Tải bản đầy đủ (.doc) (231 trang)

Nâng cao năng lực giảng dạy chính trị của đội ngũ chính trị viên ở các trung đoàn bộ binh trong quân đội nhân dân việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1000.16 KB, 231 trang )

LI CAM OAN

công trình
Các số liệu,

Tôi xin cam đoan đây là
nghiên cứu của riêng tôi.
kết quả nêu trong luận

án là trung thực,
có nguồn gốc, xuất xứ rõ
ràng.

Tác giả luận
án

Đoàn
Khắc Mạnh


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4

Chữ viết đầy đủ
Công tác đảng, công tác chính trị
Chính trị quốc gia
Chính trị viên


Quân ủy Trung ương

Chữ viết tắt
CTĐ, CTCT
CTQG
CTV
QUTW



MỤC LỤC
trang

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1.
1.2.
1.3.

Chương 2

2.1.
2.2.
Chương 3

3.1.

3.2.
Chương 4

Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến đề tài
Các công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài
Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố có liên
quan đến đề tài và những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN
NÂNG CAO NĂNG LỰC GIẢNG DẠY CHÍNH TRỊ CỦA
ĐỘI NGŨ CHÍNH TRỊ VIÊN Ở CÁC TRUNG ĐOÀN BỘ
BINH TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

Đội ngũ chính trị viên và năng lực giảng dạy chính trị
của đội ngũ chính trị viên ở các trung đoàn bộ binh trong
Quân đội nhân dân Việt Nam
Những vấn đề cơ bản về nâng cao năng lực giảng dạy
chính trị của đội ngũ chính trị viên ở các trung đoàn bộ
binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam

THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ KINH
NGHIỆM NÂNG CAO NĂNG LỰC GIẢNG DẠY
CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ CHÍNH TRỊ VIÊN Ở CÁC
TRUNG ĐOÀN BỘ BINH TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN
DÂN VIỆT NAM

5
10
10
14

30

34
34
62

81

Thực trạng nâng cao năng lực giảng dạy chính trị của đội
ngũ chính trị viên ở các trung đoàn bộ binh trong Quân
đội nhân dân Việt Nam
81
Nguyên nhân và một số kinh nghiệm nâng cao năng lực
giảng dạy chính trị của đội ngũ chính trị viên ở các trung
đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam
105
YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG
LỰC GIẢNG DẠY CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ CHÍNH
TRỊ VIÊN Ở CÁC TRUNG ĐOÀN BỘ BINH TRONG
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY

120

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

175
176


4.1.

Sự tác động của tình hình, nhiệm vụ và yêu cầu nâng cao năng
lực giảng dạy chính trị của đội ngũ chính trị viên ở các trung
đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
120
4.2.
Những giải pháp nâng cao năng lực giảng dạy chính trị của
đội ngũ chính trị viên ở trung đoàn bộ binh trong Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay
130
KẾT LUẬN
173


PHỤ LỤC

192


5
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Giảng dạy chính trị trong quân đội là một hình thức cơ bản của công
tác tư tưởng, là một nội dung, hình thức cơ bản của công tác giáo dục lý
luận chính trị trong quân đội, có vai trò quan trọng trong truyền bá lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tình hình nhiệm vụ của
cách mạng, nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu của quân đội; đấu tranh vạch
trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá cách

mạng Việt Nam; nâng cao trình độ nhận thức, trình độ giác ngộ chính trị,
bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin, xây dựng ý chí quyết tâm hoàn thành
nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ, góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về
chính trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Quân sự mà không có chính trị
như cây không có gốc, vô dụng lại có hại” [85, tr.318].
Các trung đoàn bộ binh đủ quân trong Quân đội nhân dân Việt Nam là
lực lượng thường trực cơ động sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trên các địa
bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh. Nhiệm vụ chính trị của các trung đoàn
bộ binh là huấn luyện nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu và
sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, xây dựng đảng bộ
trong sạch vững mạnh, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện; đấu tranh chống
âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù
địch; tham gia phòng, chống thiên tai, thảm hoạ và xây dựng cơ sở chính trị địa
phương vững mạnh về mọi mặt…
Chính trị viên (CTV) ở các trung đoàn bộ binh là người chủ trì về chính
trị, chỉ đạo và trực tiếp tiến hành công tác đảng, công tác chính trị (CTĐ,
CTCT), đồng thời là bí thư đảng ủy bộ phận, bí thư chi bộ và trực tiếp làm
nhiệm vụ giảng dạy chính trị cho cán bộ, chiến sĩ ở đại đội, tiểu đoàn. Năng


6
lực giảng dạy chính trị của đội ngũ CTV ở các trung đoàn bộ binh có vai trò
rất quan trọng, trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục chính trị nói
chung và giảng dạy chính trị ở mỗi đại đội, tiểu đoàn nói riêng.
Trong những năm qua, nhận thức rõ vị trí, vai trò của đội ngũ CTV và
giảng dạy chính trị của đội ngũ CTV ở các trung đoàn bộ binh trong quân đội,
cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan chức năng các cấp đã thường
xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao năng lực tiến hành CTĐ, CTCT,
trong đó có giảng dạy chính trị của đội ngũ CTV, do đó năng lực giảng dạy
chính trị của đội ngũ CTV ở các trung đoàn bộ binh đã có bước phát triển, ngày

càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ, chức trách được giao, góp phần nâng
cao chất lượng giảng dạy chính trị ở các trung đoàn bộ binh.
Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, năng lực
giảng dạy chính trị của đội ngũ CTV ở các trung đoàn bộ binh còn bộc lộ những
hạn chế, nhất là kiến thức, năng lực, kinh nghiệm sư phạm. Nội dung, hình thức,
phương pháp bài giảng chính trị của đội ngũ CTV còn có những hạn chế, bất
cập, chậm đổi mới, tính thuyết phục không cao. Phương pháp giảng dạy chính trị
của đội ngũ CTV chủ yếu vẫn là truyền thụ một chiều, ít có sự đối thoại giữa
người dạy với người học. Những hạn chế về năng lực giảng dạy chính trị của đội
ngũ CTV đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công tác giáo dục chính trị,
chất lượng CTĐ, CTCT ở các trung đoàn bộ binh trong quân đội.
Trong bối cảnh tình hình an ninh, chính trị thế giới diễn biến nhanh chóng,
phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội, bất mãn đang
triệt để lợi dụng sự phát triển của công nghệ thông tin và các phương tiện đa
truyền thông để đẩy mạnh hoạt động truyền bá những quan điểm thù địch, sai
trái, phản động chống Đảng, Nhà nước ta, đưa những thông tin sai lệch, tiêu cực,
thậm chí xuyên tạc, bịa đặt, vu khống hết sức trắng trợn nhằm làm giảm sút lòng
tin của các tầng lớp nhân dân với Đảng, với chế độ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự


