Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Phân tích Tài chính doanh nghiệp phục vụ công tác tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm – Hưng Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.35 KB, 61 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử ra đời của các ngân hàng thương mại xuất phát từ đòi hỏi
khách quan của quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá tiền tệ.Trước hết
nó là cầu nối giữa những người có vốn dư thừa với những người có nhu cầu
về vốn. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động của các NHTM
ngày càng xâm nhập sâu sắc hơn vào mọi mặt của nền kinh tế và trở thành
chất dầu “bôi trơn” đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động.
Kinh doanh trong lĩnh vực được ví là “ngồi mát ăn bát vàng” nhưng
hoạt động của các NHTM ngày càng có sự cạnh tranh gay gắt. Để có chỗ
đứng vững chắc trong cạnh tranh các ngân hàng đã không ngừng nâng cao
chất lượng phục vụ, đa dạng hoá danh mục sản phẩm, đa dạng hoá đối
tượng phục vụ, phạm vi phục vụ...nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của thị
trường. Nằm trong chiến lược chung đó, hoạt động tín dụng-hoạt động
mang lại doanh thu và lợi nhuận chủ chốt cho ngân hàng cũng được mở
rộng cho nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội, đó là các doanh nghiệp,
hộ gia đình... Cùng với việc mở rộng thì đảm bảo và nâng cao chất lượng
tín dụng là điều mà ngân hàng luôn hướng tới, bởi vậy đánh giá và lựa chọn
khách hàng là công tác quan trọng, đặc biệt đối với các khách hàng là
doanh nghiệp.
Tín dụng phục vụ doanh nghiệp mang lại nguồn lợi lớn nhưng cũng
mang lại rủi ro lớn cho ngân hàng bởi giá trị của mỗi khoản vay thường lớn.
Do vậy có khi chỉ cần sự đổ bể của một khoản tín dụng cũng có thể gây cho
ngân hàng những tổn thất lớn không lường trước được. Điều đó đòi hỏi
trước mỗi quyết định có hay không tài trợ ngân hàng phải có sự cân nhắc kỹ
lưỡng sao cho vừa không bỏ lỡ cơ hội gia tăng doanh thu và lợi nhuận vừa
đảm bảo chất lượng tín dụng. Phân tích tài chính doanh nghiệp tốt là một
1
trong những yếu tố giúp cho ngân hàng đạt được điều đó.Với tầm quan
trọng như vậy của công tác này, qua thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT
Văn Lâm-Hưng Yên, em đã chọn đề tài:


“Phân tích Tài chính doanh nghiệp phục vụ công tác tín dụng tại
chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm – Hưng Yên”
2. Mục đích, đối tượng nghiên cứu
Phân tích tài chính các doanh nghiệp vay vốn thông qua các chỉ tiêu tài
chính tính được trên cơ sở các báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhằm
nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động
cho vay của ngân hàng.
3. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng một số phương pháp mà ngân hàng thường sử
dụng phổ biến khi phân tích tài chính doanh nghiệp là phương pháp so sánh
và phương pháp phân tích số tỷ lệ. Ngoài ra còn có các phương pháp khác
như: phương pháp bảng biểu, sơ đồ...
4. Kết cấu của đề tài.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề của em gồm 3 phần chính là:
- Chương 1. Lý luận chung về hoạt động của NHTM và công tác
phân tích tài chính doanh nghiệp tại NHTM
- Chương 2. Thực trạng hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp
phục vụ công tác tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm –
Hưng Yên
- Chương 3. Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phân tích
tài chính doanh nghiệp phục vụ công tác tín dụng tại chi nhánh
NHNo&PTNT Văn Lâm – Hưng Yên
Đề tài trên là một lĩnh vực nghiên cứu phức tạp, bản thân em trong quá
trình nghiên cứu, tìm hiểu cả lý luận và thực tiễn đã có nhiều cố gắng song
bài viết không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em rất mong được sự
2
hỗ trợ, chỉ bảo của cơ quan thực tập, cô giáo Lê thị Diệu Huyền cũng như
các thầy cô giáo khác và những người quan tâm tới đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn !
3

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA NHTM VÀ CÔNG
TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TẠI NHTM
1.1 . Ngân Hàng Thương Mại.
1.1.1. Khái niệm:
Trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác nhau về NHTM:
Luật ngân hàng của Pháp năm 1941 định nghĩa: “Ngân hàng là những
xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng
dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho
chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”.
Luật Ngân hàng của Ấn Độ 1950 , được bổ sung 1959 đã nêu: “Ngân
hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”...
Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng phân tích khai thác
nội dung của các định nghĩa đó người ta có thể nhận thấy rằng các NHTM
đều có chung một tính chất, đó là việc nhận tiền ký thác, tiền gửi không kỳ
hạn, tiền gửi có kỳ hạn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu
và các dịch vụ kinh doanh khác của chính ngân hàng .
Ở Việt Nam, theo nghị định 49 của Chính phủ về tổ chức và hoạt
động của ngân hàng thì NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả
các hoạt động ngân hàng hiện có và các hoạt động khác có liên quan vì mục
tiêu lợi nhuận.
Ngày nay, trong thế giới hiện đại, hoạt động của các tổ chức tài chính
ngày càng phát triển, phong phú,đa dạng ,đan xen lẫn nhau. Người ta phân
biệt NHTM với các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác dựa trên tài sản
Có: Một NHTM là một ngân hàng trung gian mà tỷ lệ vốn cho vay vào mục
đích thương mại và công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản có
của nó.
4
1.1.2. Các chức năng của NHTM
NHTM có 3 chức năng cơ bản sau:

