CHU KỲ KINH TẾ VÀ DỰ BÁO KINH TẾ VIỆT NAM 2013
Tác giả: Nguyễn Thành Luân
Học viên lớp Cao học 14C
Trường Đại Học Ngân Hàng Thành Phố Hồ Chí Minh
Tóm tắt:
Chu kỳ kinh tế là vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách vĩ mô của
nhiều quốc gia và “Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ”của John Maynard
Keynes cũng là nền tảng cho nhiều chính sách vĩ mô từ những năm đầu thế kỷ XIX. Và
cho đến ngày nay, việc vận dụng lý thuyết của Keynes để có thể dự báo tình hình kinh tế
Việt Nam là điều không quá khó nhưng về mặt nguyên tắc, việc đưa ra dự báo chỉ dựa
trên mục đích tham khảo và làm rõ thêm lý thuyết Keynes mà cụ thể là mô hình IS-LM
được vận dụng như thế nào trong thực tế.
Từ khóa:
- Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ hay còn gọi là lý thuyết tổng
quát ra đời vào năm 1936 với tên Tiếng Anh là “The General Theory of
Employment, Interest àn Money”
- Mô hình IS-LM là mô hình phân tích của John Richard Hick để cụ thể hóa lý
thuyết của J.M. Keynes và tìm ra vị thế cân bằng tổng quát cho nền kinh tế mỗi
quốc gia dựa trên IS (đầu tư – tiết kiệm) và LM (cung và cầu tiền).
Giới thiệu:
Khoa học dự báo là môn khoa học mới nhằm mục tiêu tìm ra giải pháp cho từng kịch bản
dự báo. Tuy nhiên, trong phạm vi bài nghiên cứu này chúng tôi chỉ đề cập đến việc dự
báo kinh tế Việt Nam trong năm 2013 dựa trên mô hình IS-LM. Bài nghiên cứu sẽ không
liên quan đến việc phân tích chính sách vĩ mô của Quốc gia cũng như việc đưa ra hướng
giải pháp cho mục tiêu vĩ mô của quốc gia trong năm 2013, mà chỉ dừng lại ở việc phân
tích cách sử dụng lý thuyết Keynes dựa vào số liệu của năm 2012 và đưa ra lập luận của
tác giả cho bài viết này.
Nội dung:
1. Khái quát lịch sử chu kỳ kinh tế thế giới và Việt Nam
Kinh tế thế giới đã trải qua nhiều cuộc khủng hoảng trong những năm 1929-1933,
1973-1975, 1979-1982, 1997-1998 và gần nhất là cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới
năm 2008. Lý thuyết chu kỳ kinh tế và khủng hoảng kinh tế đã xuất hiện đầu thế kỷ XIX
nhằm mục đích nghiên cứu bản chất và xây dựng những chính sách vĩ mô để hạn chế ảnh
hưởng của các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Lịch sử phát triển kinh tế toàn cầu đã
cho thấy ảnh hưởng to lớn của các phát kiến khoa học lớn như phát minh ra máy dệt và
sự phát triển lớn mạnh của ngành công nghiệp dệt, cơ khí dệt vào cuối thế kỷ XVII đầu
XIX; sáng kiến đầu máy hơi nước và ngành công nghiệp đường sắt, công nghiệp than,
thép vào giữa thế kỷ XIX; phát minh ra điện, hóa chất và cơ khí nặng cuối thế kỷ XIX
đầu XX; phát minh ra ô tô, vật liệu nhân tạo giữa thế kỷ XIX; vi điện tử, vi tính và vi sinh
vào cuối thế kỷ XX đầu XXI đều là nguyên nhân tạo ra những dao động kinh tế theo chu
kỳ mà các nhà kinh tế trên thế giới gọi là “chu kỳ K” (chu kỳ Krondratiev). Theo lý
thuyết này thì thời kỳ tăng trưởng và suy thoái sẽ lặp đi lặp lại trung bình trong khoảng
50 năm và sức ảnh hưởng của nó không chỉ ở các nước tư bản phát triển mà sẽ lan sang
các quốc gia khác do quá trình toàn cầu hóa kinh tế.
