Tải bản đầy đủ (.docx) (185 trang)

Đổi mới công tác thi đua, khen thưởng ở các trung đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (905.65 KB, 185 trang )

1

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, kết quả sử dụng trong luận
án là trung thực, chính xác, có nguồn xuất xứ rõ
ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Vũ Xuân Trường


2

MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.
Các cơng trình khoa học ở nước ngoài liên quan đến đề tài luận án
1.2.
Các cơng trình khoa học ở trong nước liên quan đến đề tài luận án
1.3.
Giá trị của các cơng trình khoa học đã tổng quan và những vấn đề
luận án tập trung nghiên cứu
Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CÔNG TÁC THI


ĐUA, KHEN THƯỞNG VÀ ĐỔI MỚI CÔNG TÁC THI ĐUA,
KHEN THƯỞNG Ở CÁC TRUNG ĐOÀN BỘ BINH TRONG
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
2.1.
Các trung đoàn bộ binh và cơng tác thi đua, khen thưởng ở các trung
đồn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam
2.2.
Quan niệm, những vấn đề có tính ngun tắc đổi mới cơng tác thi đua,
khen thưởng ở các trung đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Chương 3 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THI ĐUA, KHEN THƯỞNG VÀ
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TIẾN HÀNH CÔNG TÁC THI ĐUA,
KHEN THƯỞNG Ở CÁC TRUNG ĐOÀN BỘ BINH TRONG
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
3.1.
Thực trạng cơng tác thi đua, khen thưởng ở các trung đồn bộ binh
trong Quân đội nhân dân Việt Nam
3.2.
Nguyên nhân của thực trạng và một số kinh nghiệm tiến hành
công tác thi đua, khen thưởng ở các trung đoàn bộ binh trong
Quân đội nhân dân Việt Nam
Chương 4 YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG TÁC THI
ĐUA, KHEN THƯỞNG Ở CÁC TRUNG ĐOÀN BỘ BINH
TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.
Những yếu tố tác động và yêu cầu đổi mới công tác thi đua, khen thưởng ở
các trung đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
4.2.
Những giải pháp đổi mới công tác thi đua, khen thưởng ở các trung
đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN

DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIÁ ĐÃ CƠNG
BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

5
10
10
18
28

33
33
62

79
79
104
119
119
130
169
171
172
187


3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


STT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.

Chữ viết đầy đủ
Điển hình tiên tiến
Hạ sĩ quan, binh sĩ
Quân đội nhân dân Việt Nam
Quân nhân chuyên nghiệp
Sẵn sàng chiến đấu
Thi đua, khen thưởng
Thi đua quyết thắng
Trung đoàn bộ binh
Vững mạnh toàn diện
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
ĐHTT
HSQ, BS
QĐNDVN
QNCN

SSCĐ
TĐ, KT
TĐQT
TĐBB
VMTD
XHCN


4

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Thi đua, khen thưởng (TĐ, KT) là một trong những động lực phát triển; biện pháp
quan trọng thúc đẩy các cá nhân, tổ chức trong xã hội hăng hái, nỗ lực phấn đấu không
ngừng trong học tập, lao động và công tác. Công tác TĐ, KT là một bộ phận quan trọng
trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và các đoàn thể cách mạng
nhằm tổ chức, tập hợp, vận động quần chúng, khơi dậy tinh thần yêu nước, khát vọng cống
hiến, tính tích cực, tự giác, năng động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN). Trong Quân đội nhân dân Việt Nam
(QĐNDVN), công tác TĐ, KT là một nội dung cơ bản của công tác tư tưởng; một biện
pháp quan trọng của lãnh đạo, chỉ huy các cấp nhằm tạo động lực, thúc đẩy toàn quân thực
hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng, hồn thiện phẩm chất, năng
lực người quân nhân cách mạng, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh tiêu biểu,
cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện (VMTD).
Các trung đoàn bộ binh (TĐBB) trong QĐNDVN là lực lượng nòng cốt thực hiện
mọi nhiệm vụ của các sư đoàn, quân khu, quân đoàn, nhất là nhiệm vụ huấn luyện, sẵn
sàng chiến đấu (SSCĐ) và chiến đấu. Chất lượng thực hiện các nhiệm vụ, kết quả huấn
luyện, SSCĐ của các TĐBB trực tiếp ảnh hưởng đến sức mạnh chiến đấu, trình độ, khả
năng SSCĐ của các sư đồn bộ binh. Hiện nay, cơng tác TĐ, KT ở các TĐBB được tiến
hành thường xuyên, liên tục, gắn với các mặt công tác, với các nhiệm vụ nhất là các

nhiệm vụ khó khăn, phức tạp và có sự tham gia của đông đảo các tổ chức, lực lượng trong
và ngồi đơn vị. Cơng tác TĐ, KT ở các TĐBB có ý nghĩa, vai trị rất quan trọng, góp
phần tập hợp, cổ vũ, động viên, khơi dậy khát vọng cống hiến của các cá nhân, tập thể,
đem hết tài năng, trí tuệ, sức lực, hăng hái thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị và các
nhiệm vụ khác của các TĐBB, góp phần xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh
tiêu biểu, đơn vị VMTD, các tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân vững mạnh xuất
sắc.
Những năm qua, nhận thức đúng vai trò, tầm quan trọng của công tác TĐ, KT, đa
số các chủ thể, lực lượng ở các TĐBB đã nêu cao vai trò, trách nhiệm trong xác định
các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác TĐ, KT; về
4


5

cơ bản nội dung, hình thức, biện pháp cơng tác TĐ, KT ở các TĐBB đã được triển khai
thực hiện chặt chẽ, bám sát với thực tiễn nhiệm vụ và bước đầu đã mang lại hiệu quả;
kết quả công TĐ, KT ngày càng được nâng lên, góp phần quan trọng nâng cao chất
lượng thực hiện nhiệm vụ của các cá nhân, tổ chức, xây dựng tổ chức đảng trong sạch,
vững mạnh tiêu biểu, đơn vị VMTD. Tuy nhiên, việc thực hiện cơng tác TĐ, KT ở các
TĐBB cịn bộc lộ một số hạn chế, bất cập: một số cấp ủy, cán bộ các cấp và hội đồng
(tổ) thi đua - khen thưởng ở các TĐBB nhận thức có mặt cịn chưa đầy đủ, trách nhiệm
trong lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu, đề xuất và tổ chức thực hiện công tác TĐ, KT có
thời điểm chưa cao; một số nội dung, hình thức, biện pháp cơng tác TĐ, KT đã được
triển khai thực hiện nhưng vẫn còn đơn điệu, sơ cứng, có lúc chưa sát với thực tiễn
nhiệm vụ và đối tượng; kết quả công tác TĐ, KT gắn với việc hoàn thành nhiệm vụ của
một số cá nhân, tổ chức ở các TĐBB có thời điểm chưa thật sự vững chắc.
Hiện nay, những thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới đất nước và yêu cầu thực
hiện thắng lợi các mục tiêu Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đặt ra
nhiều vấn đề đối với đổi mới của công tác TĐ, KT và phong trào thi đua yêu nước. Trước

sự phát triển mạnh mẽ của Cuộc các mạng công nghiệp lần thứ tư; những mối đe dọa của
an ninh phi truyền thống và những tiêu cực của mặt trái cơ chế kinh tế thị trường, sự
chống phá của các thế lực thù địch đã và đang tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, trong đó có cơng tác TĐ, KT. Bên cạnh đó, bệnh “thành tích”, che dấu khuyết điểm,
thổi phồng thành tích, “đánh bóng” tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi; “chạy thành
tích”, “chạy khen thưởng”, “chạy danh hiệu” trong cán bộ, đảng viên và các tổ chức có
nguy cơ bùng phát làm ảnh hưởng đến vai trò, ý nghĩa của công tác TĐ, KT. Trong
những năm tới, trước yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng QĐNDVN cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện
đại; trước sự phát triển về phương hướng, nhiệm vụ công tác TĐ, KT và phong trào thi
đua Quyết thắng (TĐQT) trong toàn quân và nhiệm vụ của các TĐBB, đòi hỏi cần phải
đổi mới mạnh mẽ cơng tác TĐ, KT để góp phần tập hợp, cổ vũ, động viên, khơi dậy khát
vọng cống hiến của sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp (QNCN) và hạ sĩ quan, binh sĩ
(HSQ, BS) ở các TĐBB, khơng ngừng nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn, gian khổ,
hồn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, góp phần xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững
mạnh tiêu biểu, đơn vị VMTD.
5