a) Chức năng làm thủ quỹ cho xã hội
Thực hiện chức năng này NHTM nhận tiền gửi của công chúng, các
doanh nghiệp và các tổ chức, giữ tiền cho khách hàng của mình, đáp ứng
nhu cầu rút tiền và chi tiền của họ.
Với chức năng này ngân hàng đã đem lại lợi ích cho cả hai bên tham
gia quan hệ :
Đối với khách hàng, thông qua việc gửi tiền vào ngân hàng, họ không
những được đảm bảo an toàn về tài sản mà còn thu được một khoản lợi tức
từ ngân hàng (trừ trường hợp rủi ro khi ngân hàng lâm vào tình trạng mất
khả năng thanh toán, không đáp ứng được nhu cầu rút tiền của khách hàng).
Đối với ngân hàng, chức năng này là cơ sở để ngân hàng thực hiện
chức năng trung gian thanh toán, đồng thời tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho
ngân hàng thương mại để thực hiện chức năng trung gian tín dụng.
b) Chức năng trung gian thanh toán
Ngân hàng làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo
yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh
toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách
hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.
NHTM thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở nó thực
hiện chức năng làm thủ quỹ cho xã hội. Việc nhận tiền gửi và theo dõi các
khoản thu, chi trên tài khoản tiền gửi của khách hàng là tiền đề để ngân
hàng thực hiện vai trò trung gian thanh toán. Mặt khác, việc thanh toán trực
tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể kinh tế có nhiều hạn chế, đó là rủi ro do
phải vận chuyển tiền, chi phí thanh toán lớn, đặc biệt là với khách hàng ở
cách xa nhau đã tạo nên nhu cầu thanh toán qua ngân hàng.
5
Chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt
động kinh tế. Trước hết, thanh toán không dùng tiền mặt, qua ngân hàng
góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt và đảm bảo thanh toán an
toàn. Khả năng lựa chọn hình thức thanh toán không dùng tiền mặt thích

hợp cho phép khách hàng thực hiện thanh toán nhanh chóng và hiệu quả.
Điều này góp phần tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, tốc độ luân
chuyển vốn và hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội.
Thứ hai, việc cung ứng một dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt có
chất lượng làm tăng uy tín cho ngân hàng và do đó tạo điều kiện để thu hút
nguồn vốn tiền gửi.
Chu chuyển tiền tệ hiện nay chủ yếu thông qua hệ thống NHTM và do
vậy chỉ khi chức năng trung gian thanh toán được hoàn thiện thì vai trò của
NHTM mới được nâng cao hơn với tư cách là người thủ quỹ của xã hội.
c) Chức năng trung gian tín dụng
Thông qua việc huy động các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong
nền kinh tế, ngân hàng hình thành nên quỹ cho vay của nó rồi đem cho vay
đối với nền kinh tế, mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Với chức năng này
ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay.
Chức năng trung gian tín dụng xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn
tiền tệ trong quá trình tái sản xuất xã hội. Sở dĩ ngân hàng làm được chức
năng này là vì nó là một tổ chức chuyên kinh doanh về tiền tệ, tín dụng, có
khả năng nhận biết được tình hình cung cầu về tín dụng. Thông qua việc
thu hút tiền gửi với một khối lượng lớn, ngân hàng có thể giải quyết mối
quan hệ giữa cung và cầu tín dụng cả về khối lượng vốn cho vay và thời
hạn cho vay.
Thông qua chức năng trung gian tín dụng, NHTM đã góp phần tạo lợi
ích cho tất cả các bên trong quan hệ là người gửi tiền, ngân hàng, người đi
vay và đảm bảo lợi ích của nền kinh tế:
6
- Người gửi tiền thu được lợi từ vốn tạm thời nhàn rỗi của mình
thông qua khoản lãi tiền gửi. Hơn nữa ngân hàng còn đảm bảo an
toàn cho các khoản tiền gửi và cung cấp cho khách hàng các dịch vụ
thanh toán tiện lợi.
- Người đi vay sẽ thoả mãn được nhu cầu vốn để kinh doanh, chi tiêu

thanh toán mà không phải chi phí nhiều về sức lực, thời gian cho
việc tìm kiếm nơi cung ứng vốn tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp.
- Bản thân NHTM sẽ tìm kiếm được lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi
suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Lợi nhuận
này chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của NHTM.
- Đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo
quá trình tái sản xuất được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô
sản xuất. Với chức năng này ngân hàng đã biến vốn nhàn rỗi không
hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích quá trình luân chuyển
vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Các chức năng của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung hỗ trợ
cho nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất,
tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng khác. Đồng thời khi ngân hàng
thực hiện tốt các chức năng thủ quỹ và trung gian thanh toán lại góp phần
làm tăng nguồn vốn tín dụng, mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng.
1.1.3. Nghiệp vụ của ngân hàng thương mại
Việc nghiên cứu các nghiệp vụ cơ bản của một NHTM thực chất là
việc xác định nội dung các khoản mục thuộc bảng tổng kết tài sản. Đó là
một báo cáo tài chính tổng hợp, được trình bày dưới dạng cân đối, phản ánh
tổng quát tình hình sử dụng vốn và nguồn vốn hoạt động của một NHTM
tại một thời điểm nhất định.
Bảng tổng kết tài sản gồm 2 phần: Tài sản Nợ và tài sản Có.
7
Tài sản Nợ phản ánh nguồn vốn hoạt động của NHTM, bao gồm
những khoản mà ngân hàng nợ thị trường và vốn của ngân hàng. Các khoản
nợ thị trường được biểu hiện thông qua những khoản vốn mà dân chúng gửi
vào NHTM hoặc NHTM đi vay các chủ thể trong nền kinh tế như các trung
gian tài chính khác, Ngân hàng trung ương ...
Tài sản Có phản ánh việc sử dụng vốn của NHTM hay những khoản

