Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Đẩy mạnh cho vay đối với DNVVN tại ngân hàng Techcombank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.43 KB, 73 trang )

Khoá luận tốt nghiệp 1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như ngày nay, các doanh nghiệp
vừa và nhỏ(DNVVN) thuộc các lĩnh vực khác nhau đặc biệt là lĩnh vực tư
nhân đang phát triển một cách nhanh chóng. Ở Việt Nam hiện nay, DNVVN
chiếm tới hơn 90% trong tổng số gần 250.000 doanh nghiệp(DN) tư nhân.
Lực lượng đông đảo này đã đóng góp tới 26% trong tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) tạo ra khoảng 49% việc làm trong khu vực phi nông nghiệp ở nông
thôn và 26% lực lượng lao động trong cả nước.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của chúng vẫn còn gặp phải những
khó khăn và thách thức. Khó khăn lớn nhất đó chính là thiếu vốn để mở rộng
sản xuất kinh doanh và thách thức lớn nhất là sự cạnh tranh ngày càng gay
gắt.
Việc phát triển DNVVN đang là vấn đề được Đảng và nhà nước rất coi trọng,
được coi là nhiệm vụ trung tâm trong chiến lược phát triền kinh tê – xã hội
của cả nước.
Điều đó cho thấy việc đẩy mạnh cho vay đối với các DNVVN hiện nay
được coi là một cơ hội của các ngân hàng thương mại nói chung và ngân
hàng Techcombank(TCB) nói riêng; nó phù hợp với xu thế phát triển nền
kinh tế, phù hợp với chủ trương đường lối của Đảng và nhà nước, giúp cho
ngân hàng chuyển dịch cơ cấu đầu tư hợp lý, tăng trưởng tín dụng, đa dạng
hóa các danh mục đầu tư cho vay, phân tán rủi ro và nâng cao vị thế cạnh
tranh.
Với định hướng phát triển là "Ngân hàng bán lẻ với khách hàng mục tiêu
là cá nhân và DNVVN”. Trong thời gian vừa qua, TCB đã có sự gia tăng
đáng kể về dư nợ cho vay đối với đối tượng này nhưng nó chưa thực sự tương
xứng với tiềm năng cũng như những định hướng mà ngân hàng đã đề ra.
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 2
Trước tình hình đó, việc đẩy mạnh cho vay đối với DNVVN tại ngân
hàng TCB là một vấn đề hết sức cần thiết.


Chính vì vậy, sau thời gian thực tập tại phòng Doanh nghiệp vừa và nhỏ
của ngân hàng TCB, em đã quyết định chọn đề tài cho chuyên đề thực tập của
mình là:
” Đẩy mạnh cho vay đối với DNVVN tại ngân hàng Techcombank”.
Với chuyên đề thực tập này, em mong muốn được có cơ hội để tìm hiểu
kỹ hơn về họat động cho vay đối với DNVVN. Đồng thời, thông qua đây, em
có đóng góp một số ý kiến nhằm mở rộng cho vay đối với đối tượng khách
hàng DNVVN. Em hi vọng sẽ đóng góp được phần nào vào việc thúc đẩy
hoạt động cho vay đối với đối tượng khách hàng này. Ngoài lời mở đầu và
kết luận thì bản chuyên đề được chia làm 3 chương với nội dung sau:
 CHƯƠNG I: Hoạt động cho vay đối với DNVVN của ngân hàng
thương mại.
 CHƯƠNG II: Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNVVN tại ngân
hàng Techcombank.
 CHƯƠNG III: Ý kiến đề xuất nhằm đẩy mạnh hoạt động cho vay đối
với DNVVN tại ngân hàng Techcombank.
v ớ i  Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- đối tượng nghiên cứu: chuyên đề đi sâu vào việc nghiên cứu hoạt động
cho vay của ngân hàng.
- phạm vi nghiên cứu: hoạt động cho vay đối với DNVVN tại ngân hàng
Techcombank trong giai đoạn 2005-2007.
 Phương pháp nghiên cứu: trong quá trình thực hiện chuyên đề, các
phương pháp thống kê, điều tra chọn mẫu, tổng hợp, so sánh, phân tích..được
sử dụng để làm rõ vấn đề.
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 3
Em xin được chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng -
Tài chính, đặc biệt là Th.S Hoàng Hương Lan – giáo viên hướng dẫn khóa
luận đã giúp đỡ, chỉ bảo em trong thời gian thực tập qua. Đồng thời, em xin
chân thành cảm ơn các cán bộ nhân viên tại hội sở chính của ngân hàng

Techcombank, đặc biệt là các cán bộ tại phòng Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã
hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong thời gian em thực tập tại
ngân hàng.
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 4
CHƯƠNG I
HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNVVN CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ DNVVN.
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Tiêu chí phân loại DNVVN
Nói đến DNVVN là nói đến phân loại doanh nghiệp dựa trên độ lớn
hay quy mô các doanh nghiệp. Việc phân loại DNVVN phụ thuộc vào loại
tiêu thức sử dụng quy định, giới hạn các tiêu thức phân loại quy mô doanh
nghiệp.Tuy nhiên, không có tiêu thức thống nhất để phân loại DNVVN cho
tất cả các nước vì điều kiện kinh tế-xã hội mỗi nước khác nhau và ngay trong
một nước, sự phân loại cũng khác nhau tùy theo từng thời kỳ, từng ngành
nghề, từng vùng lãnh thổ.
Việc xác định DNVVN của mỗi nước thường được cân nhắc đối với
từng giai đọan phát triển kinh tế, tình hình việc làm nói chung của cả nước và
tính chất nền kinh tế hiện hành của nước đó. Như vậy, xác định DNVVN
không có tính cố định mà có xu hướng thay đổi theo tính chất họat động, mục
đích của việc xác định và trình độ phát triển của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, ở các nước vẫn có một số tiêu thức phân loại chung như:
- Số lao động thường xuyên
- Vốn sản xuất
- Doanh thu
- Lợi nhuận
- Giá trị gia tăng..
Tiêu thức về số lao động và vốn phản ánh quy mô theo các yếu tố đầu