Nhiều lý thuyết chu kỳ kinh tế của các nhà kinh tế học thế giới đóng vai trò to lớn trong
chính sách điều tiết vĩ mô của nhiều quốc gia. Kể đến là đóng góp to lớn của John
Maynard Keynes (1883-1948) trong “Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ”)
được John Richard Hick (1904-1989) lý giải cụ thể dưới dạng mô hình “Phân tích IS-
LM” nhằm hướng đến mục tiêu tìm ra vị thế cân bằng tổng quát cho nền kinh tế mỗi quốc
gia dựa trên IS (đầu tư – tiết kiệm) và LM (cung và cầu tiền). Với nguyên lý cầu hữu
hiệu, lý thuyết Keynes khẳng định rằng “lượng cung hàng hóa là do lượng cầu quyết
định”. Do đó, vào những thời kỳ suy thoái kinh tế, nếu tăng lượng cầu đầu tư hàng hóa
công cộng, thì sản xuất và việc làm sẽ tăng theo, nhờ đó giúp cho nền kinh tế ra khỏi thời
kỳ suy thoái.
Đối với một nền kinh tế nói chung, chu kỳ kinh tế sẽ trải qua bốn pha bao gồm phục hồi,
tăng trưởng, khủng hoảng và suy thoái. Hai pha đầu gộp thành giai đoạn mở rộng, hai pha
sau gộp thành giai đoạn thu hẹp. Độ dài của các pha sẽ không đều nhau và sẽ tùy thuộc
vào đặc điểm kinh tế của từng quốc gia. Biểu đồ thể hiện GDP tăng trưởng từ giai đoạn
năm 1999 – 2009 của Việt Nam cho thấy giai đoạn mở rộng bắt đầu từ năm 1999 cho đến
năm 2007 và giai đoạn thu hẹp từ năm 2007 cho đến năm 2009.
Câu hỏi đặt ra là chúng ta đã trải qua bao nhiêu chu kỳ kinh tế và giai đoạn 2013-
2014, nền kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục giai đoạn thu hẹp hay sẽ chuyển bước giai
đoạn mở rộng của chu kỳ kinh tế mới ?
Một cách khái quát, nền kinh tế Việt Nam từ đã trải qua chu kỳ kinh tế thứ nhất từ năm
1986 đánh dấu cho thời kỳ cải cách kinh tế cho đến thời điểm năm 1990. Tốc độ tăng
truởng GDP cao nhất trong thời ky này là mức 7,4% vào năm 1989.
Chu kỳ kinh tế thứ hai bắt đầu từ năm 1990 khi tư duy cải cách thực sự được chuyển hóa
thành các chính sách kinh tế và đi vào cuộc sống, nền kinh tế đã nhanh chóng vượt qua
giai đoạn khó khăn và bước vào thời kỳ phát triển. Chu kỳ này kéo dài từ năm 1990 cho
đến năm 1999. Tốc độ tăng trưởng GDP cao nhất đạt mức 9,5% vào năm 1995 và cũng là
mức cao nhất tính đến giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, do cú sốc của cuộc khủng hoảng tài
chính châu Á nên nước ta lại nhanh chóng đi vào thời kỳ suy thoái 1998-1999. Tốc độ
tăng trưởng chỉ còn 5,8% năm 1998 và xuống đáy 4,8% năm 1999. Cũng trong năm
1999, thất nghiệp tăng lên 6,7% và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn ở mức rất cao 28,9%.
Chu kỳ thứ ba bắt đầu từ sau năm 1999 có pha mở rộng kéo dài từ 1999 đến 2007. Từ
năm 2000-2008, việc tiếp tục kiên trì đường lối đổi mới với nhiều cải cách mạnh mẽ, đặc
biệt là sự ra đời Luật Doanh nghiệp đã giải phóng nguồn lực dồi dào trong khu vực dân
doanh đã tạo điều kiện gia tăng GDP liên tục tăng qua các năm và đạt đỉnh điểm là 8,5%
năm 2007, thất nghiệp giảm xuống chỉ còn 4,2%. Năm 2008, cuộc khủng hoảng kinh tế -
tài chính thế giới cũng là một cú sốc mạnh từ bên ngoài đã cộng hưởng và nhanh chóng
đưa nước ta vào pha suy thoái của chu kỳ.