7
chuyển hóa” nội bộ, kích động, lôi kéo, tập hợp lực lượng gây mất ổn định an
ninh, chính trị. Yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu của Quân đội; xây dựng các trung đoàn bộ binh
vững mạnh về chính trị đặt ra yêu cầu khách quan phải nâng cao năng lực giảng
dạy chính trị của đội ngũ CTV ở các trung đoàn bộ binh trong quân đội. Từ
những lý do trên, nghiên cứu sinh đã lựa chọn vấn đề “Nâng cao năng lực giảng
dạy chính trị của đội ngũ chính trị viên ở các trung đoàn bộ binh trong Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục đích
Luận giải làm rõ những vấn đề về lý luận, thực tiễn, đề xuất những giải
pháp nâng cao năng lực giảng dạy chính trị của đội ngũ CTV ở các trung đoàn
bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ
Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.
Làm rõ năng lực giảng dạy chính trị và nâng cao năng lực giảng dạy chính
trị của đội ngũ CTV ở các trung đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra những kinh
nghiệm nâng cao năng lực giảng dạy chính trị của đội ngũ CTV ở các
trung đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp nâng cao năng lực
giảng dạy chính trị của đội ngũ CTV ở các trung đoàn bộ binh trong Quân
đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nâng cao năng lực giảng dạy chính trị của đội ngũ CTV ở các trung đoàn
bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam là đối tượng nghiên cứu của luận án.


8
* Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu nâng cao năng lực giảng dạy chính trị của đội ngũ
CTV ở các trung đoàn bộ binh đủ quân, làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng
chiến đấu thuộc sư đoàn bộ binh của các quân khu, quân đoàn trong Quân đội
nhân dân Việt Nam.
Khảo sát thực tế ở Quân khu 1, Quân khu 2, Quân khu 3; Quân đoàn 1,
Quân đoàn 2. Các tư liệu, số liệu thực tế giới hạn chủ yếu từ năm 2006 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận

Là hệ thống các quan điểm, nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
công tác xây dựng Đảng; CTĐ, CTCT và công tác giáo dục chính trị trong
Quân đội nhân dân Việt Nam.
* Cơ sở thực tiễn
Là hiện thực hoạt động giáo dục chính trị ở các trung đoàn bộ binh; năng
lực giảng dạy chính trị và hoạt động nâng cao năng lực giảng dạy chính trị của
đội ngũ CTV ở các trung đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin,
luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học
chuyên ngành và liên ngành; chú trọng phương pháp lôgic - lịch sử và
phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận, điều tra xã hội học và phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới của luận án
Xây dựng và luận giải làm rõ nội hàm quan niệm giảng dạy chính trị,
năng lực giảng dạy chính trị và nâng cao năng lực giảng dạy chính trị của đội
ngũ CTV ở các trung đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam.


9
Rút ra một số kinh nghiệm nâng cao năng lực giảng dạy chính trị của
đội ngũ CTV ở các trung đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đề xuất một số nội dung, biện pháp cụ thể, có tính khả thi trong các
giải pháp nâng cao năng lực giảng dạy chính trị của đội ngũ CTV ở các trung
đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý
luận, thực tiễn về giảng dạy chính trị, năng lực giảng dạy chính trị và
nâng cao năng lực giảng dạy chính trị của đội ngũ CTV; cung cấp thêm

luận cứ khoa học giúp cho cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan
chính trị các cấp tham khảo, vận dụng trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức
hoạt động nâng cao năng lực giảng dạy chính trị của đội ngũ CTV. Đề tài
có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy
và học tập môn CTĐ, CTCT ở các nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Đề tài gồm: Mở đầu, 4 chương (9 tiết); kết luận; danh mục các công
trình khoa học của tác giả đã được công bố; danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục.


10

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến đề tài
1.1.1. Một số công trình nghiên cứu có liên quan đến năng lực, nâng cao
năng lực giảng dạy
John BurKe (Editor - biên tập) (2005), Competency Based Education and
Training (Năng lực trên cơ sở giáo dục và đào tạo), First published 1989, This
edition published in the Taylor & Francis e-Library, Bristol (nước Anh) 2005
[166]. Cuốn sách viết bằng tiếng Anh, dung lượng 178 trang, bàn về năng lực
của con người. Chương 2 của cuốn sách (Chapter 2 - competence baseb
education and training: background and origins) chỉ rõ, năng lực được hình
thành, phát triển thông qua giáo dục, đào tạo tại các nhà trường. Đây là cơ cở,
nền tảng, là nguồn gốc hình thành lên năng lực. Chương 3 của cuốn sách
(Chapter 3 - competence and standards) - Năng lực và tiêu chuẩn đánh giá, chỉ ra
năng lực bao gồm: kiến thức, hiểu biết, kỹ năng, kinh nghiệm, chất lượng, hiệu

quả công việc đạt được cao hay thấp phụ thuộc rất lớn vào người đó có năng lực
cao hay thấp và được thể hiện trên thực tế, để biết được năng lực đó cần phải
thông qua việc đánh giá (assessment) và muốn đánh giá được cần phải xây dựng
những tiêu chuẩn cụ thể, phù hợp với đối tượng và điều kiện thực tiễn. Đây là
cuốn sách có giá trị khoa học, chỉ ra con đường hình thành năng lực phải trên cơ
sở giáo dục, đào tạo và xây dựng tiêu chuẩn cụ thể đánh giá năng lực người dạy
một cách khách quan, chính xác, làm cơ sở cho hoạt động bồi dưỡng, nâng cao
chất lượng giảng dạy.
Chris Kyriacou (Editor - biên tập) (2007), Essential teaching skills
(Những kỹ năng giảng dạy thiết yếu), third Edition published, Nelson Thornes
Ltd [164]. Cuốn sách được xuất bản tại nước Anh (First published 1991), tái bản
năm 1998 và 2007, dung lượng 162 trang. Ở Chương 1 (Developing your