vào, còn tiêu thức doanh thu, lợi nhuận và giá trị gia tăng lại đánh giá quy mô
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 5
theo hiệu quả đầu ra. Mỗi tiêu thức có những mặt tích cực và ưu thế riêng.
Như vậy, để phân loại DNVVN có thể dùng các yếu tố đầu vào hoặc các yếu
tố đầu ra của doanh nghiệp hoặc là sự kết hợp của cả hai yếu tố đó.
Để tiện cho việc so sánh quốc tế, một khái niệm về DNVVN dựa trên tiêu
thức lao động được sử dụng có thể là thích hợp nhất, bởi vì nó không dễ dàng
chịu ảnh hưởng của những khác biệt các quốc gia về mức thu nhập cũng như
những thay đổi trong giá trị của đồng tiền nội địa hiện hành qua các thời kỳ
khác nhau. Ngoài tiêu thức lao động, tiêu thức tổng vốn đầu tư cũng được
nhiều nước sử dụng.
1.1.1.2. Khái niệm về DNVVN theo quy định ở VN
Từ những phân tích khái niệm chung về DNVVN, các tiêu thức và
giới hạn tiêu chuẩn các tiêu thức được sử dụng trong phân loại DNVVN trên
thế giới kết hợp với điều kiện cụ thể và những đặc điểm riêng biệt về quan
điểm phát triển kinh tế nhiều thành phần và các chính sách, quy định phát
triển kinh tế của nước ta. Chúng ta có thể nêu lên được rõ khái niệm như sau:
DNVVN ở Việt Nam là những cơ sở sản xuất- kinh doanh có tư cách pháp
nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn hoặc lao động
thỏa mãn các quy định của chính phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với
từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
Theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của chính phủ ngày 23/11/2001 thì
DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, có vốn đăng ký không quá 10
tỷ đồng hoặc số lao động trung bính hàng năm không quá 300 người. Nghị
định quy định đối tượng áp dụng bao gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước.
- Các hợp tác xã thành lập và họat động theo Luật Hợp tác xã.
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46

Khoá luận tốt nghiệp 6
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày
03 tháng 02 năm 2000 của chính phủ về đăng ký kinh doanh.
1.1.2. Vai trò
Xét trên phạm vi toàn cầu hiện nay, tính chất cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp đang chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng và
công nghệ. Vì thế, lợi thế của các doanh nghiệp có quy mô lớn bị giảm sút.
Trong điều kiện như vậy, sự phát triển của chuyên môn hóa và hợp tác hóa đã
không cho phép một doanh nghiệp tự khép kín chu trình sản xuất kinh doanh
một cách có hiệu quả mà thay vào đó là các DNVVN là vệ tinh của doanh
nghiệp lớn tỏ ra rất thích hợp.
Như vậy trong điều kiện một nền kinh tế phát triển thì các DNVVN cũng
không thể tan biến trong các tập đoàn kinh tế lớn mà khả năng hợp tác giữa
các doanh nghiệp này trong nền kinh tế càng trở nên chặt chẽ. Vai trò của
DNVVN lại càng được thể hiện rõ nét hơn trong điều kiện các nước đang phát
triển như Việt Nam. Điều đó được thể hiện trên những nét cơ bản :
 Các DNVVN cung cấp một lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ đáng kể
cho nền kinh tế.
Các DNVVN của Việt Nam hiện nay chiếm khoảng 90% tổng số hơn
230.000 doanh nghiệp trên toàn quốc. Tỷ trọng GDP cung cấp cho nền kinh tế
của các DNVVN có xu hướng ngày càng gia tăng. Nếu năm 1999 tỷ trọng
GDP của các DNVVN chỉ chiếm 8,01%, năm 2002 chiếm 9,02%, đến năm
2004 tỷ lệ này khoảng 24-25,5% và năm 2006 tỷ trọng đóng góp khoảng 26%
GDP.
 DNVVN trong nền kinh tế góp phần tạo việc làm và thu nhập cho
người lao động.
Hàng năm nước ta có khoảng hơn 1triệu người đến tuổi lao động nhưng
khả năng thu hút lao động của các doanh nghiệp nhà nước lớn ngày càng hạn
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 7

chế. Thêm vào đó, trong tiến trình đổi mới và cải tạo doanh nghiệp nhà nước
đã khiến cho nhiều người lao động bị mất việc. Trong điều kiện như vậy, các
DNVVN đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có vai trò quan
trọng trong việc thu hút lao động.
Năm 2002, cả nước tạo ra được 1,42 triệu việc làm mới thì thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh thu hút được 79,1% tổng số chỗ làm việc.Hàng năm
khu vực doanh nghiệp này thu hút hàng chục vạn lao động, góp phần giải
quyết các vấn đề xã hội của đất nước.Theo số liệu ước tính năm 2006 khu vực
DNVVN tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn và chiếm
từ 25-26% lực lượng lao động trong cả nước.
Tuy nhiên, do khu vực sản xuất nông nghiệp ở nông thôn vẫn chiếm một tỉ
trọng lớn trong toàn bộ nền kinh tế nên xét trên tổng thể thì tổng số lao động
trong các DNVVN chiếm tỉ trọng chưa cao trong tổng số lao động xã hội hiện
nay.
 Các DNVVN thu hút vốn đầu tư trong nền kinh tế.
Trong năm 2002, trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã có 7.600
doanh nghiệp được thành lập mới vơi số vốn đăng ký trên 12.550 tỷ đồng,
tăng 11% về số lượng doanh nghiệp và 16% về số vốn so với năm 2001, trong
đó doanh nghiệp tư nhân là 1.760 doanh nghiệp với số vốn đăng ký là 915 tỷ
đồng; 5.200 công ty trách nhiệm hữu hạn và vốn đăng ký trên 7.600 tỷ đồng;
604 công ty cổ phần với số vốn đăng ký trên 4.000 tỷ đồng. Tình hình trên
cho thấy, DNVVN đã thu hút được khá nhiều khoản tiết kiệm trong dân cư.
Chỉ tính riêng năm 2002, đầu tư khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 28,8%
tổng số vốn đầu tư của toàn xã hội;
Tính đến thời điểm 31tháng12năm 2004 số doanh nghiệp thực tế hoạt
động sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế là 91.755 doanh
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 8
nghiệp, trong đó, nếu xét tiêu chí lao động thì có 88.233 DNVVN, nếu xét
tiêu chí vốn thì có 79.420 doanh nghiệp.