2. Kinh tế - xã hội Việt Nam trong năm 2012
Năm 2012, kinh tế và xã hội Việt Nam nói riêng và các quốc gia khác nói chung tiếp tục
chịu ảnh hưởng bởi sự bất ổn của nền kinh tế toàn cầu mà
nguyên nhân chính là do cuộc khủng hoảng tài chính và
khủng hoảng nợ công ở Châu Âu. Hoạt động sản xuất và
thương mại toàn cầu bị tác động mạnh, tốc độ tăng trưởng
của các nền kinh tế đầu tàu suy giảm kéo theo sự sụt giảm
của các nền kinh tế khác. Theo xếp hạng đánh giá của
Qũy Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), trong năm 2012, 5 nền kinh
tế mạnh trên thế giới bao gồm Luxembourg, Madagascar,
Mỹ, Libya và Mông Cổ. Tốc độ tăng trưởng GDP chỉ đạt
5,03% thấp hơn mức 5,9% của năm 2011. Điều này cũng
đặt ra câu hỏi là liệu rằng mốc 5,03% của năm 2012 đã là điểm đáy của chu kỳ thứ 3 hay
chưa hay chỉ số này của năm 2013 sẽ thấp hơn 5,03% này. Để có thể đưa ra lập luận
chính xác hơn cho xu hướng nền kinh tế Việt Nam trong năm 2012, chúng ta điểm lại một
số chỉ tiêu đánh giá nền kinh tế trong năm qua.
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP):
Tốc độ tăng GDP thấp nhất trong 13 năm qua kể từ điểm đáy của chu kỳ kinh tế thứ 2 tại
mức 4,8% vào năm 1999. Tốc độ tăng là 5,03%, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản tăng 2,72%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,52% và khu vực dịch vụ
tăng 6,42%.
Bảng 1: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước. Đơn vị tính: %
Năm 2011 Năm 2012
TỔNG SỐ 5,89 5,03
1. Phân theo khu vực kinh tế
- Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 4,01 2,72
- Công nghiệp và xây dựng 5,53 4,52
- Dịch vụ 6,99 6,42
2. Phân theo quý trong năm
- Quý I 5,53 4,64
- Quý II 5,71 4,80
- Quý III 6,02 5,05
- Quý IV 6,15 5,44
(Nguồn dữ liệu: www.gso.gov.vn)
- Tỷ lệ lạm phát thông qua chỉ số giá tiêu dùng:
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2012 tăng 0,27% so với tháng trước và tăng 6,81% so với
tháng 12/2011. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2012 tăng 9,21% so với bình quân
năm 2011.
(Nguồn dữ liệu: www.worldbank.org)
- Tỷ lệ thất nghiệp
Dân số trung bình cả nước năm 2012 ước tính 88,78 triệu người và số người trong độ
tuổi lao động là 46,95 triệu người tăng 0,87% so với năm 2011. Lực lượng nam trong
độ tuổi lao động chiếm 53% trong tổng lực lượng lao động năm 2012.