mà thị trường nợ NHTM. Đó là những khoản mà ngân hàng cho thị trường
vay hay đầu tư vào thị trường.
Tính chất quan trọng của bảng tổng kết tài sản là tổng số tiền bên tài
sản Có phải bằng tổng số tiền bên tài sản Nợ. Bởi vì bất kỳ một khoản mục
sử dụng vốn nào của NHTM cũng có nguồn vốn hình thành tương ứng.
Tổng tài sản Có = Tổng tài sản Nợ + Vốn
a) Nghiệp vụ thuộc tài sản Nợ
Đây là nghiệp vụ phản ánh nguồn vốn của ngân hàng, nội dung của
nghiệp vụ này bao gồm:
- Nghiệp vụ tiền gửi: Phản ánh các khoản tiền gửi từ các doanh
nghiệp vào ngân hàng để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài
sản mà từ đó NHTM có thể huy động và được sử dụng vào kinh
doanh. Ngoài ra ngân hàng còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi
của cá nhân hay hộ gia đình được gửi vào ngân hàng với mục đích
hưởng lãi.
- Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá: Các NHTM sử dụng nghiệp vụ
này để thu hút các khoản vốn có tính thời hạn dài, nhằm đảm bảo
khả năng đầu tư các khoản vốn dài hạn của ngân hàng vào nền kinh
tế. Ngoài ra nghiệp vụ này còn giúp các NHTM tăng cường tính ổn
định vốn trong hoạt động kinh doanh của mình.
- Nghiệp vụ đi vay: Đối với nghiệp vụ này các NHTM tiến hành tạo
vốn cho mình bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên thị trường
8
tiền tệ và vay Ngân hàng Trung ương dưới các hình thức tái chiết
khấu hay vay có đảm bảo, nhằm tạo sự cân đối trong điều hành vốn
của bản thân NHTM khi mà họ không tự cân đối được trên cơ sở
khai thác tại chỗ.
- Nghiệp vụ huy động vốn khác: Các NHTM còn có thể tiến hành tạo
vốn cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho
các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Ngoài ra, thông qua việc

sử dụng các phương tiện trong thanh toán, đòi hỏi khách hàng phải
ký gửi một bộ phận tiền vào ngân hàng và trên cơ sở đó các ngân
hàng có thể sử dụng những vốn nhàn rỗi trên tài khoản để đưa vào
hoạt động kinh doanh.
- Vốn tự có của ngân hàng : Đây là vốn thuộc sở hữu riêng có của
các ngân hàng. Trong thực tế khoản vốn này không ngừng được
tăng lên từ kết quả hoạt động kinh doanh của bản thân ngân hàng
mang lại. Tuy thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của
ngân hàng nhưng nó có một vị trí quan trọng, quyết định quy mô
hoạt động của ngân hàng, là cơ sở để ngân hàng tiến hành kinh
doanh, huy động vốn và cho vay.
b) Nghiệp vụ thuộc tài sản Có
Nghiệp vụ thuộc tài sản Có phản ánh việc sử dụng vốn nhằm bảo đảm
an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các NHTM. Nội dung của nó bao
gồm:
- Nghiệp vụ ngân quỹ: Phản ánh các khoản vốn của ngân hàng được
dùng vào mục đích đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán và thực
hiện quy định về dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Trung ương đề ra.
- Nghiệp vụ cho vay: Đây là nghiệp vụ tạo khả năng sinh lời chính
trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Nghiệp vụ này bao gồm
9
các khoản đầu tư sinh lời của ngân hàng thông qua cho vay ngắn
hạn và trung, dài hạn đối với nền kinh tế.
- Nghiệp vụ đầu tư tài chính: Các NHTM thực hiện quá trình đầu tư
thông qua các hoạt động hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng
khoán trên thị trường.
- Nghiệp vụ khác: Bằng các hoạt động khác trên thị trường như kinh
doanh ngoại tệ, vàng bạc và kim khí, đá quý, thực hiện các dịch vụ
tư vấn, dịch vụ ngân quỹ, nghiệp vụ uỷ thác và đại lý...mà các
NHTM đã thu được lợi nhuận đáng kể.

1.1.4. Vai trò của NHTM
Vai trò của NHTM được thể hiện trong việc vận dụng các chức năng
của nó và cụ thể hoá trong các hoạt động của ngân hàng. Khái quát lại, có
thể nêu lên hai vai trò lớn sau đây:
a) NHTM là công cụ quan trọng thúc đẩỵ sự phát triển của sản xuất
lưu thông hàng hoá
Nhờ có hệ thống NHTM mà tiền tiết kiệm của các cá nhân, đoàn thể,
các tổ chức được huy động vào quá trình vận động của nền kinh tế. Như
vậy, NHTM đã góp phần di chuyển nguồn lực của xã hội từ nơi chưa sử
dụng, còn tiềm tàng vào quá trình sử dụng phục vụ cho sản xuất kinh doanh
nâng cao mức sống xã hội.
Thêm nữa, với vai trò làm trung gian thanh toán, ngân hàng đã thực
hiện các dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế từ đó đẩy nhanh quá trình luân
chuyển hàng hóa, luân chuyển vốn trong xã hội, tiết kiệm chi phí thanh toán
cho từng cá nhân, doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế.
Đồng thời ngân hàng cũng giám sát được các hoạt động kinh tế góp phần
tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh, tạo ra sự ổn định trong đời
sống kinh tế xã hội.
b) NHTM là kênh thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương
10
Với các chức năng của mình, NHTM là một trong các chủ thể tham gia
vào quá trình cung ứng tiền, tạo ra một khối lượng phương tiện thanh toán
rất lớn trong nền kinh tế.
Để thực hiện chính sách tiền tệ, Ngân hàng Trung ương phải sử dụng
các công cụ để điều tiết lượng tiền trong lưu thông, nhằm đạt được các mục
tiêu của nền kinh tế vĩ mô, đặc biệt là mục tiêu ổn định tiền tệ. Phần lớn các
công cụ của chính sách tiền tệ chỉ được thực thi có hiệu quả với sự hợp tác
tích cực và có hiệu quả của các NHTM và các ngân hàng trung gian khác
như việc chấp hành quy định dự trữ bắt buộc, quy chế thanh toán không
dùng tiền mặt và việc nâng cao hiệu quả cho vay và đầu tư.

