Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

luận văn thạc sĩ phát huy vai trò chủ nghĩa yêu nước trong xây dựng ý thức bảo vệ tổ việt nam xã hội chủ nghĩa của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở trường sĩ quan CH KT thông tin hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.41 KB, 105 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1

1.1

1.2

Chương 2

2.1

2.2

Trang
3
THỰC CHẤT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CĨ TÍNH QUY
LUẬT PHÁT HUY VAI TRỊ CHỦ NGHĨA U NƯỚC
TRONG XÂY DỰNG Ý THỨC BẢO VỆ TỔ QUỐC
VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA HỌC VIÊN
ĐÀO TẠO SĨ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI Ở TRƯỜNG SĨ
QUAN CHỈ HUY - KỸ THUẬT THƠNG TIN

Thực chất phát huy vai trị chủ nghĩa yêu nước trong
xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở
Trường sĩ quan chỉ huy - kỹ thuật Thơng tin
Những vấn đề có tính quy luật phát huy vai trò chủ nghĩa
yêu nước trong xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân
đội ở Trường Sĩ quan chỉ huy - kỹ thuật Thông tin


THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT
HUY VAI TRÒ CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC TRONG XÂY
DỰNG Ý THỨC BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SĨ QUAN
CẤP PHÂN ĐỘI Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHỈ HUY – KỸ
THUẬT THÔNG TIN HIỆN NAY

Thực trạng phát huy vai trò chủ nghĩa yêu nước trong
xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở
Trường Sĩ quan chỉ huy - kỹ thuật Thông tin hiện nay
Những giải pháp cơ bản phát huy vai trò chủ nghĩa yêu
nước trong xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân
đội ở Trường Sĩ quan chỉ huy - kỹ thuật Thông tin hiện nay

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

12

38

54

54

71
93

94
97

BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

12

Chữ viết tắt


Bảo vệ Tổ quốc
Chỉ huy - kỹ thuật
Chủ nghĩa yêu nước
Nhà xuất bản
Xã hội chủ nghĩa

BVTQ
CH - KT
CNYN
Nxb
XHCN

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
BVTQ Việt Nam XHCN là một tất yếu khách quan, một trong hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta. Hiện nay, tình hình thế giới và
khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc
Mỹ và các thế lực thù địch lợi dụng cuộc chiến chống khủng bố can thiệp, tấn
cơng vào các quốc gia có chủ quyền. Đối với nước ta, chúng ráo riết thực hiện

chiến lược “diễn biến hịa bình”, kết hợp với bạo loạn lật đổ hòng làm suy yếu


và dẫn đến sự sụp đổ của chế độ XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng. Vì vậy,
trong lúc đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, phát triển kinh tế,… cần
phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, củng cố quốc phòng an ninh,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc và các thành quả cách mạng. Trong đó, quan trọng và
trước hết là xây dựng, củng cố ý thức BVTQ Việt Nam XHCN.
Sức mạnh BVTQ của đất nước ta là sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố:
chính trị, kinh tế, văn hóa, qn sự, ngoại giao, khoa học - công nghệ, sự kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, truyền thống và hiện đại, v.v. trong đó, sức
mạnh chính trị - tinh thần mà cốt lõi nhất là CNYN Việt Nam - một giá trị văn hóa
tinh thần cao đẹp của dân tộc giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
CNYN là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, được hình
thành và phát triển qua hàng nghìn năm lịch sử, trở thành một thành tố có vai trị
quyết định đến sức mạnh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta cũng như trong
sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam. Do đó, trong xây dựng ý
thức BVTQ Việt Nam XHCN của nhân dân ta nói chung và của học viên đào tạo
sĩ quan cấp phân đội ở Trường Sĩ quan CH - KT Thông tin hiện nay nói riêng,
việc khơi dậy và phát huy vai trò CNYN là một đòi hỏi bức thiết, là vấn đề có ý
nghĩa to lớn và thiết thực. Thơng qua phát huy vai trò CNYN trong xây dựng ý
thức BVTQ Việt Nam XHCN của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở
Trường Sĩ quan CH - KT Thông tin, sẽ trực tiếp tác động đến việc nâng cao nhận
thức về nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ của quân đội trong tình hình mới; hình
thành trong họ hệ thống tri thức, tình cảm, niềm tin và ý chí quyết tâm BVTQ
một cách đúng đắn; thơng qua đó góp phần rèn luyện bản lĩnh chính trị vững
vàng, lịng tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân; kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.



Xây dựng ý thức BVTQ Việt Nam XHCN cho học viên đào tạo sĩ quan cấp
phân đội luôn được Đảng ủy, Ban Giám hiệu Trường Sĩ quan CH - KT Thông tin
xác định là một trong những nội dung trọng tâm trong hoạt động giáo dục - đào tạo
của nhà trường. Tuy nhiên, trước những tác động của cả yếu tố khách quan và chủ
quan, việc phát huy vai trò CNYN trong quá trình xây dựng ý thức BVTQ Việt
Nam XHCN cho đối tượng này, bên cạnh những ưu điểm vẫn tồn tại những hạn chế
cần được khắc phục. Tình hình đó đặt ra u cầu một cách cơ bản, có hệ thống
những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm phát huy hơn nữa vai trò CNYN trong xây
dựng ý thức BVTQ Việt Nam XHCN của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở
Trường Sĩ quan CH - KT Thơng tin, đáp ứng u cầu địi hỏi của người sĩ quan chỉ
huy kỹ thuật thông tin tương lai, trước yêu cầu nhiệm vụ BVTQ trong tình hình
mới.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Xung quanh những vấn đề liên quan đến đề tài, thời gian qua đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu như:
Nhóm các cơng trình nghiên cứu về chủ nghĩa u nước Việt Nam
Ngay từ buổi đầu dựng nước trong nhận thức, tư tưởng và tâm hồn mỗi
người dân Việt Nam đã hình thành rất sớm lòng yêu nước, thương nòi rất
nồng nàn và mãnh liệt. Đó là dịng tư tưởng, tình cảm bao trùm và chi phối
toàn bộ đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Chính vì vậy, CNYN
ln ln là một đề tài rộng lớn, thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của các
lãnh tụ cách mạng, các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước và quân đội cũng như
của các nhà khoa học và các nghành khoa học khác nhau. Trong đó, có một
số cơng trình tiêu biểu như:
Trần Văn Giàu (1980) “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam” [ 9 ]. Trong tác phẩm này, tác giả đã dành riêng chương 4 để bàn về


