TIỂU LUẬN:
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng
tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam- Chi nhánh Đông Đô
LỜI MỞ ĐẦU.
Ngân hàng là một trung gian tài chính, là một kênh dẫn vốn quan trọng cho
toàn bộ nền kinh tế. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, việc hoàn thiện
và mở rộng các hoạt động cho vay là hướng đi đúng đắn của các ngân hàng trong
giai đoạn hiện nay.
Xã hội ngày càng phát triển, không chỉ có các công ty, doanh nghiệp là cần
vốn để sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường mà hiện nay, các cá nhân cũng là
những người cần vốn hơn bao giờ hết. Cuộc sống ngày càng hiện đại, mức sống của
người dân cũng được nâng cao, Giờ dây, tâm lý của người dân coi việc đi vay là
muốn sử dụng hàng hóa trước khi có khả năng thanh toán. Đáp ứng lòng mong mỏi
của người dân, các ngân hàng đã phát triển một hoạt động cho vay , đó là cho vay
tiêu dùng, một mặt vừa tạo thêm thu nhập cho chính ngân hàng, mặt khác giúp đỡ
cho các cá nhân có được nguồn vốn để cải thiện cuộc sống của mình.
Trong các hoạt động của Ngân hàng thương mại, tín dụng là một hoạt động
chủ yếu nhất, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng nhiều nhất trong đó tập trung cho
vay.
Bản thân là một sinh viên thực tập tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam- Chi nhánh Đông Đô. Qua quá trình thực tập tại chi nhánh em nhận thấy hoạt
động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh đang ngày một tăng lên và mạnh mẽ góp phần
không nhỏ vào tổng cho vay cũng như lợi nhuận của chi nhánh. Đặc điểm này phù
hợp với chi nhánh. Do đó, việc cân đối giữa sử dụng vốn và huy động vốn sẽ đem lại
hiệu quả cho Ngân hàng.
Với mục đích tìm hiểu rõ hơn hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng và bước
đầu vận dụng vào thực tiễn em đã chọn đề tài : “Mở rộng hoạt động cho vay tiêu
dùng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Đông Đô” làm
chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Do trình độ có hạn, nên chuyên đề còn nhiều thiếu sót, em mong nhận được sự giúp
đỡ của thầy cô giáo và bạn bè.
Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần chính:
CHƯƠNG I. Khái quát về hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHTM.
CHƯƠNG II. Thực trạng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam- Chi nhánh Đông Đô .
CHƯƠNG III. Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam- Chi nhánh Đông Đô .
CHƯƠNG I : Khái quát về hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHTM.
1.1. Sự hình thành cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại.
1.1.1. Khái quát hoạt động cho vay tại NHTM.
Sau 22 năm đổi mới, Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc trên mọi
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, từng bước thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước. Từ những kết quả đó làm cho cuộc sống người lao động được
cải thiện vượt bậc, trước đây người dân chỉ ăn no mặc ấm thì nay là ăn ngon mặc
đẹp, nhu cầu về nhà ở được quan tâm rất nhiều. Nhất là những bạn trẻ mới ra trường
muốn tiêu dùng nhưng lại không có đủ số tiền ngay lúc này được vì vậy cầu tiêu
dùng là rất lớn.
Hiện nay chỉ cần có đầy đủ giấy tờ pháp lý chứng minh được rằng bạn đang
làm việc chính thức cho một doanh nghiệp, một cơ quan, một tổ chức nào đó được
hưởng lương là có thể dễ ràng vay tiền cho mua xe hơi, nhà đất…
Trước những nhu cầu này các tổ chức tín dụng mà chủ yếu là NHTM đã thực
hiện các khoản cho vay tiêu dùng dưới nhiều hình thức và quy mô khác nhau.Trong
đó nổi bật nhất phải kể đến Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng Sông Cửu Long với
các loại cung ứng cho vay về xây dựng, sửa chữa nhà, các Ngân hàng thương mại
khác như Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn, Ngân hàng Công
Thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển có thực hiện hoạt động cho vay tiêu dùng
xong chưa nhiều trong khi đó các Ngân hàng thương mại cổ phần đã rất quan tâm
đến mảng khách hàng cá nhân, do đó đã thực hiện cho vay tiêu dùng khá lớn, nổi bật
nhất là Ngân hàng Đông Á, Ngân hàng cổ phần nhà Hà Nội, ACB… các sản phẩm
như cho vay mua nhà, mua ô tô. Đây là tín hiệu tốt cho việc phát triển hoạt động cho
vay tiêu dùng tại Việt nam.
Chính vì vậy dịch vụ cho vay tiêu dùng là hoàn toàn phù hợp xu thế của thị trường,
khi xã hội phát triển mạnh thu nhập của người dân tăng lên thì nhu cầu mua sắm đồ
dùng là hiển nhiên.
Ngân hàng Sài Gòn Thương tín là Ngân hàng bắt đầu triển khai dịch vụ cho
vay tiêu dùng, doanh số cho vay tiêu dùng của Ngân hàng này chiếm khoảng 20% tỷ
trọng doanh số của các Ngân hàng.
Eximbank dự định đến năm 2020 và tiến xa hơn nữa chính là mảng dịch vụ tài
chính giành cho cá nhân, bên cạnh việc phân khúc cho vay tiêu dùng cá nhân, Ngân
hàng còn hướng tới dịch vụ khác như thẻ, cho vay qua thẻ với phương châm bán sản
phẩm thị trường đang cần không bán sản phẩm mà Eximbank đang có.
Năng động nhất là khối NHTM cổ phần, liên tục đưa ra các sản phẩm tiện ích
như cho vay siêu tốc, đăng ký vay qua mạng internet, lãi suất cho vay hấp dẫn, kỳ
hạn cho vay dài, cho vay đến 80% giá trị ngôi nhà hay xe ô tô…Đồng thời các
NHTM cổ phần chủ động tiếp thị qua nhiều kênh khác nhau, thậm chí phối hợp với
công đoàn, với doanh nghiệp tổ chức giới thiệu ngay tại nơi nhân viên làm việc,
cùng đại lý ô tô hay chủ dự án nhà ở đi làm thủ tục thay cho khách hàng.