2011 2012
Tỷ lệ Triệu người Tỷ lệ Triệu người
Tỷ lệ thất nghiệp 2,22% 0,96 1,99% 0,93
Tỷ lệ thiếu việc làm 2,96% 1,28 2,80% 1,31
Tỷ lệ có việc 94,82% 40,95 95,21% 44,70
Tổng cộng: 100% 43,19 100% 46,95
Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm năm 2012 giảm nhẹ so với các tỷ lệ tương
ứng của năm 2011 nhưng số lao động phi chính thức tại Việt Nam đã gia tăng lên tới
con số 2 triệu người. (Nguồn: www.gso.gov.vn)
- Cán cân xuất nhập khẩu:
Tính chung cả năm 2012, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 114,6 tỷ USD, tăng 18,3%
so với năm 2011 trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 42,3 tỷ USD và khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài (gồm cả dầu thô) đạt 72,3 tỷ USD. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu
tăng cao tập trung chủ lực ở những mặt hàng như hàng dệt may, giày dép, điện thoại và
linh kiện, máy vi tính, sản phẩm điện và linh kiện, phuộng tiện vận tải và phụ tùng, máy
móc thiết bị dụng cụ, gạo, cà phê, cao su, hàng thủy sản, dầu thô và than đá. Năm 2012,
lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu gạo đạt trên 8 triệu tấn.
Cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất khẩu 2011 2012
Đơn vị: Triệu USD, % Kim ngạch Tỷ lệ Kim ngạch Tỷ lệ
Nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản
34,45 35,6% 51,7 45,1%
Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp
39,00 40,3% 39 34,0%
Nhóm hàng nông lâm sản
14,90 15,4% 17,7 15,4%
Nhóm hàng thủy sản
8,03 8,3% 6,2 5,4%
Tổng cộng: 9,.77 100% 114,6 100%
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm 2012 đạt 114,3 tỷ USD, tăng 7,1% so với năm trước
trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 54 tỷ USD và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
đạt 60,3 tỷ USD. Về mặt hàng nhập khẩu trong năm 2012 một số mặt hàng có kim ngạch
tăng là điện tử, máy tính và linh kiện (13,1 tỷ USD), vải (7 tỷ USD) và nguyên phụ liệu
dệt may, giày dép (3,2 tỷ USD).
Cơ cấu kim ngạch hàng hóa nhập khẩu
Đơn vị: Triệu USD, %
2011 2012
Kim ngạch Tỷ lệ Kim ngạch Tỷ lệ
Nhóm tư liệu sản xuất 96.7 90.6% 106.5 93.2%
Nhóm hàng tiêu dùng 10.0 9.4% 7.8 6.8%
Tổng cộng: 106.7 100% 114.3 100%
(Nguồn: www.gso.gov.vn)
Năm 2012 xuất siêu 284 triệu USD và là năm đầu tiên Việt Nam xuất siêu hàng hóa
kể từ năm 1993. Nguyên nhân chủ yếu do suy giảm của sản xuất và tiêu dùng trong nước
nên nhập khẩu tăng thấp hơn nhiều so với xuất khẩu. Đáng chú ý là xuất siêu hàng hóa
chủ yếu ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với mức xuất siêu đạt gần 12 tỷ USD, tập
trung ở nhóm hàng gia công lắp ráp.
- Vốn đầu tư trực tiếp
Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong năm 2012 đạt 13 tỷ USD. Bao gồm vốn
đăng ký của 1100 dự án được cấp phép mới đạt 7,9 tỷ USD, vốn đăng ký bổ sung của 435
lượt dự án được cấp phép từ các năm trước là 5,1 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài thực hiện năm 2012 ước tính đạt 10,5 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
năm nay tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 69,9% tổng
vốn đăng ký; ngành kinh doanh bất động sản chiếm 14,2%; các ngành còn lại chiếm
15,9%.
Trong số 54 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp phép mới vào Việt Nam năm
nay, Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất chiếm 51% tổng vốn đăng ký cấp mới, tiếp đến là
Hàn Quốc chiếm 9,6%.
- Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước:
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2012 theo giá hiện hành ước tính đạt 989,3 nghìn
tỷ đồng, tăng 7% so với năm trước và bằng 33,5% GDP, đây là năm có tỷ trọng vốn đầu
tư so với GDP đạt thấp nhất kể từ năm 2000 trở lại đây. Trong vốn đầu tư toàn xã hội
thực hiện năm 2012, vốn khu vực Nhà nước đạt 374,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 37,8% tổng
vốn và tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước 385 nghìn tỷ
đồng, chiếm 38,9% và tăng 8,1%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 230 nghìn
tỷ đồng, chiếm 23,3% và tăng 1,4%.