CNYN. Với tiêu đề của chương là “yêu nước”, tác giả đã đề cập và nêu lên 4
vấn đề: Thứ nhất, tầm quan trọng của yêu nước trong lịch sử dân tộc. Theo tác

giả, yêu nước là “sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam từ thời cổ
đại đến hiện đại... sợi chỉ đỏ được biểu hiện như là một cái “lý thường hằng”
của mọi biến chuyển căn bản” [9, tr. 99], và rằng: “Người quan sát có thể thấy
ngay rằng các tư tưởng chủ đạo, “cái lý thường hằng” quán triệt cổ kim là chủ
nghĩa yêu nước, chống xâm lăng, bảo vệ tồn tại của dân tộc, là tư tưởng
khơng có gì q hơn độc lập tự do” [9, tr. 100]. Từ đó tác giả đi đến khẳng
định, chủ nghĩa yêu nước đã “thành một triết lý xã hội và nhân sinh của con
người Việt Nam và nếu dùng từ “đạo” với nguyên nghĩa của nó là “đường”, là
hướng đi thì chủ nghĩa u nước đích thực là đạo Việt Nam” [9, tr. 101]. Thứ
hai, phân biệt tình cảm yêu nước và tư tưởng yêu nước. Tác giả cho rằng, tình
cảm yêu nước là trạng thái tâm lý tự nhiên như “chim luyến tổ, cá quen đồng,
người sao không yêu quê hương” [9, tr. 102]. Tư tưởng yêu nước là suy nghĩ
về hành động yêu nước của mình. Thứ ba, nguồn gốc của CNYN Việt Nam.
Đó là, Nhà nước Văn Lang xuất hiện sớm và liên tục có các cuộc chiến đấu và
chiến thắng vẻ vang đối với các kẻ thù mạnh hơn mình gấp nhiều lần. Thứ tư,
bí quyết thắng lợi của các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, là do dân tộc
Việt Nam chiến đấu có chính nghĩa, có sự đồn kết, chính quyền có sự gắn bó
với dân và được dân ủng hộ, v.v.. Như vậy, tác giả Trần Văn Giàu đã đi sâu
nghiên cứu về CNYN Việt Nam truyền thống.
Cùng bàn về CNYN nhưng là CNYN Việt Nam thời đại mới - thời đại Hồ
Chí Minh, tác giả Trần Xuân Trường (1999) trong cuốn “Chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam thời đại Hồ Chí Minh” [ 26 ]; ngồi việc khẳng định sự tồn tại hiện hữu của
CNYN Việt Nam trong lịch sử, hiện tại và tương lai; tác giả cịn phân tích và làm
rõ những nội dung, đặc trưng cơ bản và xu hướng phát triển của CNYN Việt
Nam trong thời đại mới. Theo tác giả, “Có, có một chủ nghĩa yêu nước Việt Nam


và các trào lưu yêu nước như nó đã xuất hiện ở Việt Nam xứng đáng được gọi là
chủ nghĩa yêu nước” [26, tr. 5]; mặt khác, tác giả còn nhấn mạnh: “Chủ nghĩa
yêu nước là dòng sữa tinh thần nuôi sống dân tộc Việt Nam từ thời lập quốc xa

xưa cho đến ngày nay và mãi mãi mai sau. Dân tộc Việt Nam cịn thì cịn chủ
nghĩa, chủ nghĩa yêu nước là động lực chủ yếu của dân tộc trong công cuộc
dựng nước và giữ nước” [26, tr. 283].
Bằng cách tiếp cận từ các dữ liệu lịch sử, tác giả Nguyễn Hùng Hậu
(2008) trong cuốn “Từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu
nước Hồ Chí Minh” [ 11 ] đã khái quát và chỉ ra sự phát triển của CNYN Việt
Nam qua các thời kỳ lịch sử. Theo tác giả, “Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
vừa thuộc lĩnh vực triết học, vừa thuộc lĩnh vực chính trị, lại vừa thuộc lĩnh
vực đạo đức. Nhìn chung, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã trải qua 5 giai
đoạn: chủ nghĩa yêu nước thời Hùng Vương, chủ nghĩa yêu nước thời Bắc
thuộc, chủ nghĩa yêu nước thời Lý - Trần, chủ nghĩa yêu nước thời Lê Nguyễn, chủ nghĩa yêu nước thời đại Hồ Chí Minh mà hạt nhân là chủ
nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh” [11, tr. 161]. Trong đó, trọng tâm các tác giả
đi sâu phân tích đặc trưng, những nội dung cơ bản của CNYN Hồ Chí Minh
và khẳng định: CNYN Hồ Chí Minh là sự kế thừa, phát triển những tinh hoa
của CNYN truyền thống, đồng thời là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta và đạt đến đỉnh cao của
CNYN Việt Nam.
Ngồi những cơng trình đã nêu trên, tác giả luận văn cịn tham khảo một số
cơng trình, đề tài, bài viết khác như: Đặng Thanh Phương (2004), Giáo dục chủ
nghĩa yêu nước cho thanh niên sinh viên ở thủ đô trong giai đoạn hiện nay [ 21 ];
Nguyễn Văn Khánh (2001), “Sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong
sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do” [ 12 ]; Nguyễn Học Từ (2005), “Tôn
vinh và phát huy chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong điều kiện


mới” [ 27 ]; Nguyễn Thị Nga (2006), “Phát huy truyền thống yêu nước Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay” [ 20 ], v.v..
Qua nghiên cứu phương pháp tiếp cận và cách luận giải của các tác giả
các cơng trình khoa học nói trên, bước đầu tác giả luận văn hiểu rằng, CNYN
chính là những tư tưởng, tình cảm của con người đối với quê hương đất nước

mình, của đồng bào đối với dân tộc của mình nhưng nó mang tính hệ thống
chứ khơng thuần túy là những tư tưởng, quan điểm rời rạc của một vài cá
nhân riêng lẻ… CNYN là động lực tinh thần to lớn, có vai trị và sức mạnh vơ
địch nếu biết khơi dậy và phát huy đúng cách, đúng thời điểm. Đây cũng
chính là cơ sở để tác giả luận văn có thể đưa ra quan niệm về CNYN Việt
Nam và các đặc trưng cơ bản của nó.
Nhóm các cơng trình nghiên cứu về ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Bàn về ý thức BVTQ và xây dựng ý thức BVTQ Việt Nam XHCN,
cho đến nay cũng đã có một số cơng trình nghiên cứu, tiêu biểu như: Đề tài
KX. 07. 19 (1995), Xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc trong giáo dục con
người Việt Nam hiện nay, Chương trình khoa học cơng nghệ cấp Nhà nước,
Bộ Quốc phịng; Đinh Quốc Triệu (2005), Vai trị của gia đình trong giáo
dục ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho thanh niên ở tỉnh Phú Thọ
hiện nay [ 24 ]; Nguyễn Hùng Sơn (2008), Xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa cho sinh viên trên địa bàn Hà Nội hiện nay [ 22 ];
Nguyễn Vĩnh Thắng (2008), “Một số vấn đề chủ yếu trong xây dựng ý thức
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cho nhân dân và lực lượng vũ
trang thời kỳ mới” [ 23 ]; Trương Thành Trung (2008), “Bước đầu tiếp
cận ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở con người Việt Nam trong
thời kỳ mới” [ 25 ]; Nguyễn Bá Dương (2009), “Ý thức bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa của người dân Việt Nam hiện nay - một số vấn đề cần quan
tâm” [ 2 ]; v.v..