6

Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Đổi mới công tác thi đua, khen
thưởng ở các trung đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” làm đề
tài luận án tiến sĩ Khoa học Chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền
Nhà nước.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề về lý luận, thực tiễn công tác TĐ, KT và đổi mới
công tác TĐ, KT ở các TĐBB; đề xuất những giải pháp đổi mới công tác TĐ, KT ở các
TĐBB trong QĐNDVN hiện nay.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án; khát quát giá trị của
các cơng trình khoa học đã tổng quan và xác định những vấn đề luận án tập trung nghiên
cứu.
Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn công tác TĐ, KT và đổi mới
công tác TĐ, KT ở các TĐBB trong QĐNDVN.
Đánh giá đúng thực trạng công tác TĐ, KT; xác định nguyên nhân và rút ra một
số kinh nghiệm tiến hành công tác TĐ, KT ở các TĐBB trong QĐNDVN.
Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp đổi mới công tác TĐ, KT ở các
TĐBB trong QĐNDVN hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Công tác TĐ, KT ở các TĐBB trong QĐNDVN.
Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn công tác TĐ, KT và
đổi mới công tác TĐ, KT ở các TĐBB đủ quân thuộc các sư đoàn bộ binh trong
QĐNDVN. Tập trung điều tra, khảo sát ở các TĐBB thuộc Sư đoàn bộ binh 3, Quân khu
1; Sư đoàn bộ binh 395, Quân khu 3; Sư đoàn bộ binh 2, Quân khu 5; Sư đoàn bộ binh 5,
Quân khu 7; Sư đoàn bộ binh 330, Quân khu 9; Sư đoàn bộ binh 312, Quân đoàn 1; Sư
đoàn bộ binh 325, Quân đoàn 2; Sư đoàn bộ binh 9, Quân đoàn 4. Các tư liệu, số liệu điều
tra, khảo sát phục vụ nghiên cứu luận án chủ yếu từ năm 2015 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
6


7

Hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thi đua XHCN, tư tưởng Hồ
Chí Minh về thi đua ái quốc và khen thưởng; pháp luật Nhà nước về TĐ, KT; đường lối,

quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; về xây dựng
QĐNDVN; về cơng tác đảng, cơng tác chính trị, trực tiếp là công tác tư tưởng, công tác
TĐ, KT trong Quân đội.
Cơ sở thực tiễn
Hiện thực công tác TĐ, KT ở các TĐBB trong QĐNDVN; kế thừa có chọn lọc kết
quả nghiên cứu của một số cơng trình khoa học có liên quan; các tư liệu, số liệu, các báo
cáo sơ kết, tổng kết CTĐ, CTCT và công tác TĐ, KT của các sư đoàn, quân khu, quân
đoàn và toàn quân; kết quả điều tra, khảo sát thực tế của tác giả ở các TĐBB trong
QĐNDVN.
Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án sử dụng tổng hợp
các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên ngành; trong đó chú
trọng kết hợp các phương pháp: Phân tích và tổng hợp, lơgíc và lịch sử, thống kê và so
sánh, điều tra xã hội học, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới của luận án
Xây dựng và làm rõ quan niệm, nội dung, hình thức, biện pháp đổi mới công tác
TĐ, KT ở các TĐBB trong QĐNDVN.
Rút ra một số kinh nghiệm tiến hành công tác TĐ, KT ở các TĐBB trong
QĐNDVN.
Đề xuất một số nội dung, biện pháp cụ thể, có tính khả thi trong các giải pháp đổi
mới công tác TĐ, KT ở các TĐBB trong QĐNDVN hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận,
thực tiễn về công tác TĐ, KT và đổi mới công tác TĐ, KT ở các TĐBB trong QĐNDVN
hiện nay.
Góp phần cung cấp thêm những luận cứ khoa học phục vụ các cấp ủy, tổ chức
đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan chức năng ở các TĐBB trong lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới,
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác TĐ, KT.

7



8

Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu giảng dạy, học tập
môn CTĐ, CTCT ở các học viện, trường sĩ quan trong QĐNDVN.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, danh mục các cơng trình khoa
học của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục.

8


9

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các cơng trình khoa học ở nước ngồi liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Các cơng trình khoa học về thi đua, khen thưởng
X.I. Xu-rơ-ni-tren-cơ (1982), Hoạt động tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô
[174]. Trong cuốn sách, tác giả có nhiều bài viết khẳng định về vai trò của thi đua và các
ĐHTT trong xây dựng XHCN. Đồng thời, tác giả cũng làm rõ vai trò, sự cần thiết của tổ
chức đảng trong lãnh đạo phong trào thi đua XHCN. Tác giả cũng đã chỉ rõ một số kết
quả trong tổ chức thi đua XHCN ở Liên Xô như: “phong trào thi đua XHCN đã được
nâng lên một trình độ mới; nội dung của nó đã trở lên sâu sắc hơn, các hình thức đã được
mở rộng, hiệu quả của thi đua đã được nâng cao” [174, tr.60]. Trên cơ sở đó, tác giả đặt ra
những yêu cầu đối với cấp ủy, tổ chức đảng trong tổ chức thi đua XHCN: “Đảng ta cần
triệt để phát triển những nguyên tắc dân chủ của phong trào thi đua XHCN... không

ngừng thực hiện những nguyên tắc của V.I. Lênin về tổ chức thi đua: công khai, so sánh
kết quả, khả năng lắp lại kinh nghiệm trên thực tế” [174, tr.62]. Đối với cấp ủy đảng “các
vấn đề tổ chức thi đua xã hội chủ nghĩa, phổ biến những sáng kiến lớn, kinh nghiệm sản
xuất tiên tiến là đối tượng quan tâm đặc biệt” và “cần quan tâm đặc biệt đến phong trào
thi đua nâng cấp chất lượng cơng tác” [174, tr.64].
Đặng Tiểu Bình (1995), Bàn về cải cách và mở cửa của Trung Quốc [11]. Trong
cuốn sách, khi bàn về vai trò của khen thưởng, tác giả đã khẳng định: “Phải có thưởng có
phạt, thưởng phạt phân minh... Chúng ta thực hiện phương châm lấy cổ vũ tinh thần là
chính, cổ vũ vật chất là phụ. Cấp huy chương, giấy khen là cổ vũ tinh thần, là sự vinh
danh về mặt chính trị. Điều này là cần thiết nhưng cổ vũ bằng vật chất cũng không thể
thiếu được” [11, tr.29]. Do đó, tác giả đặt ra yêu cầu phải khôi phục lại chế độ tiền
thưởng, những người sáng tạo, phát minh phải cấp tiền thưởng, những người có cống hiến
đặc biệt cũng phải cấp tiền thưởng, những người có thành quả quan trọng trong nghiên
cứu khoa học ngồi khuyến khích ban thưởng cho việc phát minh, sáng tạo của họ, cịn có
thể nâng bậc lương của họ. Và nếu họ đã làm mấy năm mà không có thành tích thì nên để
họ chuyển ngành.
Vương Lạc Phu, Tưởng Nguyệt Thần (2000), Khoa học lãnh đạo hiện đại [112].
Theo các tác giả, để tiến hành cơng tác chính trị tư tưởng có hiệu quả cần thực hiện tốt
9


10

phương pháp giáo dục ĐHTT. Tác giả cũng chỉ rõ quan niệm, vai trị của ĐHTT, trong đó
khẳng định: “Trong một quần thể thường có những người tiên tiến, trung bình và chậm
tiến. Những người điển hình tiên tiến đều cố gắng tích cực xây dựng sự nghiệp của chúng
ta” [112, tr.417]. Theo các tác giả, để phát huy vai trò của ĐHTT trong các hoạt động:
trước hết cần căn cứ vào nhiệm vụ trung tâm và nhu cầu phát triển của tình hình để chọn
điển hình; hai là, cần thực sự cầu thị và tuyên truyền điển hình; ba là, cần giáo dục cho
quần chúng có nhận thức đúng đắn, cố gắng học tập ĐHTT. Mặt khác, khi giáo dục