11
teaching of skills - phát triển những kỹ năng giảng dạy của bạn), cuốn sách chỉ ra
bản chất công việc giảng dạy có hiệu quả là phải thúc đẩy người học. Để phát
triển kỹ năng giảng dạy, cần có những biện pháp rèn luyện cần thiết. Trước hết,
phải có yếu tố kiến thức nền tảng và kỹ năng tốt. Phát triển kỹ năng giảng dạy
phải thông qua việc quan sát các hoạt động và tham gia vào hoạt động đó để có
kỹ năng và mở rộng kiến thức của bản thân mỗi giáo viên.
James M. Cooper (Editor - biên tập) (2011), Classroom teaching skills
(Những kỹ năng giảng dạy lớp học), James M. Cooper, General Editor professor
Emeritus, University of Virginia [165]. Cuốn sách tái bản lần thứ 9 (ninth
edition) tại nước Mỹ, dung lượng 390 trang, là công trình nghiên cứu của tập thể
tác giả các trường đại học ở Mỹ. Cuốn sách chỉ ra những kỹ năng giảng dạy cần
thiết của người giảng dạy, miêu tả những tính cách của người dạy, sự phản xạ
(reflection) đi đến quyết định và chứng minh những nhân tố tác động đến quyết
định truyền thụ kiến thức hoặc giải thích (explain) là rất quan trọng cho người
dạy phát triển. Đồng thời chỉ ra kỹ năng hợp tác, ứng xử, trách nhiệm quản lý

trong lớp học... Đây là cuốn sách có giá trị, luận án tham khảo, vận dụng vào xây
dựng, luận giải làm rõ hoạt động nâng cao kỹ năng, phương pháp giảng dạy
chính trị của mỗi CTV.
Các công trình nghiên cứu ở trên là tài liệu tham khảo để tác giả luận giải
làm rõ những yếu tố cấu thành năng lực giảng dạy chính trị, con đường hình thành
năng lực giảng dạy chính trị, phương pháp nâng cao năng lực của đội ngũ CTV.
1.1.2. Một số công trình nghiên cứu về giáo dục chính trị và giảng dạy
chính trị trong quân đội
Đã có nhiều công trình của một số nước xã hội chủ nghĩa bàn về giáo
dục chính trị và được tiếp cận ở những phương diện, chủ thể, đối tượng khác
nhau, nhưng đều hướng vào làm rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng, nội dung,
hình thức, phương pháp giáo dục chính trị nói chung và giảng dạy chính trị
nói riêng, tiêu biểu:


12
Các-pen-cô (chủ biên), Giáo trình Công tác đảng - chính trị trong các lực
lượng vũ trang Xô - Viết, người dịch Lê Bá Phán, Nxb Quân đội nhân dân, 1981
[15]. Nội dung giáo trình đã chỉ rõ vị trí, vai trò, phẩm chất, năng lực, nhận thức,
trách nhiệm của người chính ủy, CTV; về công tác tư tưởng trong quân đội. Mặc
dù giáo trình có nhiều nội dung lạc hậu, nhưng vẫn còn những hạt nhân hợp lý,
đến nay vẫn còn nguyên giá trị chỉ đạo thực tiễn, trong điều kiện, hoàn cảnh,
thực tiễn mới đối với xây dựng quân đội cách mạng về chính trị, trong đó chỉ ra:
“Đồng chí phó chỉ huy về chính trị chịu trách nhiệm về tổ chức và tình hình công
tác chính trị trong trung đoàn (tàu chiến); về công tác giáo dục chính trị, giáo dục
quân nhân, củng cố trạng thái chính trị - tinh thần và kỷ luật quân nhân, về hiệu
lực của công tác chính trị trong thực hiện các nhiệm vụ huấn luyện chính trị và
huấn luyện chiến đấu, duy trì sự sẵn sàng chiến đấu cao của trung đoàn (tàu
chiến) và cả trong việc thực hiện nhiệm vụ chiến đấu” [15, tr.80].
Cuốn giáo trình đã luận giải khá rõ chủ thể giảng dạy chính trị, nội dung,

hình thức, phương pháp, đối tượng học tập chính trị trong lực lượng vũ trang và
xác định phải huấn luyện lý luận Mác - Lênin cho sĩ quan, học tập chính trị cho
cán bộ chuyên nghiệp; một phương pháp quan trọng của chế độ huấn luyện lý
luận Mác - Lênin cho sĩ quan là “Giảng bài theo đề mục trong kế hoạch học tập
mà người giảng là các sĩ quan” [15, tr.133] và “Phương pháp cơ bản của việc học
tập lý luận Mác - Lênin cho sĩ quan là việc tự học, tự nghiên cứu tác phẩm của
các nhà kinh điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, những nghị quyết của các đại hội,
các hội nghị Trung ương Đảng” [15, tr.143].
Chương Tử Nghị (1996), Công tác chính trị trong học viện, nhà trường
Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc trong thời kỳ đổi mới, Nxb Đại học
Quốc phòng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, người dịch Dương Minh
Hào và Dương Thùy Trang, năm 1998 [91]. Cuốn giáo trình đề cập về phương
pháp tiến hành các hoạt động CTCT trong các nhiệm vụ, trong đó, có bàn đến
phương pháp lên lớp chính trị là phương pháp chủ yếu của giáo dục tư tưởng và
năng lực sư phạm của cán bộ chính trị trong Quân giải phóng nhân dân Trung


13
Quốc, trong đó chỉ ra “lên lớp học chính trị là phương pháp và hình thức cơ
bản của giáo dục tư tưởng, bài giảng tốt, có thể đưa con người đến chiến
thắng, nâng cao trình độ lý luận chính trị, giác ngộ tư tưởng cán bộ, chiến sĩ.
Nếu bài giảng không tốt, thu hoạch của người nghe không hiệu quả. Vì vậy, là
một cán bộ chính trị, nên nỗ lực rèn luyện kỹ năng giảng dạy cơ bản, nắm
vững bản lĩnh giảng dạy học bộ môn chính trị, nâng cao chất lượng và nghệ
thuật giảng dạy” [91, tr.12]. Đồng thời, nêu ra mười điều về phương pháp
truyền thụ giảng dạy truyền thống đó là: dạy bằng phương pháp gợi ý, từ xa
đến gần, từ nông đến sâu, dạy bằng cách nói chuyện thông tục hóa; lời nói
phải rõ ràng; lời nói phải gây hứng thú; dùng động tác và tư thế để phụ họa
cho lời nói; tiết sau ôn tập nội dung và khái niệm của tiết trước; phải có đề
cương; với cán bộ phải có hình thức thảo luận và vận dụng tốt những phương