Trong đó, đề tài KX. 07. 19 (1995) đã đưa ra khái niệm về ý thức
BVTQ của con người Việt Nam: “Ý thức BVTQ của con người Việt Nam
ngày nay là sự giác ngộ về nghĩa vụ, trách nhiệm công dân đối với sự
nghiệp BVTQ Việt Nam phát triển theo định hướng XHCN, được biểu hiện
bằng hành vi thực tế sẵn sàng chống lại các hình thức lũng đoạn, khuất
phục, lấn chiếm và xâm lược của các thế lực thù địch đối với nền độc lập

dân tộc và công cuộc phát triển đất nước [1, tr. 17]; đề tài cũng đã xác định
cấu trúc của ý thức BVTQ bao gồm 4 thành tố. Tri thức: sự hiểu biết về đất
nước và con người Việt Nam, về mục tiêu yêu cầu BVTQ ngày nay, về kẻ
thù và những kiến thức quốc phịng cần thiết. Thái độ, cảm xúc, tình cảm: đó
là lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, niềm tin sâu sắc vào sự nghiệp đổi
mới của Đảng, vào con đường phát triển đất nước theo định hướng XHCN,
thiết tha với lý tưởng sống vì độc lập dân tộc, dân giàu, nước mạnh, xã hội
cơng bằng, văn minh. Ý chí được biểu hiện ở tính độc lập tự chủ, tự lực tự
cường, dám xả thân vì mục tiêu lý tưởng của dân tộc, giữ gìn bản sắc văn
hố dân tộc, tích cực học tập lĩnh hội kiến thức và kỹ năng quốc phòng, dám
đấu tranh chống các tệ nạn xã hội. Tâm thế sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ
công dân để bảo vệ Đảng, Nhà nước XHCN và nhân dân, sẵn sàng chống
“diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ” [1, tr. 23].
Tác giả Đinh Quốc Triệu, với phương pháp tiếp cận khác lại cho
rằng: “Ý thức BVTQ Việt Nam XHCN là một loại hình của ý thức xã hội
XHCN, phản ánh tính tất yếu (yêu cầu khách quan), mục tiêu, nhiệm vụ, những
vấn đề chiến lược, sách lược của Đảng Cộng sản Việt Nam về BVTQ XHCN và
mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhằm bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền ... bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia dân tộc” [24, tr.
18]. Đồng thời, tác giả đã xác định cấu trúc của ý thức BVTQ Việt Nam XHCN
bao gồm: tri thức BVTQ ở cả hai cấp độ thông thường và tư tưởng lý luận; tình


cảm, thái độ và sự đòi hỏi bên trong đối với nhiệm vụ sẵn sàng BVTQ; ý chí và
các hành động tích cực cho sự nghiệp BVTQ.
Tác giả Trương Thành Trung, từ việc làm rõ sự cần thiết xây dựng ý
thức BVTQ trong thời kỳ mới cho mọi người dân, đã đưa ra và luận giải cơ sở
khoa học của sự hình thành ý thức BVTQ Việt Nam XHCN trên các khía cạnh
khác nhau,ví như: ý thức BVTQ Việt Nam XHCN hình thành trên cơ sở
truyền thống yêu nước và văn hóa giữ nước của dân tộc; đó thực chất là ý

thức chính trị, được hình thành trên cơ sở sự giác ngộ về trách nhiệm xã hội
của con người đối với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, v.v.. Cuối cùng tác
giả đi đến khẳng định: “Xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho
người dân Việt Nam trong thời đại ngày nay chính là nâng cao giác ngộ của
họ về giá trị của độc lập, tự do, hạnh phúc...” [25, tr. 16].
Các cơng trình trên đã khám phá và làm rõ nhiều vấn đề về ý thức
BVTQ. Mỗi cơng trình, mỗi đề tài đều đã đề cập và luận giải ý thức BVTQ ở
góc độ tiếp cận, độ sâu, độ rộng khác nhau và các tác giả cũng đã đưa ra
những quan niệm, định nghĩa khác nhau về ý thức BVTQ Việt Nam XHCN;
nhưng tất cả đều có một quan điểm chung là: ý thức BVTQ Việt Nam XHCN
bao giờ cũng là sản phẩm của hoạt động BVTQ Việt Nam XHCN, là sản
phẩm của CNYN Việt Nam, được cấu trúc bởi các thành tố khác nhau.
Tuy nhiên, do mục đích và nhiệm vụ khác nhau mà các cơng trình
khoa học kể trên chưa trực tiếp nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống
dưới góc độ triết học về phát huy vai trò CNYN trong xây dựng ý thức
BVTQ Việt Nam XHCN của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường
Sĩ quan CH - KT Thông tin hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài


Mục đích: Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát huy vai trò CNYN
trong xây dựng ý thức BVTQ Việt Nam XHCN của học viên đào tạo sĩ quan
cấp phân đội ở Trường Sĩ quan CH - KT Thông tin hiện nay và đề xuất những
giải pháp cơ bản phát huy vai trò CNYN trong xây dựng ý thức BVTQ Việt
Nam XHCN của đối tượng đào tạo này.
Nhiệm vụ:
Làm rõ thực chất và một số vấn đề có tính quy luật phát huy vai trị CNYN
trong xây dựng ý thức BVTQ Việt Nam XHCN của học viên đào tạo sĩ quan cấp
phân đội ở Trường Sĩ quan CH - KT Thông tin.
Khảo sát, đánh giá thực trạng phát huy vai trò CNYN trong xây dựng ý

thức BVTQ Việt Nam XHCN của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở
Trường Sĩ quan CH - KT Thông tin hiện nay.
Đề xuất những giải pháp cơ bản phát huy vai trò CNYN trong xây dựng
ý thức BVTQ Việt Nam XHCN của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở
Trường Sĩ quan CH - KT Thông tin hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu:
Đó là những vấn đề lý luận và thực tiễn phát huy vai trò CNYN trong xây
dựng ý thức BVTQ Việt Nam XHCN của học viên đào tạo trở thành sĩ quan cấp
phân đội ở Trường Sĩ quan CH - KT Thông tin.
Phạm vi nghiên cứu:
Khách thể đề tài nghiên cứu là học viên đào tạo trở thành sĩ quan cấp
phân đội ở Trường Sĩ quan CH - KT Thông tin, từ năm 2003 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết
của Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng về CNYN và lý luận
BVTQ XHCN ở Việt Nam.