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng.
Thực ra tín dụng tiêu dùng đã phát triển gần 10 năm qua ở nước ta, hoạt động
cho vay tiêu dùng ra đời xuất phát từ đòi hỏi khách quan của người tiêu dùng và từ
chính nhu cầu của Ngân hàng trong bối cảnh cạnh tranh mới, nhu cầu của con người
là vô hạn, khi thỏa mãn được nhu cầu này nhu cầu mới sẽ lại nảy sinh.Tuy nhiên
việc thỏa mãn những nhu cầu bịi giới hạn bởi khả năng thanh toán, chỉ có các nhu
cầu có khả năng thanh toán mới có thể thỏa mãn.Vì vậy để thỏa mãn những nhu cầu
mua nhà,mua ô tô,mua sắm các phương tiện phục vụ cuọcc sống…Người tiêu dùng
phải trải qua một quá trình tích lũy lâu dài để có tiền thanh toán thì mức độ thỏa mãn
nhu cầu bị giảm đi rất nhiều.Ví dụ sinh viên mới ra trường lương chưa cao trong khi
đã đến tuổi lấy chồng, lấy vợ để có một nơi ở một chút tiện nghi nếu để dành đồng
lương có thể rất nhiều năm sau bạn mới có được chúng, bằng dịch vụ của Ngân hàng
đã giúp cho các sinh viên này thỏa mãn ở hiện tại và sẽ trả dần vào tương lai.Với số
lượng người tiêu dùng đông đảo nên thị trường để sản phẩm này phát triển là vô
cùng rộng lớn.Không chỉ người tiêu dùng có nhu cầu mà các nhà sản xuất cũng
mong muốn tiêu thụ nhiều hàng hóa một cách nhanh chóng vì vậy Ngân hàng
thương mại tài trợ cho người tiêu dùng sẽ giúp họ thực hiện được mong muốn này.
Nền kinh tế thế giới đang phát triển mạnh mẽ, sự phát triển kinh tế góp phần
cải tạo con người, thu nhập của người dân ngày càng cao và ổn định, sự gia tăng thu
nhập không chỉ làm gia tangư tiêu dùng mà còn tạo ra một nguồn trả chắc chắn điều
này tạo niềm tin cho Ngân hàng vì không quá lo ngừoi vay không trả được nợ.
Trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay trong xu thế hội nhập, sự cạnh tranh
không chỉ ở các Ngân hàng mà còn từ thị trường chứng khoán, việc thị trường chứng
khoán và công ty tài chính phát triển mạnh sẽ làm cho thị phần của Ngân hàng
thương mại bị thu hẹp đi, chính vì điều này đòi hởi các Ngân hàng thương mại nên
tích cực công tác thẩm đinh cho vay tiêu dùng nhằm làm cho lợi nhuận được ra tăng.
Xuất phát từ những nhu cầu tất yếu không thể thiếu đã dẫn tới hoạt động cho
vay tiêu dùng. Sau chiến tranh thế giới thứ hai cho vay tiêu dùng ra đời và trở thành
loại hình tín dụng phát triển nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển. Khi thu
nhập ra tăng làm cầu về tiêu dùng tăng.Nhiều ngân hàng phát triển thành ngân hàng
chuyên cho vay tiêu dùng ở các nước phát triển dư nợ cho vay tiêu dùng thường
chiếm 40 đến 50% trên tổng dư nợ.
1.2. Hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHTM.
1.2.1. Khái niệm cho vay tiêu dùng
Cho vay là một mặt của hoạt động tín dụng NH, thông qua hoạt động cho vay
NH thực hiện điều hoà vốn trong nền kinh tế dưới hình thức phân phối nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi huy động được từ trong xã hội để đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ
sản xuất kinh doanh và đời sống.
Cho vay là quyền của NHTM với tư cách là người cho vay (chủ nợ) yêu cầu
khách hàng của mình (người đi vay) muốn vay được vốn phải tuân thủ những điều
kiện nhất định, những điều kiện này là cơ sở ràng buộc về mặt pháp lý đảm bảo cho
người cho vay có thể thu hồi được vốn (gốc + lãi) sau một thời gian nhât định. Để
thu hồi được vồn, các ngân hàng có quyền yêu cầu người đi vay đáp ứng những điều
kiện vay cụ thể dựa trên cơ sở mức độ tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau giữa NH và
khách hàng.
Cho vay là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể (NHTM và người vay),
trong đó một bên (NHTM) chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia (người vay) sử
dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết trả
vốn (gốc và lãi) cho bên cho vay vô điều kiện với thời hạn đã thoả thuận
Qua các khái niệm trên cho thấy, bản chất của cho vay là một giao dịch về tiền
hoặc tài sản trên cơ sở có hoàn trả mà thực chất là sự vay mượn dựa trên cơ sở tin
tưởng, tín nhiệm lẫn nhau. Trong đó sự hoàn trả là đặc trưng thuộc về bản chất của
cho vay, là nguyên tắc để phân biệt phạm trù cho vay với cấp phát của Ngân sách
Nhà nước.
1.2.2. Đặc điểm của hoạt động cho vay tiêu dùng.
- Mục đích vay nhằm thực hiện nhu cầu của cá nhân, họ gia đình không phải
xuất phát từ kinh doanh. Ngân hàng cho vay để giải quyết, hỗ trợ một phần vốn cho
các cá nhân như đầu tư mới phương tiện đi lại , chỗ ở, du học. Do mục đích đi vay
phụ thuộc vào nhu cầu, tính cách của từng đối tượng khách hàng và chu kỳ kinh tế
của người đi vay.
- Quy mô của từng hợp đồng cho vay thường nhỏ, dẫn đến chi phí tổ chức cho
vay cao, vì vậy lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn so với lãi suất của các loại
cho vay trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp.
- Nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng thường phải phụ thuộc vào chu kỳ
kinh tế. Khi nền kinh tế thịnh vượng, đời sống của người dân được nâng cao thì nhu
cầu vay tiêu dùng lại càng cao. Vào các dịp lễ tết, nhu cầu mua sắm nhiều thì các số
lượng các khoản vay cũng tăng lên.
- Nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng phụ thuộc chặt chẽ vào mức thu nhập
và trình độ học vấn. Những người có thu nhập khá và tương đối đều sẽ tìm tới cho
vay tiêu dùng bởi họ có khả năng trả được nợ.
- Khách hàng vay tiêu dùng thường là các cá nhân nên việc chứng minh tài
chính thường khó. Nếu như các doanh nghiệp có bảng cân đối kế toán, báo cáo kết
quả kinh doanh để chứng minh nguồn thu nhập và chi tiêu của mình thì các cá nhân
vay tiêu dùng muốn chứng minh tài chính cùa mình thường phải dựa vào tiền lương,
sự suy đoán chứ không có bằng chứng rõ ràng.
- Cho vay tiêu dùng có độ rủi ro cao, theo nghiên cứu loại hình này có độ rủi
ro cao nhất bởi nguồn trả nợ của người vay có thể biến động lớn, nó phụ thuộc vào
quá trình làm việc, kinh nghiệm, tài năng và sức khỏe của người vay… Nếu người
vay bị chết, ốm hoặc mất việc làm ngân hàng sẽ rất kho thu lại được nợ. Do đó, các
ngân hàng thường yêu cầu lãi suất cao, yêu cầu người vay phải mua bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm hàng hóa đã mua…
- Tư cách, phẩm chất của khách hàng vay thường rất khó xác định, chủ yếu
dựa vào cách đánh giá, cảm nhận và kinh nghiệm của cán bộ tín dụng. Đây là điểu
rất quan trọng quyết định sự hoàn trả của khoản vay. Nếu người đi vay mà đạo đức
không tốt có nghĩa là họ không chịu trả nợ cho ngân hàng điều nay là tổn hại rất lớn
đến ngân hàng.
1.2.3. Vai trò của hoạt động cho vay tiêu dùng
1.2.3.1. Đối với khách hàng
Ngân hàng chính là trung gian tài chính cung cấp vốn chủ yếu cho các cá nhân
và doanh nghiệp. Thông qua hoạt động cho vay, các khách hàng được sử dụng các
sản phẩm đa dạng và phong phú, đáp ứng được nhu cầu của mình với một mức lãi
suất hợp lý. Các khách hàng có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau như quỹ
tín dụng, thị trường chứng khoán, công ty tài chính, NHTM….nhưng ở nước ta các
doanh nghiệp chủ yếu là vừa và nhỏ nên nguồn vốn từ các NHTM vẫn là nguồn
quan trọng bởi vay vốn từ ngân hàng tương đối thuận lợi, rẻ và linh hoạt so với việc
huy động vốn qua TTCK hay thông qua các tổ chức tài chính khác.
Các khách hàng cá nhân và doanh nghiệp vay vốn ngân hàng nhằm 2 mục
đích là để bổ sung vốn lưu động và đầu tư, đổi mới mua sắm máy móc thiết bị.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, việc các doanh nghiệp mua bán hàng chịu của
nhau là không thể tránh được và để việc sản xuất kinh doanh của DN được tiến hành
liên tục, ổn định và hiệu quả thì đòi hỏi nguồn vốn của NH để bổ sung vốn lưu động
cho các DN. Mặt khác, các DN dù lớn hay nhỏ đều cần đến nguồn vốn tín dụng để
bổ sung vốn lưu động cho mình.
Ngoài ra các DN còn vay vốn để đầu tư chiều sâu, mua sắm đổi mới thiết bị.
Hiện nay, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, máy móc của DN
rất nhanh lạc hậu và lỗi thời dẫn tới sản phẩm sản xuất ra giá thành cao, mẫu mã hạn
chế, chất lượng thấp, năng suất không cao làm giảm sức cạnh tranh với hàng ngoại
nhập cũng như hàng của các DN khác. Đặc điểm của các DN nước ta là DN vừa và
nhỏ, máy móc lạc hậu so với các nước phát triển. Đứng trước sự hội nhập và cạnh
tranh rất lớn của các DN nước ngoài thì nhu cầu đổi mới công nghệ là rất lớn và cần
thiết. Để có thể tìm được nguồn vốn lớn, thời gian dài và lãi suất hợp lý thì nguồn
vốn tín dụng Ngân hàng vẫn là khả thi nhất và được các Ngân hàng chọn lựa
Thông qua hoạt động cho vay của mình NH giúp các khách hàng cá nhân và
DN sử dụng vốn có hiệu quả hơn bởi vì với bất kỳ khoản vay nào NH cũng phải
luôn giám sát chặt chẽ để xem khách hàng sử dụng có đúng mục đích và có hiệu quả
hay không. Nếu ngân hàng phát hiện thấy khách hàng sử dụng sai mục đích thì ngân
hàng có thể thu hồi lại vốn hoặc ngừng giải ngân. Ngoài ra, việc vay vốn đòi hỏi
khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi làm cho dự án làm ăn có hiệu quả hơn.
1.2.3.2. Đối với NHTM
Với NHTM khoản mục cho vay là khoản mục quan trọng nhất trong tài sản
của NH, nó luôn chiếm một nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn
thu của NH nhưng đồng thời khoản mục cho vay cũng chứa đựng nhiều rủi ro cho
NH. NHTM là một trung gian tài chính nên để có nguồn vốn cho khách hàng vay thì
NH cũng phải huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội. Để kinh doanh
có lãi đòi hỏi NH phải cố gắng và tích cực để thực hiện tốt việc cho vay, làm sao để
hoạt động cho vay diễn ra nhanh chóng, an toàn và có hiệu quả cao. Thông qua hoạt
động cho vay đã giúp ngân hàng thu được lợi từ chi phí và thu nhập.