pháp giảng dạy hiện đại đó là: giảng dạy theo phương pháp gợi ý; phương
pháp hướng dẫn; phương pháp thống nhất ba tính (tính tư tưởng, tính tri thức,
tính hấp dẫn); phương pháp hình ảnh trực quan; phương pháp giảng dạy theo
hình thức thảo luận và nghiên cứu.
Sỏn Xay Chăn Nha Lạt (2012), “Giáo dục chính trị, tư tưởng cho hạ sĩ
quan, binh sĩ Quân đội nhân dân Lào hiện nay”, Luận án tiến sĩ triết học, tại
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng, Quân đội nhân dân Việt Nam [73]. Luận án
viết bằng tiếng Việt. Luận án chỉ ra những vấn đề lý luận về giáo dục chính trị, tư
tưởng cho hạ sĩ quan, binh sĩ. Đưa ra quan niệm và chỉ rõ mục đích, chủ thể, đối
tượng, nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục chính trị, tư tưởng cho hạ sĩ
quan, binh sĩ. Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân của những ưu điểm
và hạn chế, khuyết điểm, rút ra một số kinh nghiệm về công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng cho hạ sĩ quan, binh sĩ. Xác định yêu cầu, đề xuất 5 giải pháp chủ
yếu nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, tư tưởng cho hạ sĩ quan, binh sĩ
Quân đội nhân dân Lào hiện nay.
Thim Sảo Đuông Chăm Pa (2016), “Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị
cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở các trung đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Lào hiện


14
nay”, Luận án tiến sĩ Khoa học Chính trị, tại Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng,
Quân đội nhân dân Việt Nam [95]. Luận án viết bằng tiếng Việt. Luận án chỉ rõ
nhiệm vụ, đặc điểm hoạt động của các trung đoàn bộ binh và hạ sĩ quan, binh sĩ ở
các trung đoàn bộ binh. Làm rõ những vấn đề cơ bản về giáo dục chính trị, chất
lượng và nâng cao chất lượng giáo dục chính trị cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở các trung
đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Lào. Đánh giá thực trạng và một số kinh nghiệm
nâng cao xác định bốn yêu cầu và đề xuất năm giải pháp chủ yếu nâng cao chất
lượng giáo dục chính trị cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở các trung đoàn bộ binh Quân đội
nhân dân Lào. Tác giả luận giải làm rõ đổi mới hình thức học tập chính trị tập trung,
đổi mới phương pháp giảng bài chính trị, phương pháp tự học, tự nghiên cứu,

phương pháp thảo luận ở tổ học tập và phương pháp thi, kiểm tra chính trị của hạ sĩ
quan, binh sĩ ở các trung đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Lào hiện nay.
1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất,
năng lực công tác đảng, công tác chính trị của đội ngũ chính trị viên
Tô Xuân Sinh (2006), Bồi dưỡng năng lực công tác đảng, công tác chính
trị của đội ngũ chính trị viên ở các đơn vị huấn luyện chiến đấu trong quân đội
hiện nay, Nxb Quân đội nhân dân [115]. Tác giả đã luận giải làm rõ những vấn
đề cơ bản về năng lực CTĐ, CTCT của đội ngũ CTV ở các đơn vị huấn luyện
chiến đấu; phân tích những yếu tố tác động đến năng lực CTĐ, CTCT của đội
ngũ này, trên cơ ở đó đề xuất những yêu cầu, giải pháp để bồi dưỡng năng lực
CTĐ, CTCT của đội ngũ CTV ở các đơn vị huấn luyện chiến đấu. Nội dung
cuốn sách đề cập đến năng lực giáo dục chính trị, trong đó, chỉ rõ “Năng lực
CTĐ, CTCT của CTV ở các đơn vị huấn luyện chiến đấu là trình độ thực tế và
khả năng tổ chức tiến hành các hoạt động CTĐ, CTCT theo chức trách, nhiệm
vụ của người chủ trì về chính trị, người đảm nhiệm CTĐ, CTCT ở phân đội”
[115, tr.35]. Đó là năng lực quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của trên;
khả năng xem xét, đánh giá tình hình thực tế của đơn vị; năng lực quy tụ, phát
huy trí tuệ và sức mạnh đoàn kết của tập thể cấp uỷ và chi bộ để xây dựng các tổ
chức đảng trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện; năng lực tuyên


15
truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền; năng lực
tiến hành CTĐ, CTCT trong từng nhiệm vụ cụ thể ở phân đội.
Nguyễn Phương Đông (2009), Xây dựng kỹ năng công tác đảng, công tác
chính trị của đội ngũ chính trị viên trong quân đội hiện nay, Nxb Quân đội nhân
dân [49]. Tác giả đã luận giải khá sâu sắc về kỹ năng, nhất là cấu trúc kỹ năng
CTĐ, CTCT, theo tác giả “Xét theo phương diện hệ thống cấu trúc, kết cấu của
các yếu tố bên trong kỹ năng CTĐ, CTCT thì kỹ năng CTĐ, CTCT của đội ngũ

CTV, gồm 3 yếu tố cơ bản: tri thức; hệ thống những phương thức, biện pháp tiến
hành CTĐ, CTCT và phong cách công tác” và được phân loại theo các nhóm kỹ
năng khác nhau như: kỹ năng cơ bản, kỹ năng chuyên biệt; kỹ năng quản lý, chỉ
đạo; kỹ năng tổ chức thực hiện. Theo tác giả, kỹ năng tiến hành các hoạt động
giáo dục chính trị theo nhiệm vụ, chức trách. “Đó là kỹ năng nắm vững và biết
lựa chọn, xác định cụ thể nội dung bài giảng...; kỹ năng gia công tài liệu, đồ
dùng dạy học hiện có; kỹ năng sử dụng ngôn ngữ; kỹ năng phối hợp linh hoạt,
có hiệu quả các hình thức, phương pháp giáo dục chính trị...”. Tác giả đánh giá
những ưu điểm, hạn chế về xây dựng kỹ năng CTĐ, CTCT, trên cơ sở đó đề tài
xác định những yêu cầu và giải pháp cơ bản xây dựng kỹ năng CTĐ, CTCT của
đội ngũ CTV trong quân hiện nay và những năm tới.
Nguyễn Thanh Hùng (2010), Bồi dưỡng năng lực công tác đảng, công tác
chính trị cho sĩ quan chỉ huy cấp phân đội, Nxb Quân đội nhân dân [62]. Khi
bàn về những vấn đề có tính nguyên tắc trong bồi dưỡng năng lực CTĐ, CTCT
cho sĩ quan chỉ huy cấp phân đội, tác giả đã nhấn mạnh phải kết hợp chặt chẽ
giữa bồi dưỡng của tổ chức với tự bồi dưỡng, tự rèn luyện; gắn bồi dưỡng năng
lực CTĐ, CTCT với nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực toàn
diện. Bởi vì, bồi dưỡng của tổ chức và tự bồi dưỡng, tự rèn luyện là những yếu
tố cơ bản chi phối đến năng lực CTĐ, CTCT; phẩm chất chính trị, đạo đức và
năng lực chỉ huy, quản lý chuyên môn là những yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh
bên trong, là điều kiện không thể thiếu đối với các chủ thể tiến hành CTĐ,
CTCT. Theo tác giả, để nâng cao chất lượng bồi dưỡng năng lực CTĐ, CTCT


16
cho sĩ quan chỉ huy cấp phân đội, cần phải nâng cao nhận thức của lãnh đạo, chỉ
huy các cấp; đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp bồi dưỡng; thực hiện tốt
tự học tập, tự rèn luyện; xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Trong đó, tác giả
nhấn mạnh vai trò quan trọng của việc nâng cao nhận thức của lãnh đạo, chỉ huy
các cấp về bồi dưỡng năng lực CTĐ, CTCT.