Cơ sở thực tiễn của đề tài là các tổng kết, đánh giá của các cơ quan chức
năng có liên quan ở nhà trường và kết quả khảo sát thực trạng phát huy vai trò
CNYN trong xây dựng ý thức BVTQ Việt Nam XHCN của các đối tượng đào tạo
trong nhà trường, chủ yếu là của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, sử
dụng hệ thống phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, lơgíc và lịch
sử, hệ thống - cấu trúc, phương pháp chuyên gia, điều tra xã hội học
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực

tiễn cho việc phát huy vai trò CNYN trong xây dựng ý thức BVTQ Việt Nam
XHCN của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường Sĩ quan CH - KT
Thơng tin hiện nay.
Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và
học tập ở Trường Sĩ quan CH - KT Thông tin hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm có: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục và các cơng trình nghiên cứu của tác giả đã được cơng bố.

Chương 1


THỰC CHẤT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CĨ TÍNH QUY LUẬT
PHÁT HUY VAI TRÒ CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC TRONG XÂY DỰNG
Ý THỨC BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SĨ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI
Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHỈ HUY - KỸ THUẬT THÔNG TIN

1.1. Thực chất phát huy vai trò chủ nghĩa yêu nước trong xây dựng
ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của học viên đào tạo sĩ
quan cấp phân đội ở Trường Sĩ quan chỉ huy - kỹ thuật Thông tin
1.1.1. Khái niệm chủ nghĩa yêu nước và xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở
Trường Sĩ quan chỉ huy - kỹ thuật Thông tin
Khái niệm chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
CNYN có tầm quan trọng đặc biệt trong việc tạo ra và phát huy sức
mạnh nội sinh trong mọi giai đoạn phát triển của các quốc gia, dân tộc. Cho
đến nay, đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về CNYN được đề cập trong
các cơng trình khoa học. Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam quan niệm:
“CNYN là... nguyên tắc đạo đức về chính trị mà nội dung là tình u, lịng

trung thành tuyệt đối, ý thức phục vụ Tổ quốc... Nó trở thành lực lượng tinh
thần vơ cùng mạnh mẽ, động viên mọi người đứng lên bảo vệ Tổ quốc chống
lại mọi cuộc xâm lược”. Theo từ điển Triết học: “CNYN - nguyên tắc đạo
đức và chính trị, một tình cảm xã hội mà nội dung là tình u và lịng trung
thành với Tổ quốc”. Từ điển Chính trị cho rằng: “CNYN là tình u Tổ
quốc, dân tộc mình. CNYN là một hiện tượng xã hội - lịch sử có nội dung xã
hội khác nhau, trong các thời kỳ khác nhau”. Từ điển tiếng Việt định nghĩa:
“CNYN là lịng thiết tha với Tổ quốc của mình, thường biểu hiện tinh thần
sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc”, v.v..


Tuy cịn có sự khác nhau nhưng có thể rút ra một số nội dung cơ bản
của những quan niệm trên về CNYN như sau:
Thứ nhất, CNYN là một hệ thống quan điểm, tư tưởng, thái độ tình cảm
đặc biệt của con người và cộng đồng người đối với quê hương, đất nước
mình, được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử lâu dài của từng
quốc gia, dân tộc. CNYN là tình cảm, tình u chân chính đối với đất nước,
trước hết là đối với quê hương, gia đình, làng xóm, phố phường, nơi họ sinh
ra và lớn lên. Đó cịn là tình u đối với các cảnh quan thiên nhiên, những giá
trị văn hóa tinh thần do nhân dân sáng tạo ra; là tình cảm bao la rộng lớn, cao
quý của con người đối với con người và đó cịn là ý thức tự hào, tự tơn dân
tộc. CNYN chân chính địi hỏi mỗi người phải biết nâng niu, quý trọng, giữ
gìn và phát triển những giá trị văn hóa của dân tộc mình.
CNYN hàm chứa tình cảm, thái độ chính trị của mỗi con người với thể
chế chính trị mà mình đang sống. Do đó, CNYN bao giờ cũng mang bản chất
giai cấp nhất định; không có CNYN chung chung, phi giai cấp.
Thứ hai, CNYN khơng chỉ biểu hiện ở hệ thống quan điểm, tư tưởng,
tình cảm mà cịn được biểu hiện ở ý chí, trách nhiệm, nghĩa vụ và hành động
sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc của mỗi người và cộng đồng người.
CNYN đòi hỏi mỗi người và cộng đồng người phải đem hết sức lực, trí

tuệ phấn đấu khơng biết mệt mỏi cho sự phồn vinh của đất nước, cho hạnh
phúc của nhân dân và sự bền vững của giang sơn gấm vóc; sẵn sàng chiến đấu
khơng tiếc máu xương, tính mạng vì Tổ quốc. Đó chính là sự kết tinh và là sự
thể hiện tập trung nhất của nhận thức tư tưởng, tình cảm, ý chí và hành động
u nước của mỗi con người. Do đó, những hành động trốn tránh trách nhiệm
công dân, trách nhiệm trước Tổ quốc; thái độ thờ ơ trước vận mệnh của đất
nước là những biểu hiện tiêu cực trái với bản chất của CNYN.
Thứ ba, CNYN là một hiện tượng xã hội - lịch sử gắn với mỗi quốc gia,
dân tộc trong những thời kỳ lịch sử nhất định. Bất kỳ một dân tộc nào từ lúc sơ


khai đến độ trưởng thành đều mang trong mình một tinh thần yêu nước. CNYN
của mỗi dân tộc bao giờ cũng phản ánh những giá trị chung về đặc điểm tâm
lý xã hội, quyền lợi, nghĩa vụ của mỗi công dân trong cộng đồng quốc gia,
dân tộc đó. CNYN là chất keo liên kết các thành viên trong xã hội với nhau;
là cơ sở để điều tiết các mối quan hệ xã hội của cộng đồng theo xu hướng
đồng thuận trong những điều kiện lịch sử cụ thể, nhất là trước những biến cố
lịch sử đe dọa đến sự tồn vong của dân tộc. CNYN chân chính hội tụ những
phẩm chất tốt đẹp nhất của dân tộc, tạo nên sức mạnh vô địch của dân tộc
trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ.
Rõ ràng, yêu nước là trạng thái tình cảm xã hội mang tính phổ biến ở mọi
dân tộc. Tuy vậy, tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội, hoàn cảnh lịch sử, tự nhiên,
tâm lý dân tộc và bản sắc văn hóa,… khác nhau mà CNYN của mỗi dân tộc có
q trình hình thành, phát triển, nội dung và đặc điểm không giống nhau.
Từ những quan niệm và khái quát trên về CNYN, xuất phát từ thực tiễn
Việt Nam có thể nêu lên một khái niệm tổng quát về CNYN Việt Nam và
những đặc trưng cơ bản như sau: CNYN Việt Nam là hệ thống những quan
điểm, tư tưởng, tình cảm của mỗi người dân Việt Nam đối với đất nước,
được hình thành và phát triển lâu dài trong lịch sử dân tộc, biểu hiện ở tình
yêu quê hương, đất nước, đồng bào, sẵn sàng cống hiến sức lực, trí tuệ và