Tính đến tháng 6/2005 cả nước đã có trên 125 nghìn doanh nghiệp
thành lập mới với tổng số vốn đăng ký hơn 240 nghìn tỷ đồng, đưa tổng số
doanh nghiệp trong cả nước lên gần 190 với số vốn đăng ký trên 398nghìn tỷ
đồng. Riêng Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm tới 52% số doanh
nghiệp thành lập mới với 50% tổng số vốn đăng ký so với cả nước.
 Hoạt động của các DNVVN góp phần làm cho nền kinh tế năng động,
đạt hiệu quả kinh tế cao.
Với quy mô vốn và lao động không lớn, các DNVVN dễ dàng được
thành lập, chuyển đổi mặt hàng sản xuất kinh doanh. Điều đó cho thấy, các
DNVVN đóng vai trò quan trọng trong lưu thông hàng hóa và cung cấp hàng
hóa, dịch vụ bổ sung cho các doanh nghiệp lớn, là những vệ tinh, những xí
nghiệp gia công cho những doanh nghiệp lớn cùng hệ thống đồng thời là
mạng lưới tiêu thụ hàng hóa cho doanh nghiệp lớn. Hiện nay DNVVN chiếm
khoảng 31% tổng sản lượng công nghiệp hàng năm, 78%doanh số bán lẻ
trong thương nghiệp, 64% khối lượng vận chuyển hành khách và hàng hóa.
Các DNVVN đáp ứng tích cực, kịp thời nhu cầu tiêu dùng ngày càng
phong phú và đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được.
 Các DNVVN có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa
phương, khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng.
Phát triển các DNVVN sẽ giúp các địa phương khai thác các thế mạnh về
đất đai, tài nguyên, lao động trong mọi lĩnh vực phục vụ phát triển kinh tế địa
phương. Đó cũng là lý do cơ bản để Đảng và nhà nước ta đưa ra chính sách
hỗ trợ phát triển các DNVVNcũng như kinh tế trang trại và phát triển các
ngành nghề truyền thống ở các vùng nông thôn nước ta.
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 9
 Các DNVVN tạo được mối liên kết chặt chẽ với các tổng công ty nhà
nước, các tập đoàn xuyên quốc gia…
Mặc dù trong thời gian qua, mối quan hệ này mới chỉ được xác lập bước
đầu qua việc cung ứng nguyên vật liệu, hợp đồng phụ và thành lập mạng lưới

vệ tinh phân phối sản phẩm, song đây là một hướng phát triển mới hết sức
quan trọng để thúc đẩy nhanh sự phát triển của các DNVVN nói riêng và sự
phát triển chung của nền kinh tế.
Như vậy, từ việc khẳng định vị trí và vai trò của DNVVN thì ta thầy
việc phát triển DNVVN ở nước ta là một trong những chiến lược quan trọng
trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt trong quá
trình hội nhập hiện nay việc hỗ trợ tín dụng cho các DNVVN là điều rất cấp
bách.
1.1.3. Lợi thế và khó khăn của DNVVN
1.1.3.1. Lợi thế
DNVVN có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng thỏa mãn nhu cầu có
hạn trong những thị trường chuyên môn hóa, khuynh hướng sử dụng nhiều
lao động với trình độ kỹ thuật trung bình thấp, đặc biệt là sự mềm mại và
nhanh chóng thích nghi với nhu cầu và thay đổi của nền kinh tế thị trường,
DNVVN có thể bước vào các thị trường mới mà không thu hút sự chú ý của
các DN lớn, và sẵn sàng phục vụ những nơi xa xôi nhất hoặc các khoảng
trống vừa và nhỏ của thị trường vì markerting khối lượng lớn thường là mối
quan tâm của các doanh nghiệp lớn. DNVVN là loại hình sản xuất lấy quyền
sở hữu phân tán thay cho địa điểm sản xuất tập trung, tổ chức bộ máy chỉ đạo
gọn nhẹ, do vậy nó có nhiều điểm mạnh. Nó được thể hiện cụ thể như sau:
 Dễ dàng khởi sự và năng động nhạy bén với thị trường
DNVVN chỉ cần một số vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp đã có thể
khởi sự doanh nghiệp. Vòng quay sản phẩm nhanh do đó có thể sử dụng vốn
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 10
tự có, hoặc vay bạn bè, người thân dễ dàng, tổ chức quản lý gọn nhẹ dễ quyết
định, khi nhu cầu thị trường thay đổi hoặc doanh nghiệp khó khăn thì dễ dàng
thay đổi tình thế, nội bộ dễ thống nhất.
 Dễ phát huy bản chất hợp tác
DNVVN thường chỉ tiến hành một hoặc một vài công đoạn trong quá

trình sản xuất một sản phẩm hoàn chỉnh, mà các công đoạn sản xuất phải kết
hợp với nhau để hoàn thành một sản phẩm hoàn chỉnh đưa ra tiêu thụ trên thị
trường, do đó các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện bản thân mình và tiến hành
hợp tác sản xuất nếu không sẽ bị đào thải.
 Thu hút nhiều lao động, hoạt động có hiệu quả với chi phí cố định thấp
Các DNVVN do có nguồn vốn ít nên đầu tư vào các tài sản cố định
cũng ít, họ thường tận dụng lao động thay thế cho vốn, đặc biệt là nước có
lược lượng lao động dồi dào và giá lao động thấp như nước ta, để tiến hành
sản xuất kinh doanh phục vụ dân sinh và thường họ đạt được hiệu quả kinh tế-
xã hội cao.
 Không có hặc ít có xung đột giữa người sử dụng lao động và người lao
động.
Do quy mô vừa và nhỏ nên sự ngăn cách giữa người sử dụng lao động
và người lao động không lớn và bản thân người chủ- người sử dụng lao động
luôn sát với công việc của người lao động do vậy nếu có xung đột xảy ra cũng
có thể dễ dàng giải quyết.
 Có thể duy trì sự tự do cạnh tranh.
Các DNVVN thường không có tình trạng độc quyền, họ giễ dàng và sẵn
sàng chấp nhận tự do cạnh tranh. Tự do cạnh tranh là con đường tốt nhất để
phát huy mọi tiềm lực.
 Có thể phát huy được tiềm lực thị trường trong nước
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 11
Sự phát triển DNVVN ở giai đoạn ban đầu cần phương thức tốt để sản
xuất thay thế nhập khẩu. Các nước đang phát triển như nước ta chỉ cần lựa
chọn một mặt hàng để sản xuất thay thế nhập khẩu với mức chi phí và vốn
đầu tư thấp, kỹ thuật không phức tạp, sản phẩm phù hợp với sức mua của
người dân, từ đó nâng cao năng lực sản xuất và sức mua của thị trường.
 Dễ dàng tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng
DNVVN có thể phát triển khắp mọi nơi, mọi vùng của đất nước, lấp