Cùng với xu hướng phát triển hiện nay việc mở rộng cho vay với khách hàng
cá nhân và DN giúp ngân hàng tận dụng được nguồn vốn huy động, vừa mở rộng
khách hàng vừa đa dạng hoá được các sản phẩm dịch vụ của mình. Qua đó, giúp
ngân hàng phân tán rủi ro trong hoạt động cho vay đồng thời nâng cao thu nhập cho
ngân hàng.
1.2.3.3. Đối với kinh tế xã hội
Mặc dù hoạt động cho vay của ngân hàng không trực tiếp thúc đẩy kinh tế
phát triển nhưng nó lại tác động gián tiếp thông qua việc cho vay đáp ứng nhu cầu
vay vốn của khách hàng cá nhân và DN. Từ đó, góp phần làm cho hoạt động của DN
được liên tục và ổn định qua đó tạo ra sự ổn định và phát triển của nền kinh tế.
Mở rộng cho vay khách hàng cá nhân góp phần đáp ứng nhu cầu mua sắm
hàng hoá và tiêu dùng cũng như đầu tư sản xuất kinh doanh qua đó góp phần kích
cầu. Việc kích cầu sẽ góp phần khuyến khích cho các ngành sản xuất, tăng sức mua
trong nền kinh tế từ đó tạo ra sự sôi động cho thị trường hàng hoá.
1.2.4. Phân loại hoạt động cho vay tiêu dùng.
1.2.4.1. Căn cứ vào phương thức hoàn trả
+ Cho vay tiêu dùng trả góp
Đây là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó đi vay trả nợ (gồm số tiền gốc và
lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định có giá trị lớn hoặc và thu
nhập từng định kỳ của người đi vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ
vay. Đối với loại cho vay tiêu dùng này, ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề
cơ bản có tính nguyên tắc sau:
* Loại tài sản được tài trợ
Ngân hàng thường chỉ muốn tài trợ cho những khoản vay mua sắm các đồ
dùng có giá trị và tính sử dụng lâu bền, với những tài sản như vậy, người tiêu dùng
sẽ được hưởng những tiện ích từ chúng trong một thời gian dài.
* Số tiền phải trả trước
Thông thường ngân hàng yêu cầu người đi vay phải thanh toán trước một
phần giá trị tài sản cần mua sắm, số còn lại ngân hàng sẽ cho vay. Điều này một
phần giúp ngân hàng hạn chế rủi ro, mặt khác tạo cho người đi vay có trách nhiệm
hơn với tài sản mình định mua bởi họ cũng đã đóng góp một phần số tiền của mình
vào trong đó. Khi khách hàng không trả được nợ, trong nhiều trường hợp ngân hàng
sẽ phải phát mãi tài sản để thu hồi nợ. Hầu hết các tài sản đã qua sử dụng đều bị
giảm giá trị cho nên số tiền trả trước có vai trò vô cùng quan trọng giúp ngân hàng
hạn chế rủi ro.
Số tiền trả trước nhiều hay ít phụ thuộc:
Loại tài sản: Đối với các loại tài sản có mức độ giảm giá nhanh thì số
tiền trả trước nhiều và ngược lại, đối với các loại tài sản có mức độ
giảm giá chậm thì số tiền trả trước ít hơn.
Thị trường tiêu thụ tài sản sau khi sử dụng: yếu tố này rất quan trọng.
Nếu đó là tài sản thuộc loại dễ bán thì số tiền trả trước sẽ ít hơn loại tài
sản khó bán sau khi sử dụng.
Môi trường kinh tế
Năng lực tài chính của người đi vay
* Chi phí tài trợ
Chi phí tài trợ là chi phí mà người đi vay phải trả cho ngân hàng trong việc sử
dụng vốn. Chi phí tài trợ chủ yếu là tiền lãi và một số khoản chi phí khác. Chi phí tài
trợ phải trang trải được chi phí vốn tài trợ, chi phí hoạt động, rủi ro và mang lại một
phần lợi nhuận thỏa đáng cho ngân hàng.
Điều khoản thanh toán
Số tiền thanh toán mỗi định kỳ phù hợp về khả năng thu nhập, chi tiêu của
khách hàng.
Giá trị của tài sản tài trợ không được thấp hơn số tiền tài trợ chưa được thu
hồi.
Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng nhưng
không nên quá dài vì nếu quá dài, giá trị của tài sản tài trợ sẽ bị giảm
mạnh và việc thu hồi nợ có thể gặp rắc rối.
+ Cho vay tiêu dùng phi trả góp
Theo phương thức này, tiền vay được khách hàng thanh toán cho ngân hàng
một lần khi đến hạn, áp dụng với các khoản vay có giá trị nhỏ, thời hạn ngắn.
+ Cho vay tiêu dùng tuần hoàn.
Là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử
dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại sec được phép thấu chi dựa trên tài khoản
vãng lai. Theo phương thức này, trong thời hạn được thỏa thuận trước, căn cứ vào
nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được Ngân hàng cho
phép vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng.
Sơ đồ cho vay trả góp:
(4’) (1’) (1) (3) (4)
(2)
4 (4)
(1) Ngân hàng ký hợp đồng với doanh nghiệp bán lẻ về việc tài trợ (toàn bộ hoặc
một phần) cho người mua hàng trả góp. Ngân hàng sẽ phân tích tình hình tiêu thụ
của doanh nghiệp và khả năng thực hiện bán trả góp cũng như khả năng thu tiền.
Ngân hàng
Người bán lẻ Người tiêu dùng
(1’) Ngân hàng cũng có thể ký hợp đồng trực tiếp với người mua về cho vay để trả
tiền cho doanh nghiệp bán lẻ. Trường hợp Ngân hàng cho vay mua nhà, ngân hàng
thường yêu cầu người mua phải thế chấp ngôi nhà vừa mua cho ngân hàng.
(2) Doanh nghiệp bán hàng cho khách và ký hợp đồng trả góp với khách.
(3) Doanh nghiệp tập trung hóa đơn bán hàng đưa nên Ngân hàng để Ngân hàng
thanh toán.
(4) Doanh nghiệp thu tiền trả góp của người mua và nộp cho Ngân hàng .
