Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Mở rộng hoạt động cho vay đối với DNVVN tại Techcombank.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.57 KB, 88 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
DNVVN đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia và thực hiện mục tiêu xã hội. Ngay cả với những nước có nền kinh tế
phát triển DNVVN vẫn khẳng định được vai trò của mình. Do vậy, đối với
một nước đang phát triển như Việt Nam Đảng và Chính Phủ cũng luôn chú
trọng đến các DNVVN, dặc biệt sau khi nước ta thực hiện chuyển đổi nền
kinh tế.
Hiện nay , DNVVN chiếm 97% trong tổng số DN trên cả nước. Việc
khuyến khích các DN là hết sức cần thiết và phù hợp trong điều kiện ngày
nay. Các DNVVN ở nước ta có đặc điểm chung là gặp khó khăn về vốn, công
nghệ, trình độ quản lý, môi trường pháp lý… Đây cũng là những nguyên nhân
làm hạn chế hoạt động của các DNVVN. Trong những nguyên nhân trên thì
vốn là nguyên nhân lớn nhất, có ảnh hưởng nhất. Nhu cầu về vốn của
DNVVN ngày càng lớn, DNVVN phải tìm nhiều nguồn để đáp ứng, trong đó
nguồn vốn tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng không thể thiếu được.
Với những lý do như vậy cùng với việc tìm hiểu thực trạng DNVVN,
thực trạng tín dụng ngân hàng ở nước ta, tìm ra những giải pháp nhằm mở
rộng cho vay đối với DNVVN. Hơn nữa, trong thời gian thực tập tại
Techcombank em đã có cơ hội tìm hiểu về tình hình cho vay đối với DNVVN
tại Techcombank nên em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Mở rộng hoạt động
cho vay đối với DNVVN tại Techcombank “ làm chuyên đề tốt nghiệp.
Được sự hướng dẫn, giúp đỡ, nhiệt tình của PGS-TS Đào Hùng và các nhân
viên ngân hàng Techcombank nên em đã hoàn thành đề tài này.
Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tổng quan về NHTM
1.1.1 Khái niệm về NHTM


Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Khi nói
đến ngân hàng người ta thường nghĩ ngay đến các Ngân hàng thương mại vì
các NHTM chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô, thị phần, mạng lưới hoạt động
trong toàn hệ thống ngân hàng.
Ngân hàng trước hết là một tổ chức trung gian tài chính. Trung gian tài chính
là một tổ chức hỗ trợ các kênh luân chuyển vốn giữa người cho vay và người
đi vay theo hình thức gián tiếp. Những tổ chức trung gian tài chính thường
được nhắc đến như : ngân hàng, các công ty tư vấn tài chính và môi giới, các
công ty bảo hiểm...
Một cách hiểu đơn giản về ngân hàng đó là: ngân hàng là tổ chức hoạt động
kinh doanh cung cấp các dịch vụ ngân hàng để tìm kiếm lợi nhuận.
Để có thể rõ hơn về khái niệm ngân hàng, xét theo phương diện những loại
hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì : “Ngân hàng là các tổ chức tài chính
cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín
dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính
nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Theo Luật các tổ chức tín dụng định nghĩa như sau “ Hoạt động ngân hàng là
hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên
là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch
vụ thanh toán”.
Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Đối với các NTM, hoạt động đem lại lợi nhuận chính cho ngân hàng là hoạt
động cho vay. Và để có thể cho vay thì các ngân hàng phải có một lượng tiền
đủ để đáp ứng nhu cầu vay vốn ngày càng tăng trong nền kinh tế. Vì thế ngoài
vốn chủ sở hữu ra thì ngân hàng phải huy động một lượng tiền khá lớn. Ngân
hàng có thể huy động vốn từ các nguồn như sau :
• Nguồn tìên gửi

Tiền gửi là nguồn tiền chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân
hàng. Để gia tăng tiền gửi các ngân hàng đã đưa ra các hình thức gửi tiền đa
dạng như tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kì hạn của các doanh nghiệp và tổ
chức xã hội, tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi của các ngân hàng khác.
Trong đó, tiền gửi thanh toán có mức lãi suất thấp nhất nhưng thay vào đó cá
nhân hoặc doanh nghiệp gửi tiền có thể nhờ ngân hàng thanh toán hộ trong
phạm vi số dư trên tài khoản với mức phí thấp. Tiền gửi có kì hạn của doanh
nghiệp và các tổ chức xã hội tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình
thức tiền gửi thanh toán song lại được hưởng mức lãi suất cao hơn tuỳ theo độ
dài kì hạn. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư là một nguồn vô cùn quan trọng đối
với các ngân hàng. Các ngân hàng ngày càng mở rộng mạng lưới huy động
bằng cách cung cấp cho khách hàng nhiều sản phẩm tiết kiệm đa dạng với
mức lãi suất cạnh tranh hấp dẫn để thu hút ngày càng nhiều lượng tiền nhàn
rỗi từ dân cư vào ngân hàng. Trong ngân hàng còn có tiền gửi của các ngân
hàng khác tuy nhiên nguồn này thường không lớn vì tiền gửi của các ngân
hàng khác chỉ nhằm mục đích chủ yếu là nhờ thanh toán hộ.
• Nguồn đi vay
Ngân hàng sử dụng vốn để cho vay, đầu tư kinh doanh và thực hiện một số
hoạt động khác như chi trả cho khách hàng. Do vậy nhiều khi nguồn tiền huy
động không đủ đáp ứng nhu cầu tiền của ngân hàng. Khi đó ngân hàng sẽ phải
đi vay mượn thêm như vay ở Ngân hàng Trung ương, vay các tổ chức tín
Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
dụng khác hoặc vay trên thị trường vốn. Trong đó, vay các tổ chức tín dụng
khác là đơn giản nhất vì quá trình vay mượn đơn giản, đáp ứng kịp thời nhu
cầu dữ trữ và chi trả cấp bách của ngân hàng. Vay NHNN thông qua hình
thức tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn) và việc vay mượn tương đối khó khăn vì
NHNN kiểm soát tương đối chặt chẽ. Các ngân hàng còn có thể vay trên thị
trường vốn thông qua phát hành kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu. Tuy nhiên vay
trên thị trường vốn nghiệp vụ tương đối phức tạp và thường chỉ dành cho