Thông qua hệ thống NHTM, Ngân hàng Trung ương phát hành thêm
tiền vào lưu thông, thực hiện các chính sách tín dụng, chính sách tỷ giá,
chính sách lãi suất của Nhà nước để điều tiết các hoạt động của nền kinh tế.
Hệ thống NHTM trực tiếp cấp tín dụng cho nền kinh tế vì thế nó là tác
nhân quan trọng ảnh hưởng đến sức mua của nền kinh tế, tạo ra phương tiện
thanh toán để lưu thông hàng hoá và các dịch vụ do nền kinh tế tạo ra.
Vì vậy, hoạt động của các NHTM ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng
trưởng của nền kinh tế, đến sự ổn định tiền tệ và ảnh hưởng đến những sự
phát triển kinh tế xã hội khác. Ngược lại, các NHTM lại chịu sự quản lý của
Ngân hàng Trung ương bằng các quy định cụ thể. Nó phải hoạt động theo
những quy định mà chính sách tiền tệ đã vạch ra và định hướng cho nó.
1.2. Phân tích tài chính doanh nghiệp phục vụ công tác tín dụng tại
NHTM
1.2.1. Tín dụng ngân hàng và rủi ro tín dụng
Lịch sử phát triển kinh tế cho thấy, quan hệ tín dụng ra đời và tồn tại
xuất phát từ đòi hỏi khách quan của quá trình tuần hoàn vốn nhằm giải
quyết hiện tượng thừa, thiếu vốn diễn ra thường xuyên giữa các chủ thể
kinh tế trong xã hội. Đây là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy
11
nền kinh tế hàng hoá phát triển lên giai đoạn cao hơn. Tồn tại và phát triển
qua nhiều hình thái kinh tế-xã hội, ngày nay có thể định nghĩa quan hệ tín
dụng một cách đầy đủ như sau:
“Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ
người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về
một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu”.
Như vậy một quan hệ tín dụng phải thoả mãn ba đặc trưng đó là tính
tạm thời, tính hoàn trả và sự tin tưởng.
Là một trong những loại hình tín dụng, tín dụng ngân hàng cũng mang
đầy đủ những đặc trưng đó.
Trong Ngân hàng thương mại, tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ

chốt để tạo ra lợi nhuận. Tuy nhiên song hành với lợi nhuận là rủi ro cao.
Có nhiều loại rủi ro tác động tới ngân hàng: Rủi ro tín dụng, rủi ro hối đoái,
rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản...Trong đó rủi ro tín dụng là loại gắn liền
với hoạt động cho vay. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ thể, Ngân
hàng luôn cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là
cao nhất. Và nhìn chung Ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rằng
rủi ro tín dụng khó có thể xảy ra. Tuy nhiên không thể dự đoán chính xác
các khả năng xảy ra, hơn nữa không phải mọi cán bộ Ngân hàng đều có khả
năng phân tích tín dụng tốt. Do vậy, trên quan điểm Ngân hàng, rủi ro tín
dụng là không thể tránh khỏi, chỉ có thể đề phòng hạn chế chứ không thể
loại trừ.
Rủi ro tín dụng là tình trạng khách hàng vay không trả được nợ theo
hợp đồng tín dụng đã ký. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
nhưng có những nguyên nhân chính sau:
- Những nguyên nhân bất khả kháng như: Thiên tai, chiến tranh, dịch
bệnh, sự thay đổi của môi trường chính trị, môi trường pháp lí, các
cơ chế, chính sách...
12
- Những nguyên nhân chủ quan thuộc về phía khách hàng như: Rủi
ro đạo đức, sử dụng vốn sai mục đích, sự suy giảm khả năng quản
lý, sự không hiểu biết về sản phẩm và công nghệ của đối thủ cạnh
tranh, những hành vi không lành mạnh của đối thủ cạnh tranh...
- Những nguyên nhân thuộc về phía Ngân hàng như: Chính sách tín
dụng không hợp lí,quá coi trọng việc mở rộng mà xem nhẹ chất
lượng tín dụng, cán bộ ngân hàng yếu kém về chuyên môn nghiệp
vụ hoặc vi phạm đạo đức nghề nghiệp tiếp tay với khách hàng
chiếm dụng vốn của ngân hàng...
Trong ba nhóm nguyên nhân trên thì nhóm thứ hai thường xuyên xảy
ra nhất, chiếm tỉ trọng lớn.
Đứng trước thực trạng cho vay là nghiệp vụ chủ đạo mà rủi ro tín dụng

lại luôn thường trực, hơn nữa lại diễn ra hết sức phức tạp nên đối với việc
cho vay các Ngân hàng thương mại luôn phải thực hiện theo một qui trình
chặt chẽ với những bước phân tích tỉ mỉ về các mặt tài chính, phi tài chính
của khách hàng, kết quả của những phân tích ấy sẽ giúp ngân hàng ra quyết
định có hay không cho khách hàng vay.
Trên thực tế, đối với cho vay doanh nghiệp việc xác định các thông số
phi tài chính như uy tín, năng lực, đạo đức người lãnh đạo... là rất khó,
mang tính chất định tính.Vì vậy những thông tin định lượng là rất quan
trọng đối với ngân hàng trong đánh giá, lựa chọn doanh nghiệp để cho vay.
Phân tích tài chính doanh nghiệp cho phép ngân hàng xác định được các
yếu tố về lượng của nhu cầu vay vốn, xác định được thời hạn hợp lí của các
khoản vay, xác định được khả năng trả nợ, kì hạn trả nợ...đối với từng
doanh nghiệp. Như vậy phân tích tài chính doanh nghiệp không chỉ là nhu
cầu mà còn là đòi hỏi bắt buộc đối với mỗi NHTM.
1.2.2. Quy trình và nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp tại
NHTM.
13
Khi phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, Ngân hàng sử dụng các
báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong 3 năm gần nhất. Những báo cáo
này do doanh nghiệp lập và gửi đến. Do vậy, kiểm tra báo cáo tài chính là
công việc cần thiết đầu tiên của nhà ngân hàng trước khi phân tích. Điều
này một mặt đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc phân tích, mặt khác nó còn
đảm bảo được sự chính xác, trung thực của số liệu. Có như vậy, kết quả
phân tích mới đảm bảo sát thực, phản ánh đúng thực trạng kinh doanh của
doanh nghiệp.
Việc kiểm tra báo cáo tài chính bao gồm xem xét các nguồn số liệu, dữ
liệu do doanh nghiệp lập, chế độ kế toán áp dụng, tính chính xác của các số
liệu kế toán.
Sau khi kiểm tra các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, nếu có sự
trung thực hợp lý thì ngân hàng sẽ lấy số liệu từ đó để tính các chỉ tiêu tài