2011 2012
Nghìn
tỷ đồng
Cơ cấu
(%)
Nghìn
tỷ đồng
Cơ cấu
(%)
TỔNG SỐ
918.63 100% 989.30 100,0
Khu vực Nhà nước
341.20 37.14% 373.96 38%
Khu vực ngoài Nhà nước
356.00 38.75% 384.84 39%
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
221.43 24.10% 230.51 23%
(Nguồn: www.gso.gov.vn)
- Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước đạt 658,6 nghìn tỷ đồng, bằng 88,9% dự toán năm, trong đó
thu nội địa 419,1 nghìn tỷ đồng, bằng 84,7%; thu từ dầu thô 113 nghìn tỷ đồng, bằng
129,9%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 119,5 nghìn tỷ đồng, bằng
77,6%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước 133,7 nghìn tỷ đồng,
bằng 86% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô)
78,4 nghìn tỷ đồng, bằng 80,2%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước
86 nghìn tỷ đồng, bằng 77,4%; thu thuế thu nhập cá nhân 43,1 nghìn tỷ đồng, bằng 93%;
thu thuế bảo vệ môi trường 12,1 nghìn tỷ đồng, bằng 91,4%; thu phí, lệ phí 7,9 nghìn tỷ
đồng, bằng 88,5%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước đạt 821,2 nghìn tỷ đồng, bằng 90,9% dự toán năm, trong đó
chi đầu tư phát triển 157,6 nghìn tỷ đồng, bằng 87,5% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản
151,7 nghìn tỷ đồng, bằng 87,2%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an
ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể (bao gồm cả chi thực hiện cải cách tiền lương)
ước tính đạt 569,9 nghìn tỷ đồng, bằng 94,8%; chi trả nợ và viện trợ 93,8 nghìn tỷ đồng,
bằng 93,8%.
- Thị trường chứng khoán
(Nguồn: www.fpts.com.vn)
Nếu trong những năm 2006-2007, thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển khá mạnh
bằng việc cả hai chỉ số VnIndex và HnxIndex đều đã đạt đỉnh vào đầu năm 2007 với các
mức lần lượt là 1.158,3 điểm và 459,4 điểm thì đối với giai đoạn hiện nay do chịu ảnh
hưởng từ khủng hoảng kinh tế thế giới cũng như những bất ổn từ kinh tế vĩ mô trong
nước, thị trường đi xuống mạnh và đang trong giai đoạn đi ngang và chưa có được tín
hiệu phục hồi rõ rệt. Chỉ số VnIndex chốt tại phiên giao dịch cuối ngày 28/12/2012 là
413.73 điểm cao hơn mức 351.6 điểm của năm 2011 và HnxIndex là 57.09 cao hơn mức
56,8 điểm của năm 2011. Tính thanh khoản của thị trường chứng khoán không cao, nhiều
công ty chứng khoán thua lỗ và thậm chí đã có một số công ty lâm vào tình trạng mất
thanh khoản, nhà đầu tư nước ngoài trong thời gian gần đây đã hầu như không quan tâm
đến thị trường chứng khoán Việt Nam.
- Chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng
Căn cứ Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 3/1/2012, Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày
10/5/2012 của Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng nhà nước
đã triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp chỉ đạo, điều hành nhằm đảm bảo thanh
khoản, ổn định thị trường tiền tệ, thị trường ngoại tệ, vàng, giảm nhanh mặt bằng lãi
suất cho vay và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.
Tổng phương tiện thanh toán tăng 22,4% so với cuối năm 2011.
Mặt bằng lãi suất huy động VND giảm 3-6%/năm, lãi suất cho vay giảm 5-
9%/năm so với cuối năm 2011
Tốc độ tăng trưởng tín dụng đạt khoảng 8,91% trong đó tín dụng VND tăng
11,51%, tín dụng bằng ngoại tệ giảm 1,56% so với cuối năm 2011, tín dụng
nông nghiệp, nông thôn tăng khoảng 8%, tín dụng xuất khẩu tăng khoảng
14%, tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng khoảng 6,15%. Dư nợ cho vay
các lĩnh vực không khuyến khích giảm và chiếm tỷ trọng khoảng 4,4% so
tổng dư nợ cho vay nền kinh tế.