những ngân hàng lớn.
• Nguồn khác
Nguồn khác bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán và các khoản nợ
khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả...
1.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn
* Hoạt động tín dụng
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của NHTM nhằm tài trợ cho khách hàng trên
cơ sở tín nhiệm. Hình thức tín dụng truyền thống của NHTM là cho vay ngắn
hạn có đảm bảo bằng tài sản, giúp khách hàng mua hàng hoá, nguyên vật liệu,
sau đó mở rộng thành nhiều hình thức khác nhau như cho vay thế chấp bằng
bất động sản, bằng chứng khoán… Các NHTM lớn hiện nay thực hiện đa
dạng các hình thức tín dụng. Để mở rộng tín dụng có hiệu quả, các ngân hàng
vừa phải xây dựng một chính sách tín dụng đúng đắn vừa phải không ngừng
đa dạng hoá các hình thức tín dụng cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của
khách hàng.
Để phục vụ mục tiêu quản lý của ngân hàng và nhu cầu của khách hàng, tín
dụng ngân hàng có nhiều hình thức phân loại khác nhau như:
• Phân theo thời gian: bao gồm tín dụng ngắn hạn (từ 12 tháng trở xuống,
trung hạn (từ trên 1 năm đến 5 năm) và dài hạn ( trên 5 năm ).
• Phân theo hình thức: bao gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho
thuê.
Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
• Phân loại theo tài sản đảm bảo: bao gồm tín dụng có đảm bảo bằng uy
tín của khách hàng, có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản.
• Phân loại tín dụng theo rủi ro: bao gồm tín dụng lành mạnh, tín dụng có
vấn đề, nợ quá hạn có khả năngthu hồi, nợ quá hạn khó đòi.
Ngoài ra còn một số cách phân loại khác theo ngành kinh tế, theo đối
tượng tín dụng, mục đích sản xuất…
* Hoạt động đầu tư

Phần lớn nguồn vốn huy động được ngân hàng đều cho vay vì hoạt động
tín dụng tạo ra lợi nhuận khá lớn cho ngân hàng. Bên cạnh đó ngân hàng
còn sử dụng vốn để đầu tư như đầu tư vào chứng khoán, vào bất động
sản… Những khoản cho vay có tính thanh khoản thấp, rủi ro cao, không dễ
chuyển thành tiền mặt như chứng khoán hay bất động sản. Do vậy các
ngân hàng thường đa dạng hoá danh mục đầu tư để vừa giảm thiểu rủi ro,
vừa tăng thu nhập.
1.1.2.3 Hoạt động trung gian
Huy động vốn và cho vay là hai hoạt động chính của ngân hàng, ngoài ra
ngân hàng còn thực hiện một số hoạt động khác như quản lý ngân quỹ, mua
bán ngoại tệ, cung cấp các dịch vụ uỷ thác, tư vấn, bảo hiểm… Ngân hàng có
thêm nguồn thu từ thu phí dịch vụ của những hoạt động này.
1.1.3 Vai trò của NHTM
* Vai trò trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là
chuyển tiết kiệm thành đầu tư giữa hai loại tổ chức và cá nhân trong nền kinh
tế: các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu với các cá nhân và tổ
chức thặng dư trong chi tiêu.
* Vai trò thanh toán
Ngày nay khi nền kinh tế càng phát triển thì việc thanh toán qua ngân hàng
ngày càng phổ biến. Thanh toán thông qua ngân hàng là hình thức thanh toán
không dùng tiền mặt, thay vào đó khách hàng chỉ cần mở tài khoản tại ngân
Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hàng. Ngân hàng sẽ thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua
bán hàng hoá và dịch vụ. Hình thức thanh toán này giúp tiết kiệm thời gian và
chi phí, đảm bảo an toàn cho khách hàng.
* Vai trò thực thi chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ được NHNN thực hiện thông qua các công cụ như lãi suất,
tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạn mức chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở… Các

NHTM bị ảnh hưởng trực tiếp của những công cụ này, thông qua NHTM sẽ
ảnh hưởng đến cả nền kinh tế theo hướng mà Nhà nước muốn điều tiết. Mặt
khác, thông qua các NHTM Nhà nước cũng có thể nắm được tình hình của
nền kinh tế, qua đó có những sự điểu chỉnh thích hợp.
1.1.4 Hoạt động cho vay của NHTM
1.1.4.1 Khái niệm về hoạt động cho vay của NHTM
Cho vay là một trong những hoạt động đầu tiên của NHTM và cho đến nay
cho vay vẫn là hoạt động chủ yếu, đem lại mức sinh lời cao cho NHTM.
Theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc
NHNN Việt Nam về việc ban hành quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng
thì hoạt động cho vay được định nghĩa như sau: “ Cho vay là một hình thức
cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hang sử dụng một
khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận
với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi “.
1.1.4.2 Nguyên tắc cho vay
Tuy cho vay là hoạt động đem lại lợi nhuận chủ yếu cho các NHTM Việt
Nam nhưng chất lượng các khoản vay chưa cao, nhiều khả năng xảy ra tổn
thất, làm giảm thu nhập của ngân hàng. Để hạn chế rủi ro, đảm bảo tính an
toàn và khả năng sinh lời NHNN và các NHTM đã đưa ra một số nguyên tắc
cho vay như sau:
Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi với thời gian xác định: các
khoản cho vay của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của
khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải có trách
Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhiệm hoàn trả cả gốc lẫn lãi như đã cam kết. Do vậy, ngân hàng luôn yêu cầu
người nhận tín dụng phải thực hiện đúng cam kết. Đây là điều kiện để ngân
hàng tồn tại và phát triển.
Khách hàng phải cam kết sử dụng vốn vay theo đúng mục đích được thoả
thuận với ngân hàng, không trái với các qui định của pháp luật và các qui định