(4’) Người mua trực tiếp trả tiền cho Ngân hàng nếu Ngân hàng cho vay trực tiếp đối
với người mua.
1.2.4.2. Căn cứ vào mục đích cho vay có thể phân loại tín dụng tiêu dùng có 2
loại.
+ Cho vay tiêu dùng cư trú: các khoản cho vay này nhằm phục vụ nhu cầu
mua sắm nhà cửa, cải tạo nhà của hộ gia đình cá nhân. Những khoản cho vay này có
đặc điểm là thời gian dài và quy mô lớn, mức lãi suất trong trường hợp này là lớn và
thường áp dụng là lãi suất thả nổi.
+ Cho vay tiêu dùng không cư trú:Đây là các khoản cho vay phục vụ nhu cầu
mua sắm thiết bị nội thất, đò dùng, dụng cụ, du học…Những khoản vay này thường
có quy mô nhỏ bé chính vì vậy độ rủi ro của nó là thấp.các khoản vay này thường áp
dụng lãi suất cố định.
1.2.4.3 Căn cứ vào hình thức cho vay tiêu dùng có 2 loại:
+ Cho vay tiêu dùng gián tiếp.
Là hình thức cho vay, trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh của các doanh
nghiệp đã bán chịu hàng hoá hoặc đã cung cấp các dịch vụ cho người tiêu dùng, hình
thức này ngân hàng cho vay thông qua các doanh nghiệp bán hàng.
(1)
Công ty bán lẻ Ngân hàng
(4)
(5)
(6) (2) (3)
Sơ đồ cho vay tiêu dùng theo hình thức gián tiếp
(1): Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp đồng,
ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán chịu, số
tiền bán chịu tối đa và loại tài sản bán chịu…
(2): Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng
hoá.Thông thường người tiêu dùng phải trả trườc một phần giá trị tài sản.
(3): Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng
(4): Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho ngân hàng
(5): Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ
(6): Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng
Ưu điểm
Dễ dàng mở rộng và tăng doanh số cho vay
Tiết kiệm và giảm được các chi phí khi cho vay
Làm cơ sở để mở rộng quan hệ với khách hàng và tạo điều kiện thuận
lợi cho các hoạt động khác của ngân hàng
Nếu NHTM có quan hệ tốt với các doanh nghiệp bán lẻ thì hình thức
cho vay tiêu dùng gián tiếp có mức độ rủi ro thấp hơn cho vay tiêu dùng
trực tiếp
Hạn chế
Người tiêu
dùng
Khi cho vay, các NHTM không tiếp xúc trực tiếp với khách hàng (người vay
vốn) mà thông qua các DN đã bán chịu hàng hoá, dịch vụ.
Thiếu sự kiếm soát của ngân hàng khi doanh nghiệp thực hiện bán lẻ hàng
hoá, dịch vụ, nhất là trong việc lựa chọn khách hàng
- Cho vay tiêu dùng trực tiếp
Là hình thức ngân hàng và khách hàng trực tiếp gặp nhau để tiến hành cho vay hoặc
thu nợ
Sơ đồ cho vay tiêu dùng theo hình thức trực tiếp
(3)
(1) (5) (2) (4)
(1): Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết hợp đồng
(2): Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty bán lẻ
(3): Ngân hàng thanh toán số tiền mua tài sản còn thiếu cho công ty bán lẻ
(4): Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng
(5): Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng
So với cho vay tiêu dùng gián tiếp thì cho vay tiêu dùng trực tiếp có một số ưu điểm
sau:
Công ty bán lẻ
Ngân hàng
Người tiêu
dùng
Ngân hàng có thể sử dụng triệt để trình độ, kiến thức kinh nghiệm và kỹ năng
của cán bộ tín dụng, do đó các khoản cho vay thường chất lượng cao hơn so
với cho vay thông qua các doanh nghiệp bán lẻ.
Do khi quan hệ trực tiếp với khách hàng, ngân hàng sẽ xử lý tốt hơn các vấn
đề phát sinh và có khả năng làm thoả mãn quyền lợi cho cả ngân hàng và
khách hàng.
1.2.4.4 Căn cứ vào biện pháp đảm bảo.
- Cho vay có tài sản đảm bảo: Các ngân hàng áp dụng hình thức này đối với
những khách hàng mà ngân hàng chưa thật sự tin tưởng. Hơn nữa sự đảm bảo này là
căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai bổ sung cho nguồn thu nợ
thứ nhất bị thiếu.
- Cho vay không đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, việc cho vay ở đây chỉ dựa vào uy tín của bản
thân khách hàng.
1.2.5. Chính sách cho vay tiêu dùng tại NHTM.
1.2.5.1. Chính sách khách hàng.
Khách hàng nhận tín dụng tiêu dùng của Ngân hàng rất đa dạng nhưng chủ
yếu là khách hàng cá nhân người tiêu dùng.Cá nhân phải là người có năng lực hành
vi, là người đã đến tuổi thành niên.Người đi vay phải nêu rõ mục đích vay để làm gì.
Ngân hàng luôn tiến hành phân loại khách hàng theo những tiêu chí về tài
chính.
1.2.5.2.Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng.
Ngân hàng có quy định về quy mô đối với khách hàng như giới hạn cho vay
tối đa của một khách hàng, giới hạn cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ của chi
nhánh hay của Ngân hàng. Quy mô tối đa phải đảm bảo kết hợp tính sinh lời và mức
độ rủi ro có thể chấp nhận của mỗi khoản cho vay. Chính sách cho vay còn quyết
định ở từng thời kỳ trong năm, có tính quy mô và tính chất của nguồn vốn ngân
hàng.
1.2.5.3 Lãi suất.
Lãi suất phụ thuộc vào những món vay có quy mô và kỳ hạn khác nhau, tùy
theo từng khách hàng vay cũng có mức lãi suất vay khác nhau.