Nguyễn Chính Lý (2012), Bồi dưỡng năng lực thực hành công tác đảng,
công tác chính trị của học viên đào tạo chính trị viên hiện nay, Nxb Quân đội
nhân dân [78]. Nội dung cuốn sách bàn nhiều về năng lực, nhất là chỉ ra con
đường hình thành năng lực của con người không phải tự nhiên mà có, mà phải
“Thông qua đào tạo, học tập, rèn luyện, hoạt động thực tiễn, phải được bồi đắp
thường xuyên, phấn đấu không mỏi mệt của mỗi người” [78, tr.23]. Chỉ ra yếu
tố cấu thành năng lực thực hành CTĐ, CTCT, bao gồm: tri thức lý luận; kinh
nghiệm CTĐ, CTCT; trình độ tổ chức hoạt động thực tiễn CTĐ, CTCT; kỹ năng
tiến hành công tác tư tưởng, tổ chức; kỹ xảo tổ chức các hoạt động CTĐ, CTCT
và đưa ra nội dung giải pháp để bồi dưỡng năng lực thực hành về công tác giáo
dục chính trị, trong đó có đề cập, cần phải tăng cường thực hành giảng bài chính
trị cho học viên đào tạo CTV hiện nay.
Phạm Đình Bộ (2007), Bồi dưỡng năng lực công tác của đội ngũ cán bộ
chính trị cấp phân đội binh chủng hợp thành trong Quân đội nhân dân Việt Nam
hiện nay, Luận án tiến sĩ Khoa học Chính trị [14]. Tác giả đã đề cập đến một số
vấn đề cơ bản về bồi dưỡng năng lực công tác của đội ngũ cán bộ chính trị cấp
phân đội binh chủng hợp thành; thực trạng bồi dưỡng năng lực công tác của đội
ngũ này; chỉ rõ nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế và một số kinh nghiệm,
đề xuất một số giải pháp cơ bản bồi dưỡng năng lực công tác của đội ngũ cán bộ
chính trị cấp phân đội binh chủng hợp thành hiện nay, bao gồm: Xây dựng và thực
hiện tốt các khâu, các bước trong quy trình bồi dưỡng năng lực công tác của đội
ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội; coi trọng các khâu, các bước như: nghiên cứu
đánh giá tình hình và xác định nội dung, hình thức, biện pháp bồi dưỡng; xây dựng
và thông qua kế hoạch bồi dưỡng; về triển khai và tổ chức thực hiện nghiêm túc kế


17
hoạch bồi dưỡng; tiến hành sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm hoạt động bồi dưỡng
năng lực công tác của đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội.
Đỗ Hoàng Ngân (2011), Bồi dưỡng năng lực công tác thanh niên của đội

ngũ CTV ở các đơn vị cơ sở làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu Quân đội nhân
dân Việt Nam giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Khoa học Chính trị [90]. Tác
giả luận giải, đưa ra quan niệm về năng lực công tác thanh niên của đội ngũ CTV
ở các đơn vị cơ sở là tổng hòa tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm, chỉ đạo,
hướng dẫn, tổ chức các hoạt động công tác thanh niên phù hợp với yêu cầu, chức
trách nhiệm vụ được giao; chỉ ra nội dung năng lực công tác thanh niên và
những yếu tố cấu thành năng lực công tác thanh niên của CTV bao gồm hệ thống
tri thức về lý luận, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo công tác thanh niên; chỉ ra con
đường hình thành, phát triển năng lực công tác thanh niên của CTV là thông qua
đào tạo, qua thực tiễn và tự tu dưỡng nâng cao năng lực của mỗi CTV.
Nguyễn Văn Huy (2013), Nâng cao năng lực thực tiễn của người chính trị
viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học [65].
Tác giả luận giải, năng lực của con người vừa tồn tại dưới dạng tiềm năng, vừa
được bộc lộ qua những hành động cụ thể. Tác giả phân chia năng lực thành năng
lực nhận thức và năng lực thực tiễn. Các yếu tố cơ bản cấu thành năng lực thực tiễn,
bao gồm: tri thức chuyên môn; kỹ năng, tố chất thực hành nghề nghiệp; tình cảm,
thái độ, động cơ, ý chí quyết tâm đối với nghề nghiệp. Năng lực thực tiễn được thể
hiện ở khả năng xác định, duy trì mục đích hoạt động thực tiễn; ở khả năng quy tụ,
sử dụng lực lượng, công cụ, phương tiện vật chất để cải tạo hiện thực; ở khả năng
tổng kết thực tiễn rút ra những bài học kinh nghiệm của chủ thể để cải tạo hiện thực;
ở kỹ năng, kỹ xảo gắn với kinh nghiệm trong hoạt động của chủ thể.
Nguyễn Tiến Quốc (2010), Nghiên cứu giải pháp nâng cao phẩm chất,
năng lực của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam
hiện nay, Đề tài cấp Bộ Quốc phòng [109]. Đề tài đã phân tích, làm rõ quan
niệm và cơ cấu đội ngũ chính uỷ, CTV; yêu cầu phẩm chất, năng lực và những
vấn đề cơ bản về phẩm chất, năng lực của đội ngũ chính uỷ, CTV đề xuất hệ


18
thống giải pháp nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ chính uỷ, CTV trong