khác của ngân hàng cấp trên. Luật pháp qui định phạm vi hoạt động cho các
ngân hàng. Bên cạnh đó mỗi ngân hang có thể có mục đích và phạm vi hoạt
động riêng. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp đồng tín dụng bảo đảm ngân
hàng không tài trợ cho các hoạt động trái pháp luật và việc tài trợ đó là phù
hợp với cương lĩnh của ngân hàng.
Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án sản xuất kinh doanh (hoặc dự án) có
hiệu quả. Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ
nhất. Các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản
của người vay. Trong trường hợp thấy kém an toàn, ngân hàng đòi hỏi người
vay phải có tài sản đảm bảo khi vay. Tài sản đảm bảo này có thể khác với tài
sản tương đương hình thành từ tiền vay.
1.1.4.3 Điều kiện cho vay của NHTM
* Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm
dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam, đối với khách hàng là các tổ
chức cá nhân nước ngoài phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành
vi dân sự theo quy định của pháp luật nước mà tổ chức đó có quốc tịch hoặc
cá nhân đó là công dân, nếu pháp luật nước đó được Bộ luật dân sự nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các văn bản pháp luật khác của Việt
Nam quy định hoặc được điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định
* Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp .
* Có dự án đầu tư hoặc phương án kinh doanh khả thi và có hiệu quả.
* Có khả năng tài chính đủ đảm bảo thực hiện phương án kinh doanh và đủ
trả nợ trong thời hạn cam kết.
Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
* Có tài sản đảm bảo cho khoản vay theo đúng quy định của Chính Phủ và
hướng dẫn của NHNN Việt Nam.
1.1.4.4 Vai trò hoạt động cho vay của NHTM đối với cácDNVVN
Nền kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu về vốn của doanh nghiệp ngày

càng tăng. DN có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau như tín dụng
thương mại, tín dụng ngân hàng và phát hành trái phiếu, cổ phiếu (đối với các
DNVVN đã cổ phần hoá ). Trong đó, nguồn vay từ NHTM là nguồn quan
trọng nhất, đặc biệt trong điều kiện thị trường chứng khoán- một kênh huy
động vốn hiệu quả- vẫn chưa phát triển đầy đủ. Do vậy, mở rộng hoạt động
cho vay đối với các DNVVN có một vai trò rất quan trọng. Huy động vốn
bằng cách phát hành trái phiếu hay cổ phiếu tương đối phức tạp và khó khăn
đối với các DNVVN vì thường chỉ những DN lớn, có uy tín, tên tuổi khả năng
phát hành trái phiếu, cổ phiếu mới thành công. Đồng thời với một thị trường
chứng khoán mới phát triển như Việt Nam thì lại càng khó khăn hơn. Các
DNVVN luôn trong tình trạng thiếu vốn để phục vụ cho sản xuất kinh doanh,
để phát triển doanh nghiệp cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Mặt khác các
DNVVN không thể chỉ sử dụng vốn chủ sở hữu vì vốn cần thiết cho hoạt
động sản xuất kinh doanh là rất lớn và vốn vay còn là lá chắn thuế hữu hiệu
cho các DNVVN.
Tín dụng ngân hàng giúp các DNVVN nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh. Để có thể vay vốn ngân hàng thì các DNVVN phải đáp ứng đầy
đủ điều kiện vay vốn. Do đó phương án sản xuất kinh doanh đưa ra đòi hỏi
phải có những tính toán cụ thể về doanh thu, chi phí sản xuất, giá thành sản
phẩm, lợi nhuận dự kiến…để ngân hàng phân tích , đánh giá tính khả thi của
phương án và đưa ra quyết định cho vay hay không. Như vậy, ngân hàng giúp
cho các DNVVN nâng cao khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh, xây dựng
phương án kinh doanh hiệu quả. Sau khi cho vay ngân hàng thường kiểm tra,
giám sát việc sử dụng vốn vay có đúng mục đích hay không, nhờ đó ngân
hàng thúc đẩy DNVVN sử dụng vốn hiệu quả.
Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tín dụng ngân hàng cũng giúp các doanh nghiệp tiếp cận với thị trường quốc
tế, với công nghệ sản xuất tiên tiến hiện đại bằng cách tài trợ xuất - nhập
khẩu.

Hiện nay số lượng các DNVVN ở nước ta chiếm khoảng hơn 90% tổng số các
DN nhưng số lượng DNVVN có thể tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng không
nhiều. Nếu như các DNVVN có thể vay vốn ngân hang nhiều hơn thì sẽ có
điều kiện phát triển, thoát khỏi tình trạng yếu kém, từ đó cũng sẽ làm cho nền
kinh tế phát triển tốt hơn.
1.1.4.5 Đặc điểm của hoạt động cho vay
* Đối tượng cho vay: bao gồm cá nhân và tổ chức có hoạt động sản xuất kinh
doanh thuộc mọi thành phần kinh tế
* Thời hạn cho vay và kì hạn nợ: dựa vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời
hạn thu hồi vốn đầu tư, số vốn vay ngân hàng mà ngân hàng quy định thời
hạn cho vay và kì hạn nợ.
* Hình thức cho vay: ngân hàng có nhiều hình thức cho vay khác nhau phục
vụ cho nhu cầu về vốn của mọi đối tượng khách hàng.
* Lãi suất cho vay: mức lãi suất cho vay hiện nay được thoả thuận giữa ngân
hàng với khách hàng. Ngân hàng cũng đưa ra nhiều mức lãi suất linh hoạt,
phù hợp với từng đối tượng khách hàng và từng thời kỳ.
* Giới hạn cho vay: khi khách hàng đến vay vốn ngân hàng, nếu vay bổ sung
vốn luư động ngân hàng sẽ căn cứ vào số vốn cần vay để tính ra nhu cầu vay
vốn hợp lí và cho khách hàng vay theo như đã tính toán. Ngân hàng cũng có
thể cho vay theo giá trị tài sản đảm bảo, theo luật quy định là 70% giá trị tài
sản đảm bảo. Ngoài ra, ngân hàng chỉ được cho vay tối đa 15% vốn tự có đối
với một khách hàng, nếu nhu cầu vay vốn của khách hàng lớn hơn 15% vốn
tự có của ngân hàng thì ngân hàng phải cho vay hợp vốn.
1.1.4.6 Các hình thức cho vay
Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Để thuận tiện cho việc theo dõi các khoản cho vay nhằm phục vụ nhu cầu
quản lý và phòng ngừa rủi ro, các NHTM đã phân loại các khoản vay theo
nhiều tiêu thức khác nhau. Sau đây là một số cách phân loại:
*Phân loại theo thời gian : thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và