Ngân hàng có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để xác định mức lãi
suất thực tế đối với cho vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng. Song phần lớn lãi suất được
xác định dựa trên lãi suất cơ bản cộng phần lợi nhuận cận biên và phần bù đắp rủi ro,
có thể đưa ra công thức tính tổng quát như sau:
Lãi suất cho vay tiêu dùng= Chi phí huy động vốn + Rủi ro tổn thất dự kiến +
Phần bù kỳ hạn với các khoản cho vay dài hạn+ Lợi nhuận cận biên
Hiện nay, mỗi ngân hàng thương mại có những phương pháp tính lãi riêng,
song nhìn chung, tập trung vào những phương pháp như: Phương pháp lãi đơn,
phương pháp lãi gộp, phương pháp tỷ lệ chiết khấu, phương pháp lãi suất biến đổi…
Lãi suất tín dụng phải do giám đốc Ngân hàng thông qua và được phổ biến
đến mọi cán bộ tín dụng. Nhiều ngân hàng đưa ra chính sách lãi suất linh hoạt cho
phép cán bộ tín dụng được thay đổi lãi suất trong khung cho phép và cho phép khách
hàng được lựa chọn hình thức của lãi suất.
1.2.5.4. Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ.
Thời hạn tín dụng luôn được quan tâm đối với các nhà quản lý Ngân hàng vì
kỳ hạn trả nợ liên quan đến khả năng thanh toán và rủi ro của Ngân hàng.chính sách
này cho biết Ngân hàng sẵn sàng cho vay với thời hạn như thế nào và mức giới hạn
là bao nhiêu.
Ngân hàng thường dựa trên hỳ hạn của nguồn để quyết định thời hạn cho vay
nếu khả năng tìm kiếm nguồn và chuyển hoán kỳ hạn của nguồn của Ngân hàng
không cao.Việc chuyển hóa kỳ hạn của nguồn sẽ tiềm ẩn khả năng thanh toán và rủi
ro lãi suất bởi vì nó tạo ra khe hở lãi suất.
1.2.5.5.Các khoản đảm bảo.
Chính sách đảm bảo gồm các quy định về các trường hợp tài trợ cần đảm bảo
bằng tài sản, các loại tài sản đảm bảo cho mỗi loại hình tín dụng tiêu dùng, danh
mục các đảm bảo được ngân hàng chấp nhận, tỷ lệ phần trăm cho vay trên đảm bảo,
đánh giá và quản lý đảm bảo.
Đối với những khách hàng có uy tín tốt thì ngân hàng có thể cho vay không
cần tài sản đảm bảo bằng cac phương pháp cầm cố hoặc thế chấp những giấy tờ có
giá, nhà cửa thiết bị… Hoặc là sự bảo lãnh của bên thứ ba.
Ngân hàng chỉ chấp nhận những tài sản đảm bảo có khả năng bán được là đảm
bảo. Các hợp động bảo lãnh cũng được xem xét cẩn thận, uy tín, khả năng trả nợ, tài
sản mang làm vật bảo đảm của người bảo lãnh là nội dung phải xác định rõ.tỷ lệ cho
vay thường thấp hơn giá trị thị trường của tài sản đảm bảo.
1.2.5.6. Chính sách đối với các tài sản có vấn đề.
Các tài sản có vấn đề bao gồm các khoản nợ xấu và các tài sản có biểu hiện
đáng ngờ.
Chính sách đối với các tài sản cỏ vấn đề về quy định cachs thức xác định nợ
xấu và các tài sản đáng ngờ khác tỷ lệ nợ xấu có thể chấp nhận được và mức độ xấu
của các khoản nợ, trách nhiệm giải quyết và khả năng thanh lý khai thác.
Ngân hàng thực hiện phân biệt rủi ro đến từng nhóm khách hàng với mỗi
nhóm khách hàng khác nhau được xác định rõ ràng. Chính điều này làm cho ngân
hàng xây dựng chính sách cho vay cá biệt.
1.3. Mở rộng cho vay tiêu dùng(MRCVTD).
1.3.1. Khái quát về mở rộng cho vay tiêu dùng.
Mở rộng cho vay tiêu dùng là việc các Ngân hàng thương mại thực hiện cho vay tiêu
dùng cho nhiều đối tượng cá nhân, hộ gia đình,đưa ra nhiều sản phẩm tiện ích thích
hợp cho khách hàng, có nhiều phương thức hoàn trả cũng như nhiều cách tính lãi
thích hợp nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho các khách hàng.
*Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động cho vay tiêu dùng.
Có rất nhiều Ngân hàng thương mại (NHTM) đã triển khai nhiều giải pháp,
cạnh tranh phát triển tín dụng tiêu dùng, nhưng vấn đề cho vay này gắn với rủi ro và
lợi nhuận của Ngân hàng, chính vì vậy các chỉ tiêu phản ảnh kết quả kinh doanh của
ngân hàng trong hoạt động cho vay tiêu dùng là rất quan trọng quyết định Ngân hàng
có cho vay tiêu dùng không, tuy nhiên ở đây chúng ta chỉ xét đến những chỉ tiêu
quan trọng như tỷ lệ cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ cho vay, cơ cấu dư nợ tiêu
dùng theo mục đích vay vốn, tỷ trọng thu lãi và lợi nhuận cho vay tiêu dùng trong
tổng thu lãi và lợi nhuận từ hoạt động cho vay và tỷ lệ nợ quá hạn cho vay tiêu dùng
trên tổng dư nợ cho vay tiêu dùng.
+Chỉ tiêu tỷ lệ cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ cho vay.
Chỉ tiêu này cho chúng ta thấy được khoản cho vay tiêu dùng chiếm bao nhiêu
phần trăm trong số cho vay của ngân hàng, Ngân hàng này có quan tâm đến mảng
cho vay tiêu dùng không. Nếu như chỉ tiêu này lớn thì sẽ phản ánh được là ngân
hàng này có thế mạnh trong cho vay tiêu dùng. Và nó còn thể hiện cho chúng ta thấy
rằng đối tượng khách hàng mà ngân hàng này đang hướng tới là các cá nhân và hộ
gia đình. Ngược lại nếu như chỉ tiêu này có giá trị nhỏ thì nó thể hiện rằng ngân
hàng này không có tiềm lực trong cho vay tiêu dùng, hay cũng có thể khoản cho vay
tiêu dùng không nằm trong chính sách cho vay của ngân hàng. Tại đây có thể đối
tượng mà ngân hàng hướng tới là những người đến vay nhằm mục đích kinh
doanh.Tỷ lệ này cho ta biết
+Chỉ tiêu cơ cấu dư nợ tiêu dùng theo mục đích vay vốn.