những ĐHTT cần có thái độ đối xử đúng đắn, khiêm tốn thành thật học tập quần chúng,
cố gắng đạt thành tích cao và tiếp tục vươn lên. Để phát huy được tối đa sức mạnh của
con người nói chung và nhân tài nói riêng, tác giả địi hỏi trong nghệ thuật lãnh đạo cần
thực hiện nghiêm chế độ thưởng - phạt:
Chế độ thưởng - phạt là một chế độ khen thưởng vật chất hoặc danh dự đối với
người có thành tích nổi bật và xử phạt đối với người mắc sai lầm. Có ba cách
khen thưởng chủ yếu: khen thưởng danh dự, khen thưởng vật chất và khen
thưởng đề bạt... Thưởng phạt cần phải phân biệt rõ ràng, thỏa đáng và kịp thời.
Bất kỳ thưởng hay phạt đều cần dựa vào tiêu chuẩn nhất định [112, tr.358].
Xắcxavắt Xuânthếpphimmason (2003), Công tác tư tưởng của Đảng Nhân dân
cách mạng Lào hiện nay [173]. Trong phần đánh giá thực trạng công tác tư tưởng của
Đảng Nhân dân cách mạng Lào, tác giả đã làm rõ một số hạn chế, khuyết điểm, trong đó
chỉ rõ: “một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì chưa quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo các
phong trào thi đua, nhất là công tác kiểm tra, giám sát chưa chặt chẽ; thực hiện bình xét
khen thưởng ở một số đơn vị chưa nghiêm túc, chưa tạo được động lực đối với cán bộ,
đảng viên” [173, tr.78]. Để tăng cường công tác tư tưởng của Đảng Nhân dân cách mạng
Lào hiện nay, tác đề xuất các giải pháp như: tăng cường sự lãnh đạo toàn diện tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với hệ thống chính trị và tồn xã hội; phát huy vai trị
tích cực của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị; xây dựng chương trình kế hoạch
CTTT phù hợp với thực tiễn; xây dựng bộ máy và đội ngũ cán bộ làm CTTT tinh gọn,
hoạt động hiệu quả... Trong đó, giải pháp “mở rộng dân chủ, phát huy tự do tư tưởng
trong công tác tư tưởng của Đảng”, tác giả, nhấn mạnh “các tổ chức đảng cần mở rộng
dân chủ, chú trọng đẩy mạnh các phong trào thi đua, để huy động được trí tuệ, sức lực
của đơng đảo cán bộ, đảng viên trong các nhiệm vụ”; đồng thời bên cạnh đó cần làm tốt
“việc phát huy dân chủ trong phân loại, đánh giá cán bộ, đảng viên; tiến hành biểu dương,
khen thưởng kịp thời, cơng bằng, chính xác” [173, tr.110].

10



11

Cục Cán bộ, Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (2005),
Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ đổi mới [34]. Trong cuốn sách, khi luận giải
yêu cầu về sự kết hợp giữa giải quyết vấn đề tư tưởng với giải quyết vấn đề thực tế, tác
giả đã chỉ rõ cần phải “đẩy mạnh các phong trào thi đua để giải quyết các vấn đề trên thực
tế mới nảy sinh, trong thi đua cần phải làm được nhiều hơn nữa những việc được lòng
người, ấm lòng người, ổn định lòng người” [34, tr.248]. Tác giả cũng đã khẳng định cần
phải tổ chức, “triển khai các hoạt động thi đua “hai tốt” - đơn vị phục vụ tốt, các nhân
viên phục vụ tốt; cơ quan tổ chức hoạt động thi đua trở thành “công nhân viên được lịng
dân” [34, tr.257]. Về phương pháp “nêu gương điển hình”, theo tác giả cần tìm ra những
tập thể, cá nhân tiên tiến đáng kính trọng đại diện cho các tầng lớp khác nhau trong tồn
xã hội, “dùng nhiều hình thức để tuyên truyền tạo ra sức cảm hóa, giáo dục mạnh mẽ, thấm
nhuần vào tư tưởng và hành vi của mọi người, quần chúng sẽ học tập, noi theo tạo nên bầu
khơng khí tốt đẹp tơn vinh tiên tiến, học tập và thi đua với tiên tiến trong toàn xã hội” [34,
tr.258]. Tác giả đã khẳng định để phát huy được vai trị của điển hình, “trước hết phải giỏi
phát hiện và nhân rộng điển hình có cơ sở sâu rộng trong quần chúng và mang đậm màu
sắc thời đại… Phải chú trọng giới thiệu tư tưởng và việc làm của họ, triệt để phát huy tác
dụng gương mẫu, lôi cuốn của điển hình… hết sức tránh thổi phồng, xa rời thực tế.” [34,
tr.102].
Sẳmlan Phănkhảvông (2013), Xây dựng cán bộ chuyên trách công tác thi đua,
khen thưởng cấp tỉnh của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào giai đoạn hiện nay
[109]. Tác giả luận án đã làm rõ một số đặc điểm về công tác TĐ, KT và cơ quan chuyên
trách làm công tác TĐ, KT ở các tỉnh, thành phố của Lào, khẳng định: Ở Lào chưa có
Luật TĐ, KT; các tỉnh, thành phố của Lào có các tổ chức làm công tác TĐ, KT như: Hội
đồng TĐ, KT; ban TĐ, KT; các cơ quan chuyên trách này được thành lập và hoạt động
theo Nghị định số 253/TTCP, ngày 19/9/2011 của Thủ tướng Chính phủ Cộng hịa dân
chủ nhân dân Lào về tổ chức và hoạt động của Bộ Nội vụ. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã
tập trung làm rõ khái niệm, vai trị, nội dung, hình thức, nguyên tắc thi đua và khen
thưởng; luận giải khái niệm, vai trị, nội dung cơng tác TĐ, KT ở các tỉnh thành phố của

Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Trên cơ sở đánh giá ưu điểm, hạn chế trong xây dựng
đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác TĐ, KT, theo tác giả để xây dựng đội ngũ cán bộ
chuyên trách này cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau: Nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của cấp ủy tỉnh, thành phố; nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, quản lý, đánh giá đối với cán bộ; đề cao và phát huy tinh thần tự học, tự rèn
của cán bộ; đặc biệt là cần củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy công tác TĐ, KT cấp tỉnh,
11


12

nâng cao chất lượng tổ chức đảng trong các cơ quan chuyên trách công tác TĐ, KT cấp
tỉnh; tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng trong cơ quan TĐ, KT.
Adrian Gostick, Chester Elton (2017), Câu chuyện nhà quản lý Cà rốt và nghệ
thuật khen thưởng [68]. Trong cuốn sách, các tác giả đã làm rõ vai trị của khen thưởng
thơng qua câu chuyện củ Cà rốt, một loại thực phẩm không thể thiếu trong bữa ăn của các
gia đình Âu - Mỹ. Theo các tác giả, nếu cà rốt cần thiết cho mọi người, mọi lúc, mọi nơi
thì mọi lời khen cũng vậy: “Có những lời nói khơng mất tiền mua hay những phần
thưởng tuy khiêm tốn nhưng có thể góp phần tạo ra một mơi trường làm việc mà nhiều
người muốn gắn bó” [68, tr.12]. Thông qua các câu chuyện ngụ ngôn hiện đại và những
luận giải của các tác giả, đã cho thấy tầm quan trọng thực sự của khen thưởng đối với
việc khơi dậy những tiềm năng to lớn trong đội ngũ nhân viên. Các tác giả khẳng định:
“Sự ghi nhận và khen thưởng kịp thời sẽ chứng tỏ rằng các cấp lãnh đạo đang tích cực
bám sát các hoạt động của nhân viên và sẵn sàng dành những phần thưởng xứng đáng cho
những ai có thành tích vượt trội” [68, tr.90]. Mặt khác, các tác giả đã đề xuất cho các nhà
quản lý những chiến lược và giải pháp hữu hiệu, góp phần củng cố lòng trung thành và
tăng cường hiệu năng lực làm việc của nhân viên bằng cách ghi nhận thành tích của họ
thơng qua một phương pháp khen thưởng khá đơn giản gọi là “Bí quyết củ cà rốt”.
Ken Lloyd (2019), 151 Ý tưởng khen thưởng nhân viên [87]. Tác giả cuốn sách đã
nhấn mạnh, làm rõ vai trò, sự cần thiết phải tiến hành khen thưởng đối với nhân viên. Đồng

thời, theo tác giả, khen thưởng cũng phải đúng cách, có phương pháp và cách làm cho phù
hợp để có thể khơi dậy được tinh thần, trách nhiệm của nhân viên. Trong cuốn sách, tác giả
cũng đã đưa ra 151 cách để lãnh đạo, người quản lý áp dụng khen thưởng một cách phù
hợp, đem lại hiệu quả cao nhất. Trong đó, tác giả đã tập trung luận giải một số cách thức,
biện pháp khen thưởng nhân viên như cách sử dụng ngôn từ; tặng những danh hiệu; cho
điểm thưởng; phần thưởng từ các buổi đào tạo; gửi thư khen ngợi thành tích; động viên
khích lệ; đăng bài trên báo; tặng thưởng bằng trang phục…
1.1.2. Các cơng trình khoa học về thi đua, khen thưởng trong lực lượng vũ trang
A.A. Grê-scô (1978), Các lực lượng vũ trang của Nhà nước Xô Viết [69]. Trong
cuốn sách, tác giả đã khẳng định để nâng cao hiệu quả CTĐ, CTCT cần phải chú trọng
mở rộng phong trào thi đua XHCN: “Một trong những hướng hết sức quan trọng của
CTĐ, CTCT trong quân đội là việc mở rộng phong trào thi đua XHCN trong binh sĩ.
Phong trào thi đua XHCN là một phương tiện mạnh mẽ để động viên các chiến sĩ hoàn
12