sinh lời của khoản vay cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời
gian cho vay đuợc chia thành:
- Cho vay ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống, được sử dụng để tài trợ vốn lưu
động cho DN và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Cho vay trung hạn: từ 1 năm đến 5 năm, được sử dụng để tài trợ cho nhu cầu
mua sắm tài sản cố định như các phương tiện vận tải, một số cây trồng vật
nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn. Cho vay trung hạn còn để tài trợ cho việc
cải tiến công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có
quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay dài hạn: trên 5 năm. Cho vay dài hạn được cung cấp để đáp ứng các
nhu cầu dài hạn như công trình xây dựng nhà, sân bay, cầu đường, máy móc
thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu. Các khoản cho vay dài
hạn thường trên 5 năm nhưng cũng có thể lên tới 10 hoặc 30 năm.
* Phân loại theo các hình thức đảm bảo:
- Cho vay không có đảm bảo: đây là hình thức cho vay được đảm bảo bằng uy
tín của khách hàng. Thường những khách hàng có uy tín, có mối quan hệ
thường xuyên với ngân hàng, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình
trạng nợ nần hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay sẽ được
vay theo hình thức này. Các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính Phủ hoặc
với những tổ chức tài chính lớn, công ty lớn… cũng có thể không cần tài sản
đảm bảo.
- Cho vay có đảm bảo: tài sản đảm bảo cho phép ngân hàng có được nguồn
thu nợ bằng cách bán tài sản đảm bảo khi khách hàng không có khả năng trả
nợ hoặc trả không đủ. Những tài sản này được đảm bảo dưới hình thức cầm
Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cố, thế chấp. Các khoản vay cũng có thể được đảm bảo bằng sự bảo lãnh của
người thứ ba.
+Cho vay cầm cố: là hình thức người đi vay chuyển quyền kiểm soát tài sản
cho ngân hàng trong thời gian cam kết. Thường những tài sản này khi ngân

hàng nắm giữ không ảnh hưởng đến hoạt động của người đi vay.
+ Cho vay thế chấp: là hình thức người đi vay chuyển những giấy tờ chứng
nhận quyền sở hữu tài sản cho ngân hàng trong thời gian cam kết. Đảm bảo
bằng thế chấp cho phép người đi vay sử dụng tài sản đảm bảo phục vụ cho
hoạt động kinh doanh.
+ Bảo lãnh là hình thức cho vay dựa trên sự bảo lãnh của người thứ ba.
Theo đó người thứ ba sẽ cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính trong
trường hợp người đi vay không thực hiện đúng nghĩa vụ với ngân hàng.
* Phân loại theo mục đích cho vay
- Cho vay bất động sản: là hình thức cho vay liên quan đến việc mua sắm và
xây dựng nhà ở, đất đai, bất động sản.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung
vốn lưu động cho các DN trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch
vụ.
- Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như
phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc…
- Cho vay tiêu dùng: là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng dân cư
như mua sắm vật dụng đắt tiền, đồ dùng lâu bền…
* Phân loại theo phương thức cho vay
- Thấu chi: Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người
vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn
nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Khi khách hàng có tiền về
tài khoản ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, dành cho cả DN và cá
nhân. Hình thức này thường chỉ sử dụng với những khách hàng có độ tin cậy
Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn. Nếu khách hàng chi vượt quá hạn
mức thấu chi thì sẽ bị phạt hoặc đình chỉ sử dụng hình thức này.
Sơ đồ cho vay thấu chi:

- Cho vay trực tiếp từng lần: đây là hình thức cho vay áp dụng đối với
những khách hàng khôngcó nhu cầu vay thường xuyên,chỉ khi có nhu cầu
thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc biệt. Theohình thức này vốn của ngân
hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ kinhdoanh.
Cho vay trực tiếp từng lần là nghiệp vụ tương đối đơn giản, ngân hàng có
thể kiểm soát từng món vay tách biệt.
Sơ đồ cho vay trực tiếp từng lần:
Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
y
Trục y: Số dư tiền gửi thanh toán (đồng)
Trục x: Thời gian
Hạn mức thấu chi
Vay ngân hàng (thực hiện thấu chi
Số tiền dư gửi thanh toán
x
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Cho vay theo hạn mức
Ngân hàng sẽ cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức này có thể
cho cả kì hoặc cuối kì. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản
xuất kinh doanh, nhu cầu vay vốn của khách hàng. Đối với hạn mức cho cả
kì thì khách hàng có thể vay- trả nhiều lần song dư nợ không được vượt quá
hạn mức tín dụng.
Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
Thời gian vay
y
Quy mô và thời gian cho vay
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sơ đồ cho vay theo hạn mức:
Còn đối với hạn mức cuối kì thì dư nợ của khách hàng trong kì có thể vượt
quá hạn mức nhưng dư nợ cuối kì vẫn phải đảm bảo nằm trong hạn mức.