Tỷ trọng dư nợ cho vay với lãi suất trên 15%/năm là 19,2% tại thời điểm
cuối năm 2012.
Tỷ giá mua trung bình của các ngân hàng thương mại giảm 1% so với cuối
năm 2011, chênh lệch tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do bị thu
hẹp. Tỷ lệ đô la hóa (tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán) giảm
xuống còn 12,3% .
Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng giảm 10-11%/năm so với đầu năm
và ổn định ở mức thấp, không còn tình trạng căng thẳng về thanh khoản,
đẩy lãi suất lên cao như trong năm 2011
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN)
đã xây dựng lộ trình chấm dứt tình trạng ”vàng hóa” nền kinh tế. Nghị định
24 đã tạo lập khuôn khổ pháp lý nhằm tổ chức, sắp xếp lại thị trường vàng
bên cạnh đó ban hành Thông tư số 16/2012/TT-NHNN, Quyết định
1623/QĐ-NHNN về việc tổ chức và quản lý sản xuất vàng miếng của
NHNN và Quyết định 69/QĐ-NHNN ban hành kèm Quy chế giám sát hoạt
động gia công vàng miếng từ nguồn vàng nguyên liệu không phải của
NHNN. Thông tư số 11/2011/TT-NHNN yêu cầu các TCTD chấm dứt huy
động và cho vay vốn bằng vàng. Đến ngày 27/4/2012, NHNN đã ban hành
Thông tư số 12/2012/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư
số 11/2011/TT-NHNN theo hướng cho phép tổ chức tín dụng được phát
hành chứng chỉ ngắn hạn bằng vàng để chi trả vàng theo yêu cầu của khách
hàng khi số vàng thu nợ và tồn quỹ không đủ để chi trả và gia hạn thời gian
chấm dứt việc phát hành chứng chỉ ngắn hạn bằng vàng của TCTD vào
ngày 25/11/2012.
Đánh giá, xác định được 9 NHTMCP cần tập trung ưu tiên cơ cấu lại đó là
Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB), NH Tín Nghĩa, NH Đệ Nhất,
TienphongBank, Habubank, GPBank, Navibank, TrustBank và Western
Bank. Tính đến cuối năm 2012, đã có 5 trường hợp thực hiện xong việc tái
cơ cấu (3 ngân hàng hợp nhất đầu tiên: SCB, Tín Nghĩa và Đệ Nhất; trường
hợp tự cơ cấu của TienPhong Bank và thương vụ sáp nhập Habubank và
SHB).
Dự phòng rủi ro đã trích lập chưa sử dụng đến cuối tháng 11/2012 đạt 78,6
ngàn tỷ đồng (tương đương 58,31% nợ xấu), tăng 33% so với cuối năm
2011; Nợ xấu được các TCTD xử lý ước đạt 45 ngàn tỷ đồng; các biện pháp
cơ cấu lại nợ đã góp phần kiềm chế nợ xấu tăng nhanh và hỗ trợ khách
hàng vay vốn. Nhiều TCTD đã chấp nhận giảm lợi nhuận, tiết giảm chi phí,
kể cả tiền lương, tiền thưởng của người lao động để tập trung trích lập dự
phòng rủi ro cho xử lý nợ xấu. Để xử lý căn bản nợ xấu, NHNN đã trình
Chính phủ Đề án xử lý nợ xấu và Đề án thành lập Công ty quản lý tài sản.