xả thân vì sự nghiệp xây dựng và BVTQ; là một giá trị văn hoá tinh thần
quý báu, một động lực tinh thần to lớn góp phần vào sự trường tồn của dân
tộc và sự phồn vinh của đất nước.
Trước hết, tình yêu quê hương, đất nước và con người là yếu tố đầu
tiên và là sự thể hiện cụ thể CNYN của con người Việt Nam. Nếu như những
tơn giáo đã từng đóng vai trị quan trọng đối với sự phát triển của tư tưởng,
văn hóa, chính trị nước ta, như: Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo - đều du nhập
từ bên ngồi, thì CNYN là sản phẩm của bản thân lịch sử Việt Nam, bắt đầu


từ tình cảm tự nhiên của mỗi người đối với quê hương mình rồi phát triển
thành tư tưởng và hệ thống tư tưởng sâu sắc, toàn diện, làm chủ nhận thức
đúng - sai, tốt - xấu và chỉ đạo phương hướng xây dựng và bảo vệ nước nhà.
Đối với mỗi người dân đất Việt, trong ý niệm về Tổ quốc bao giờ cũng có ý
niệm về quê hương cụ thể - nơi chôn nhau cắt rốn; nơi họ đã lớn lên gắn liền
với những hình ảnh thân quen, khơng thể phai mờ như: cây đa, giếng nước,
sân đình, cha mẹ, anh em, bạn bè, bà con hàng xóm, v.v.. Tổ quốc chung
rộng lớn luôn gắn với tên sông, tên núi, tên làng. Trong thực tiễn đã hình
thành nên mối quan hệ Nhà - Làng - Nước trong sự hình thành và phát triển
của dân tộc Việt Nam. Điều đó đã làm cho CNYN Việt Nam có độ sâu sắc,
đậm nét, mạnh mẽ và rất đặc trưng.
Con người Việt Nam yêu nước rất cụ thể, không trừu tượng. Họ yêu
con người, mảnh đất nơi họ sinh ra, cảnh quan thiên nhiên xung quanh cuộc
sống của mình rồi mới đến những điều rộng lớn như giang sơn gấm vóc của
quốc gia dân tộc, sơn hà xã tắc; đồng thời quyết tâm bảo vệ đến cùng những
giá trị cao quý đó. Yêu nước gắn liền với thương nịi, vì giống nịi mà con
người Việt Nam luôn nêu cao chủ nghĩa anh hùng trong chiến đấu, lao động
sản xuất, luôn yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
Hai là, CNYN Việt Nam được hình thành và phát triển từ rất sớm, gắn liền
với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Như Giáo sư Trần Văn Giàu đã

nhận xét: “Lịch sử Việt Nam dài nhiều nghìn năm chủ yếu là lịch sử đấu tranh
giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc. Việt Nam ở cái thế địa lý chính trị nên bắt buộc
phải như vậy. Cho nên tư tưởng chủ yếu của dân tộc Việt Nam là tư tưởng yêu nước
xuyên suốt lịch sử kim cổ. Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa u nước đi
đơi với sự hình thành và phát triển của quốc gia dân tộc” [10, tr. 33].
Đất nước Việt Nam với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên nhiều thuận
lợi song cũng khơng ít khó khăn, thách thức đối với dân tộc ta. Trong quá


trình xây dựng đất nước, con người Việt Nam vừa thích nghi, vừa khai phá
những tài nguyên và phát huy những mặt thuận lợi của thiên nhiên để mở
mang ruộng đồng, xóm làng, phát triển sản xuất. Mặt khác, thiên nhiên cũng
đem lại cho con người khơng ít khó khăn, hàng năm bão lụt, hạn hán hoành
hành dữ dội, cướp phá đi nhiều tài sản và sinh mệnh của con người. Vì vậy,
trong quá trình trụ lại khai phá mảnh đất này, ông cha ta đã phải đấu tranh
quyết liệt với thiên nhiên. Sự đoàn kết, cố kết cộng đồng đã trở thành nhu cầu
tự nhiên, tất yếu để tồn tại và phát triển. Từ rất sớm nhân dân ta đã biết đắp đê
để chống lũ lụt, đào kênh mương, làm thủy lợi để chống hạn hán. Tất cả
những thành tựu đó trong q trình xây dựng q hương đều thấm đượm mồ
hôi nước mắt và xương máu của bao thế hệ, cũng vì lẽ đó mà mọi người Việt
Nam đều nặng tình, nặng nghĩa với q hương, đó là cơ sở vững bền của tình
yêu đất nước, sự gắn bó với xứ sở, và là cơ sở để hình thành CNYN Việt
Nam.
Mặt khác, lịch sử chống ngoại xâm oai hùng của dân tộc đã góp phần
quan trọng vào sự hình thành và phát triển của CNYN Việt Nam. Chống ngoại
xâm, sẵn sàng hy sinh tính mạng để BVTQ là biểu hiện cao nhất và rõ rệt nhất
của CNYN có tính phổ biến đối với mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới; nhưng
ở Việt Nam, CNYN mang những nét đặc thù.
Việt Nam nằm ở vị trí chiến lược quan trọng trong khu vực và thế giới, lại
giàu tài nguyên thiên nhiên nên ln là mục tiêu nhịm ngó, lăm le xâm lược và

thơn tính của các đế quốc ngoại bang. Cũng chính vì lẽ đó mà trong lịch sử thế giới,
hiếm có một dân tộc nào phải chống ngoại xâm nhiều lần và liên tục như dân tộc
Việt Nam. Kể từ cuộc kháng chiến chống Tần (thế kỷ thứ II trước công nguyên)
đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, dân tộc Việt Nam đã có
12 thế kỷ phải tiến hành kháng chiến giữ nước và đấu tranh chống ách đơ hộ của
nước ngồi. Những cuộc đọ sức với các thế lực xâm lược lãnh thổ, dân tộc, xâm