13

thành nhiệm vụ do Đảng Cộng sản đề ra cho các lực lượng vũ trang [69, tr.527]. Tác giả
đã làm rõ bốn nguyên nhân chủ yếu cần phải đẩy mạnh việc tổ chức thi đua XHCN; chỉ
ra yêu cầu đối với người chỉ huy, các cơ quan chính trị, bộ tham mưu trong tổ chức thi
đua; đồng thời khẳng định: “cần phải triệt để thực hiện những nguyên lý của Lênin về thi
đua xã hội chủ nghĩa, phát triển ở toàn thể binh sĩ, như V.I. Lênin đã dạy, nguyện vọng
nhất thiết phải tiến xa hơn nữa, nhất thiết phải giành được nhiều hơn nữa…” [69, tr.527].
Theo tác giả, cần phải nâng cao hơn nữa vai trò của thi đua, mở rộng các lĩnh vực tác
động của nó đến tất cả các mặt của công tác huấn luyện và cuộc sống của quân đội, lãnh
đạo thi đua một cách cụ thể, nhổ tận gốc những yếu tố của chủ nghĩa hình thức, tạo ra
trong các đơn vị một khơng khí tìm tịi sáng tạo.
A.A. Ê-pi-sép (1980), Cơng tác tư tưởng trong các lực lượng vũ trang Xô Viết
[66]. Trong cuốn sách, tác giả đã khái quát vai trò của TĐ, KT đối với việc giáo dục các

quân nhân trong lực lượng vũ trang: “sự khắc phục khó khăn, cố gắng phấn đấu đạt mục
tiêu đã định, thực hiện chỉ tiêu thi đua XHCN đã cam kết, sẽ giúp cho sự hình thành
những nét quan trọng của thế giới quan như tính triệt để, kiên trì, quyết tâm” [66, tr.59].
Tác giả cho rằng, điều tác động đến nội tâm con người không phải là ở bản thân sự khen
thưởng hay trừng phạt mà là ở chỗ khen thưởng hay trừng phạt có cơng bằng khơng, có
đúng với điều lệnh quy định hay không. Tác giả cũng đã chỉ rõ một số yêu cầu khi thực
hiện khen thưởng: “Hay khen thưởng luôn về những hành động bình thường thì khơng có
tác dụng tích cực mà lại có thể gây cho mọi người quân nhân được khen thái độ tự cao
đối với đồng đội, làm nảy nở cái gọi là tinh thần kiêu ngạo đâm ra coi khen thưởng là lẽ
đương nhiên” [66, tr.140].
P.I. Các-pen-cơ (1981), Cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong các lực lượng vũ
trang Xô Viết [27]. Trong Chương VIII, tác giả đã luận giải rất cụ thể, chi tiết về vấn đề
thi đua XHCN trong Quân đội và Hải quân Xô Viết: làm rõ quan điểm của V.I. Lênin,
Đảng Cộng sản Liên Xô và những nguyên tắc tổ chức thi đua XHCN; chỉ rõ vai trò của
thi đua trong nâng cao SSCĐ; những phương hướng chủ yếu, nội dung cơ bản trong giao
ước thi đua; chỉ ra một số kinh nghiệm tổ chức thi đua XHCN trong phân đội, binh đội,
hạm đội. Theo tác giả, bí quyết của thắng lợi trong thi đua nằm trong cơng tác chính trị tư tưởng và công tác tổ chức hàng ngày, trong việc bảo đảm tính cơng khai rõ ràng, dễ
dàng so sánh kết quả, tích cực phổ biến và vận dụng trong thực tế kinh nghiệm của những
chiến sĩ giỏi. Tác giả đã khẳng định: “Thi đua là công việc sáng tạo và sinh động, khơng
cho phép hình thức chủ nghĩa, hời hợt, rùm beng hay ba hoa. Đảm bảo hiệu lực của thi
13


14

đua chính là sự đồn kết, hợp đồng có mục tiêu trong công tác của cán bộ chỉ huy, cơ
quan tham mưu, cán bộ chính trị, các tổ chức đảng và tổ chức đồn [27, tr.300].
Chương Tư Nghị (2006), Cơng tác chính trị của Qn giải phóng Nhân dân Trung
Quốc trong thời kỳ mới [105]. Tác giả chỉ rõ, những tấm gương điển hình có tác dụng rất
lớn trong việc động viên, giáo dục và thúc đẩy con người. Theo tác giả, “phải dùng mọi

phương tiện để tiến hành tuyên truyền giới thiệu rộng rãi về kinh nghiệm và sự tích của
các tấm gương điển hình. Kiên trì khơng mệt mỏi, chú trọng năng xuất chất lượng hiệu
quả, phát huy đầy đủ và mở rộng vai trò tác dụng của điển hình tiên tiến trong cơng tác
giáo dục bộ đội” [105, tr.416]. Tác giả cũng chỉ rõ, để tăng cường giáo dục, nâng cao ý
thức kỷ luật của quân nhân, u cầu của cơng tác chính trị là phải thực hiện đúng đắn chế
độ thưởng phạt; đối với những đơn vị, cá nhân tuân thủ tốt về kỷ luật, pháp luật thì phải
khen thưởng thích đáng. Theo tác giả, để việc khen thưởng chính xác, hợp lý phải chú ý
đến tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục khen thưởng: “Với bất kỳ ai đều phải căn cứ theo tiêu
chuẩn đã đề ra để thực hiện thưởng phạt… Thực hiện thưởng phạt phải theo trình tự và
quyền hạn theo quy định của tổ chức, phải trên cơ sở phát huy đầy đủ dân chủ tập trung ý
kiến chính xác” [105, tr.102]. Trong thực hiện đường lối quần chúng, tác giả đã chỉ ra
“Tám kinh nghiệm thực hiện đường lối quần chúng” mà Tổng cục Chính trị đã tổng kết
trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật: “Thủ trưởng phụ trách, từng người ra tay; khêu gợi
tư tưởng tự giác của chiến sĩ; đi sâu cổ vũ động viên công tác; phát động thi đua cách
mạng; biểu dương khen ngợi; bồi dưỡng điển hình; vận dụng sách báo; phát huy dân chủ”
[105, tr.123].
Sỏnxay Chănnhalạt (2012), Giáo dục chính trị, tư tưởng cho hạ sĩ quan, binh sĩ
Quân đội nhân dân Lào hiện nay [29]. Theo tác giả để giáo dục chính trị, tư tưởng cho
HSQ, BS, có thể “thơng qua các phong trào thi đua yêu nước, thi đua tìm hiểu truyền
thống lịch sử dân tộc, cách mạng, địa phương, quân đội và đơn vị”, thông qua việc “tiến
hành biểu dương người tốt, việc tốt, học tập các cá nhân, đơn vị điển hình tiên tiến” [29,
tr.57]. Khi phân tích làm rõ những kinh nghiệm trong giáo dục chính trị, tư tưởng cho
HSQ, BS, tác giả đã nhấn mạnh cần phải “tuyên truyền mạnh mẽ, ca ngợi chủ nghĩa anh
hùng, truyền thống yêu nước, các tấm gương người tốt, việc tốt; nhân rộng, quảng bá các
tấm gương điển hình tiên tiến, tích cực làm cho cái tốt ngày càng nảy nở, đẩy lùi cái tiêu
cực lạc hậu” [29, tr.90]. Trong giải pháp “đổi mới và hồn thiện chương trình nội dung,
hình thức, phương pháp giáo dục chính trị cho hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội nhân dân
Lào”, tác giả đã chỉ ra các hình thức, phương pháp cụ thể, trong đó cần chú trọng “đổi
14