(Nguồn: www.sbv.gov.vn)
Kết luận:
Năm 2012, tốc độ gia tăng GDP của Việt Nam là 5,03%, tỷ lệ lạm phát là 9,21%, tỷ lệ
thất nghiệp là 1,22%. Năm 2013, theo kế hoạch phát triển kinh tế xã hội mức tăng trưởng
GDP sẽ vào khoảng 5,5% điều này sẽ cho thấy nguy cơ lạm phát của năm 2013 sẽ có thể
vượt qua ngưỡng 2 con số. Năm 2012, tình hình hoạt động của các doanh nghiệp trong
nước gặp nhiều khó khăn thể hiện ở việc nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Bên cạnh đó nguồn vốn ngân hàng không giải ngân được, tình trạng nợ xấu gia tăng làm
tính thanh khoản vốn vay kém, mức lại suất vay vốn cao hơn mức sinh lời hoạt động kinh
doanh nên nhiều doanh nghiệp còn ngần ngại việc nhận vốn góp từ ngân hàng. Hệ thống
tài chính gặp nhiều khó khăn, lợi nhuận ngân hàng sụt giảm rõ rệt và đặc biệt là tình trạng
hợp nhất và sáp nhập đang diễn ra khá mạnh mẽ trong hệ thông tài chính minh chứng cho
sự yếu kém trong lĩnh vực tài chính Việt Nam.
Nguyên lý kinh tế học trong Học thuyết Keynes và mô hình khái quát hóa IS-LM sẽ cho
chúng ta thấy được phần nào kịch bản trong năm 2013. Có thể mô hình sẽ không chính
xác hoàn toàn vì lý thuyết được xây dựng trên nhiều giả thiết nhưng về mặt học thuật nó
là cả một nền tảng kinh tế vĩ mô mà chúng ta nên xem xét.
Theo lý thuyết kinh tế, nếu trong năm 2013 Việt Nam thực hiện chính sách tăng GDP từ
5,03% lên mức 5,5% cụ thể trong tháng 01/2013 ngân hàng nhà nước đang thực hiện
chính sách tiền tệ bằng việc quy định lại suất huy động không vượt quá 8% và ra chỉ thị
cho các ngân hàng thực hiện việc giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp.
Lãi suất đầu tư giảm sẽ kích thích đầu tư nhằm thực hiện điều tiết vĩ mô tăng GDP trong
năm 2013. Bên cạnh đó, việc thực hiện đẩy mạnh đầu tư công và xây dựng cơ sở hạ tầng
cũng góp phần đưa nền kinh tế tăng trưởng.
Tuy nhiên, viêc các ngân hàng thương mại hỗ trợ doanh nghiệp nghiễm nhiên sẽ tác động
đến cung tiền trong nền kinh tế, tạo ra lạm phát. Trong năm 2012, tỷ lệ làm phát đang ở
mức 9,21% thì trong năm 2013 tỷ lệ này sẽ có nhiều khả năng vượt qua 2 con số.
Theo nguyên tắc đường cong Philips, tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp tỷ lệ nghịch với
nhau, điều này có nghĩa là khi nền kinh tế đạt trạng thái phát triển cao, sẽ cần nguồn nhân
lực để liên tục sản xuất và thu nhập người dân tăng lên, hàm số tiêu dùng tăng lại đẩy
mạnh quá trình sản xuất, cứ thế nền kinh tế sẽ phát triển không ngừng. Tuy nhiên, đối
mặt với nó là tỷ lệ lạm phát rất cao và điều gì sẽ xảy ra với nề kinh tế.
Do đó, dựa trên quan điểm của mình và căn cứ vào các mục tiêu trong năm 2013 đề ra tôi
nghĩ tốc độ tăng trưởng của năm 2013 sẽ xấp xỉ năm nay hoặc nếu kịch bản tốt thì sẽ là
mức 5,2% do mục tiêu chính vẫn là kiềm chế lạm phát.
Tài liệu tham khảo:
- The General Theory of Employment, Interest and Money
- Macro economic của George Mankiw.
- “Báo cáo triển vọng kinh tế Việt Nam 2012-2013” của Ủy Ban giám sát tài chính
quôc gia.
- “Tình hình kinh tế xã hội năm 2012” của Tổng Cục Thống Kê.