Quân đội nhân dân Việt Nam. Đề tài đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao kiến
thức toàn diện của đội ngũ chính uỷ, CTV. Trong đó, khẳng định: “Phẩm chất,
năng lực của chính ủy, CTV trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng xây dựng và
phát huy sức mạnh của tổ chức và con người trong đơn vị, đến kết quả thực hiện
nhiệm vụ được giao” [109, tr.5].
Đỗ Duy Ánh (2014), Bồi dưỡng năng lực công tác đảng, công tác
chính trị cho đội ngũ chính trị viên ban chỉ huy quân sự cấp xã miền Đông
Nam Bộ giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Khoa học Chính trị [1]. Tác giả
đã xây dựng quan niệm năng lực, năng lực CTĐ, CTCT và làm rõ nội dung,
hình thức, phương pháp bồi dưỡng năng lực CTĐ, CTCT cho cho đội ngũ
CTV ban chỉ huy quân sự cấp xã miền Đông Nam Bộ; xác định tiêu chí đánh
giá và những vấn đề có tính nguyên tắc trong bồi dưỡng năng lực CTĐ,
CTCT cho đội ngũ CTV ban chỉ huy quân sự cấp xã miền Đông Nam Bộ; rút
ra những kinh nghiệm bước đầu bồi dưỡng năng lực CTĐ, CTCT cho đội
ngũ CTV ban chỉ huy quân sự cấp xã miền Đông Nam Bộ; đề xuất những
giải pháp tiếp tục bồi dưỡng năng lực. Kết quả nghiên cứu của luận án góp
phần làm sâu sắc thêm lý luận về năng lực và bồi dưỡng năng lực CTĐ,
CTCT, cung cấp thêm cơ sở khoa học xác định chủ trương, biện pháp lãnh
đạo, chỉ đạo bồi dưỡng năng lực CTĐ, CTCT cho đội ngũ CTV ban chỉ huy
quân sự cấp xã miền Đông Nam Bộ.
Phạm Văn Huynh (2012), Bồi dưỡng phương pháp công tác tư tưởng của
đội ngũ chính trị viên ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận
án tiến sĩ Khoa học Chính trị [64]. Tác giả đã luận giải về phương pháp công tác tư
tưởng của đội ngũ CTV ở đơn vị cơ sở và đưa ra một hệ thống các nhóm phương
pháp công tác tư tưởng của đội ngũ này, như: nhóm phương pháp về lãnh đạo, quản
lý tư tưởng; nhóm phương pháp về tiến hành nội dung, hình thức công tác tư tưởng;
nhóm phương pháp giải quyết tình huống công tác tư tưởng. Đặc biệt, tác giả đã đề
cập đến phương pháp giảng dạy chính trị của CTV. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ mới
đề cập một cách khái quát nhất về phương pháp giảng dạy chính trị, chưa đi sâu bàn



19
về phương pháp giảng dạy chính trị bao gồm những phương pháp cụ thể và tiến
hành bồi dưỡng, nâng cao phương pháp giảng dạy chính trị của CTV.
Hoàng Việt Hùng (2015), Bồi dưỡng phẩm chất, năng lực của đội ngũ bí
thư chi bộ đại đội ở các đảng bộ trung đoàn bộ binh trong quân đội hiện nay,
Luận án tiến sĩ Khoa học Chính trị [61]. Tác giả luận giả về phẩm chất, năng lực
của đội ngũ bí thư chi bộ. Tiếp cận dưới góc độ tri thức chuyên sâu về xây dựng
Đảng, về CTĐ, CTCT; kỹ năng xây dựng Đảng, CTĐ, CTCT ở đại đội; những
kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng và CTĐ, CTCT ở đại đội... Tác giả đã bàn
đến năng lực hoạt động thực tiễn của khoa học xây dựng Đảng, CTĐ, CTCT,
trong đó, nhấn mạnh năng lực nghiên cứu, quán triệt, cụ thể hóa và triển khai tổ
chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị của cấp trên; năng lực nắm bắt tình hình mọi
mặt của chi bộ, đại đội; năng lực đề xuất chủ trương, biện pháp lãnh đạo và tổ
chức thực hiện nghị quyết chi bộ; năng lực chỉ đạo, tổ chức thực hiện.
Tạ Minh Hưng (2015), Bồi dưỡng năng lực công tác của đội ngũ chính trị
viên ban chỉ huy quân sự huyện ở địa bàn Quân khu 1 hiện nay, Luận án tiến sĩ
Khoa học Chính trị [66]. Tác giả, khẳng định tiến hành CTĐ, CTCT trong công tác
quân sự, quốc phòng địa phương là một nguyên tắc cơ bản trong xây dựng lực
lượng vũ trang cách mạng của Đảng, là trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng.
Trong đó, đội ngũ CTV là người chủ trì, giữ vai trò quan trọng. Vì vậy, thường
xuyên bồi dưỡng đội ngũ này có đủ phẩm chất, năng lực toàn diện là vấn đề luôn
được quan tâm, coi trọng thường xuyên. Tác giả đưa ra quan niệm về năng lực công
tác của đội ngũ này, là sự kết hợp thống nhất kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm tạo
nên trình độ, khả năng thực tế của từng người và toàn đội ngũ CTV. Đồng thời, xác
định những nguyên tắc và tiêu chí đánh giá bồi dưỡng năng lực công tác của đội
ngũ CTV. Trên cơ sở, đánh giá đúng thực trạng, tác giả đưa ra 5 giải pháp đồng bộ
có tính khả thi. Tuy nhiên, tác giả chưa bàn đến năng lực giảng dạy chính trị của
CTV. Do đó, luận án tiếp tục bàn sâu sắc hơn về vấn đề này.
Phạm Quang Hải (2014), “Nâng cao năng lực toàn diện cho đội ngũ chính