15

mới tổ chức các phong trào thi đua trên các mặt, các lĩnh vực, đi sâu vào các hoạt động
gắn với chức trách, nhiệm vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ” [29, tr.128] để giáo dục chính trị, tư
tưởng có hiệu quả và tạo động lực thúc đẩy HSQ, BS hồn thành tốt nhiệm vụ.
Thimsảo Đngchămpa (2016), Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị cho hạ sĩ
quan, binh sĩ ở các trung đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Lào hiện nay [65]. Tác giả đã
làm rõ quan niệm cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ và đặc điểm của các TĐBB Quân đội nhân
dân Lào. Trong phần đánh giá thực trạng chất lượng giáo dục chính trị cho HSQ, BS ở
các TĐBB Quân đội nhân dân Lào, tác giả đã chỉ rõ nhưng ưu điểm trong thực hiện các
phong trào thi đua. Khi đánh giá về công tác khen thưởng, tác giả đã chỉ rõ tính đa dạng
trong đối tượng khen thưởng không chỉ tập trung ở cán bộ, chỉ huy mà cịn có cả hạ sĩ
quan, binh sĩ: “có 25,99% HSQ, BS vinh dự được Đảng, Nhà nước khen thưởng nhân dịp
kỷ niệm 65 năm thành lập Quân đội, trong đó có 15, 23% HSQ, BS được tặng Bằng khen
và 10,76 % được tặng Giấy khen”. Trong giải pháp “đổi mới nội dung, chương trình, vận
dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp giáo dục chính trị cho cho hạ sĩ quan, binh sĩ
ở các trung đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Lào”, tác giả nhấn mạnh cần phải đổi mới
hình thức tổ chức các hoạt động thực tiễn như: “phát động và duy trì thường xuyên phong
trào thi đua sơi nổi trong suốt q trình giáo dục chính trị cho HSQ, BS; coi trọng cơng
tác cổ vũ, động viên bộ đội là hình thức giáo dục động cơ quan trọng... Kết hợp hài hòa
giữa động viên tinh thần với khuyến khích lợi ích vật chất” [65, tr.148].
ChenYa Tien (2019), Lý thuyết quân sự Trung Hoa xưa và nay [146]. Tác giả cuốn
sách đã luận giải những lý thuyết quân sự của Trung hoa gắn với từng giai đoạn cụ thể
như lý thuyết quân sự cổ điển, tư tưởng quân sự Mao Trạch Đông; tư tưởng cải cách quân
sự Đặng Tiểu Bình... Trong lý thuyết quân sự cổ điển của Trung hoa, tác giả nhấn mạnh
và làm rõ hệ thống tưởng thưởng và luật pháp, trong đó khẳng định: “Dựa trên hệ thống
tưởng thưởng, kẻ nào giết được nhiều địch nhất sẽ được thưởng nhiều nhất” [146, tr.55].
Mặt khác, theo tác giả lý thuyết quân sự của Trung Hoa trong tư tưởng của Mao Trạch
Đông, Đặng Tiểu Bình và cho đến nay đều nhấn mạnh vai trị của đội ngũ chính ủy, cơng

tác huấn luyện chính trị và vai trò của việc biểu dương, khen thưởng đối với các binh sĩ
trong quân đội. Tác giả cũng chỉ rõ một trong những yếu tố quan trọng của lý thuyết quân
sự Trung Hoa là phải khơi dậy được sức mạnh tinh thần của các binh sĩ và phát huy vai
trò của các gương chiến đấu dũng cảm, các ĐHTT trong thực hiện nhiệm vụ của quân
đội; đồng thời đặt ra những yêu cầu đối với người chỉ huy, những chính ủy trong quân đội
cần đẩy mạnh việc biểu dương, khen thưởng, tuyên truyền, nhân rộng các ĐHTT.

15


16

1.2. Các cơng trình khoa học ở trong nước liên quan đến đề tài luận án
1.2.1. Các cơng trình khoa học về công tác thi đua, khen thưởng và đổi mới, nâng
cao chất lượng công tác thi đua, khen thưởng của Đảng và Nhà nước
Mai Trường Giang, Viết Anh Đức (2011), Trang vàng thi đua - khen thưởng Việt
Nam [67]. Các tác giả đã khẳng định sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với công tác
TĐ, KT thông qua việc ban hành các chỉ thị, các văn bản luật, nghị định, thơng tư. Bên
cạnh đó, trong cuốn sách các tác giả đã giới thiệu một số nội dung chủ yếu trong Báo cáo
tổng kết công tác TĐ, KT giai đoạn 2005 - 2010, nhấn mạnh thực trạng và chỉ ra nguyên
nhân của những hạn chế trong công tác TĐ, KT chủ yếu do tác động mặt trái kinh tế thị
trường; nhận thức, trách nhiệm của một số lực lượng tham gia chưa tốt; hệ thống pháp
luật về thi đua được xây dựng và ban hành nhưng chưa đồng bộ; bộ máy cán bộ chuyên
trách chưa đáp ứng được yêu cầu. Mặt khác, Trong cuốn sách, các tác giả đã giới thiệu cụ
thể những kết quả, thành tích tiêu biểu của các gương sáng trên các lĩnh vực kinh tế, văn
hóa - xã hội, quốc phịng, an ninh...; đồng thời đã tập trung giới thiệu những thông tin về
nội dung, hình thức của thi đua và khen thưởng; làm rõ chức năng, nhiệm vụ, vai trò của
Ban Thi đua - khen thưởng Trung ương, hội đồng (tổ) thi đua các cấp.
Trần Thị Hà (Chủ nhiệm, 2013), Cơ sở lí luận và thực tiễn đổi mới công tác thi
đua, khen thưởng trong giai đoạn hiện nay [72]. Các tác giả của đề tài đã luận giải

sâu sắc những vấn đề lí luận chung về cơng tác TĐ, KT; hệ thống hóa những quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng,
chính sách của Nhà nước về TĐ, KT. Các tác giả đã khái quát những vấn đề chủ yếu
về TĐ, KT ở các nước: Liên Xô (trước đây), chế độ khen thưởng của Liên bang Nga,
Cộng hòa Pháp, Trung Quốc... Các tác giả đã tập trung khảo sát, đánh giá thực trạng
công tác TĐ, KT và quy định của pháp luật về TĐ, KT; tổ chức bộ máy và cán bộ
làm công tác TĐ, KT, trong đó đã chỉ rõ ưu, khuyết điểm, nguyên nhân. Đồng thời,
các tác giả đã phân tích, làm rõ mục tiêu, nội dung giải pháp chủ yếu đổi mới công
tác TĐ, KT trong giai đoạn hiện nay và đề xuất một số kiến nghị. Nội dung các kiến
nghị tập trung đề nghị với Bộ Chính trị; kiến nghị với Quốc hội; kiến nghị đổi mới
hoạt động của cơ quan truyền thông để tuyên truyền các gương ĐHTT, ứng dụng
công nghệ thông tin trong hệ thống tổ chức TĐ, KT; củng cố và nâng cao chất lượng
hoạt động của hội đồng TĐ, KT các cấp; đẩy mạnh bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp
vụ cho cán bộ làm công tác TĐ, KT; thành lập viện nghiên cứu, bồi dưỡng, đào tạo
cán bộ TĐ, KT. Đề tài cũng đã rút ra một số kinh nghiệm của một số nước tư bản trong
thực hiện công tác khen thưởng.
Nguyễn Khắc Hà (2015), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên
16


17

trách công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta hiện nay [71]. Tác giả luận án đã làm rõ
khái niệm, vai trị cơng tác TĐ, KT; chỉ ra những đặc điểm cơ bản của công tác TĐ, KT
ở nước ta hiện nay: một là, công tác TĐKT là hoạt động liên quan đến đông đảo nhân
dân, diễn ra trên phạm vi rộng lớn trong thời gian khá dài; hai là, công tác TĐKT ở
nước ta hiện nay là hoạt động của các tổ chức trong HTCT và các tổ chức khác trong xã
hội, song chủ yếu là hoạt động của các tổ chức trong HTCT dưới sự lãnh đạo của các
cấp ủy đảng; ba là, công tác TĐKT ở nước ta hiện nay chịu tác động của việc xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vừa có hợp tác, vừa có cạnh

tranh; đồng thời vẫn còn chịu tác động của tâm lý, tập tập quán của người sản xuất nhỏ,
hoạt động lâu dài trong cơ chế hành chính, tập trung bao cấp và trong chiến tranh. Tác
giả đã đưa ra quan niệm, vai trò, đặc điểm của cán bộ, lãnh đạo, quản lý chuyên trách
công TĐ, KT. Tác giả đã làm rõ những giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý chun trách cơng tác TĐ, KT, trong đó nhấn mạnh cần phải “Nâng cao
nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, lãnh đạo đơn vị về vị trí, vai trị của TĐ,
KT và việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên trách công tác TĐ, KT
trong tình hình mới” [71, tr.135].
Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương (2018), 70 năm thi đua yêu nước (1948
- 2018) [6]. Trong cuốn sách, tác giả đã làm rõ những kết quả đã đạt được và rút ra
những bài học kinh nghiệm trong tổ chức các phong trào thi đua yêu nước từ Đại hội
Thi đua toàn quốc lần I (5/1952) đến Đại hội Thi đua toàn quốc lần IX (12/2015.
Trong giai đoạn đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước (2001 - 2018), tác giả khẳng định:
Các cấp các ngành đã phát động nhiều phong trào thi đua yêu nước sâu rộng,
đều khắp, đem lại hiệu quả thiết thực, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi
các mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh. Qua
phong trào thi đua đã xuất hiện nhiều gương người tốt, việc tốt, nhiều tập thể cá
nhân điển hình tiên tiến, lập nhiều thành tích xuất sắc trên các lĩnh vực… [6,
tr.208].
Tác giả đã chỉ ra những chặng đường lịch sử của phong trào thi đua yêu nước qua
các thời kỳ cách mạng cho đến công cuộc đổi mới hiện nay với những mơ hình, gương
điển hình tiên tiến và những kết quả cụ thể trong thực hiện phong trào thi đua yêu nước
của các cơ quan, địa phương, đơn vị; đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải đẩy mạnh
17


