, tức là tăng trên 3%/tháng, trong khi lãi suất tiết kiệm chỉ
10
Tỷ giá USD/VND tháng 3/2008

15924
15912
15867
15860
15847
15830
15880
16100
16120
15650
15700
15750
15800
15850
15900
15950
16000
16050
16100
16150
Ngày
4/3
Ngày
7/3
Ngày
10/3
Ngày
14/3
Ngày
19/3

Ngày
21/3
Ngày
25/3
Ngày
27/3
Ngày
28/3
Diễn biến giá USD bán ra của Ngân hàng Ngoại thương tháng 3/2008
(Đơn vị: VND)

×