trị viên ở Sư đoàn 312, Quân đoàn 1 hiện nay”, Tạp chí Khoa học Chính trị


20
quân sự, số 4 (17) [54]. Bài báo chỉ ra số liệu đội ngũ CTV của Sư đoàn 312
hiện tại chiếm 33,2% trong cơ cấu cán bộ chính trị của Sư đoàn. Có 43,7% được
đào tạo cơ bản ở Trường Sĩ quan Chính trị, số còn lại đào tạo chuyển loại ở các
nguồn khác. Phân loại cán bộ có 10,7% CTV hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ,
76,5% hoàn thành tốt nhiệm vụ và có 12,8% hoàn thành nhiệm vụ. Bài báo đã
đưa ra một số biện pháp nâng cao năng lực toàn diện cho đội ngũ CTV ở Sư
đoàn 312, Quân đoàn 1 hiện nay, đó là phải coi trọng xây dựng động cơ, thái độ,
đề cao trách nhiệm của đội ngũ CTV trong tích lũy, tự học tập, tự rèn luyện nâng
cao trình độ mọi mặt; duy trì thường xuyên các hoạt động huấn luyện, bồi dưỡng
với nội dung thiết thực, toàn diện, nhất là những nội dung mới, nội dung còn
thiếu ở từng nhóm đối tượng CTV cụ thể.
Hoàng Mạnh Hưng (2016),“Bồi dưỡng năng lực, phương pháp, tác phong
công tác của chính trị viên ở các sư đoàn bộ binh”, Tạp chí Giáo dục Lý luận
Chính trị, số 3 (157) [67]. Bài báo, chỉ rõ đội ngũ CTV có vai trò đặc biệt quan
trọng, nhân tố chủ yếu tạo nên sức mạnh chính trị, tinh thần trong trong sư đoàn;
năng lực, phương pháp, tác phong của CTV có ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng xây dựng chính trị, tư tưởng và tổ chức, phát huy nhân tố con người trong
đơn vị và kết quả hoàn thành nhiệm vụ của CTV. Trước yêu cầu xây dựng, bảo
vệ Tổ quốc hiện nay, đòi hỏi phải nâng cao năng lực, phương pháp, tác phong
của CTV, trong đó, tập trung vào việc thực hiện tốt phân công, phân cấp bồi
dưỡng CTV; xây dựng kế hoạch bồi dưỡng CTV thực sự khoa học, sát với từng
đối tượng, phù hợp với tình hình thực tế từng đơn vị; xây dựng, biên soạn
chương trình, nội dung bồi dưỡng CTV; tiến hành có hiệu quả các hình thức,
phương pháp bồi dưỡng CTV tại đơn vị.
Nguyễn Quốc Trị (2016), “Nâng cao năng lực giáo dục, thuyết phục của
chính trị viên ở các đơn vị cơ sở trong quân đội hiện nay”, Tạp chí Giáo dục Lý

luận Chính trị, số 2 (156) [145]. Nội dung bài báo chỉ ra năng lực giáo dục,
thuyết phục của CTV ở các đơn vị cơ sở là trình độ năng lực thực tế trong tuyên
truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục cán bộ, chiến sĩ làm cho quân nhân tin


21
tưởng và làm theo chỉ đạo, định hướng, giúp đỡ của CTV, ra sức tu dưỡng, phấn
đấu nâng cao phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong, hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao. Để nâng cao năng lực giáo dục, thuyết phục của CTV phải
nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính ủy, cơ quan
chính trị; quan tâm bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng giáo
dục, thuyết phục của CTV ở đơn vị; tăng cường công tác quản lý, giáo dục, rèn
luyện về phẩm chất, đạo đức, lối sống, phong cách công tác cho CTV ở đơn vị.
Đoàn Văn Tự (2016), “Yêu cầu về phẩm chất, năng lực của chính trị viên
theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Giáo dục Lý luận Chính trị, số 2 (156)
[161]. Nội dung bài báo chỉ rõ, đội ngũ cán bộ CTV có vai trò quan trọng đối với
tăng cường hiệu lực CTĐ, CTCT trong mọi hoạt động xây dựng và chiến đấu
của quân đội. CTV luôn là người thực sự tiêu biểu về phẩm chất chính trị, tư
cách đạo đức "Người chính trị viên tốt, thì bộ đội ấy tốt"; CTV phải có kiến thức,
năng lực toàn diện, đặc biệt là năng lực tổ chức hoạt động của bộ đội, nắm chắc
tình hình mọi mặt của đơn vị, tiến hành tốt việc khen thưởng, xử phạt trong quá
trình quản lý, giáo dục bộ đội; trong công tác quản lý, giáo dục bộ đội, CTV phải
là người có tác phong dân chủ, sâu sát, thực tế, nói đi đôi với làm.
Lê Văn Làm (2013), “Vận dụng linh hoạt các hình thức, biện pháp bồi
dưỡng tại trường và đơn vị cơ sở trong đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội”,
Tạp chí Khoa học Chính trị quân sự, số 1 (8) [72]. Tác giả, bàn sâu sắc về nội
dung bồi dưỡng tại nhà trường quân đội, tập trung vào thực hiện chức trách,
nhiệm vụ của CTV, nhất là những kiến thức về CTĐ, CTCT giáo dục chính trị,
nâng cao kỹ năng giảng bài chính trị cho người học. Để có năng lực CTĐ, CTCT
cần lựa chọn các hình thức bồi dưỡng phù hợp như: thông qua thực tiễn, hoạt

động xây dựng nhà trường, thông qua thực tiễn thực tập của học viên ở đơn vị cơ
sở; thông qua sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của các cấp, kết hợp các hoạt
động phong trào của mỗi đơn vị để phát triển năng lực toàn diện cho người học
viên đào tạo CTV.


22
Có thể khái quát, các công trình, các bài báo khoa học trên, tiếp cận theo
nhiều chiều cạnh khác nhau, nhưng chủ yếu đề cập đến nội dung, biện pháp,
phương pháp bồi dưỡng, rèn luyện, truyền thụ kinh nghiệm để nâng cao phẩm
chất, năng lực CTĐ, CTCT của CTV, bí thư cấp ủy, bí thư chi bộ trong quân đội
hiện nay. Chưa luận giải rõ năng lực giảng dạy chính trị của CTV. Do đó, luận án
tiếp thu có chọn lọc và tiếp tục nghiên cứu đi sâu có hệ thống về năng lực giảng
dạy chính trị và nâng cao năng lực giảng dạy chính trị của đội ngũ CTV trong
quân đội hiện nay.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến công tác giáo dục
chính trị, năng lực giảng dạy chính trị, năng lực sư phạm, đánh giá năng lực
sư phạm của đội ngũ chính trị viên
Lê Duy Chương (2008), Một số vấn đề về nâng cao chất lượng công tác
giáo dục chính trị cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở, Nxb Quân đội nhân dân
[19]. Tác giả đã luận giải sâu sắc quan niệm về giáo dục chính trị cho hạ sĩ quan,
binh sĩ; nội dung chất lượng giáo dục chính trị và đưa ra hệ thống tiêu chí đánh giá
chất lượng giáo dục chính trị cho hạ sĩ quan, binh sĩ gồm: hệ thống tiêu chí đánh giá
chất lượng các yếu tố của giáo dục chính trị và hệ thống tiêu chí đánh giá chất
lượng chính trị, tư tưởng của hạ sĩ quan, binh sĩ với tư cách là kết quả giáo dục
chính trị; thực trạng chất lượng của chủ thể và chất lượng của hạ sĩ quan, binh sĩ; rút
ra những nguyên nhân và tổng kết những kinh nghiệm. Đặc biệt, cuốn sách đã đề
xuất những giải pháp nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị cho hạ sĩ
quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở hiện nay. Cuốn sách nghiên cứu những vấn đề lý luận,
thực tiễn chung nhất về giáo dục chính trị cho hạ sĩ quan, binh sĩ.