chính và thực hiện việc phân tích. Hiện nay các chỉ tiêu phổ biến được ngân
hàng sử dụng là:
a) Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán ngắn hạn
- Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh
toán ngắn hạn
=
Tài sản ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
Hệ số này là một tỷ lệ thường được sử dụng nhiều nhất. Nó đo lường
khả năng mà các tài sản ngắn hạn có thể chuyển đổi thành tiền để hoàn trả
các khoản nợ ngắn hạn. Nếu hệ số này cao, có thể đem lại sự an toàn về khả
năng bù đắp cho sự giảm giá trị của tài sản ngắn hạn. Tuy nhiên, một doanh
nghiệp có hệ số này quá cao cũng có thể doanh nghiệp đó đã đầu tư quá
mức vào tài sản hiện hành, một sự đầu tư không mang lại hiệu quả, chẳng
hạn doanh nghiệp có quá nhiều hàng tồn kho, quá nhiều khoản phải thu...
Trong thực tế người ta thường yêu cầu chỉ tiêu này của các doanh
nghiệp phải lớn hơn 1, còn lớn hơn bao nhiêu là tốt thì tuỳ thuộc vào từng
loại hình doanh nghiệp ở từng ngành nghề khác nhau. Một doanh nghiệp có
14
khả năng bán các khoản hàng tồn kho để thu lại tiền nhanh chóng thì chỉ
tiêu này có thể được chấp nhận ở mức thấp hơn so với trường hợp một
doanh nghiệp khác có chu kỳ sản xuất dài và các khoản mục hàng tồn kho
chậm chuyển sang tiền hơn.
- Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Hệ số có khả năng
thanh toán nhanh
=
Tiền + ĐTTC ngắn hạn + Phải thu
Nợ ngắn hạn

Hệ số này là thước đo khả năng trả nợ ngay các khoản nợ ngắn hạn của
doanh nghiệp trong kỳ không dựa vào việc phải bán các loại vật tư hàng
hoá và tài sản ngắn hạn khác. Nhìn chung hệ số này quá nhỏ thì doanh
nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ vì vào lúc cần doanh
nghiệp có thể buộc phải sử dụng các biện pháp bất lợi như bán các tài sản
với giá thấp để trả nợ . Hệ số này nên ở mức hợp lí là bằng 1.Tuy nhiên
cũng như hệ số phản ánh khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, độ lớn của hệ
số này cũng phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, chất lượng tài sản ngắn
hạn...của doanh nghiệp.
b) Nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu tài chính
- Hệ số nợ :
Hệ số nợ =
Tổng số nợ phải trả
Tổng tài sản
Hệ số nợ phản ánh trong tổng tài sản của doanh nghiệp có bao nhiêu
phần do vay nợ mà có.
Hệ số nợ càng cao thì mức độ phụ thuộc của doanh nghiệp vào các chủ
nợ càng nhiều, sự độc lập, tự chủ trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp kém đi. Tuy nhiên, trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp
thường muốn có hệ số nợ cao vì khi đó chi phí sử dụng vốn sẽ thấp đi do
chi phí lãi vay được tính giảm trừ thu nhập chịu thuế, mặt khác nếu doanh
nghiệp chỉ góp một phần nhỏ trong toàn bộ vốn hoạt động thì rủi ro trong
kinh doanh chủ yếu do người cho vay gánh chịu, còn doanh nghiệp nắm
15
phần lợi rõ rệt, chỉ cần bỏ ra một số vốn ít nhưng được quyền sử dụng một
lượng tài sản lớn để kinh doanh. Đặc biệt khi doanh nghiệp ở giai đoạn
phồn thịnh, tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản lớn hơn lãi suất tiền vay bình
quân, doanh nghiệp càng vay, lợi nhuận mang lại cho chủ doanh nghiệp
càng lớn. Bởi vậy, trong thực tế nhiều chủ doanh nghiệp rất ưa thích hệ số
nợ cao để tận dụng lợi thế của đòn bẩy tài chính này.

Trên quan điểm của các nhà ngân hàng, hệ số nợ càng thấp thì nền
tảng vốn chủ sở hữu càng vững mạnh. Nói cách khác, doanh nghiệp càng ít
phụ thuộc vào nợ vay thì rủi ro mà bên cho vay phải chịu càng giảm. Tuy
nhiên bất cứ ngân hàng nào cũng muốn mở rộng doanh số hoạt động nhất là
mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Song nếu càng
lấn sâu vào hoạt động của doanh nghiệp, ngân hàng sẽ trở thành người đỡ
đòn rủi ro cho doanh nghiệp. Do đó ngân hàng phải tự hạn chế mình. Vấn
đề đặt ra là hệ số nợ ở mức bao nhiêu thì hợp lý để vừa đảm bảo cho nhà
ngân hàng kinh doanh an toàn vừa có lợi nhuận chấp nhận được cho doanh
nghiệp.
Về mặt lý thuyết, trong các doanh nghiệp phi tài chính hệ số nợ hợp lý
là 0,5. Tuy nhiên, có thể nói rằng không có một tỷ số nợ lý tưởng chung
cho mọi doanh nghiệp trong mọi ngành hoạt động. Để trả lời câu hỏi hệ số
nợ nên ở mức bao nhiêu sẽ tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố, đó là:
+ Thái độ của ban lãnh đạo doanh nghiệp đối với rủi ro.
+ Cơ cấu tài sản của doanh nghiệp.
+ Tình hình thanh khoản.
+ Thâm niên hoạt động của doanh nghiệp.
+ Thái độ của người cho vay đối với ngành hoạt động sản xuất kinh
doanh.
+ Chính sách về lợi nhuận để lại, cổ tức và dự trữ.
16
Nhà ngân hàng phải hiểu rõ mức độ vay vốn như thế nào cho phù hợp
với doanh nghiệp và cần duy trì mức độ đó càng ổn định càng tốt. Chính tổ
chức hoạt động của doanh nghiệp sẽ giúp xác định cơ cấu vốn tối ưu cho
doanh nghiệp.
- Hệ số khả năng thanh toán lãi tiền vay
hệ số khả năng thanh
toán lãi tiền vay
=