18

công tác tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước về cơng tác TĐ, KT.
Việt Hà, Mai Chi (2020), “Một số giải pháp đổi mới khen thưởng cấp nhà nước cho
tổ chức, các nhân nước ngoài đáp ứng yêu cầu hội nhập” [73]. Các tác giả đã khẳng định,
khen thưởng cho tổ chức, cá nhân nước ngồi có vị trí, vai trị quan trọng trong công tác
TĐ, KT: “khen thưởng cho tổ chức, các nhân nước ngoài thể hiện sự ghi nhận, biểu
dương thành tích, sự tri ân sâu sắc đến các tập thể, cá nhân nước ngồi có cơng lao đóng
góp vào cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam” [73, tr.18]. Trên cơ sở chỉ ra
kết quả đạt được trong công tác khen thưởng, các tác giả đã đề xuất một số biện pháp đổi
mới công tác khen thưởng cho tổ chức, các nhân nước ngoài trong thời kỳ CNH, HĐH và
hội nhập quốc tế: Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức của cấp ủy đảng, chính quyền về
tầm quan trọng của khen thưởng tổ chức cá nhân, nước ngoài. Hai là, tiếp tục nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác tham mưu của cơ quan chuyên trách cơng tác TĐ, KT. Ba
là, hồn thiện thể chế chính sách khen thưởng tổ chức cá nhân nước ngoài. Bốn là, cần
thực hiện phân cấp, phê duyệt chủ trương khen thưởng cho các tổ chức cá nhân nước
ngoài. Năm là, đổi mới phương thức phối hợp giữa cơ quan làm cơng tác khen thưởng
với các cơ quan có liên quan. Sáu là, đổi mới quy trình thủ tục hồ sơ khen thưởng cấp nhà
nước đảm bảo việc khen thưởng được chính xác, đúng đối tượng.
Nguyễn Phú Trọng (2020), “Bài phát biểu tại Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc
lần thứ X” [152]. Trong bài phát biểu, tác giả đã nhấn mạnh “cơng tác TĐ, KT có tầm
quan trọng đặc biệt góp phần tạo ra động lực thúc đẩy các hoạt động cách mạng” [152,
tr.2]. Tác giả đã khẳng định những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước
và những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong 5 năm qua có sự đóng
góp tích cực của phong trào thi đua yêu nước. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, tác
giả đã chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm của công tác TĐ, KT: “Hội đồng TĐ-KT ở một
số đơn vị chưa thực hiện tốt công tác tham mưu, kiểm tra, giám sát và thực hiện công tác
TĐ, KT theo đúng chức năng, nhiệm vụ được giao” [152, tr.3]. Để thực hiện tốt công tác
TĐ, KT trong thời gian tới, tác giả nhấn mạnh thêm một số vấn đề chủ yếu sau: Thứ nhất,
tiếp tục quán triệt, triển khai, tuyên truyền và tổ chức thực hiện thật tốt các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng, nhất là
quán triệt sâu sắc tư tưởng thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thứ hai, tổ chức

các phong trào thi đua cần có mục tiêu thiết thực, cụ thể gắn với việc thực hiện nhiệm vụ
18


19

chính trị, phát triển kinh tế - xã hội và phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Thứ
ba, nâng cao chất lượng công tác khen thưởng, tạo chuyển biến mạnh mẽ và thực chất,
bảo đảm khen thưởng chính xác, kịp thời, cơng khai, minh bạch, có tác dụng giáo dục và
nêu gương. Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền các phong trào thi đua, phối
hợp với cơ quan thông tin đại chúng phát hiện, tuyên truyền, nhân rộng ĐHTT, nêu
gương người tốt, việc tốt nhằm thúc đẩy, cổ vũ phong trào thi đua yêu nước, góp phần tạo
động lực thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Thứ năm, thi đua phải bảo đảm
sự lãnh đạo của Đảng, gắn liền với tổng kết, rút kinh nghiệm và khen thưởng.
Xuân Hồng, Thế Kiệt (2021), “Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước góp
phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng” [79]. Các tác giả đã khái
quát, luận giải một số quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua yêu
nước; đồng thời làm rõ vai trò, ý nghĩa của thi đua và khẳng định, trong những năm
qua phong trào thi đua yêu nước đã góp phần quan trọng vào những thành tựu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong giai đoạn cách mạng
mới, việc đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước góp phần thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng là rất cần thiết, trong đó, theo các tác giả cần tập trung
vào một số biện pháp sau: Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công
tác TĐ, KT và phong trào TĐQT ở tất cả các cấp, các ngành và mỗi địa phương. Hai
là, xác định mục tiêu, nội dung thi đua vừa có tính tồn diện vừa có tính đột phá vào
những trọng tâm, trọng điểm, nhất là những khâu khó, những mặt yếu của từng địa
phương, đơn vị. Ba là, việc bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng ĐHTT phải được coi là
nhiệm vụ thường xuyên. Bốn là, gắn kết các phong trào thi đua yêu nước với thực
hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Nguyễn Thế Anh (2021), Thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng ở Việt Nam
hiện nay [1]. Tác giả luận án đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về thực hiện pháp
luật TĐ, KT bao gồm: khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò, các hình thức thực hiện
pháp luật TĐ, KT và các yếu tố tác động tới thực hiện pháp luật TĐ, KT ở Việt Nam. Tác
giả luận án cũng đã làm rõ các quy định khen thưởng của một số nước trên thế giới gồm
như Cu Ba, Trung Quốc, Thái Lan và một số quốc gia khác như Anh, Hoa Kỳ, Pháp, trên
cơ sở đó chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt so với thực hiện pháp luật thi đua,
khen thưởng ở Việt Nam. Tác giả đã phân tích, đánh giá khái quát quá trình phát triển của
pháp luật TĐ, KT ở Việt Nam, thực trạng thực hiện pháp luật TĐ, KT ở Việt Nam, chỉ ra
19


20

những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của kết quả, hạn chế. Trên cơ sở đó, tác giả đã
xác định 04 quan điểm.và đề xuất 06 giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật TĐ,
KT ở Việt Nam hiện nay: Một là, nâng cao nhận thức trong thực hiện pháp luật TĐ, KT;
Hai là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật TĐ, KT; Ba là, nâng cao chất lượng, đổi
mới hoạt động của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng các cấp và cơ quan làm công tác TĐ,
KT; Bốn là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác TĐ, KT; Năm là, tiếp tục
đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng thành tựu công nghệ thông tin trong thực hiện
pháp luật TĐ, KT; Sáu là, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý khiếu nại tố
cáo trong thực hiện pháp luật TĐ, KT.
Đỗ Đức Dương (2022), “Những yêu cầu đặt ra về quản lý Nhà nước đối với
công tác thi đua, khen thưởng” [42]. Tác giả đã nhấn mạnh, làm rõ tính tất yếu khách
quan, quan niệm về quản lý Nhà nước đối với công tác TĐ, KT; đồng thời chỉ rõ
những kết quả đã đạt được trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện quản lý Nhà
nước đối với công tác TĐ, KT. Theo tác giả, trong những năm tới để nâng cao công
tác quản lý Nhà nước về TĐ, KT cần tập trung một số vấn đề sau: Một là, các cơ
quan, đơn vị, địa phương tiếp tục quán triệt sâu sắc những quan điểm, chủ trương,

chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về TĐ, KT. Hai là, đào tạo đội ngũ cán bộ
làm cơng tác TĐ, KT có năng lực, phẩm chất, đạo đức, lối sống. Ba là, thường xuyên
đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức thực hiện các phong trào thi đua
yêu nước. Bốn là, làm tốt công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, nhân rộng
ĐHTT trong cơng tác TĐ, KT.
1.2.2. Các cơng trình khoa học về công tác thi đua, khen thưởng và đổi mới,
nâng cao chất lượng công tác thi đua, khen thưởng trong Quân đội nhân dân Việt
Nam
Mai Hồng Bỉnh (Chủ nhiệm, 2011), Nâng cao chất lượng công tác thi đua, khen
thưởng ở đơn vị cơ sở trong quân đội hiện nay [10]. Các tác giả của đề tài đã phân
tích, làm rõ những vấn đề lý luận về nâng cao chất lượng công tác TĐ, KT ở đơn vị cơ
sở trong quân đội, trong đó đã xây dựng và luận giải được quan niệm:
Công tác TĐ, KT ở đơn vị cơ sở trong qn đội là hoạt động có mục đích, có kế
hoạch, có tổ chức của cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, các tổ chức quần
chúng trong việc sử dụng các biện pháp công tác tư tưởng, tổ chức, chính sách tác
động vào đối tượng thi đua, khen thưởng nhằm giáo dục, cổ vũ động viên, tập
hợp, tổ chức cán bộ, chiến sĩ phát huy tài năng, trí tuệ sáng tạo vào các lĩnh vực
20