vào khoảng trống và thiếu vắng của doanh nghiệp lớn, tạo nên sự phát triển
cân bằng giữa các vùng, đây là một chiến lược kinh tế-xã hội quan trọng của
đất nước.
 Có thể nhanh chóng giảm bớt nạn thất nghiệp
DNVVN lấy mục tiêu phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân là chủ
yếu, do vốn đầu tư thấp và thường thu hút nhiều lao động cho nên trong thời
gian ngắn tạo được nhiều việc làm, giải quyết được tình trạng thất nghiệp ở
từng địa phương, nâng cao giá nhân công, có lợi cho nhân dân.
 DNVVN là nơi đào luyện các nhà doanh nghiệp và là cơ sở kinh tế ban
đầu để phát triển thành doanh nghiệp lớn.
Qua thực tế hoạt động sản xuất- kinh doanh, một mạng lưới DNVVN
khắp trên mọi miền của đất nước đã đào tạo, sàng lọc nên các nhà doanh
nghiệp, có thể nói đây là nơi đào tạo hữu hiệu nhất. Mặt khác quá trình phát
triển DNVVN cũng là quá trình tích tụ vốn, tìm kiếm mạng lưới thị trường..
để phát triển doanh nghiệp lớn. Hầu hết các doanh nghiệp lớn ở các nước phát
triển đều trải qua quy mô vừa và nhsỏ trừ một số doanh nghiệp lớn của nhà
nước.
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 12
1.1.3.2. Khó khăn
 Khó khăn chung
Nhìn chung, các DNVVN ở Việt Nam hiện nay đều gặp phải một số khó
khăn sau:
 Hệ thống đăng ký kinh doanh chưa thống nhất từ trung ương đến cơ sở,
chỉ mới thành lập được phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh thuộc sở kế hoạch
và đầu tư. Vì vậy việc quản lý nội dung kê khai trong giấy chứng nhận kinh
doanh và việc kiểm tra, giám sát các hoạt động của doanh nghiệp còn hạn chế,
chưa sớm được phát hiện những sai phạm của doanh nghiệp trong quản lý
kinh doanh và vì vậy việc xử lý bị chậm.
 Phần lớn DNVVN có quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, vốn ít, công nghệ

lạc hậu, thiếu điều kiện đầu tư mở rộng sản xuất, thuê chuyên gia có trình độ.
Mặc dù đã có nỗ lực từ phía chính quyền địa phương xong vẫn có sự phân
biệt đối xử giữa các thành phần(doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài
quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) trong các lĩnh vực như
đất đai, mặt bằng sản xuất, vay vốn tín dụng dẫn đến tình trạng DNVVN thiếu
mặt bằng sản xuất kinh doanh, thiếu vốn đầu tư cho sản xuất, đổi mới công
nghệ.
 Thiếu sự liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp lớn với các DNVVN dẫn
đến chất lượng, hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh thấp của các doanh
nghiệp.
 Phần lớn cán bộ quả lý trong các doanh nghiệp khi thành lập doanh
nghiệp và hoạt động kinh doanh dựa trên kinh nghiệm là chính, chưa được
đào tạo qua trường lớp căn bản nên có nhiều hạn chế trong công tác quản lý
kinh tế cũng như ảnh hưởng đến việc thực hiện quy định của pháp luật trong
quá trình họat động và kinh doanh.
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 13
 Trình độ tay nghề của người lao động trong doanh nghiệp chưa được
quan tâm đào tạo thường xuyên, phần lớn người lao động được truyền dạy
nghề thông qua gia đình hoặc các kỹ thuật viên của doanh nghiệp, do đó tính
năng động và sáng tạo trong việc phát huy sáng kiến cải tiến mẫu mã hàng
hóa còn chưa cao.
 Những khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng
 Các DNVVN lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính trước hết do các
DNVVN thiếu tài sản thế chấp ngân hàng trong khi đó mức cho vay dường
như vẫn bị hạn chế. Do vậy, các DNVVN hoạt động độc lập có kế hoạch mở
rộng sản xuẩt kinh doanh thì họ lại thiếu vốn để đưa các kế hoạch đó vào hiện
thực. Hơn nữa hầu hết các khoản vay đều là ngắn hạn với lãi suất cao nên các
DNVVN vẫn khó khăn khi tìm được nguồn vốn trung và dài hạn. Bên cạnh
đó, hiện nay chưa có đủ các quy định pháp lý đảm bảo cho các DNVVN có

thể tiếp cận thường xuyên, nhằm tiến tới khả năng vay vốn từ các tổ chức tài
chính bên ngoài một cách rộng rãi và ổn định hơn.
 Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ phải trả so với vốn tự có
cao là đặc trưng chung của hầu hết các DNVVN ở Việt Nam. Chính điều này
là nguyên nhân chính làm cho các DN khó tiếp cận nguồn vốn ngân hàng.
 Khó khăn tiếp theo cũng bắt nguồn từ nguồn vốn hạn hẹp của các
DNVVN nên các DNVVN không có điều kiện đầu tư đổi mới trang thiết bị,
nâng cấp công nghệ sản xuất để mở rộng năng lực sản xuất. Do đó, năng suất
lao động nói chung còn thấp, chất lượng sản phẩm nói chung chưa đáp ứng
được yêu cầu thị trường.
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 14
1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNVVN CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm về hoạt động cho vay
Hoạt động cho vay là họat động kinh doanh chủ chốt của ngân hàng
thương mại(NHTM) để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có tiền lãi thu được từ cho vay
mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi
phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và các chi phí rủi ro đầu tư.
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại còn có vai trò đặc biệt
quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Hoạt động cho vay có chất
lượng, hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo ra sự
ổn định lưu thông tiền tệ.
Hoạt động cho vay của NHTM được định nghĩa: “ là việc ngân hàng đưa
tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong
khoảng thời gian xác định”.
Đây là một trong những hoạt động chính gắn liền với quá trình hình
thành và phát triển của NHTM. NHTM huy động vốn nhàn rỗi của dân cư và
các tổ chức kinh tế khác tạo nên nguồn vốn cho vay với lãi suất cao hơn so
với lãi suất huy động.