Lợi nhuận trước thuế + Lãi tiền vay phải trả
Lãi tiền vay phải trả
Hệ số này nói lên trong kỳ doanh nghiệp đã tạo ra lợi nhuận gấp bao
nhiêu lần lãi phải trả về tiền vay. Hệ số này càng cao thì rủi ro mất khả
năng chi trả lãi tiền vay càng thấp và ngược lại. Thông thường hệ số này
được các chủ nợ chấp nhận ở mức hợp lí khi nó lớn hơn hoặc bằng 2.
c) Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời
- Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu:
Tỷ suất lợi nhuận sau
thuế trên doanh thu
=
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu + Thu nhập khác
Tỷ số này phản ánh trong một đồng doanh thu mà doanh nghiệp thực
hiện trong kỳ có mấy đồng lợi nhuận. Tỷ số này càng cao chứng tỏ khả
năng sinh lợi của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp càng tốt và
ngược lại.
- Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản:
Tỷ suất lợi nhuận tổng
tài sản
=
Tổng lợi nhuận trước thuế
Tổng tài sản bình quân
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản phản ánh cứ một trăm đồng tài sản
đưa vào sản xuất kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Trong điều
kiện bình thường chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ khả năng sinh lời của tài
sản càng tốt.
- Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên nguồn VCSH:
17
Tỷ suất lợi nhuận sau

thuế trên nguồn VCSH
=
Tổng lợi nhuận sau thuế
Nguồn VCSH bình quân
Tỷ số này đo lường mức độ tạo lợi nhuận từ vốn chủ sở hữu. Nó được
dùng như một thước đo hiệu quả đầu tư nếu đứng trên quan điểm của các cổ
đông, và được so sánh với mức sinh lời chung về quản lý vốn. Tỷ số này
càng cao càng tốt.
Để đánh giá tổng quát tình hình tài chính doanh nghiệp sau khi xác
định được các tỷ số tài chính đặc trưng người ta thường lập biểu phân tích
(bằng phương pháp so sánh) giữa các kỳ, giữa các tỷ số đặc trưng của
doanh nghiệp với các tỷ số tài chính đặc trưng của ngành (nếu có). Cán bộ
tín dụng khi thực hiện phân tích cần lưu ý rằng hoàn toàn không có một
chuẩn mực nào cho phần phân tích theo từng tỷ số .Một hay một số tỷ số là
tốt cũng chưa thể kết luận là doanh nghiệp đang trong tình trạng tốt. Do vậy
mối quan hệ giữa các tỷ số là mục đích cuối cùng của việc phân tích vì chỉ
như vậy mới có thể đưa ra được kết luận chính xác về doanh nghiệp.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động phân tích tài chính
doanh nghiệp phục vụ công tác tín dụng của NHTM
Chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp được hiểu là tính chính
xác của những đánh giá về tình hình tài chính, về rủi ro, mức độ, hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp và sự trung thực của các báo cáo tài chính. Vì
vậy có rất nhiều nhân tố khác nhau gây ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián
tiếp tới chất lượng phân tích. Có thể chia các nhân tố đó thành hai nhóm
chính là nhóm nhân tố chủ quan và nhóm nhân tố khách quan.
a) Nhóm nhân tố chủ quan
- Nhân tố con người
Đó là trình độ nghiệp vụ, nhận thức, đạo đức, kinh nghiệm của cán bộ
tín dụng trong suốt quá trình đánh giá tài chính khách hàng. Mỗi người cán
bộ tín dụng đều có kinh nghiệm thực tế, trình độ nghiệp vụ ,nhận thức và

18
hiểu biết khác nhau do đó ngoài việc phân tích đánh giá tài chính khách
hàng theo qui định chung của luật thì có độ nhạy bén, sắc sảo khác nhau.
Mặt khác, mặc dù ngân hàng luôn yêu cầu nhân viên của mình phải thẳng
thắn, trung thực, vô tư, trong sáng, có lương tâm nghề nghiệp song trong
thực tế vẫn có những cán bộ tín dụng khi phân tích tài chính khách hàng do
có động cơ không lành mạnh đã để cho ý kiến chủ quan lấn át tính khách
quan làm sai lệch kết quả phân tích .
- Chính sách tín dụng của ngân hàng
Trong thời kỳ ngân hàng thực hiện chính sách tín dụng thắt chặt, phân
tích khách hàng có thể kỹ hơn do vậy chất lượng phân tích tài chính khách
hàng cũng được đảm bảo hơn còn trong thời kỳ ngân hàng thực hiện chính
sách tín dụng mở rộng thì việc phân tích có thể đơn giản hơn, dù trên quan
điểm của mình ngân hàng cố gắng không để xảy ra sơ suất nhưng điều này
phần nào cũng ảnh hưởng tới chất lượng phân tích.
- Loại khách hàng
Ngân hàng thường phân biệt hai nhóm khách hàng: Khách hàng đã
thiết lập quan hệ tín dụng với ngân hàng và khách hàng quan hệ lần đầu.
Thông thường, đối với khách hàng quan hệ lần đầu ngân hàng yêu cầu phải
cung cấp một số lượng đáng kể dữ liệu thông tin về bản thân và công tác
phân tích tài chính của ngân hàng cũng được thực hiện hết sức thận trọng.
- Loại và kỹ thuật cấp tín dụng
Mỗi loại hay kỹ thuật cấp tín dụng được áp dụng trong hoàn cảnh cụ
thể với những công cụ kiểm soát khác nhau, vì vậy lượng thông tin và độ
sâu của việc phân tích tài chính khách hàng cũng thay đổi theo. Thông
thường đối với loại kỹ thuật nào tiềm ẩn nhiều rủi ro ngân hàng sẽ thực hiện
việc phân tích tài chính khách hàng kỹ hơn.
b) Nhóm nhân tố khách quan
- Bản thân doanh nghiệp vay vốn
19