Sơ đồ
Hình thức cho vay này thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường
xuyên. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể
nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay.
-Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng
hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho
vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng.
Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
Thời gian
Hạn mức được duyệt trong kỳ
Dư nợ trong kỳ
Hạn mức được duyệt cuối kỳ
Dư nợ
Khách hàng
(thường là nông
dân, người buôn
bán nhỏ)
Thời gian
Dư nợ
Dư nợ
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận trong 1 năm hoặc vài năm. Đây
không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối
quan hệ với khách hàng và quyết định có cho vay nữa hay không tuỳ thuộc
vào mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, uy tín của khách hàng cũng
như tình hình tài chính của khách hàng.
Đối với hình thức vay này, hàng hoá mua vào là đối tượng cho vay của ngân
hàng, thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho ngân hàng. Các khoản
phải thu và hàng hoá trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản cho vay.Cho
vay luân chuyển thuận tiện cho khách hàng vì thủ tục vay chỉ cần thực hiện 1

lần cho nhiều lần vay. Tuy nhiên điều này lại gây khó khăn cho ngân hàng
trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ
ràng.
Sơ đồ cho vay luân chuyển
- Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả
góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho
tài sản cố định hoặc hàng hoá lâu bền.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua
trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu
Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
Vay (/ ), trả (\ )
Khách hàng
(thường là nông
dân, người buôn
bán nhỏ)
Dự trữ hàng hoá
(Tăng khi mua và
giảm khi bán)
Thời gian
Cho vay
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của ngân
hàng cũng bị ảnh hưởng. Vì vậy rủi ro đối với hình thức cho vay trả góp
thường cao hơn so với các hình thức cho vay khác nên lãi suất cho vay trả góp
cũng là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: là hình thức ngân hàng cho vay thông qua
các tổ chức trung gian như: nhóm sản xuất, Hội Nông dân,
Hội Cựu chiến binh…
Sơ đồ cho vay gián tiếp

Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào
của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử
dụng sai mục đích.
1.2 Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1 Khái niệm
DNVVN chiếm khoảng hơn 90% trong tổng số DN trên cả nước. DNVVN
chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế,
thực hiện các mục tiêu xã hội như tạo công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo.
Vì vậy tập trung phát triển DNVVN là một nhiệm vụ quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế, luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm.
Theo nghị định số 90/201/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 23/11/2001 về trợ giúp
phát triển DNVVN thì DNVVN được định nghĩa như sau: “ Doanh nghiệp
Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
Ngân hàng
Trung gian: tổ,
đội, hội, nhóm
Khách hàng
(thường là nông
dân, người buôn
bán nhỏ)
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng kí kinh doanh theo
pháp luật hiện hành, có vốn đăng kí không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động
trung bình hàng năm không quá 300 người”.
Theo tiêu chí phân loại DNVVN về vốn sản xuất và lao động thường xuyên
thì ở Việt Nam có cách phân loại như sau:
Bảng 1.1: Tiêu chí phân loại DNVVN ở Việt Nam

Tiêu chí
Công nghiệp Thương mại, dịch vụ

DNV & N Trong đó:
DN nhỏ
DNV & N Trong đó:
DN nhỏ
Vốn sản xuất
(đồng)
Dưới 5 tỷ Dưới 1 tỷ Dưới 2 tỷ Dưới 1 tỷ
Lao động thường
xuyên (người)
Dưới 300 Dưới 50 Dưới 20 Dưới 30
(Nguồn: Đổi mới cơ chế chính sách hỗ trợ DNVVN- Nguyễn Cúc)
Chúng ta cũng có thể tham khảo một số quan niệm về DNVVN ở một số nước
khác như Nhật Bản hay Thái Lan. Ở Nhật từ những năm 60 đã có luật về DN
trong đó DNVVN được hiểu như sau:
Bảng 1.2: Phân loại DNVVN ở Nhật Bản
Loại DN Lao Động ( người) Vốn đầu tư (triệu Yên)
DN sản xuất Dưới 300 Dưới 100
DN bán buôn Dưới 100 Dưới 30
DN bán lẻ và dịch vụ Dưới 50 Dưới 10
( Nguồn: Đổi mới cơ chế chính sách hỗ trợ DNVVN- Nguyễn Cúc )
Còn ở Thái Lan lại quy ước DN quy mô vừa có 50-200 lao động, DN có quy
mô nhỏ có dưới 50 lao động. Như vậy có thể nói DNVVN là những cơ sở sản
xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, có quy mô doanh nghiệp( tuỳ theo loại
hình DN) trong giới hạn nhất định đối với từng giai đoạn cụ thể.
Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.2.2 Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế thị trường.
* Chiếm tỷ trọng lớn về số lượng DN trong nền kinh tế là các DNVVN, từ đó
có thể thấy ngay được một vai trò quan trọng của các DNVVN là giải quyết
việc làm cho người lao động.

Như khái niệm về DNVVN ở trên ta thấy rằng với số vốn ban đầu không lớn
đã có thể thành lập được DN. Vì vậy mà các DNVVN được thành lập rất
nhiều đáp ứng hầu hết nhu cầu của người dân về các loại sản phẩm, dịch vụ.
Các DN này cũng có sự phân bố rộng rãi trên khắp cả nước. Tuy số lao động
trong mỗi DN không lớn nhưng tính theo số lượng lao động của tất cả các
DNVVN thì lại là một con số không nhỏ. DNVVN tạo ra việc làm cho người
lao động từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi lên miền ngược: tạo ra
khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn và 26% lực lượng lao
động trong cả nước, giúp ổn định kinh tế xã hội.
*Vai trò cung cấp đa dạng các loại hình sản phẩm, dịch vụ cho cả nền kinh
tế.
Với một tỷ lệ nhỏ các DN lớn không thể cung cấp đầy đủ, đa dạng hàng hoá
cho cả nền kinh tế, nhất là đối với nhu cầu ngày càng lớn trong khu vực dân
cư. Các DNVVN đã làm rất tốt khi bù đắp những thiếu sót của DN lớn bằng
cách linh hoạt trong việc thay đổi mặt hàng kinh doanh. Đối với những mặt
hàng không còn sức cạnh tranh, DNVVN có thể dễ dàng chuyển sang mặt
hàng khác phù hợp với nhu cầu thị trường. Nhờ đó DNVVN đã thực hiện tốt
vai trò cung cấp một lượng sản phẩm, hàng hoá đa dạng, cùng với các DN lớn
góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Theo số liệu thống kê vào thời điểm cuối
năm 2005, các DNVVN đóng góp khoảng gần 30% GDP và 31% giá trị tổng
sản lượng công nghiệp.
* Vai trò tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh và góp phần làm cho nền kinh tế
hiệu quả hơn.
Số lượng lớn các DNVVN vừa làm tăng khối lượng sản phẩm, hàng hoá đồng
thời vừa làm tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế. Chính nhờ tính linh hoạt
Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trong việc thay đổi mặt hàng kinh doanh, sự thâm nhập thị trường từ những
sản phẩm rất nhỏ làm cho các doanh nghiệp luôn gặp phải sức ép cạnh tranh.
Các DNVVN phải tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm của mình, giảm