21

hoạt động, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, nâng cao chất lượng tổng hợp
và sức mạnh chiến đấu, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao [10, tr.16].
Các tác giả đã làm rõ quan niệm về chất lượng và nhóm tiêu chí đánh giá chất lượng;
phân tích, làm rõ quan niệm và những vấn đề có tính nguyên tắc nâng cao chất lượng công
tác TĐ, KT ở đơn vị cơ sở trong quân đội. Các tác giả đã tập trung đánh giá thực trạng chất
lượng công tác TĐ, KT ở đơn vị cơ sở trong quân đội, chỉ ra nguyên nhân và bài học kinh
nghiệm. Mặt khác, các tác giả đã đưa ra dự báo những nhân tố tác động, yêu cầu và đề xuất
một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác TĐ, KT ở đơn vị cơ sở trong quân đội hiện

nay.
Đinh Tiến Dũng (2016), Cơng tác tư tưởng - văn hóa trong xây dựng Quân đội
nhân dân Việt Nam [40]. Trong cuốn sách, tác giả đã đánh giá tổng quát công tác tư tưởng
- văn hóa giai đoạn 1975 - 2015, trong đó chỉ rõ: “Trong thi đua vẫn còn tách rời giữa thi
đua với khen thưởng, các cuộc vận động, các phong trào nhiều nhưng xuất hiện sự chồng
chéo, thiếu sự kết hợp chặt chẽ” [40, tr.90]. Mặt khác, tác giả đã đề xuất sáu giải pháp cần
thực hiện đối với công tác tư tưởng - văn hóa, trong đó cần tập trung “khẩn trương nghiên
cứu giải pháp lồng ghép các cuộc vận động, các phong trào của toàn quân và các ngành
để tạo thành, xây dựng một cuộc vận động thi đua yêu nước lớn trong toàn quân, hướng
về cơ sở, lấy cấp tiểu đoàn, trung đoàn (tương đương) làm trọng tâm chỉ đạo hướng dẫn”
[40, tr.234]. Tác giả đã làm rõ vai trò, đặc điểm, những hạn chế của cấp cơ sở đặc biệt là
ở cấp tiểu đoàn, trung đoàn (tương đương) trong thực hiện phong trào thi đua; đặt ra yêu
cầu cụ thể cần nghiên cứu sự lồng ghép những nội dung, tiêu chuẩn của các phong trào,
các cuộc vận động mang tính tồn qn để phục vụ cho hoạt động ở đơn vị cơ sở; tiếp tục
nghiên cứu và tổ chức lại cơ quan chỉ đạo và cơ quan thường trực phụ trách thi đua và
bảo đảm sự phối hợp các hoạt động của từng ngành trong toàn quân.
Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị (2018), Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng
trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay [35]. Trong cuốn sách, tập thể tác giả đã chỉ
rõ, công tác TĐ, KT là một trong chín nội dung chủ yếu của cơng tác tư tưởng trong quân
đội hiện nay. Trong phần đánh giá thực trạng công tác tư tưởng, tác giả cũng đã chỉ rõ
những ưu điểm đạt được trong thực hiện công tác TĐ, KT. Về những hạn chế, khuyết
điểm, tác giả đã khẳng định: việc tổ chức phong trào thi đua ở một số đơn vị chưa thực
chất, hiệu quả thấp; khen thưởng thiếu kịp thời, chưa sát đối tượng; tỷ lệ khen thưởng
21


22

chưa cân đối, có đơn vị khen thưởng nhiều cho lãnh đạo, chỉ huy... Trong giải pháp đổi
mới nội dung, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức phương pháp tiến hành công tác

tư tưởng phù hợp với thực tiễn xây dựng và chiến đấu của quân đội, tập thể tác giả nhấn
mạnh cần phải gắn hoạt động TĐ, KT với nhiệm vụ chính trị của đơn vị, tổ chức thực
hiện thắng lợi phong trào thi đua trong quân đội. Biểu dương, khen thưởng kịp thời cách
làm hay, sáng tạo, những tấm gương ĐHTT trong huấn luyện, chiến đấu, cứu hộ, cứu nạn,
xóa đói giảm nghèo, kết hợp đẩy mạnh phong trào TĐQT với tuyên truyền, cổ vũ động
viên các nhân tố mới, ĐHTT, gương người tốt, việc tốt trên mọi lĩnh vực.
Bùi Quang Cường (Tổng Chủ biên, 2019), Lý luận và thực tiễn xây dựng Quân đội
Nhân dân Việt Nam về chính trị [38]. Trong giải pháp “Tăng cường đổi mới nội dung,
phương pháp công tác tư tưởng của Đảng trong quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách
cách mạng, nhiệm vụ quân đội trong tình hình mới” [38, tr.142], các tác giả nhấn mạnh ngoài
việc đổi mới nội dung, phương pháp cơng tác dục chính trị, cơng tác tun tuyền cổ động,
cơng tác văn hóa quần chúng, cịn cần “đổi mới nội dung, phương pháp cơng tác thi đua,
khen thưởng” [38, tr.149]. Trên cơ sở làm rõ vai trò của TĐ, KT trong quân đội là một biện
pháp tổ chức thực tiễn, một phương pháp cách mạng tích cực để động viên trí sáng tạo, ý chí
quyết tâm, năng lực hành động, nhằm tạo nên phong trào cách mạng của quần chúng, thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ của cách mạng, của quân đội, các tác giả đã khẳng định để đổi mới
công tác TĐ, KT cần tập trung thực hiện tốt các khâu, bước: Từ việc lập kế hoạch và tổ chức
thực hiện kế hoạch thi đua; duy trì và mở rộng phong trào thi đua và thực hiện có nền nếp sơ
kết, tổng kết rút kinh nghiệm thi đua.
Phạm Tiến Dũng (2019), “Kết quả và kinh nghiệm tổ chức công tác thi đua, khen
thưởng và phong trào thi đua Quyết thắng của Học viện Chính trị giai đoạn 2014-2019”
[41]. Tác giả đã chỉ rõ những kết quả đã đạt được trong công tác TĐ, KT và phong trào
TĐQT của Học viện Chính trị trong những năm qua. Trong đó, tác giả nhấn mạnh,
Thường vụ Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện đã làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
triển khai thực hiện tốt công tác TĐ, KT và phong trào TĐQT; đã thực hiện tốt các hoạt
động thi đua trọng điểm; công tác khen thưởng đã được triển khai thực hiện chặt chẽ,
nghiêm túc. Trên cơ sở những kết quả đã đạt được, tác giả rút ra một số kinh nghiệm
trong tổ chức công tác TĐ, KT và phong trào TĐQT như: Thứ nhất, quán triệt sâu sắc
các chỉ thị, nghị quyết, hướng dẫn của trên, tạo sự chuyển biến cơ bản, vững chắc trong
nhận thức của cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp. Thứ hai, cần coi trọng công tác giáo dục,