lăng văn hóa... đã tạo cho con người Việt Nam một phẩm chất vơ cùng q giá,
đó là tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc và độc lập dân tộc. Chính nhờ có lịng
u nước, sức mạnh đồn kết của toàn dân tộc đã tạo thành sức mạnh to lớn để
dân tộc ta chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Đúng như Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã tổng kết: “Dân ta có một lịng nồng nàn yêu nước. Đó là một
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì
tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn,
nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và
lũ cướp nước” [17, tr. 171].
Như vậy, lịch sử dựng nước và giữ nước gắn liền với một chuỗi dài các
cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của những nước mạnh hơn nước ta nhiều
lần, điều đó đã tác động và ảnh hưởng sâu sắc đến CNYN Việt Nam; rèn luyện,
nuôi dưỡng, hun đúc và bồi đắp CNYN của dân tộc ta. Mỗi người dân Việt
Nam đều có quyền tự hào về lịch sử anh hùng bất khuất của dân tộc mình là đã
đánh thắng các đội quân xâm lược hùng mạnh bậc nhất thế giới hơn 10 thế kỷ
nay. Những trang sử chiến đấu kiên cường, bền bỉ chống ngoại xâm là minh
chứng rõ nét, sâu sắc và độc đáo nhất của CNYN Việt Nam.
Ba là, con đường phát triển của CNYN Việt Nam là con đường phát
triển biện chứng, ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, CNYN được bồi đắp
thêm những nội dung mới.
CNYN Việt Nam được bắt nguồn và phát triển từ thời vua Hùng dựng
nước, từ tinh thần của Bà Trưng “đền nước trả thù nhà”, Bà Triệu “không chịu

cúi đầu, khom lưng làm tỳ thiếp cho người”. CNYN Việt Nam từ thời Lý
Thường Kiệt đã khẳng định thành văn ý chí bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc
và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Đến thời Lê Lợi và Nguyễn Trãi, CNYN
Việt Nam đã nêu ra lý tưởng dập tắt muôn đời ngọn lửa chiến tranh xâm lược,
xây dựng thái bình mn thuở, xây dựng quan hệ hịa hiếu, bình đẳng giữa


các dân tộc. Và CNYN Việt Nam được giương cao trong phong trào nông dân
Tây Sơn đã thể hiện một ý chí mãnh liệt của nhân dân ta địi xây dựng và bảo
vệ một Tổ quốc độc lập, thống nhất và giàu mạnh. CNYN Việt Nam mang
đầy đủ văn hóa và nhân cách con người Việt Nam. Yêu nước, quý trọng độc
lập tự do đã trở thành lẽ sống, phẩm chất đạo đức truyền thống của người dân
nước ta, của toàn thể dân tộc ta.
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, nước ta bị thực dân Pháp xâm lược và đô
hộ. Từ một quốc gia phong kiến độc lập, thống nhất, nước ta trở thành một
nước thuộc địa, nửa phong kiến và bị chia cắt. Dân tộc ta với truyền thống
yêu nước nồng nàn, đã liên tiếp vùng lên chống Pháp. Song, các phong trào
kháng Pháp đều lần lượt bị thất bại. Qua khảo nghiệm trong thực tiễn,
CNYN truyền thống Việt Nam đã bộc lộ những hạn chế trước yêu cầu của
lịch sử dân tộc thời cận, hiện đại. CNYN lúc đó đã trầm lắng lại, chưa có
phương hướng phát huy sức mạnh. Các nhà cách mạng đều yêu nước,
thương dân sâu sắc, nhưng họ khơng tìm thấy con đường, lực lượng và
phương pháp cách mạng đúng đắn để đánh thắng được đế quốc Pháp và bè
lũ phong kiến tay sai. Chỉ có lịng u nước khơng thơi thì chưa đủ giải
phóng được dân tộc. Tình hình đen tối sẽ khơng có lối thốt nếu như khơng
chuyển hướng đường lối cứu nước theo lập trường của giai cấp công nhân,
nếu như không kết hợp CNYN với chủ nghĩa Mác - Lênin và nâng CNYN
truyền thống lên một trình độ mới về chất. Chính sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng cách mạng nhất của thời đại do Nguyễn Ái Quốc tiếp thu và
truyền bá vào Việt Nam, với phong trào đấu tranh quyết liệt của giai cấp
công nhân, cùng với phong trào yêu nước của một dân tộc đang sục sôi cách

mạng đã dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930). Đây là
sự kiện đánh dấu một bước ngoặt căn bản trong lịch sử cách mạng Việt Nam,
đồng thời cũng đã làm thay đổi bản chất của CNYN Việt Nam, đưa CNYN


từ truyền thống lên CNYN mới - CNYN thời đại Hồ Chí Minh, CNYN theo
lập trường của giai cấp cơng nhân. CNYN thời đại Hồ Chí Minh tiếp thu, kế
thừa và phát triển những giá trị tinh hoa truyền thống yêu nước do lịch sử để
lại, như: tình yêu quê hương, đất nước, yêu thương giống nòi, ý thức phụng sự
Tổ quốc, tinh thần sẵn sàng xả thân hy sinh vì dân, vì nước... Tuy nhiên,
CNYN mới có bản chất giai cấp hồn tồn khác và có những biểu hiện cụ thể
khác với CNYN truyền thống. Cơ sở tư tưởng của CNYN mới là chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, CNYN Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh là sự hịa
quyện chặt chẽ giữa các yếu tố giai cấp, dân tộc và nhân loại.
Xây dựng ý thức BVTQ Việt Nam XHCN của học viên đào tạo sĩ quan
cấp phân đội ở Trường Sĩ quan CH - KT Thông tin
Ý thức BVTQ là một loại hình của ý thức xã hội, phản ánh hoạt động
thực tiễn BVTQ. Ý thức BVTQ được hình thành, phát triển và ngày càng
hoàn thiện gắn liền với quá trình xây dựng, phát triển của mỗi quốc gia, dân
tộc. Ý thức BVTQ phản ánh nội dung, yêu cầu của nhiệm vụ BVTQ trên cả
hai phương diện tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội. Mỗi một Tổ quốc
đều do một giai cấp đại diện, do đó ý thức BVTQ phản ánh lợi ích kinh tế
và chính trị của giai cấp thống trị; ngược lại, giai cấp thống trị khơng thể
duy trì được sự thống trị của mình nếu như khơng xác lập những lợi ích căn
bản của mình và khơng có ý thức bảo vệ những lợi ích đó. Trong chủ nghĩa
tư bản, ý thức BVTQ được xây dựng trên quan điểm, lập trường của giai
cấp tư sản, nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế, chính trị của giai cấp tư sản. Trong
cách mạng XHCN, sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành
được chính quyền, thiết lập nền chun chính vơ sản, bắt đầu sự nghiệp xây

dựng chủ nghĩa xã hội; đồng thời cũng là quá trình tiến hành sự nghiệp bảo
vệ vững chắc Tổ quốc XHCN.