thiểu chi phí, sáng tạo ra những sản phẩm tiện ích hơn…để có thể cạnh tranh
với các doanh nghiệp khác và đạt mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Sự cạnh
tranh đã làm cho các doanh nghiệp hoạt động hiểu quả hơn và khi các doanh
nghiệp hoạt động hiệu quả thì sẽ nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế.
* DNVVN góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước
Thuế và phí là nguồn thu chính của ngân sách quốc gia, nguồn thu này đế
phục vụ nhu cầu chi thường xuyên và chi khác của nhà nước. Nhà nước thu
thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các DNVVN nên số lượng các DNVVN
góp phần làm tăng thu cho ngân sách nhà nước.
*DNVVN hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp lớn, là cơ sở
để hình thành các doanh nghiệp lớn.
Với đặc trưng nhỏ lẻ, các DNVVN thường hoạt động kinh doanh trong những
thị trường “ ngách” và hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp lớn trong việc tiếp
cận thị trường. DNVVN còn là nhà cung cấp những yếu tố đầu vào của sản
xuất cho những doanh nghiệp lớn. Chính vì vậy giữa DNVVN và DN lớn có
mối liên kết chặt chẽ, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Các DNVVN ban đầu hoạt động với một số vốn không lớn. Trong quá trình
hoạt động của mình, các DN đã tích lũy vốn, kinh nghiệm để dần dần trở nên
lớn mạnh cả về chiều sâu và chiều rộng. Vì vậy có thể nói rằng DNVVN là cơ
sở để hình thành các DN lớn.
*DNVVN có vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta.
DNVVN là loại hình DN đáp ứng khá đầy đủ và đa dạng các loại sản phẩm
theo nhu cầu thị trường. Để có thể đáp ứng nhu cầu một cách tốt nhất thì DN
phải ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm bằng cách cải tiến máy móc
thiết bị, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Mặt khác, để cạnh tranh
Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
được trên thị trường các DN cũng phải đổi mới công nghệ. Quá trình đổi mới
công nghệ góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá diễn ra

nhanh hơn.
DNVVN phát triển làm cho công nghiệp, dịch vụ phát triển, giảm tỷ trọng
nông nghiệp dẫn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tốt hơn.
• Thu hút vốn.
Vốn là yếu tố vô cùng quan trọng đối với các DN nói chung và các DNVVN
nói riêng. Nhờ có vốn thì mới có các yếu tố đầu vào cho sản xuất, làm cho
quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra trôi chảy. Đối với các DNVVN hiện nay
khi thành lập với số vốn chủ sở hữu ít ỏi luôn cần huy động nguồn vốn nhàn
rỗi trong dân cư.
• Mở rộng thị trường cho các NHTM.
Các DNVVN với truyền thống là vay vốn ngân hàng nên khi các DNVVN
càng phát triển thì ngân hàng có thể cho vay nhiều hơn, từ đó thu được lợi
nhuận cao hơn. Tuy nhiên, hiện nay các NHTM cho vay đối với DNVVN còn
ít so với lượng DNVVN trong nền kinh tế. Nếu các NHTM có thể cho vay
nhiều hơn và các DNVVN có điều kiện tốt hơn để vay vốn ngân hàng thì sẽ
có lợi cho cả hai bên.
1.3 Thực trạng phát triển DNVVN ở Việt Nam.
Sự chuyển dịch cơ cẩu kinh tế ở Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung truyền thống sang nền kinh tế theo hướng thị trường chính thức bắt đầu
từ năm 1986 đã mang lại những cải thiện to lớn về hiệu quả kinh tế và chất
lượng cuộc sống. Vào thời gian đầu những năm 90, các DN Nhà nước chiếm
tỷ trọng rất lớn trong nền kinh tế, nhưng tỷ trọng của các DN có vốn đầu tư
nước ngoài và DN tư nhân cũng dần tăng lên. Trong khu vực kinh tế tư nhân,
DNVVN nắm giữ một vị trí quan trọng, có những ảnh hưởng nhất định đến sự
phát triển kinh tế đất nước. Theo tài liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư đến tháng
10 năm 2007, Việt Nam có khoảng 280.000 DN được cấp phép hoạt động,
trong đó có 8.500 dự án FDI, trên 2000 DNNN, còn lại khu vực kinh tế tư
Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhân. Chính phủ dự kiến đến năm 2010 sẽ phát triển thêm 220.000 DN chủ