Dựa vào chỉ tiêu này mà ngân hàng xác định được khách hàng đến vay vốn
phục vụ cho mục đích gì là nhiều nhất. Nắm bắt được nhu cầu của khách hàng sẽ
làm cho ngân hàng có thể hoàn thiện được danh mục cho vay tiêu dùng. Chẳng hạn
như ngân hàng nhìn vào chỉ tiêu này thấy rằng dư nợ tiêu dùng theo mục đích mua
thiết bị chiếm phần trăm lớn trong tổng số dư nợ tiêu dùng thì chúng ta thấy rằng
nhu cầu khách hàng đến vay tiền của ngân hàng chủ yếu là phục vụ mục đích mua
thiết bị. Tuy nhiên, không chỉ thế mà ngân hàng chỉ tập trung vào các sản phẩm cho
vay mua nhà,mua ô tô mà ngân hàng vẫn phải tiếp tục cải thiện để tạo ra sự khác biệt
giữa sản phẩm ngân hàng của mình với các đối thủ cạnh tranh.
+Tỷ trọng thu lãi và lợi nhuận cho vay tiêu dùng trong tổng thu lãi và lợi
nhuận từ hoạt động cho vay.
Chỉ tiêu này cho chúng ta thấy được kết quả kinh doanh của hoạt động cho
vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại và cho biết Ngân hàng có thu được nhiều
lãi trong khoản này cho vay hay không. Nếu như chỉ tiêu này lớn thì nó thể hiện rằng
ngân hàng thu lãi chủ yếu từ hoạt động kinh doanh cho vay tiêu dùng. Hay nói cách
khác hoạt động cho vay tiêu dùng là hoạt động trung tâm của ngân hàng và đối
tượng khách hàng mà ngân hàng hướng tới là các cá nhân và hộ gia đình.Tuy nhiên
còn dựa vào bao nhiêu phần trăm cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ cho vay mới có
thể biết được lợi nhuận đạt được là cao hay thấp.
+Tỷ nợ quá hạn cho vay tiêu dùng trên tổng dư nợ cho vay tiêu dùng.
Chỉ tiêu này dùng để phản ánh xem việc cho vay têu dùng có mang lại hiệu
quả. Nếu chỉ tiêu này lớn thì nó phản ảnh rằng hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân
hàng này không hiệu quả. Và ngân hàng phải có những biện pháp để khắc phục ngay
tình trạng đó. Trước hết là ngân hàng phải tìm ra nguyên nhân vì sao có tỷ lệ nợ quá
hạn trong cho vay tiêu dùng lớn như vậy. Ngân hàng phải tìm ra nguyên nhân để tim
ra những biện pháp khắc phục tình trạng đó, từ đó đưa ra biện pháp tốt mang lại hiệu
quả cao cho Ngân hàng.
1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng cho vay tiêu dùng.
1.3.2.1. Các nhân tố thuộc về ngân hàng
Quy mô và uy tín của ngân hàng có ảnh hưởng tới lượng cho vay tiêu dùng.
Ngân hàng có lượng vốn tự có cao hay thấp, có nhiều mạng lưới chi nhánh để thuận
tiện giao dịch với khách hàng hay không. Uy tín của ngân hàng cao hay thấp cũng sẽ
ảnh hưởng tới lượng khách hàng đến giao dịch với ngân hàng.
Yếu tố góp phần không nhỏ tới thành công của cho vay tiều dùng là các chính
sách, quy định của ngân hàng. Đó là chính sách chăm sóc khách hàng trước và sau
khi cho vay có chu đáo hay không, đó là các quy định về lãi suất và phí tín dụng cao
hay thấp, có linh hoạt và phù hợp với thu nhập hiện có của người dân hay không, các
quy định về thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ, tài sản đảm bảo, phương thức giải ngân
và thanh toán. Thủ tục xin vay vốn có phức tạp hay đơn giản, thời gian thẩm định hồ
sơ vay vốn kéo dài bao lâu, nếu thời gian thẩm định quá dài thì khách hàng sẽ không
muốn chờ đợi và tìm tới các ngân hàng khác.
Trình độ, thái độ cán bộ tín dụng của ngân hàng cũng mang tính quyết định
thành công của cho vay tiêu dùng. Cán bộ tín dụng cần có trình độ chuyên môn tốt
thì mới thẩm định chính xác khách hàng và dự án vốn, từ đó đưa ra các quyết định
đúng đắn. Cán bộ tín dụng cũng cần có đạo đức nghề nghiệp, tận tâm với công việc,
nhiệt tình giúp đỡ năng động và sáng tạo, chi bảo khách hàng các thủ tục cần thiết.
Muốn hoạt động cho vay tiêu dùng được nhiều khách hàng biết tới thì ngân
hàng cần có chính sách marketing phù hợp. Ngân hàng cần tăng cường các hoạt
động thông tin quảng cáo trên báo đài, tờ rơi, quảng bá hình ảnh của Ngân hàng nói
chung cũng như lợi ích, chính sách về cho vay tiêu dùng nói riêng.
Công nghệ ngân hàng và khả năng quản lý có tác động tới hoạt động cho vay
tiêu dùng. Một ngân hàng có công nghệ hiện đại, có tính chuyên nghiệp trong việc
thẩm định sẽ dấn tới việc giải quyết các thủ tục được nhanh chóng, chính xác, việc
quản lý hồ sơ khách hàng cũng được thuận tiện hơn. Bên cạnh vấn đề về công nghệ,
ngân hàng cần có các quy định, nội quy làm việc thưởng phạt nghiêm minh, quản lý
tốt để tạo động lực làm việc cho cán bộ nhân viên ngân hàng, tác động đến phong
cách làm việc của nhân viên.