Các doanh nghiệp vay vốn rất đa dạng, kinh doanh trong nhiều lĩnh
vực ngành nghề khác nhau, quy mô hoạt động, cơ cấu tổ chức, nhu cầu tín
dụng khác nhau...nên ảnh hưởng lớn đến công tác phân tích của ngân hàng.
+ Lĩnh vực kinh doanh: Mỗi ngành nghề đều có đặc trưng riêng cho
nên các chỉ tiêu tài chính của mỗi ngành cũng có những mức chuẩn
khác nhau do đó không thể áp dụng mức chuẩn chung để phân tích
đánh giá tất cả các doanh nghiệp.
+ Loại hình doanh nghiệp khác nhau thì các chỉ tiêu tài chính được
quan tâm, chú trọng cũng khác nhau. Chẳng hạn, đối với công ty
TNHH, các thành viên góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm đối với
những khoản nợ và các nghĩa vụ tài chính khác trong phạm vi số
vốn góp của mình còn công ty tư nhân thì phải chịu trách nhiệm
bằng cả tài sản ngoài kinh doanh của chủ sở hữu nên hệ số nợ của
mỗi loại hình doanh nghiệp được quan tâm ở mức độ khác nhau.
+ Thời hạn của các khoản vay cũng khiến ngân hàng chú trọng đến
các khía cạnh khác nhau của tình hình tài chính. Nếu trước quyết
định cho vay ngắn hạn ngân hàng đặc biệt quan tâm đến khả năng
thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp thì trước quyết định cho vay
dài hạn, ngân hàng lại đặc biệt quan tâm đến khả năng sinh lời từ
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Quy mô nhu cầu tín dụng cũng ảnh hưởng đến việc phân tích tài
chính doanh nghiệp của ngân hàng. Độ sâu sắc và toàn diện của
việc phân tích sẽ tăng lên khi doanh nghiệp có quy mô nhu cầu tín
dụng lớn.
+ Mức độ trung thực của các báo cáo tài chính: Đây là nhân tố đóng
vai trò quyết định đến chất lượng phân tích vì toàn bộ việc phân
tích được thực hiện căn cứ vào số liệu từ các báo cáo này. Các báo
cáo mà không sát thực thì dẫn đến những kết luận sai về tình hình
20
doanh nghiệp. Vì thế, việc kiểm tra lại độ chính xác, phù hợp của

báo cáo tài chính là hết sức cần thiết để công sức phân tích của
người cán bộ tín dụng không bị lãng phí.
a) Các nhân tố khác
Các nhân tố khác như công nghệ tin học, môi trường kinh tế xã hội và
pháp luật cũng gây ra những ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng phân tích
tài chính doanh nghiệp. Việc ứng dụng công nghệ tin học sẽ giúp cho việc
tính toán được chính xác hơn, tiết kiệm thời gian và sức lực. Mặt khác,
thông qua hệ thống máy tính, ngân hàng có thể lưu giữ, cập nhật những
thông tin mới nhất và cần thiết một cách nhanh chóng.
Các văn bản pháp luật, quy định cũng buộc công tác phân tích, đánh
giá phải tuân thủ các bước, các chuẩn mực của toàn ngành và từng ngành
của ngân hàng, chính những yếu tố này đã góp phần tạo nên chất lượng của
hoạt động phân tích.
21
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH
NGHIỆP PHỤC VỤ CÔNG TÁC TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH
NHNo&PTNT VĂN LÂM – HƯNG YÊN
2.1. Khái quát về chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm – Hưng Yên
2.1.1. Sự hình thành và phát triển , mô hình tổ chức và khái quát nội
dung hoạt động của đơn vị.
Chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm–Hưng Yên được tái lập ngày
1/9/1999 sau khi chia tách huyện Mĩ Văn thành 3 huyện Văn Lâm, Mĩ Hào,
Yên Mĩ theo quyết định của thủ tướng chính phủ.
Là một đơn vị đóng trên địa bàn huyện có nhiều làng nghề và khu
công nghiệp như làng nghề Minh Khai, Ngọc Lịch, Chỉ Đạo, khu công
nghiệp Như Quỳnh, Tân Quang...chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm có thị
trường hoạt động khá rộng. Buổi đầu thành lập bên cạnh thuận lợi to lớn về
mặt thị trường thì ngân hàng cũng vấp phải những khó khăn nhất định như
cơ sở vật chất còn non kém, đội ngũ cán bộ một số được điều động từ nơi