22


23

xây dựng động cơ thi đua đúng đắn. Thứ ba, công tác TĐ, KT và phong trào TĐQT phải
được tổ chức một cách khoa học, luôn đổi mới sáng tạo cả về nội dung, hình thức, biện
pháp. Thứ tư, làm tốt công tác phát hiện bồi dưỡng, xây dựng và nhân rộng các ĐHTT.
Thứ năm, cần tăng cường chỉ đạo xây dựng điểm, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm.
Tổng cục Chính trị (2020), Kỷ yếu Đại hội thi đua Quyết thắng toàn quân lần thứ
X [149]. Trong Phần thứ nhất của kỷ yếu, đã thể hiện rõ các văn kiện chủ yếu của Đại hội
TĐQT toàn quân lần thứ X như: Báo cáo tổng kết công tác TĐ, KT và phong trào TĐQT
với tiêu đề “Phát huy bản chất cách mạng, truyền thống quân đội anh hùng và phẩm chất
cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, toàn quân đẩy mạnh thi đua hồn thành thắng lợi nhiệm vụ, góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [149, tr.11]; “Thư gửi cán bộ,
chiến sĩ, quân nhân chun nghiệp. cơng nhân viên chức, người lao động tồn quân” [149,
tr.59]. Trong Phần thứ hai của kỷ yếu, đã thể hiện rõ các báo cáo ĐHTT tại Đại hội TĐQT tồn
qn lần thứ X: trong đó có 39 báo cáo của các tập thể và 25 báo cáo của các cá nhân ĐHTT
với những cách làm hay, mơ hình sáng tạo trong thực hiện công tác TĐ, KT và phong trào
TĐQT, góp phần quan trọng vào việc hồn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ của các cơ quan, đơn
vị. Mặt khác, trong Phần thứ ba của kỷ yếu, cũng đã giới thiệu cụ thể một số tư liệu về Đại hội
TĐQT toàn quân lần thứ X như: một số thông tin về thời gian, địa điểm và đại biểu tham gia
Đại hội; danh sách 03 tập thể được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân
dân (Tổng cục II, Bộ Quốc phòng; Viện 78 (nay là Cục 78), Tổng cục II, Bộ Quốc phòng; Cục
Đối ngoại, Bộ Quốc phòng); 17 cá nhân được tặng danh hiệu “Chiến sĩ Thi đua toàn quốc”
giai đoạn 2015-2020 và 157 tập thể, 143 cá nhân ĐHTT tham dự Đại hội TĐQT toàn quân lần
thứ X.
Nguyễn Trọng Nghĩa (2020), “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác thi đua, khen thưởng trong Quân đội” [106]. Tác giả đã chỉ rõ những kết quả đạt được
trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo công tác TĐ, KT và phong trào TĐQT; việc thực hiện các

nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức thi đua; việc tuyên truyền, tôn vinh, nhân rộng
ĐHTT và việc thực hiện công tác khen thưởng… Bên cạnh kết quả nổi bật, tác giả cũng chỉ
rõ việc đổi mới cơng tác TĐ, KT vẫn cịn có mặt hạn chế như: công tác lãnh đạo, chỉ đạo của
một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị có mặt
chưa đúng mức; chưa có nhiều ĐHTT có phạm vi lan tỏa sâu rộng trong toàn quân, toàn
quốc; việc khen thưởng có biểu hiện chưa cân đối, chạy theo số lượng. Theo tác giả, để đổi
mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công TĐ, KT trong Quân đội thời gian tới, cần tập trung
23


24

thực hiện tốt một số biện pháp sau: Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị
của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị về cơng tác thi đua,
khen thưởng. Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng đối với công tác TĐ,
KT và phong trào TĐQT. Ba là, tích cực đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức
phong trào thi đua. Bốn là, thực hiện tốt công tác xây dựng, bồi dưỡng và nhân ĐHTT. Năm
là, tiếp tục đổi mới công tác khen thưởng, bảo đảm chính xác, kịp thời, dân chủ, chặt chẽ,
đúng đối tượng, tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục, hồ sơ.
Nguyễn Đình Khiêm (2021), “Sư đồn bộ binh 395 đẩy mạnh phong trào Thi đua
Quyết thắng” [82]. Tác giả đã nhấn mạnh để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ huấn luyện,
SSCĐ và các nhiệm vụ khác của Sư đoàn, cần phải tiến hành đồng bộ nhiều chủ trương,
giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo; trong đó, đẩy mạnh phong trào TĐQT là nội dung, giải pháp
quan trọng, tạo động lực thúc đẩy các cơ quan, đơn vị và từng cá nhân khắc phục khó
khăn, thi đua hồn thành tốt nhiệm vụ được giao, xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững
mạnh “tiêu biểu, mẫu mực”, Sư đoàn vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”. Trên cơ
sở những kết quả đã đạt được, tác giả khái quát và làm rõ một số kinh nghiệm trong tổ
chức phong trào TĐQT của Sư đoàn bộ binh 395 như: Một là, tăng cường tuyên truyền,
giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về công tác TĐ, KT và phong trào
TĐQT; Hai là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, chính ủy, chính trị

viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp; Ba là, tích cực đổi mới nội dung, hình
thức, phương pháp tổ chức phong trào TĐQT; Bốn là, kết hợp chặt chẽ giữa thi đua với
khen thưởng; kịp thời phát hiện, lựa chọn, bồi dưỡng, nhân rộng ĐHTT.
Nguyễn Minh Trí (2022), “Giá trị luận điểm “Thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu
hoạch” - Ý nghĩa đối với phong trào thi đua ở đơn vị cơ sở” [150]. Tác giả đã làm rõ vai trò,
mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng. Trong đó, tác giả đã tập trung luận giải và khẳng
định: Thi đua là nền tảng của khen thưởng; khen thưởng là động lực để thúc đẩy phong trào thi
đua; thi đua và khen thưởng có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Theo tác giả, để giải quyết tốt
mối quan hệ giữa thi đua với khen thưởng, các đơn vị cơ sở trong quân đội cần nắm vững và
thực hiện tốt một số vấn đề sau: Một là, quán triệt sâu sắc tư tưởng thi đua yêu nước của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, bám sát nội dung định hướng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, sự lãnh đạo của
Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phịng đối với cơng tác TĐ, KT. Hai là, đẩy mạnh phong trào
TĐQT ở đơn vị, nhất là cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng xứng danh
Bộ đội Cụ Hồ”. Ba là, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác khen thưởng, tạo chuyển biến
mạnh mẽ và thực chất, bảo đảm khen thưởng chính xác, kịp thời, cơng khai, minh bạch, có tác
24


25

dụng động viên, giáo dục, nêu gương. Bốn là, thường xuyên kiểm tra, đánh giá, sơ kết, tổng
kết khen thưởng kịp thời đối với các tập thể, cá nhân lập thành tích xuất sắc trong các phong
trào thi đua và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
1.3. Giá trị của các cơng trình khoa học đã tổng quan và những vấn đề luận án
tập trung nghiên cứu
1.3.1. Giá trị của các cơng trình khoa học đã tổng quan đối với đề tài luận án
Có thể khẳng định, những cơng trình khoa học nghiên cứu về TĐ, KT, công tác
TĐ, KT và đổi mới, nâng cao chất lượng công tác TĐ, KT của các tác giả nước ngoài và
trong nước đã được công bố là tương đối đa dạng, phong phú. Đặc biệt, về vấn đề đổi
mới công tác TĐ, KT trong QĐNDVN đã có một số tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc

độ. Các cơng trình trên mặc dù có đối tượng và phạm vi nghiên cứu khác nhau, song đây
đều là những cơng trình khoa học tiêu biểu được nghiên cứu cơng phu, nghiêm túc, có giá
trị khoa học cả về lý luận và thực tiễn. Có thể khái qt giá trị của các cơng trình khoa
học đã tổng quan đối với đề tài luận án, trên một số vấn đề sau:
Một là, các cơng trình khoa học đã tổng quan ở trong và ngoài nước, giúp cho đề
tài luận án có thể nghiên cứu, kế thừa, luận giải rõ hơn lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
quan điểm của các đảng cộng sản, tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua và khen thưởng;
đồng thời giúp cho đề tài luận án có cơ sở lý luận để làm rõ quan niệm, vai trị, nội dung,
hình thức, biện pháp, mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng ở các TĐBB trong
QĐNDVN. Trong đó, các cơng trình khoa học đã tổng quan chỉ rõ vai trị của TĐ, KT
chính là động lực quan trọng để thúc đẩy các cá nhân, tập thể hoàn thành tốt nhiệm vụ;
đồng thời nhấn mạnh thi đua và khen thưởng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, là cơ sở,
là tiền đề cho nhau và đặt ra yêu cầu khi tiến hành thi đua phải phát huy được tính tự giác,
sáng tạo của quần chúng; khen thưởng phải cơng bằng, chính xác; các cấp ủy, tổ chức
đảng phải quan tâm, chú trọng lãnh đạo chặt chẽ.
Hai là, các cơng trình khoa học đã tổng quan cung cấp cho đề tài luận án cơ sở
khoa học trong việc làm rõ đối tượng, phạm vi nghiên cứu và những vấn đề lý luận về
công tác TĐ, KT; đổi mới, nâng cao chất lượng công tác TĐ, KT. Trong đó, các cơng
trình khoa học đã tổng quan, tập trung luận giải, làm rõ quan niệm, vai trị, nội dung,
đặc điểm của cơng tác TĐ, KT; chỉ rõ quan niệm, vai trò, biện pháp phát hiện, bồi
dưỡng, nhân ĐHTT và làm rõ vai trò, đặc điểm của đội ngũ cán bộ làm công tác TĐ,
25


×