yếu ở khu vực kinh tế tư nhân.
Các DNVVN ra đời đã giải quyết được nhiều vấn đề như việc làm, góp phần
phát triển các ngành nghề truyền thống, khơi dậy tiềm năng trong dân chúng...
Trong năm 2002 toàn bộ khu vực DN Nhà nước chỉ sử dụng khoảng 2,3 triệu
lao động so với con số gần 40 triệu người của tổng lực lượng lao động Việt
Nam. Thay vào đó là sự gia tăng lao động ở khu vực tư nhân trong giai đoạn
này, đặc biệt là sự tăng trưởng của công ty TNHH và công ty cổ phẩn. Trong
giai đoạn 2000-2002, các loại hình doanh nghiệp này đã tăng gần gấp đôi về
số lượng lao động, từ 560.000 lên đến 1.062.000 ( Tổng cục Thống kê,
TCTK, 2004). Hầu hết các DN này có quy mô vừa và nhỏ, trung bình khoảng
41 lao động. Trong những năm gần đây số lượng DNVVN ngày càng phát
triển mạnh mẽ, chiếm tới khoảng 97% tổng số DN trên cả nước. Các DN này
đóng góp khoảng hơn 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, tạo ra khoảng
50% việc làm phi nông nghiệp ở nông thông và 26% lực lượng lao động trong
cả nước.
Tuy những con số thống kê ở trên là những đóng góp trực tiếp của các
DNVVN cho nền kinh tế nhưng một đóng góp quan trọng nữa mà không
thống kê được bằng số liệu là vai trò của DNVVN trong mối quan hệ gắn kết
với các DN có quy mô lớn. DNVVN cung cấp cho DN lớn nguyên vật liệu
đầu vào hoặc làm trung gian cung cấp sản phẩm đến người tiêu dùng cho các
DN lớn. Không chỉ ở Việt Nam mà với một số nước phát triển như Mỹ
DNVVN cũng vẫn giữ một vị trí quan trọng, điều này thể hiện ở con số 40%
GDP của nước Mỹ là nhờ vào sự đóng góp của những DN thuộc khu vực này.
Những DN lớn như Boeing hay Microsoft cũng không thể hoạt động đơn lẻ
mà phải có sự hợp tác với các công ty có quy mô vừa và nhỏ.
Tuy nhiên ở nước ta hiện nay, các DNVVN chiếm một số lượng lớn nhưng
hoạt động của những DN này vẫn gặp phải một số khó khăn. Khó khăn đầu
tiên phải kể đến là các DNVVN ở nước ta khó có thể tiếp cận với nguồn vốn
Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

ngân hàng. Vốn là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại của một DN,
do vậy khó tiếp cận với vốn là khó khăn không nhỏ của DNVVN, nhất là đối
với các khoản vay trung và dài hạn từ ngân hàng hay các tổ chức tín dụng
khác. Đặc biệt, các khoản vay có bảo lãnh hiếm khi được dành cho DNVVN.
Theo một cuộc điều tra năm 2005 có tới 66,95% doanh nghiệp cho biết
thường gặp khó khăn về tài chính. Về khả năng tiếp cận nguồn vốn của Nhà
nước chỉ có 32,38% số doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn của Nhà nước,
chủ yếu là DN Nhà nước và DN cổ phần hoá; 35,24% số DN khó tiếp cận và
32,38% số DN không tiếp cận được. Nguyên nhân từ cả hai phía ngân hàng
và DN, ngân hàng thì e ngại cho vay vì DN không đáp ứng đủ điều kiện về tài
sản đảm bảo, về phương án sản xuất kinh doanh, các báo cáo tài chính thừơng
mang tính chất đối phó, không trung thực, không tuân thủ chế độ phát hành
hoá đơn bán hàng.... Còn các DN thiếu vốn muốn vay nhưng lại không đáp
ửng đủ điều kiện của ngân hàng. Các ngân hàng nên đổi mới phương thức
kinh doanh, tích cực hơn trong việc tìm kiếm khả năng cho vay, tăng cường
đội ngũ cán bộ đi sâu sát cơ sở, bình đẳng hơn trong quan hệ tín dụng giữa
các loại hình DN, đổi mới cơ cấu đầu tư và nâng cao tỷ trọng cho vay...
Ngược lại các DN cũng nên nâng cao năng lực quản lý điều hành với đội ngũ
lãnh đạo, tích cực đào tạo nguồn nhân lực chủ động, sáng tạo, thực hiện
nghiêm chỉnh Luật doanh nghiệp và các luật liên quan trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, thực hiện công khai minh bạch các báo cáo tài chính, đảm
bảo tính trung thực của các báo cáo tài chính. Như vậy DN mới tạo được lòng
tin cho ngân hàng.
Khó khăn tiếp theo phải kể đến là khó khăn về công nghệ. Công nghệ do các
DNVVN sử dụng hiện nay đã lạc hậu hàng chục năm. Do đó nó có ảnh hưởng
trực tiếp đến chất luợng và mẫu mã sản phẩm dẫn đến sản phẩm làm ra không
đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng. Thêm vào đó, kỹ năng
nghiệp vụ quản lý cũng như tay nghề lực lượng lao động trong các DNVVN
hiện nay bị đánh giá thấp so với nhu cầu. Hơn nữa, đa số chủ các DN không
Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
có kiến thức, thông tin về chuyển giao công nghệ. Với một số DN mua công
nghệ chỉ đơn giản là mua máy móc thiết bị. Công nghệ tốt giúp DN tăng năng
suất lao động, sản xuất ra những sản phẩm với mức chất lượng phù hợp, giảm
bớt chi phí sản xuất, nhờ đó tăng năng lực cạnh tranh. Qua số liệu thống kê về
một cuộc nghiên cứu ở Quảng Nam và Đà Nẵng vào năm 2006 cho thấy 62%
DNVVN không cho rằng mình phải thay đổi công nghệ. Trong số những
người cho rằng cần thay đổi công nghệ, chỉ có 15% đã có kế hoạch cụ thể cho
việc thay đổi công nghệ. Rất ít chủ DN có quyết tâm thay đổi và nỗ lực trong
việc tìm kiếm nguồn lực cho thay đổi công nghệ.
Trình độ cán bộ quản lý cũng là một bất cập. Theo số liệu thống kê cho đến
cuối năm 2005, có tới 55,63% số chủ DN có trình độ học vấn từ trung cấp trở
xuống, trong đó 43,3% chủ DN có trình độ học vấn từ sơ cấp và phổ thông
các cấp. Số người đạt tiến sĩ chỉ chiếm 0,66%; thạc sĩ 2,33% , đã tốt nghiệp
đại học 37,82%, tốt nghiệp cao đẳng chiếm 3,56%, tốt nghiệp trung học
chuyên nghiệp chiếm 12,33% và 43,3% có trình độ thấp hơn. Điều đáng chú ý
là đa số các chủ DN ngay những người có trình độ học vấn từ cao đẳng và đại
học trở lên cũng ít người được đào tạo về kiến thức kinh tế và quản trị doanh
nghịêp. Một giải pháp được đưa ra là liên kết giữa các trường Đại học với các
DNVVN. Đây là biện pháp nhằm mang lại lợi ích cho cả hai bên. Hoạt động
trong cơ chế thị trường, các cơ sở đào tạo phải luôn tuân thủ một nguyên tắc
chung là sản phẩm đào tạo của nhà trường phải đáp ứng nhu cầu của thị
trường lao động.
Ngoài ra, việc xin cấp đất, hoặc thuê đất của DNVVN bị cản trở bởi hồ sơ,
thủ tục khá phức tạp hay một khó khăn cũng thường được nhắc tới khi nói
đến các DNVVN là thường phải chịu thiệt thòi, gánh những thông lệ với
điều kiện cạnh tranh không bình đẳng ở thị trường trong nước; khả năng
tiếp xúc thương mại, tiếp cận với thị trường quốc tế còn khó khăn; điều
kiện tiếp cận với thông tin về văn bản, pháp luật, thị trường, tiến bộ công
nghệ... còn hạn chế.

Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Theo chỉ đạo của Chính Phủ, đến năm 2010, cả nước sé có 500.000 DNVVN,
tạo việc làm cho khoảng 20 triệu người. Muốn thực hiện được mục tiêu đề ra
Chính Phủ cần chỉ đạo các bộ, ban, ngành có liên quan thực hiện những giải
pháp để nâng cao chất lượng hoạt động của DNVVN, có như vậy thì việc tăng
số lượng DNVVN trong nền kinh tế mới hiệu quả.
Năm 2006 khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO có nhiều ảnh hưởng đến
khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là đối với DNVVN. Sau đây là một số ảnh
hưởng đối với DNVVN:
• Những tác động tích cực
- Các DNVVN có hành lang pháp lý đầy đủ và thuận lợi hơn để phát triển.
Năm 2000 Luật DN ra đời, từ đó đến nay Chính Phủ cũng đã ban hành nhiều
Nghị định, Quyết định mang tính pháp lý dành riêng cho hỗ trợ DNVVN phát
triển như: Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN về quy chế cho vay của tổ
chức tín dụng đối với khách hàng, Quyết định này đã được sửa đổi bằng
Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN và Quyết định số 783/2005/QĐ-NHNN;
Quyết định số 992/2001/QĐ-NHNN về mức cho vay không có bảo đảm của
NHTM Cổ phần và Ngân hàng liên doanh; Quyết định số 993/2001/QĐ-
NHNN về mức cho vay không có bảo đảm của NHTM Nhà nước, Quyết định
456/2002/QĐ-NHNN về cơ chế lãi suất thoả thuận…
NHNN còn ban hành chỉ thị CT/03-NHNN ngày 21/5/2003 trong đó yêu cầu
các tổ chức tín dụng tạo mọi điều kiện cho các DN thuộc mọi thành phần kinh
tế tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
- Hội nhập WTO tạo môi trường kinh doanh bình đẳng hơn cho DNVVN ở
khu vực kinh tế tư nhân phát triển
- DNVVN có điều kiện thuận lợi tiếp cận với thị trường thế giới
Từ năm 2002 trở lại đây, mọi DN không phân biệt thành phần kinh tế kể cả
hộ cá thể có đăng kí kinh doanh hợp pháp đều có quyền xuất - nhập khẩu trực
tiếp với nước ngoài. Các rào cản về giấy phép, hạn ngạch xuất - nhập khẩu

Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
giảm rất nhiều; việc đi lại của các cá nhân Việt Nam ra nước ngoài tạo điều
kiện thuận lợi cho các DNVVN tiếp cận với thị trường thế giới.
- Môi trường kinh doanh minh bạch và công khai
Hiện nay các cơ quan của Nhà nước đều công khai công bố dưới nhiều hình
thức các cơ chế chính sách có liên quan đến DN, giúp các DN tiếp cận kịp
thời, ít tốn thời gian và tiền bạc.
- Thủ tục hành chính thuận lợi hơn.
- Nâng cao tính tự chủ của các DNVVN.
- Cùng với tiến trình hội nhập, thuế nhập khẩu và các rào cản phi thuế
quan giảm: Việc giảm giá nguyên vật liệu nhập khẩu phục vụ chi phí đầu vào
giúp các DN thuận lợi hơn trong việc đưa hàng hoá thâm nhập vào thị trường
thế giới. Việt Nam được hưởng qui chế tối huệ quốc tại 164 nước trên thế giới
nên nhiều ngành hàng, mặt hàng được miễn giảm thuế, xoá bỏ hạn ngạch.
Đây là nguyên nhân cơ bản tác động tích cực đến hoạt động xuất khẩu của các
DNVVN; cạnh tranh trên thị trường tăng, tạo điều kiện thúc đẩy các DNVVN
đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí để
nâng cao sức cạnh tranh…
• Những hạn chế của việc gia nhập WTO :
- Sự chuẩn bị hội nhập kinh tế quốc tế ở tất cả các cấp chưa đáp ứng yêu cầu:
Các bộ, ngành nhiều nơi chưa nhận diện rõ hội nhập mang lại cơ hội, thách
thức gì một cách cụ thể. Vấn đề này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến xây dựng
cơ chế chính sách, đáp ứng nhu cầu hội nhập, gây khó khăn cho các DN,
trong đó có các DNVVN.
- Môi trường kinh doanh đã cải thiện nhiều nhưng chưa nhanh.
Theo xếp hạng của “ Doing business – 2007 “, một tổ chức co uy tín, Việt
Nam xếp hạng 104/175 nước tham gia khảo sát, tụt 6 bậc so với năm 2006, ở
hàng năng lực cạnh tranh tụt 3 bậc, đứng thứ 132 trên thế giới. Theo các
chuyên gia, sự thay đổi cơ chế quản lý chưa đáp ứng nhu cầu hội nhập do đó

Nguyễn Mai Anh Lớp: Tài chính 46Q

×