BVTQ xã hội chủ nghĩa là một quy luật khách quan, là một nhiệm vụ
chiến lược gắn bó hữu cơ với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội trong suốt
tiến trình cách mạng XHCN. Ý thức BVTQ xã hội chủ nghĩa là một loại hình
của ý thức xã hội XHCN, phản ánh tất yếu khách quan, yêu cầu và nhiệm vụ
BVTQ xã hội chủ nghĩa.
Ý thức BVTQ Việt Nam XHCN được hình thành khi giai cấp cơng nhân
và nhân dân lao động nước ta giành được chính quyền, bắt đầu sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và BVTQ Việt Nam XHCN. Ý thức BVTQ Việt Nam
XHCN được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênnin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, kế thừa truyền thống yêu nước, quyết tâm giữ nước, không chịu
mất nước, không chịu làm nô lệ đã được hun đúc trong suốt mấy nghìn năm
dựng nước và giữ nước của dân tộc. Ý thức BVTQ Việt Nam XHCN là trình
độ cao trong dịng chảy của tư tưởng BVTQ Việt Nam. Nó phát triển và ngày
càng hồn thiện gắn liền với q trình xây dựng, phát triển của chủ nghĩa xã
hội hiện thực ở Việt Nam. Do vậy:
Ý thức BVTQ Việt Nam XHCN là một loại hình của ý thức xã hội XHCN,
phản ánh yêu cầu khách quan, mục tiêu, nhiệm vụ, những vấn đề chiến lược, sách
lược của Đảng Cộng sản Việt Nam về BVTQ xã hội chủ nghĩa và mọi hành động của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ gắn với bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân; bảo vệ chế
độ XHCN, bảo vệ nền văn hóa, bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia dân
tộc…
Ý thức BVTQ Việt Nam XHCN không phải tự nhiên mà có, mà nó được
hình thành, phát triển và củng cố thơng qua q trình xây dựng. Xây dựng ý
thức BVTQ Việt Nam XHCN là tạo thành lũy từ trong ý thức của mỗi con
người Việt Nam, là xây dựng “thế trận lòng dân”, “lòng dân thế trận”. Tư tưởng

về “Chúng chí thành thành” đã trở thành phương châm chỉ đạo và nội dung cơ


bản trong xây dựng và phát triển ý thức BVTQ xuyên suốt lịch sử dân tộc Việt
Nam. Ngày nay, nó còn phản ánh yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng: thực
hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong đó, xây dựng đất nước Việt Nam giàu
mạnh theo con đường XHCN là phương thức tạo ra khả năng bảo vệ tốt nhất.
Sức mạnh BVTQ là sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hố,
xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại; là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân
tộc, của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo và chỉ có được thơng qua cơng
cuộc xây dựng đất nước theo định hướng XHCN. BVTQ Việt Nam XHCN là
công việc thường xuyên gắn với xây dựng chủ nghĩa xã hội tạo thành một chỉnh
thể thống nhất của quá trình đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong sự nghiệp đó thì sức mạnh bên trong là nhân tố quyết định, và vấn đề
quan trọng là phải phát huy được sức mạnh toàn dân tộc, của các tầng lớp nhân
dân, của các cấp các ngành. Do đó, địi hỏi chúng ta phải thường xuyên chăm lo
xây dựng tiềm lực mọi mặt mà trước hết là tiềm lực chính trị - tinh thần, đặc
biệt coi trọng xây dựng ý thức BVTQ Việt Nam XHCN cho thanh niên, sinh
viên nói chung và thanh niên, học viên trong các nhà trường quân đội nói riêng.
Đặc điểm học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường Sĩ quan chỉ
huy - kỹ thuật Thơng tin
So với thanh niên ngồi qn đội, với quân nhân trong quân đội và học
viên các học viện, trường sĩ quan khác trong toàn quân, học viên đào tạo sĩ quan
cấp phân đội ở Trường Sĩ quan CH - KT Thông tin mang đầy đủ những nét chung
đó là: Họ là những thanh niên phần lớn xuất thân từ nơng thơn, có tuổi đời cịn trẻ,
sức khỏe tốt, có trình độ văn hóa, đang phát triển và hồn thiện phẩm chất chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống, có ý chí quyết tâm cao, sẵn sàng vượt qua mọi khó
khăn gian khổ; có tinh thần yêu nước, có tình cảm và ý thức trách nhiệm đối với
vận mệnh của quê hương đất nước; tin tưởng vào mục tiêu lý tưởng và sự lãnh đạo



của Đảng, vào con đường đi lên CNXH của đất nước; có ý chí quyết tâm cao và
tinh thần tự giác thực hiện nghĩa vụ của người công dân, người quân nhân cách
mạng đối với Tổ quốc; có nguyện vọng phục vụ lâu dài trong quân đội, luôn năng
nổ, nhiệt tình, sơi nổi trong thực hiện nhiệm vụ, năng động, nhạy bén trong cuộc
sống.
Song, do chưa được huấn luyện và trải nghiệm trong các hoạt động
chính trị, quân sự nên ở họ còn bộc lộ những hạn chế nhất định như: chưa
chín chắn, bản lĩnh chính trị chưa vững vàng, khi gặp khó khăn thất bại tạm
thời dễ bi quan chán nản, thiếu kiên trì nhẫn nại; khả năng phân biệt đúng sai
trong tiếp xúc với cái mới còn hạn chế… Mặt khác, do họ xuất thân từ nhiều
tầng lớp xã hội khác nhau, sống ở nhiều vùng miền nên họ mang theo những
phong tục, tập quán và những nét văn hóa đa dạng vào trường. Tất cả những
đặc điểm đó sẽ chi phối, tác động khơng nhỏ đến phát huy vai trò CNYN
trong xây dựng ý thức BVTQ Việt Nam XHCN của học viên đào tạo sĩ quan
cấp phân đội ở Trường Sĩ quan CH - KT Thông tin hiện nay.
Ngồi những nét chung nói trên, học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở
Trường Sĩ quan CH - KT Thơng tin cịn có những nét riêng, đó là:
Mơ hình, mục tiêu, u cầu đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường Sĩ
quan CH - KT Thông tin được xác định: đào tạo ra những sĩ quan tương lai cấp
phân đội bậc đại học, có trình độ chun mơn nghiệp vụ thơng tin; có năng lực
lãnh đạo, chỉ huy cấp trung đội, phát triển lên đại đội, tiểu đồn ở các đơn vị
thơng tin trong tồn qn. Xuất phát từ mơ hình, mục tiêu, u cầu đào tạo đó,
địi hỏi người học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội phải có sự cố gắng, nỗ lực
cao, tích cực, chủ động trong học tập, rèn luyện. Mặt khác, hoạt động thông tin
liên lạc là hoạt động cơ mật, kẻ địch ln tìm mọi cách chống phá; lực lượng
các phân đội thông tin phân tán nhỏ lẻ, phải xử lý những tình huống thơng tin
phức tạp; thường xun sử dụng khối lượng trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, có