1.2.2. Đặc điểm của cho vay đối với DNVVN so với các đối tượng khác
Cho vay đối với DNVVN là một trong những mục tiêu mở rộng tín dụng
của các ngân hàng hiện nay. Không chỉ ở các nước đang phát triển như ở
nước ta mà ở các nước phát triển thì khách hàng DNVVN cũng là một đối
tượng khách hàng cần chú ý vì đây là một thị trường rất tiềm năng khi hầu hết
các công ty lớn có uy tín trên thị trường đã chuyển hướng huy động vốn qua
thị trường chứng khoán.
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 15
Cũng như các đối tượng cho vay khác thì cho vay DNVVN có đầy đủ các
phương thức cho vay, tuy nhiên nó có phần nào chặt chẽ hơn về quy trình
nghiệp vụ và giám sát.
Thông thường cho vay DNVVN có chứa đựng nhiều rủi ro vì tính không
ổn định của loại hình doanh nghiệp này, đồng thời các hầu hết DNVVN thiếu
các tài sản thế chấp. Chính vì vậy nên các ngân hàng chưa thực sự mặn mà
với đối tượng khách hàng nay.
Tuy nhiên các món vay này thường nhỏ hơn các món vay của các doanh
nghiệp lớn hay các dự án đầu tư dài hạn nên nó phần nào giúp cho các ngân
hàng phân tán được rủi ro
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay đối với DNVVN của
ngân hàng thương mại
1.2.3.1. Từ phía ngân hàng
 Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Mỗi một tổ chức ngay từ khi được thành lập ra đã phải có một phương
châm hoạt động nhất định và phải có chiến lược kinh doanh phù hợp với các
mục tiêu đã đặt ra. Đó là một tiêu chí rất quan trọng đối với các ngân hàng
thương mại.
Trong nền kinh tế hiện nay, quá trình cạnh tranh càng ngày càng trở
nên gay gắt, mỗi ngân hàng phải xây dựng cho mình một phương châm, chiến
lược kinh doanh đúng đắn và hiệu quả. Đó là một điều kiện vô cùng quan

trọng giúp cho ngân hàng có định hướng nhất quán trong việc khai thác tốt
nhất tiềm lực hiện có và có thể thích ứng tốt với những biến đổi của môi
trường kinh doanh gay gắt hiện nay.
Khi mà chiến lược kinh doanh đặt ra không hiệu quả, không đúng đắn
thì mọi hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng của ngân
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 16
hàng nói riêng không thể phát triển được, thậm chí nó có thể gây nên những
tổn thất khôn lường cho ngân hàng.
Chiến lược phát triển sẽ tạo ra một định hướng chung về khách hàng
mục tiêu của ngân hàng và từ đó xây dựng nên các chính sách hỗ trợ, ưu đãi
đối với đối tượng khách hàng đó.
Để phù hợp với xu thế hiện nay thì các NHTM đang ngày càng quan
tâm đến các DNVVN và đang thúc đẩy việc thiết lập chiến lược kinh doanh
hướng vào đối tượng này. Chính điều này đã có ảnh hưởng quyểt định đến
họat động cho vay nói chung, doanh số cho vay cũng như chất lượng cho vay
đối với DNVVN nói riêng trong mỗi một ngân hàng.
 Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng của một NHTM được xem như là kim chỉ nam
trong hoạt động cho vay của ngân hàng đó. Khi mà có một chính sách tín
dụng đúng đắn, đồng bộ, khoa học và thống nhất thì nó sẽ xác định cho các
cán bộ tín dụng một phương hướng đúng đắn khi thực hiện nhiệm vụ của
mình từ đó nâng cao được hiệu quả kinh tế- xã hội của họat động cho vay.
Tuy nhiên, khi chính sách tín dụng đặt ra không đầy đủ, đúng đắn, khoa học
sẽ tạo ra một định hướng lệch lạc cho họat động tín dụng, dẫn đến việc cấp tín
dụng không đúng đối tượng, không đúng mục đích hoặc tạo ra khe hở cho
người sử dụng vốn và từ đó sẽ không đem lại hiệu quả kinh tế thậm chí dẫn
đến rủi ro tín dụng.
Chính sách tín dụng bao gồm:
• Chính sách khách hàng:

Do đối tượng khách hàng vay vốn của ngân hàng rất đa dạng vì vậy
ngân hàng cần phải tiến hành phân loại khách hàng theo các tiêu chí nhất định
nào đó, từ đó mới đem ra các chính sách về lãi suât, tài sản đảm bảo, hạn mức
tín dụng.. phù hợp với từng phân đoạn khách hàng.
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 17
• Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng:
Ngân hàng cam kết tài trợ cho khách hàng với món tiền và hạn mức
nhất định. Giới hạn này ngoài các quy định theo luật thì mỗi ngân hàng còn
có quy định riêng về quy mô và giới hạn.
Ví dụ như quy mô tối đa cho vay của mỗi giám đốc khu vực, giám đốc
chi nhánh, quy mô cho vay dựa trên giới hạn đảm bảo…
Chính sách này sẽ được quy định một cách cụ thể trong từng thời kỳ
trong năm có tính đến quy mô và tổ chức nguồn vốn của mỗi ngân hàng.
• Lãi suất tín dụng:
Mỗi một ngân hàng đều có các mức lãi suất tín dụng khác nhau phân
theo từng kỳ hạn, loại tiền, đối tượng khách hàng. Lãi suất này có thể được cố
định trong một thời hạn tín dụng nhưng cũng có thể được thả nổi theo sự biến
đổi của lãi suất tham khảo hặc chỉ số làm cơ sở điều chỉnh lãi suât hoặc cũng
có thể là sự kết hơp cố định có điều chỉnh sau một khoảng thời gian xác định.
• Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ:
Các thời hạn tín dụng có liên quan trực tiếp đến rủi ro thanh khoản
trong hệ thống ngân hàng và chu kỳ kinh doanh của người vay. Các chính
sách thời hạn tín dụng được đưa ra phải giải quyểt được mối quan hệ về thời
hạn giữa nguồn(chủ yếu do người gửi và do ngân hàng vay quyết định) và
thời hạn tài trợ(bắt nguồn từ yêu cầu của người vay do đặc điểm luân chuyển
nguồn vốn và quy mô thu nhập quyết định). Kỳ hạn nợ liên quan đến tính
toán các nguồn thu của khách hàng có thể dùng để trả nợ.
• Các khoản đảm bảo:
Chính sách đảm bảo gồm những quy định về trường hợp tài trợ cần