Tổng cục Chính trị (2013), “Một số vấn đề cần nắm vững trong đổi mới
nội dung, hình thức, phương pháp giảng dạy chính trị cho hạ sĩ quan, binh sĩ”,
Tài liệu Bổ trợ học tập chính trị của hạ sĩ quan, binh sĩ [130]. Tài liệu chỉ rõ vị
trí, vai trò của học tập chính trị tại đơn vị và đề cập, nhấn mạnh tính cấp thiết
phải đổi mới, nội dung, hình thức phương pháp giảng dạy chính trị cho hạ sĩ
quan, binh sĩ hiện nay. Trong đó, đánh giá thực trạng chất lượng cán bộ giảng


23
dạy chính trị, đó là “Trình độ, kiến thức, năng lực thực hiện chức trách nhất là
năng lực sư phạm (giảng dạy chính trị, tổ chức thảo luận ở tổ học tập chính trị)
của đội ngũ cán bộ chính trị đại đội, trung đội trưởng còn hạn chế" [130, tr.78]
và “Hầu hết các đơn vị cơ sở phương pháp giảng bài, học tập vẫn theo “lối
mòn”, đơn điệu do thiếu vật chất, phương tiện, do trình độ của một bộ phận cán
bộ giảng dạy chính trị còn hạn chế, đã tạo ra tâm lý e ngại, sợ học chính trị...”
[130, tr.80]. Trên cơ sở đó, bài biết đề xuất một số biện pháp đổi mới nội dung,
hình thức giảng dạy chính trị cho hạ sĩ quan, binh sĩ.
Nguyễn Xuân Trường (2007), Bồi dưỡng năng lực giảng dạy chính trị của
đội ngũ giảng viên trẻ khoa học xã hội nhân văn ở Học viện Chính trị - quân sự
hiện nay, Đề tài cấp Học viện Chính trị quân sự [155]. Đề tài đã luận giải một số
vấn đề cơ bản về năng lực, năng lực giảng dạy chính trị. Tiếp cận năng lực giảng
dạy chính trị như bộ phận cơ bản hợp thành năng lực sư phạm của người giảng
viên, là sự kết tinh và chuyển hóa tri thức thành kỹ năng, kỹ xảo giảng dạy, biểu
hiện ở trình độ và khả năng tổ chức và tiến hành các khâu, các bước của hoạt động
giảng dạy, nhất là đã bàn đến các kỹ năng như về thiết kế bài giảng và định hướng
lựa chọn thông tin phục vụ cho bài giảng, kỹ năng thực hành giảng bài, kỹ năng tổ
chức các hoạt động sau bài giảng và giao tiếp với người học...
Nguyễn Văn Dưỡng (2013), Nghiên cứu giải pháp bồi dưỡng phương pháp
giảng bài chính trị cho học viên đào tạo chính trị viên đại đội, Đề tài Bộ Tổng tham
mưu [25]. Ban Đề tài đã nghiên cứu làm rõ phương pháp giảng bài chính trị rất đa

dạng, phong phú, trong đó coi trọng phương pháp: thuyết trình, vấn đáp, sử dụng
sách, tài liệu dạy học, trình bày trực quan... Đồng thời, đi sâu luận giải về phương
pháp, nội dung, hình thức bồi dưỡng phương pháp giảng bài chính trị và chỉ ra
những vấn đề có tính nguyên tắc nâng cao chất lượng bồi dưỡng phương pháp
giảng bài chính trị, đánh giá thực trạng và chỉ rõ nguyên nhân của việc bồi dưỡng
phương pháp. Trên cơ sở đó, đề tài đề xuất bốn yêu cầu và bốn giải pháp. Như vậy,
việc bồi dưỡng phương pháp giảng bài chính trị cho học viên đào tạo CTV đại đội,


24
trực tiếp trang bị những kỹ năng giảng bài chính trị cần thiết cho học viên, sau khi
ra trường trên cương vị công tác là CTV, vận dụng kiến thức, phương pháp được
trang bị vào nâng cao chất lượng giảng dạy chính trị ở đơn vị cơ sở.
Trần Minh Chiến (2013), Nâng cao năng lực thuyết trình của học viên
đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội hiện nay, Đề tài Bộ Tổng tham mưu [16].
Đề tài đã đi sâu nghiên cứu luận giải rõ một số vấn đề lý luận về năng lực, năng
lực thuyết trình, nâng cao năng lực thuyết trình cho học viên đào tạo cán bộ
chính trị cấp phân đội hiện nay, trong đó, đề tài luận giải làm rõ một số kỹ năng
thuyết trình như: kỹ năng phân tích đối tượng, kỹ năng thiết kế nội dung và sử
dung công cụ thuyết trình, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ nói khi thuyết trình; kỹ
năng năng sử dụng ngôn ngữ cơ thể và lựa chọn vị trí, di chuyển thuyết trình...,
chỉ ra nội dung, hình thức nâng cao năng lực thuyết trình của học viên đào tạo
cán bộ chính trị cấp phân đội.
Nguyễn Văn Sơn (2016), Nghiên cứu giải pháp bồi dưỡng phương pháp
giáo dục chính trị cho chính trị viên ở đơn vị cơ sở trong quân đội hiện nay, Đề
tài Tổng cục Chính trị [116]. Ban Đề tài đưa ra một số phương pháp giáo dục

chính trị cho CTV, trong đó làm rõ phương pháp của CTV trong tổ chức,
quản lý học tập chính trị ở đại đội, trên cương vị cán bộ giảng dạy chính trị cho
hạ sĩ quan, binh sĩ. Xây dựng quan niệm về bồi dưỡng phương pháp giáo dục

chính trị cho CTV ở đơn vị cơ sở, chỉ ra nội dung bồi dưỡng. Luận giải 4 đặc
điểm chi phối trực tiếp đến hoạt động bồi dưỡng phương pháp giáo dục chính trị
của CTV. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, xác định những yêu cầu và đề xuất
những giải pháp cơ bản về bồi dưỡng phương pháp giáo dục chính trị cho CTV,
trong đó, chú trọng đi sâu vào đổi mới nội dung, vận dụng linh hoạt các hình
thức, biện pháp bồi dưỡng phương pháp giáo dục chính trị cho CTV.
Nguyễn Văn Quyền (2015), Phát triển năng lực giáo dục chính trị của
chính trị viên đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ
Triết học [112]. Tác giả luận giải, năng lực quyết định trực tiếp chất lượng, hiệu
quả hoạt động của chủ thể. Ngược lại, chất lượng, hiệu quả hoạt động của chủ thể


×