khác đến nên không hiểu rõ tình hình kinh tế địa phương...Song với sự cố
gắng nỗ lực của ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ nhân viên sau gần bảy năm
ra đời và hoạt động chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm đã không ngừng
vươn lên tự khẳng định mình. Đơn vị đã có nhiều đóng góp to lớn vào sự
phát triển kinh tế xã hội của địa phương nói riêng và của đất nước nói
chung,được tặng thưởng nhiều bằng khen, giấy khen của các cấp các ngành
và đặc biệt luôn là một trong những lá cờ đầu của chi nhánh NHNo&PTNT
tỉnh Hưng Yên.
Chức năng và nhiệm vụ của NHNo&PTNT Văn Lâm hiện nay là:
22
Khai thác và nhận tiền gửi không kì hạn, có kì hạn, tiền gửi tiết kiệm
của các tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài
nước bằng VND, USD.
Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng bằng VND.
Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với các tổ chức, cá nhân, hộ
gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế theo phân cấp uỷ quyền.
Hướng dẫn khách hàng xây dựng dự án, thẩm định các dự án tín dụng
vượt quyền phán quyết trình NHNo&PTNT cấp trên quyết định.
Kinh doanh ngoại hối, thực hiện dịch vụ thanh toán, bảo lãnh và các
dịch vụ ngân hàng khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và
NHNo&PTNT Việt Nam.
Hạch toán kinh doanh theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam.
Thực hiện việc kiểm tra, kiểm toán nội bộ việc chấp hành thể lệ, chế
độ, quy trình nghiệp vụ trong phạm vi đơn vị.
Tổ chức việc phân tích kinh tế liên quan đến hoạt động tiền tệ, tín dụng
và đề ra kế hoạch kinh doanh phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã
hội ở địa phương.
Về cơ cấu tổ chức NHNo&PTNT Văn Lâm gồm ban lãnh đạo và các
phòng chức năng là phòng kinh doanh, phòng kế toán–ngân quỹ , phòng
kiểm toán nội bộ , phòng hành chính và một ngân hàng cấp 3 trực thuộc .

Nhiệm vụ chủ yếu của các phòng:
-Phòng kinh doanh: Nghiên cứu, đề xuất chiến lược khách hàng; phân
loại khách hàng và đề xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách
hàng nhằm mở rộng thị trường, thị phần; kinh doanh ngoại hối; thực hiện
dịch vụ bảo lãnh và một số dịch vụ ngân hàng khác; thẩm định và đề xuất
cho vay các dự án tín dụng theo phân cấp uỷ quyền; phân tích nợ quá hạn,
tìm nguyên nhân và giải pháp khắc phục; tổng hợp, báo cáo và kiểm tra
23
chuyên đề theo quy định; thực hiện các nhiệm vụ khác do giám đốc chi
nhánh giao.
-Phòng kế toán-ngân quỹ: Trực tiếp hạch toán kế toán, hạch toán thống
kê và thanh toán theo quy định; quản lý và sử dụng các quỹ chuyên dùng
theo quy định; tổng hợp, lưu trữ hồ sơ tài liệu; chấp hành quy định về an
toàn kho quỹ và định mức tồn quỹ; thực hiện nghiệp vụ thanh toán trong và
ngoài nước; chấp hành chế độ báo cáo và kiểm tra chuyên đề; thực hiện các
nhiệm vụ khác do giám đốc chi nhánh giao.
-Phòng kiểm toán nội bộ: Kiểm tra, giám sát việc chấp hành quy trình
nghiệp vụ, chấp hành các quy định của Ngân hàng Nhà nước về đảm bảo an
toàn trong hoạt động tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng; kiểm tra độ
chính xác của các báo cáo tài chính, việc tuân thủ các nguyên tắc chế độ về
kế toán tài chính theo quy định của Nhà nước, của ngành ngân hàng; báo
cáo giám đốc chi nhánh về kết quả kiểm tra và đề xuất biện pháp xử lý,
khắc phục khuyết điểm, tồn tại...
-Phòng hành chính: Thực hiện công tác thi đua, khen thưởng, tiếp nhận
công văn, giấy tờ của chi nhánh, chấp hành công tác báo cáo thống kê, kiểm
tra chuyên đề, thực hiện các nhiệm vụ khác do giám đốc chi nhánh giao.
2.1.2. Tình hình cho vay tại chi nhánh
Công tác cho vay tại chi nhánh luôn bám sát vào định hướng kinh
doanh của hệ thống, vào các mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế xã
hội của địa phương, đã khẳng định được vai trò chủ đạo của NHNo&PTNT

trên thị trường Nông nghiệp–Nông thôn, đáp ứng được nhu cầu vốn phục
vụ cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo, thực hiện Công nghiệp hoá-Hiện đại
hoá Nông nghiệp và nông thôn, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế
của địa phương.
Bên cạnh đó chi nhánh đã chú ý quan tâm tới việc mở rộng mạng lưới
hoạt động, thành lập một chi nhánh NHNo&PTNT cấp 3, áp dụng công
24
nghệ tiên tiến trong hoạt động, thực hiện tốt chiến lược kinh doanh để thu
hút khách hàng và mở rộng thị phần tín dụng.
Với tinh thần nỗ lực quyết tâm phấn đấu không ngừng, kể từ khi tái lập
công tác đầu tư tín dụng của chi nhánh luôn có tốc độ tăng trưởng nhanh
đặc biệt trong những năm gần đây.
Bảng 1. Tình hình sử dụng vốn của chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm
Đơn vị : Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2004 Năm 2005
Năm 2005 so
với năm 2004
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ lệ
(%)
1.Chovay ngắn hạn
Doanh số cho vay
Doanh số thu nợ

Dư nợ
126.808
105.369
84.660
78,6
80
63,3
154.537
122.776
116.421
67
73,5
59
27.729
17.407
31.761
21,9
16,5
37,5
2.Cho vay trung, dài
hạn
Doanh số cho vay
Doanh số thu nợ
Dư nợ
34.445
26.370
49.105
21,4
20
36,7

76.116
44.319
80.902
33
26,5
41
41.671
17.949
31.797
121
68
64,8
3.Tổng số
Tổng sốchovay
Tổngsốthu nợ
Tổng dư nợ
161.253
131.739
133.765
100
100
100
230.653
167.095
197.323
100
100
100
69.400
35.356

63.558
43
26,8
47,5
(Nguồn báo cáo của NHNo&PTNT Văn Lâm năm 2004-2005)
Nhận xét: Qua bảng số liệu trên ta thấy doanh số cho vay của chi
nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm năm 2005 so với năm 2004 tăng 69.400
triệu đồng (tăng 43%), doanh số thu nợ tăng 35.356 triệu đồng (tăng
26,8%), tổng dư nợ tăng 63.558 triệu đồng (tăng 47,5%) . Điều này khẳng
định công tác phát triển tín dụng của chi nhánh đã đạt được kết quả nhất
25

×