đảm bảo bằng tài sản, các loại đảm bảo cho mỗi loại hình tín dụng, danh mục
các đảm bảo được ngân hàng chấp nhận, tỷ lệ phần trăm cho vay trên đảm
bảo, đáng giá và quản lý đảm bảo. Chính sách tín dụng về các khoản đảm bảo
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 18
cũng bao gồm cả việc đánh giá tài sản đảm bảo và mức phán quyết tín dụng
dựa trên việc định giá cho tài sản đảm bảo.
• Chính sách đối với tài sản có vấn đề
Các tài sản có vấn đề bao gồm các tài khoản nợ xấu và tài sản có biểu
hiện đáng ngờ. Chính sách đối với tài sản có vấn đề gồm các quy định về cách
thức xác định nợ xấu và các tài sản đáng ngờ khác, tỷ lệ nợ xấu có thể chấp
nhận và mức độ xấu của các khoản nợ, trách nhiệm giải quyết, phạm vi thanh
lý và khai thác.
Như vậy, chính sách tín dụng của ngân hàng có ảnh hưởng vô cùng quan
trọng tới khả năng tiếp cận tín dụng của các DNVVN. Khi chính sách tín
dụng mà linh hoạt, đa dạng thì nó sẽ đáp ứng được nhiều nhu cầu của
DNVVN ở các phân đoạn thị trường khác nhau hay nói cách khác là sẽ làm
tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng của các DNVVN.
 Quy mô nguồn vốn của ngân hàng thương mại:
Như ta đã biết, tất cả các hoạt động cho vay của NHTM đều phải tuân
theo quy định liên quan đến hoạt động cho vay của pháp luật. Quy định 1627
về quy chế cho vay của một tổ chức tín dụng đối với một khách hàng có quy
định ” dư nợ cho vay tối đa đối với một khách hàng không được vượt quá
15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những khoản cho
vay từ các nguồn ủy thác của chính phủ, của các tổ chức, cá nhân hay trường
hợp khách hàng vay là một tổ chức tín dụng khác”.
Do đó, quy mô nguồn vốn của ngân hàng đặc biệt là quy mô vốn chủ sở
hữu là nhân tố quan trọng quyết định đến khả năng cho vay của một ngân
hàng. Các ngân hàng lớn thường cung cấp các khoản cho vay có giá trị lớn
cho các doanh nghiệp còn các ngân hàng nhỏ thường tập trung cho vay các

khỏan có quy mô nhỏ- nghiệp vụ tín dụng bán lẻ.
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 19
Ngoài ra, quy mô của ngân hàng cũng ảnh hưởng đáng kể đối với thu nhập
ròng của các loại hình cho vay. Để đạt được hiệu quả cao nhất trong cho vay,
ngân hàng cần cung cấp các loại hình cho vay mà ngân hàng có lợi thế nhất.
Ví dụ như, các ngân hàng lớn thường có ưu thế trong cho vay kinh doanh bất
động sản và cho vay tiêu dùng trả góp, các ngân hàng có quy mô trung bình
thường có lợi thế về các khoản cho vay theo thẻ tín dụng, còn các ngân hàng
nhỏ lại có ưu thế trong cho vay thương mại.
 Chất lượng và tính đa dạng của các hình thức cho vay
Đây là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động cho vay của
ngân hàng. Một ngân hàng sẽ ít có khả năng lớn mạnh, khả năng mở rộng cho
vay nếu những sản phẩm cho vay mà nó cung cấp cho khách hàng là đơn
điệu, chất lượng hoạt động không cao. Một trong những đặc điểm đặc trưng
của các sản phẩm dịch vụ ngân hàng là không có sự khác biệt, bản quyền khó
xác định nên từ đó làm ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh giữa các
ngân hàng.
Đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt, khốc
liệt như ngày nay thì buộc các ngân hàng phải không ngừng nâng cao chất
lượng các sản phẩm dịch vụ và thực hiện đa dạng hóa sản phẩm, tạo ra tính
khác biệt cho sản phẩm ngân hàng để củng cố và mở rộng thị phần, duy trì
khả năng cạnh tranh của chính ngân hàng mình.
 Thông tin tín dụng
Là tất cả các thông tin về tài chính, quan hệ tín dụng, đảm bảo tiền vay,
tình hình tín dụng và thông tin pháp lý của khách hàng có quan hệ với ngân
hàng. Hệ thống thông tin tín dụng được đưa ra nhằm hình thành cơ sở dữ liệu
về khách hàng để phục vụ cho quá trình cấp tín dụng, phân tích và quản lý tín
dụng, quản trị rủi ro tín dụng. Mục đích quan trọng nhất của nó là tìm kiếm và
phát hiện ra sớm các khoản tín dụng có vấn đề để đánh giá đúng mức độ rủi

Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 20
ro của các khoản nợ đồng thời dự báo trước khả năng một khoản tín dụng có
thể chuyển sang nợ xấu.
Trên cơ sở thông tin thu được, ngân hàng sẽ quyết định được một cách
đúng đắn hơn trong quy trình kiểm tra, giám sát tín dụng. Chất lượng của
thông tin tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến khoản cho vay. Khi thông tin tín
dụng đầy đủ, chính xác sẽ góp phần hạn chế và ngăn ngừa được phần nào rủi
ro tín dụng, rủi ro lựa chọn đối nghịch do thiếu thông tin không cân xứng về
đối tượng đầu tư từ đó nâng cao được hiệu quả hoạt động tín dụng.
Thông tin tín dụng có thể khai thác từ các nguồn khác nhau. Có thể
nguồn bên trong hay bên ngoài hệ thống; chính thức hay phi chính thức. Việc
thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác, đầy đủ ảnh hưởng lớn đến chất
lượng hoạt động tín dụng từ đó ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận vốn ngân hàng
của các DNVVN.
 Trình độ cán bộ công nhân viên
Trình độ của cán bộ làm công tác cho vay có ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng hoạt động tín dụng của NHTM. Khi các cán bộ tín dụng có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, có kiến thức và hiểu biết sâu rộng thì sẽ có thể phân
tích và nắm bắt được tình hình của khách hàng và từ đó đưa ra được quyết định
tín dụng chính xác. Ngược lại, khi các cán bộ tín dụng yếu kém về năng lực
hoạt động, chưa được đào tạo một cách đầy đủ thì sẽ thiếu khả năng phân tích
và đánh giá một cách chính xác về khách hàng vay vốn, không bao quát được
các điểm yếu về mặt pháp lý hoặc các sai sót trong hồ sơ vay vốn của khách
hàng nên từ đó đem ra những quyết định thiếu chính xác, gây nên những hậu
quả xấu cho ngân hàng.
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 21
1.2.3.2. Từ phía DNVVN
 Năng lực tài chính của DNVVN:

Năng lực tài chính của DNVVN là một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng
quyết định đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoạt động
hiệu quả thì tình hình tài chính sẽ vững mạnh từ đó mới có thể đáp ứng được
yêu cầu của ngân hàng và có thể tiếp cận được nguồn vốn của ngân hàng. Năng
lực tài chính được thể hiện ở khối lượng vốn chủ sở hữu và tỷ trọng vốn chủ sở
hữu trong tổng nguồn vốn kinh doanh của DNVVN. Vốn chủ sở hữu này sẽ
phản ánh khả năng tự chủ tài chính, khả năng chống chọi với hoàn cảnh bất lợi
của DN. Khi tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng vốn kinh doanh của doanh
nghiệp càng nhỏ chi phí vốn vay càng lớn và đó có thể là một nguyên nhân dẫn
đến tình trạng kinh doanh thua lỗ và mất khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng
của doanh nghiệp.
Hiện nay, các DNVVN muốn vay vốn ngân hàng thì phải đảm bảo là có
một phần vốn tự có nhất định tham gia vào dự án, phương án sản xuất kinh
doanh.
Chính vì vậy, nếu như vốn sở hữu thấp nhưng nhu cầu đầu tư lớn cũng khó
có thể tiếp cận được nguồn vốn của ngân hàng.
 Phương án sản xuất kinh doanh:
Đây là một vấn đề liên quan đến tính hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp
khi tiến hành sản xuất kinh doanh một sản phẩm nào đó. Khi tiến hành phương
án sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ tính toán doanh thu thu được, các chi
phí liên quan và lỗ lãi. Từ đó, doanh nghiệp sẽ đưa ra các quyết định là có tiến
hành thực hiện các dự án hay không.
Đây là một trong những điều kiện vay vốn hàng đầu của DNVVN. Để
đảm bảo thu hồi được vốn vay từ các doanh nghiệp, ngân hàng phải chọn
những phương án khả thi, có khả năng thực hiện được và thực sự có hiệu quả
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 22
để tiến hành đầu tư. Do vậy, việc doanh nghiệp có khả năng vay vốn của ngân
hàng phụ thuộc một phần vào phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
có khả thi hay không.

 Năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ:
Khi một doanh nghiệp có đội ngũ quản lý tốt thì sẽ có được chiến lược
kinh doanh tốt, khả năng kinh doanh cao và có thể quản lý vốn tôt. Nó được thể
hiện ở cách thức tổ chức hoạt động chung, tổ chức hoạt động sổ sách kế toán,
quản lý tài chính hiệu quả và phù hợp với quy định của pháp luật, môi trường
kinh doanh. Nó còn thể hiện ở trình độ nhận định thị trường để có được chiến
lược kinh doanh năng động và các biện pháp nhằm chống chọi lại những biến
động bất lợi của thị trường. Năng lực quản lý này nó ảnh hưởng trực tiếp đến
đội ngũ cán bộ, đến sản phẩm của doanh nghiệp, đến khả năng tiêu thụ sản
phẩm, mối quan hệ với các đối tác.. Đây cũng là một tiêu chí quan trọng để
ngân hàng đưa ra quyết định có cho DNVVN vay vốn hay không và nếu vay thì
với hạn mức là bao nhiêu.
 Đạo đức kinh doanh của chủ doanh nghiệp:
Đây là một trong những yếu tố quyết định đến khả năng tiếp cận vốn
ngân hàng của DNVVN và đây chính là thiện chí trả nợ của chủ DNVVN. Đạo
đức kinh doanh của DNVVN thể hiện ở việc doanh nghiệp trung thực, sử dụng
vốn đúng mục đích, quản lý tốt, báo cáo thật, đảm bảo hoạt động kinh doanh
được lành mạnh, đảm bảo trả nợ được cho ngân hàng.
Các DNVVN luôn muốn có thể tiếp cận được nhiều hơn tới nguồn vốn
của ngân hàng. Nếu các DNVVN báo cáo một cách đầy đủ, minh bạch, sử
dụng vốn đúng mục đích kinh doan, thực hiện vay và trả tốt thì có thể tiếp cận
được nhiều hơn đối với nguồn vốn đó. Tuy nhiên, nếu các DNVVN cố tình báo
cáo sai lệch các thông tin, sử dụng vốn sai mục đích.. thì sẽ không thể tiếp cận
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 23
được với nguồn vốn của ngân hàng. Các ngân hàng sẽ mất dần niềm tin đối với
các DNVVN từ đó sẽ thắt chặt các biện pháp đảm bảo tiền vay. Như vậy thì sẽ
càng hạn chế khả năng tiếp cận vốn của các DNVVN.
1.2.3.3. Từ môi trường bên ngoài
 Chính sách phát triển kinh tế của đất nước:

Chính sách phát triển kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở rộng tín
dụng của ngân hàng đối với DNVVN. Sự thay đổi các chính sách vĩ mô của
nhà nước sẽ gây nên những biến động lớn đối với hoạt động cho vay của ngân
hàng.
Dựa trên cơ sở các đường lối, chủ trương, chính sách phát triển của Đảng
và Nhà nước thì các doanh nghiệp sẽ xác định mục tiêu kinh doanh của mình,
cân đối tài chính để xác định nhu cầu vay vốn ngân hàng. Đồng thời, các ngân
hàng thương mại sẽ căn cứ vào các chỉ tiêu này để xác định cơ cấu tín dụng của
mình một cách có hiệu quả nhất.
Hiện nay, các chủ trương chính sách vĩ mô của nhà nước thay đổi nhanh
chóng đã gây ảnh hưởng lớn đến khả năng trả nợ của các doanh nghiệp. Sự
thay đổi cơ cấu kinh tế, chính sách xuất nhập khẩu cũng tác động mạnh đến quy
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến khả năng tiếp
cận tín dụng cũng như chất lượng tín dụng của ngân hàng.
 Môi trường pháp lý:
Môi trường pháp lý là một hệ thống văn bản pháp quy liên quan đến toàn
bộ các hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Khi
một hệ thống pháp luật đồng bộ thì sẽ tạo ra được một hành lang an toàn cho
hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và hoạt động của các ngân hàng nói
riêng. Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, pháp luật có
vai trò cực kỳ quan trọng, nó như một hành lang pháp lý tạo môi trường kinh
doanh thuận lợi, bình đẳng, an toàn, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 24
kinh tế và có tính chất bắt buộc đối với tất cả các chủ thể kinh tế đó. Khi mà hệ
thống pháp luật rắc rối, không đồng bộ thì sẽ gây ra những khó khăn cho ngân
hàng trong việc thực hiện các hợp đồng tín dụng và sẽ ảnh hưởng đến khả năng
mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế.
 Môi trường chính trị xã hội
Đây là một nhân tố quan trọng trong việc đưa ra quyết định đối với các

nhà đầu tư. Khi nền chính trị ổn định thì nó sẽ tạo ra được sự tin tưởng lớn đối
với các nhà đầu tư đặc biệt là đầu tư dài hạn. Khi đầu tư tăng lên, các doanh
nghiệp sẽ có cơ hội để mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh từ đó hoạt động
tín dụng của ngân hàng sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ.
Những biến động bất ổn về chính trị- xã hội không những sẽ làm hạn chế
đầu tư, hạn chế các khoản vay mới mà còn tác động tiêu cực đến những khoản
vay cũ thông qua những ảnh hưởng bất lợi của nó đối với hoạt động của các
DNVVN và của ngân hàng.
Bên cạnh đó, các quan niệm xã hội về sự ưa thích cá nhân, về các ngành
nghề lĩnh vực kinh doanh cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của doanh nghiệp,
sự biến động của môi trường có thể làm thay đổi các triển vọng kinh doanh của
doanh nghiệp. Chính vì thế nó sẽ ảnh hưởng đến họat động tín dụng của doanh
nghiệp đó.
Thái độ của các cơ quan chính quyền cũng có ảnh hưởng lớn đến họat động
của các DNVVN. Nó được thể hiện qua cách xử sự cũng như tinh thần phục vụ
và hỗ trợ cho DNVVN. Thái độ của các phương tiện thông tin đại chúng cũng
đóng góp tích cực vào sự chuyển biến thái độ tâm lý xã hội đối với các
DNVVN.
Như vậy, khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng của các DNVVN chịu ảnh
hưởng của rất nhiều các yếu tố, không chỉ từ phía ngân hàng, từ phía DNVVN
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46
Khoá luận tốt nghiệp 25
mà còn các yếu tố như môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, chính trị, xã
hội…chính vì vậy, để có thể tăng khả năng tiếp cận vốn ngân hàng của các
DNVVN thì cần phải có sự phối hợp một cách nhuần nhuyễn và chặt chẽ giữa
tất cả các phía trong tổng thể đó.
1.2.4. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động cho vay đối với DNVVN
của ngân hàng thương mại
 Số lượng DNVVN có quan hệ với ngân hàng
Trên thị trường, sự cạnh tranh luôn luôn tồn tại và một yếu tố tất yếu,

khách quan, là động lực chung cho sự phát triển. Trong bất cứ ngành nghề kinh
doanh nào thì các doanh nghiệp cũng mong muốn có được thị phần lớn nhất có
thể có trong phạm vi hoạt động của mình. Ngành ngân hàng cũng không phải là
một ngoại lệ.
Trong những năm gần đây, các ngân hàng thương mại cổ phần ngày càng
phát triển mạnh mẽ với mạng lưới mở rộng khắp cả nước. Có rất nhiều ngân
hàng cùng hoạt động trên một địa bàn nên dẫn đến việc số lượng doanh nghiệp
có quan hệ vay mượn với từng ngân hàng sẽ giảm đi nếu như mỗi ngân hàng
không có những biện pháp để mở rộng thị phần của mình.
Xét về chỉ tiêu số lượng DN có quan hệ tín dụng với ngân hàng thì đây là
một chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh hoạt động cho vay của ngân hàng đối với
DNVVN. Qua mỗi năm, số liệu này sẽ phản ánh sự tăng trưởng về số lượng
DNVVN có quan hệ tín dụng với ngân hàng cũng như việc ngân hàng có tiến
hành việc đẩy mạnh cho vay đối với đối tượng khách hàng này hay không.
 Doanh số cho vay
Doanh số cho vay trong kỳ là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay trong
kỳ. Nó là chỉ tiêu phản ánh chính xác, tuyệt đối về hoạt động cho vay đối với
các DNVVN của ngân hàng trong một thời kỳ nhất định.
Đinh Thu Hiền Lớp: Tài chính công 46

×