Tất cả các nhân tố trên đều là những nhân tố thuộc về nội tại ngân hàng có tác
động tới cho vay tiêu dùng. Ngoài những nhân tố đó còn phải kể tới nhân tố khách
quan bên ngoài ngân hàng cũng ảnh hưởng tới cho vay tiêu dùng, đó là đạo đức
khách hàng cũng như rủi ro của hoạt động cho vay tiêu dùng. Nếu như khách hàng là
người có đạo đức tốt, ý thức trả nợ tốt như trả nợ đúng hạn, tuân thủ các quy định mà
ngân hàng đề ra thì rủi ro cho vay tiêu dùng thấp thì sẽ kích thích ngân hàng tiến
hành mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng, các quy định cho vay cũng sẽ không quá
khắt khe. Ngược lại nếu khách hàng không trả nợ đều, nợ quá hạn quá nhiều thì tất
yếu sẽ kìm hãm hoạt động cho vay tiêu dùng.
1.3.2.2. Nhân tố ngoài ngân hàng
Một số nhân tố vĩ mô có ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng như môi
trường kinh tế xã hội, các chính sách kinh tế của nhà nước, sự cạnh tranh giữa các
ngân hàng, môi trường pháp lịch sử, yếu tố văn hóa.Kinh tế xã hội có ổn định thì tạo
niềm tin cho người dân giúp hok tăng gia sản xuất và tăng tiêu dùng.
Trước hết cần phải kể tới đặc điểm thị trường nơi Ngân hàng hoạt động. Nếu
đó là thành thị hoặc nơi tập trung đông dân cư, có mức thu nhập khá, trình độ học
vấn cao thì nhu cầu vay tiêu dùng sẽ tăng cao hơn so với vùng nông thôn, do thành
thị phát triển nhanh hơn nhu cầu về tiêu dùng manhị hơn người nông thôn rất nhiều.
Kể đến là các thói quen, phong tục tập quán, tâm lý có ảnh hưởng tới nhu cầu
vay tiêu dùng. Người dân Việt Nam thường có thói quen tiết kiệm rồi khi tích lũy đủ
tiền mới mua sắm, tiêu dùng, họ không nghĩ tới việc đi vay, nợ nần để mua sắm
cộng với tâm lý ngại tiếp xúc với ngân hàng, sợ các thủ tục hành chính rườm ra.
Chính vì thế nhu cầu vay của người dân còn thấp.
Môi trường kinh tế chính trị có ảnh hưởng tới cho vay tiêu dùng. Nếu nền
kinh tế phát triển tốt, thu nhập bình quân đầu người cao và môi trường chính trị ổn
định thì hoạt động cho vay tiêu dùng cũng sẽ diễn ra thông suốt, phát triển vững
chắc. Nếu môi trường có sự cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng để giành giật
khách hàng thì cho vay tiêu dùng của các ngân hàng cũng sẽ gặp khó khăn.
Các quy định pháp lý của ngân hàng Nhà nước và chính phủ có thể khuyến
khích và cũng có thể hạn chế cho vay nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng. Đó
là các quy định như quy định của Ngân hàng nhà nước khống chế cho vay tối đa đối
với một khách hàng trên vốn tự có của Ngaan hàng hoặc các chỉ thị nhằm tạo ra rào
cản về cho vay đối với các ngân hàng…
1.3.2.3. Những nguyên nhân thuộc về khách hàng.
Các yếu tố xuất phát từ bản thân khách hàng của ngân hàng khi thực hiện hoạt
động CVTD có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong hoạt động CVTD. CVTD là hình
thức cho vay tiềm ẩn rủi ro rất cao, những rủi ro này thường xuất phát từ phía khách
hàng. Các nhân tố thuộc về bản thân khách hàng gồm có: Khả năng tài chính của
khách hàng, đạo đức khách hàng, tài sản đảm bảo của khách hàng…
Khả năng tài chính của khách hàng chính là nguồn tài trợ cho các khoản vay
của ngân hàng. Thu nhập của người vay là nguồn trả nợ chủ yếu của các khoản vay
tiêu dùng. Nếu một khách hàng có thu nhập thường xuyên và ổn định sẽ luôn được
chào đón sử dụng các dịch vụ của ngân hàng trong đó có dịch vụ cho vay tiêu dùng.
Như vậy, khả năng tài chính của khách hàng là một sự đảm bảo cho ngân hàng khi
cung cấp tín dụng tiêu dùng, nó đảm bảo cho ngân hàng sự an toàn và tránh rủi ro.
Đạo đức khách hàng bao gồm các yếu tố liên quan đến uy tín của khách hàng,
năng lực pháp lý của khách hàng…Các yếu tố này có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi
ngân hàng tiến hành xem xét các khoản vay nói chung và khoản vay tiêu dùng nói
riêng. Nếu một khách hàng có khả năng tài chính tốt, nguồn tài chính dùng trả nợ
cho ngân hàng được đảm bảo, nhưng đạo đức của khách hàng này không được đảm
bảo thì khả năng trả nợ của khách hàng này là rất thấp. Đạo đức khách hàng còn thể
hiện ở việc cung cấp cho ngân hàng những thông tin cá nhân đầy đủ và chính xác, sự
thiện chí muốn trả nợ cho ngân hàng và sự trung thực trong việc thực hiện hợp đồng
tín dụng kí kết với ngân hàng.
Tài sản đảm bảo chính là nguồn trả nợ thứ hai sau là nguồn thứ nhất là thu
nhập cuả người vay trong tín dụng tiêu dùng. Trong trường hợp có rủi ro xảy ra, tài
sản đảm bảo chính là tấm đệm cho các ngân hàng giúp ngân hàng có thể thu hồi lại
phần cho vay mà khách hàng không trả được nợ. Ngân hàng có thể giảm thiểu rủi ro
cho cho mình khi người vay không trả được nợ bằng cách phát mại tài sản đảm bảo