giá trị kinh tế cao. Với chức năng lãnh đạo, chỉ huy địi hỏi người sĩ quan thơng
tin cấp phân đội phải có bản lĩnh chính trị kiên định; phẩm chất đạo đức, lối
sống mẫu mực, vững vàng về tâm lý, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm; có năng
lực chỉ huy và trình độ nghiệp vụ thơng tin vững, làm chủ trang bị thiết bị kỹ
thuật thông tin; đồng thời phải là người có năng lực sư phạm, năng lực thu hút,
vận động và thuyết phục quần chúng.
Trong quá trình đào tạo tại trường, học viên đào tạo sĩ quan cấp phân
đội được huấn luyện các môn khoa học cơ sở, cơ bản, khoa học xã hội và
nhân văn, kiến thức chuyên ngành; được bồi dưỡng, rèn luyện thông qua các
hoạt động giáo dục chính trị, đạo đức, giáo dục truyền thống, xây dựng chính
quy và các hoạt động ngoại khóa. Trên cơ sở đó mà thế giới quan, nhân sinh
quan và phương pháp, tác phong khoa học được hình thành, phát triển; hệ
thống tri thức tồn diện được xây dựng và củng cố; tình cảm, niềm tin vào
mục tiêu, lý tưởng của Đảng, vào sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam
XHCN, tình cảm đồng chí đồng đội, yêu mến nghề nghiệp của người sĩ quan
chỉ huy kỹ thuật thông tin tương lai được bồi dưỡng, rèn luyện thường xuyên.
Mặc dù vậy, ở học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội, ý thức giác ngộ
CNYN và thực tiễn phát huy vai trò CNYN chưa cao; hệ thống tri thức về BVTQ
còn thiếu, chưa được trang bị một cách đồng bộ và hệ thống; tình cảm và niềm tin
đối với nhiệm vụ BVTQ cịn ở trình độ cảm tính, chưa có cơ sở khoa học; đặc
biệt, ý chí quyết tâm BVTQ của họ chưa được rèn luyện và thử thách. Đây là đặc
điểm nổi bật, đặt ra thường xuyên và cấp thiết đối với các chủ thể giáo dục của
nhà trường trong việc phát huy vai trò CNYN nói chung và xây dựng ý thức
BVTQ Việt Nam XHCN của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội nói riêng.
Học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội là đối tượng trúng tuyển qua kỳ thi
đại học với các môn khoa học tự nhiên nên ngay từ đầu ở họ đã có kiến thức
khoa học tự nhiên khá vững chắc, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của chuyên



ngành chỉ huy kỹ thuật thơng tin; ở họ có sự nhiệt tình, say mê nghiên cứu sáng
tạo. Kiến thức khoa học tự nhiên tiếp tục được bồi dưỡng, phát triển trong quá
trình học tập tại trường, là cơ sở để họ tiếp thu, lĩnh hội những nội dung mới về
chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ thông tin. Cùng với hệ thống kiến thức của các
môn khoa học khác sẽ giúp người học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội phương
pháp tư duy khoa học, nhạy bén và có hệ thống. Tuy nhiên, ở đối tượng này, hệ
thống tri thức khoa học xã hội nhân văn còn thiếu, am hiểu về truyền thống lịch
sử lại có những hạn chế. Đây là một vấn đề thực tế đặt ra trong việc giáo dục,
phát huy vai trò CNYN để xây dựng ý thức BVTQ Việt Nam XHCN của người
sĩ quan chỉ huy kỹ thuật thông tin tương lai.
Từ khái niệm ý thức BVTQ Việt Nam XHCN và những nét đặc trưng
của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường Sĩ quan CH - KT Thông
tin, chúng tôi quan niệm: Xây dựng ý thức BVTQ Việt Nam XHCN của học
viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường Sĩ quan CH - KT Thông tin là
hoạt động tự giác, có kế hoạch của các chủ thể (con người và tổ chức) với
những hình thức và phương pháp thích hợp nhằm nâng cao nhận thức,
hình thành hệ thống tri thức, tình cảm, niềm tin và ý chí của học viên đối
với sự nghiệp BVTQ Việt Nam XHCN, phù hợp với mục tiêu, mơ hình đào
tạo trở thành người sĩ quan chỉ huy kỹ thuật thông tin của nhà trường; đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao của quân đội, của Binh chủng Thông
tin liên lạc trong giai đoạn cách mạng mới.
Xây dựng ý thức BVTQ Việt Nam XHCN của học viên đào tạo sĩ quan
cấp phân đội sẽ trực tiếp tác động đến việc nâng cao nhận thức về yêu cầu,
nhiệm vụ của cách mạng và quân đội trong tình hình mới; hình thành trong họ
hệ thống tri thức, tình cảm, niềm tin và ý chí quyết tâm BVTQ một cách đúng
đắn; thơng qua đó góp phần rèn luyện bản lĩnh chính trị, lịng tuyệt đối trung
thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân; kiên định mục tiêu độc lập dân


tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Xây dựng ý thức BVTQ Việt Nam XHCN

nhằm giúp cho họ đứng vững trước những thay đổi của thời cuộc, có niềm
tin son sắt vào con đường đi lên của dân tộc, sẵn sàng phục vụ và hy sinh vì
Tổ quốc. Ý thức BVTQ Việt Nam XHCN giúp cho mỗi học viên có đủ khả
năng “miễn dịch” và đấu tranh thắng lợi trước mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn
biến hịa bình” của các thế lực thù địch.
Nội dung xây dựng ý thức BVTQ Việt Nam XHCN của học viên đào tạo
sĩ quan cấp phân đội ở Trường Sĩ quan CH - KT Thơng tin mang tính tồn diện.
Tuy nhiên, xuất phát từ đặc điểm tâm - sinh lý lứa tuổi, trình độ nhận thức, sự
trải nghiệm trong cuộc sống và thực tiễn hoạt động quân sự, v.v. của học viên
đào tạo sĩ quan cấp phân đội, cho nên xây dựng ý thức BVTQ Việt Nam
XHCN của họ cần tập trung vào những nội dung mang tính thiết thực.
Một là, giáo dục cho học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội có những
hiểu biết về tình yêu thương con người, tình yêu quê hương, đất nước, gia
đình, tinh thần cảnh giác cách mạng trước những âm mưu, thủ đoạn chống
phá của kẻ thù. Hai là, giáo dục cho họ về truyền thống lịch sử dân tộc mà
dịng chủ lưu của nó là CNYN, truyền thống đồn kết mn người như một,
quyết tâm giữ nước, không chịu khuất phục trước các thế lực xâm lược ngoại
bang. Sự hiểu biết về lịch sử đất nước, niềm tự hào về truyền thống dân tộc sẽ
là cơ sở giúp mỗi học viên biết tôn trọng, kế thừa và phát huy các giá trị lịch
sử; thấy rõ niềm vinh dự cùng trách nhiệm, nghĩa vụ BVTQ Việt Nam
XHCN. Ba là, xây dựng cho học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội tình cảm,
trách nhiệm đúng đắn đối với Đảng, Nhà nước, đối với chế độ XHCN và
nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới, kiên quyết đấu tranh chống những tư
tưởng và hành động phá hoại sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN.
Bốn là, hình thành ở mỗi học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội tinh thần sẵn
sàng, ý chí quyết tâm cao và hành động tích cực đối với nhiệm vụ BVTQ; sẵn


×